thanhviet007
New member
- Xu
- 0
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KT - XH TRONG CÁC VÙNG
Đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc với một vùng biển bao quanh ở phía Đông và Đông Nam. Số dân của đồng bằng là 14,8 triệu người (1999), chiếm 19,4% số dân của cả nước.
Hệ thống Sông Hồng tại Việt Nam. Hình chụp từ vệ tinh của NASA.
Hiện tại cũng như trong tương lai, đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1. Vấn đề dân số
Đồng bằng sông Hồng là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước. Việc dân cư quá tập trung ở đồng bằng làm cho mật độ dân số trung bình đã lên tới 1180 người/km2 (1999). Mật độ này cao gấp 5 lần mật độ trung bình của toàn quốc; gấp gần 3 lần so với đồng bằng sông Cửu Long; gấp 10 lần so với khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ; gấp 17,6 lần so với Tây Nguyên.
Những nơi dân cư đông nhất là Hà Nội (2883 người/km2), Thái Bình (1183 người/km2), Hải Phòng (1113 người/km2), Hưng Yên (1204 người/km2 – 1999). Ở các nơi khác, chủ yếu thuộc khu vực rìa phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.
Sự phân bố dân cư quá đông ở đồng bằng sông Hồng liên quan tới nhiều nhân tố. Nền nông nghiệp thâm canh cao với nghề trồng lúa nước là chủ yếu đòi hỏi phải có nhiều lao động. Trong vùng còn có nhiều trung tâm công nghiệp quan trọng và một mạng lưới các đô thị khá dày đặc. Ngoài ra, đồng bằng sông Hồng đã được khai thác từ lâu đời và có các điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người.
Ở đồng bằng sông Hồng, dân số gia tăng vẫn còn nhanh. Vì vậy, tốc độ tăng dân số chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng.
Việt Nam là nước có diện tích canh tác tính theo đầu người rất thấp (892m2). Trên cái nền chung ấy, chỉ số này ở đồng bằng sông Hồng còn thấp hơn nhiều do bị sức ép quá nặng nề của dân số. Ở đây, bình quân mỗi đầu người chỉ đạt khoảng ½ con số trung bình của cả nước. Đất canh tác ít, dân đông nên phải đẩy mạnh thâm canh. Song nếu thâm canh không đi đôi với việc hoàn lại đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ làm cho đất đai ở một số nơi bị giảm độ phì nhiêu.
Với việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và những chính sách đổi mới trong nông nghiệp, sản lượng lương thực của vùng tiếp tục tăng lên, nhưng về lâu dài có thể tiến đến giới hạn của khả năng sản xuất.
Nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng tuy tương đối phát triển, nhưng đang phải chịu áp lực rất lớn của dân số. Vào thời kì 1979 – 1989, nhịp độ tăng trưởng trung bình năm của sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đạt khoảng 4 – 5%, trong khi đó tỉ lệ tăng dân số hằng năm vẫn dao động ở mức trên 2%. Thời kì 1990 – 1998, mức tăng trưởng tương ứng là 7% và 1,4%.
Dân số đông và sự gia tăng dân số đã để lại những dấu ấn đậm nét về kinh tế - xã hội. Mặc dù mức gia tăng dân số đã giảm nhiều, nhưng sản xuất nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu tích luỹ và cải thiện đời sống nhân dân. Hàng loạt vấn đề xã hội như việc làm, nhà ở, y tế, văn hoá, giáo dục vẫn còn là bức xúc.
Trong nhiều năm qua, nước ta đã tiến hành phân bố lại dân cư và lao động trên phạm vi cả nước. Đối với đồng bằng sông Hồng, điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngay từ năm 1961 đã có nhiều người từ đồng bằng sông Hồng chuyển lên các tỉnh thuộc miền núi Tây Bắc và một số tỉnh thuộc miền núi Đông Bắc. Nhưng phải đến cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỉ này, việc chuyển cư mới được thực hiện với quy mô lớn. Trong thời kỳ 1984 – 1989, tỉ lệ chuyển cư thuần tuý (tương quan giữa tỉ lệ người chuyển đến và tỉ lệ người chuyển đi) của hầu hết các tỉnh trong vùng đều mang giá trị âm, nghĩa là số người chuyển đi nhiều hơn số người chuyển đến đồng bằng sông Hồng.
Ngoài vấn đề chuyển cư, giải pháp hàng đầu ở đồng bằng sông Hồng là việc triển khai có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỉ lệ sinh. Đồng thời, trên cơ sở lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lí, từng bước giải quyết việc làm tại chỗ cho lực lượng lao động thường xuyên tăng lên, tiến tới nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong vùng.
Câu hỏi:
1. Vì sao dân số lại là một vấn đề cần được quan tâm ở đồng bằng sông Hồng?
2. Ở đồng bằng sông Hồng, vấn đề dân số đã biểu hiện như thế nào (liên hệ vấn đề này ở tỉnh em)?
3. Để giải quyết vấn đề dân số ở đồng bằng sông Hồng, cần phải thực hiện những biện pháp gì? Tại sao?
2. Vấn đề lương thực, thực phẩm
Đồng bằng sông hồng là nơi có nhiều khả năng để sản xuất lương thực, thực phẩm. Trên thực tế, đây là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, sau đồng bằng sông Cửu Long.
Số đất đai đã được sử dụng vào hoạt động nông nghiệp là trên 70 vạn ha, chiếm 56% tổng diện tích tự nhiên của đồng bằng sông Hồng. Ngoài số đất đai phục vụ lâm nghiệp và các mục đích khác, số diện tích đất chưa được sử dụng vẫn còn hơn 2 vạn ha.
Nhìn chung, đất đai của đồng bằng sông Hồng được phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp tương đối màu mỡ. Tuy vậy, độ phì nhiêu của các loại đất không giống nhau ở khắp mọi nơi. Đất được bồi đắp hàng năm màu mỡ không hơn đất không được bồi đắp hàng năm. Đất thuộc châu thổ của sông Hồng phì nhiêu hơn đất thuộc châu thổ của sông Thái Bình.
Có giá trị nhất đối với việc phát triển cây lương thực ở đồng bằng sông Hồng là diện tích đất không được phù sa bồi đắp hàng năm (đất trong đê). Loại đất này chiếm phần lớn diện tích châu thổ, đã bị biến đổi nhiều do trồng lúa.
Ở đồng bằng, đất và nước là hai yếu tố đan quyện vào nhau. Hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình cùng các nhánh của chúng là nguồn cung cấp nước thường xuyên cho hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, lại quá thừa nước trong mùa mưa và thiếu nước trong mùa khô.
Bên cạnh khả năng tự nhiên, những nguồn lực về kinh tế - xã hội cũng đóng vai trò đáng kể trong việc phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm. Từ bao đời nay, người dân đồng bằng sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Đó là vốn rất quý để đẩy mạnh sản xuất. Ngoài ra, sự phát triển của nền kinh tế cùng với hàng loạt các chính sách mới cũng góp phần quan trọng cho việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành trồng cây lương thực luôn giữ địa vị hàng đầu. Diện tích cây lương thực khoảng 1,2 triệu ha, chiếm khoảng 14% diện tích cây lương thực của cả nước. Sản lượng lương thực là 6,1 triệu tấn, chiếm 18% sản lượng lương thực toàn quốc (1999).
Trong các cây lương thực, lúa có ý nghĩa quan trọng nhất cả về diện tích và sản lượng. Hàng năm, đồng bằng sông Hồng có hơn 1 triệu ha đất gieo trồng lúa. Với con số này, lúa chiếm 88% diện tích cây lương thực của đồng bằng và chiếm khoảng 14% diện tích gieo trồng lúa của cả nước (1999).
Cây lúa có mặt ở hầu hết các nơi, nhưng tập trung nhất và đạt năng suất cao nhất là ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Tây. Thái Bình trở thành tỉnh dẫn đầu cả nước về năng suất lúa (61,6 tạ/ha – năm 1999). Nhiều huyện, hợp tác xã đạt năng suất 8 – 10 tấn/năm.
Ngành trồng cây lương thực, đặc biệt là ngành trồng lúa ở đây đã có từ lâu đời và được thâm canh với trình độ cao nhất trong cả nước. Tuy vậy, việc đảm bảo lương thực cho con người và cho các nhu cầu khác (phục vụ chăn nuôi, công nghiệp chế biến v.v…) còn bị hạn chế. Mức bình quân lương thực theo đầu người ở đồng bằng sông Hồng vẫn thấp hơn mức bình quân của cả nước (414 kg/người so với 448 kg/người – năm 1999).
Vấn đề thực phẩm liên quan đến cơ cấu bữa ăn và ảnh hưởng nhiều tới cơ cấu cây trồng. Ở đồng bằng sông Hồng, việc sản xuất thực phẩm chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Rau các loại có diện tích gieo trồng hơn 7 vạn ha, chiếm 27,8% diện tích rau cả nước, tập trung chủ yếu ở vành đai xung quanh các khu công nghiệp và thành phố.
Nguồn thực phẩm của vùng đồng bằng phụ thuộc nhiều vào ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản. Việc phát triển các ngành này còn nhiều khả năng to lớn. Vấn đề cơ bản là giải quyết tốt cơ sở thức ăn cho gia súc nhỏ và mở rộng quy mô của ngành nuôi trồng thuỷ sản.
Hiện nay, chăn nuôi lợn rất phổ biến và thịt lợn là nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Đàn lợn của đồng bằng sông Hồng chỉ đứng sau vùng núi và trung du Bắc Bộ về số lượng với gần 4,3 triệu con, chiếm 22,5% đàn lợn của toàn quốc (1999).
Việc nuôi, trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn đã được chú ý phát triển, nhưng thực tế chưa khai thác hết tiềm năng của vùng. Hiện nay toàn vùng có 5,8 vạn ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 10,9% diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của cả nước.
Vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng nằm trong chiến lực phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Quá trình giải quyết vấn đề này liên quan tới hàng loạt các biện pháp kinh tế, kỹ thuật.
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí (trong đó cơ cấu nông nghiệp hợp lí) của đồng bằng có thể được coi là biện pháp quan trọng. Sản xuất lương thực, thực phẩm hàng hoá được phát triển theo hướng thâm canh, đa dạng hoá gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá.
Việc đẩy mạnh chăn nuôi (nhất là lợn, gia cầm), tận dụng mọi khả năng để nuôi cá nước ngọt, tôm nước lợ, đánh bắt cá biển và chế biến các sản phẩm nông nghiệp sẽ tạo điều kiện tốt để giải quyết nhu cầu thực phẩm và tăng sản phẩm xuất khẩu của đồng bằng này.
Câu hỏi:
1. Vì sao đồng bằng sông Hồng lại trở thành một trong những vựa lúa lớn nhất của nước ta?
2. Khả năng giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng như thế nào? Những khâu nào còn yếu và hướng khắc phục ra sao?
Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta, với diện tích gần 4 triệu ha, chiếm khoảng 11,9% diện tích toàn quốc. Tại đây có 16,1 triệu người sinh sống, chiếm khoảng 21,1 số dân cả nước (số liệu năm 1999).
1. Vấn đề sử dụng và cải tạo tự nhiên
Hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang của sông Cửu Long. Hình từ vệ tinh của NASA.
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng phù sa ở rìa).
Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với mực nước biển), nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng rộng lớn. Vào mùa mưa, chúng chìm sâu dưới nước, còn vào mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn. Đây là vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác nhiều.
Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thuỷ triều và sóng biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất nhanh, những lưỡi nước mặn ngấm dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên bờ sông và các cồn cát duyên hải, trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m còn có các khu vực trũng ngập nước vào mùa mưa và các bãi bồi trên sông.
Các đồng bằng phù sa ở rìa tuy nằm ngoài phạm vi tác động trực tiếp của sông nhưng vẫn được cấu tạo bởi phù sa sông (như đồng bằng sông Đồng Nai, đồng bằng Cà Mau).
Thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng với nhiều tiềm năng và không ít trở ngại.
Ở đây, trên nền nhiệt đới ẩm, tính chất cận xích đạo của khí hậu thể hiện hết sức rõ rệt. Hệ thống sông ngòi và các kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô vuông làm cho việc giao thông bằng đường thuỷ trở nên dễ dàng.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là mùa khô kéo dài, là sự xâm nhập sâu vào đất liền của nước mặn, sự tăng cường độ chua và chua mặn trong đất cũng như những tai biến do thời tiết, khí hậu đôi khi có thể xảy ra.
Mặc dù thổ nhưỡng ở châu thổ là đất phù sa, nhưng tính chất của nó rất phức tạp. Có 3 loại đất chủ yếu. Đất phù sa ngọt ven sông là loại đất tốt nhất, chạy thành một dải dọc sông Tiền và sông Hậu. Đất phèn chiếm diện tích lớn nhất, phân bố thành các vùng tập trung (Đồng Tháp Mười, Hà Tiên, Cần Thơ). Đất mặn phân bố ở cực Nam Cà Mau và dải đất duyên hải Gò Công, Bến Tre. Những trở ngại chính khi cnah tác là đất thiếu dinh dưỡng, nhất là thiếu các nguyên tố vi lượng, đất quá chặt, khó thoát nước.
Sinh vật cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của đồng bằng. Thảm thực vật gồm 2 thành phần chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm. Về động vật, có giá trị hơn cả là cá và chim.
Tài nguyên biển ở đây hết sức phong phú với hàng trăm bãi cá cùng với nhiều loại hải sản quý.
Các loại khoáng sản ở đồng bằng không có nhiều, chủ yếu là than bùn, vật liệu xây dựng. Việc thăm dò và khai thác dầu khí, mặc dù nằm ngoài khơi, nhưng chắc chắn sẽ có tác động tới nền kinh tế của vùng.
Đồng bằng sông Cửư Long có nhiều ưu thế hơn về điều kiện tự nhiên so với đồng bằng sông Hồng. Tuy vậy, việc sử dụng và cải tạo tự nhiên ở đây lại trở thành một vấn đề cấp bách nhằm biến đồng bằng thành một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Nước là vấn đề hàng đầu ở đồng bằng sông Cửu Long. Một hạn chế đáng kể cho việc sử dụng hợp lí đất đai trong vùng là việc đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Vì vậy, cần có nước để rửa phèn, rửa mặn trong mùa khô.
Để đối phó với sự khô hạn làm bốc phèn và bốc mặn, nguồn nước ngọt trong các dòng sông và nước dưới đất có ý nghĩa đặc biệt. Vào mùa khô rất thiếu nước ngọt. Nhân dân địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để rửa phèn, rửa mặn, và đã đạt được kết quả nhất định. Cách tốt hơn cả, có thể là chia đồng bằng thành các ô nhỏ để có đủ nước thau chua, rửa mặn; đồng thời kết hợp với việc tạo ra các giống lúa chịu được phèn hoặc mặn trong điều kiện nước tưới bình thường.
Đối với khu vực rừng ngập mặn phía Tây Nam đồng bằng, có thể từng bước biến thành những bãi nuôi tôm, trồng sú, vẹt, đước kết hợp với việc bảo vệ môi trường sinh thái; cải tạo dần diện tích đất mặn, đất phèn, thành những vùng đất phù sa mới để trồng cói, lúa, cây ăn quả.
Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên vùng này không tách khỏi hoạt động kinh tế của con người. Vết tích của chiến tranh vẫn còn tồn tại. Tình trạng độc canh lúa còn tương đối phổ biến. Điều đó đòi hỏi phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh, đẩy mạnh việc trồng cây công nghiệp có giá trị cao, kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, phát triển công nghiệp chế biến. Đối với vùng biển, hướng chính trong tổ chức lãnh thổ kinh tế là kết hợp mặt biển với đảo, quần đảo và đất liền để tạo nên một thế kinh tế liên hoàn.
Câu hỏi:
1. Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí như thế nào trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước?
2. Phân tích những đặc điểm tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long. Những đặc điểm này có thuận lợi và khó khăn gì trong việc phát triển kinh tế - xã hội?
3. Trình bày những phương hướng sử dụng và cải tạo tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long và cơ sở khoa học của những phương hướng ấy.
2. Vấn đề lương thực, thực phẩm
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất của cả nước. Việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở đây có ý nghĩa không chỉ trong vùng, mà cả trong toàn quốc.
Diện tích đồng bằng khoảng 4 triệu ha, trong đó đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp: 2,65 triệu ha, vào lâm nghiệp: 30 vạn ha, vào các mục đích khác: 33 vạn ha và số đất còn lại chưa khai thác: 67 vạn ha.
Được phù sa sông Cửu Long bồi đắp, lại không bị con người can thiệp quá sớm (như đắp đê), đất đai ở đây nhìn chung khá màu mỡ. Đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long nhiều gấp 3 lần mức bình quân đầu người so với đồng bằng sông Hồng.
Đồng bằng sông Cửu Long có 35 vạn ha mặt nước nuôi thủy sản, trong đó có hơn 10 vạn ha nước lợ nuôi tôm xuất khẩu. Riêng cá biển khai thác ở đây chiếm tới 42% sản lượng của cả nước.
Như đã trình bày, trở ngại lớn nhất của đồng bằng là sự nhiễm phèn, nhiễm mặn của đất, trong lúc nước lại không đủ vào mùa khô. Về mặt kinh tế - xã hội, tình trạng chậm phát triển của các ngành kinh tế khác và kết cấu hạ tầng thiếu nghiêm trọng đã ảnh hưởng tới việc sản xuất lương thực, thực phẩm của vùng.
Với tiềm năng sẵn có, đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra một khối lượng lương thực, thực phẩm lớn nhất cả nước.
Lúa giữ ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu ngành nông nghiệp, chiếm tới 99% diện tích cây lương thực và 99,7% sản lượng lương thực của toàn bộ đồng bằng này. Diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt gần 4 triệu ha, chiếm 52% diện tích gieo trồng lúa trong toàn quốc (1999).
Cách tỉnh trồng nhiều lúa nhất ở đồng bằng nói riêng và ở cả nước nói chung là An Giang (462.800 ha), Long An (441.200 ha), Kiên Giang (514.300 ha), Đồng Tháp (442.700 ha).
Do thiên nhiên ưu đãi, năng suất lúa trung bình cả năm ở đây vượt năng suất lúa trung bình toàn quốc (40,3 tạ/ha so với 38,8 tạ/ha, thời kì 1995 – 1999). Năm 1999, sản lượng lúa đạt 16,3 triệu tấn, chiếm 52% sản lượng lúa toàn quốc. Mức lương thực bình quân trên đầu người ở đồng bằng sông Cửu Long lên đến 1012,3 kg nghĩa là gấp 2,3 lần mức bình quân của toàn quốc và cao hơn hẳn so với các vùng khác.
Ngành chăn nuôi của đồng bằng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh. Bò có trên 18 vạn con trong toàn vùng, và được nuôi nhiều nhất ở An Giang, Bến Tre, Trà Vinh. Lợn được nuôi ở khắp nơi và có gần 2,8 triệu con. Đàn vịt hết sức đông đúc, được chăn thả trên các ruộng sau vụ thu hoạch.
Nguồn thực phẩm quan trọng nữa của đồng bằng sông Cửu Long là nguồn thuỷ, hải sản. Trong những năm qua, vùng đồng bằng này đã cung cấp cho các vùng khác và cả cho xuất khẩu 10 vạn tấn cá, tôm, và hàng vạn tấn thịt lợn.
Vấn đề lương thực, thực phẩm của đồng bằng sông Cửu Long liên quan tới nhu cầu của nhiều vùng khác và của xuất khẩu. Đây là địa bàn chiến lược để giải quyết vấn đề ăn cho cả nước và cho xuất khẩu. Vì vậy những định hướng lớn về sản xuất lương thực, thực phẩm của đồng bằng này là tập trung vào việc từng bước biến nơi đây thành vùng lương thực, thực phẩm hàng hoá lớn hơn nữa trên cơ sở thâm canh, tăng vụ, khai thác những diện tích còn hoang hoá, đẩy mạnh ngành công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ hải sản.
Trên thực tế, đồng bằng sông Cửu Long là nơi còn nhiều tiềm năng chưa được lôi cuốn vào hoạt động sản xuất. Hiện tại, hệ số sử dụng ruộng đất ở đây còn thấp. Phần lớn diện tích canh tác là ruộng 1 vụ. Ruộng 2 vụ, và nhất là ruộng 3 vụ còn ít. Nếu giải quyết tốt vấn đề thuỷ lợi, diện tích lúa 2 – 3 vụ sẽ tăng lên.
Diện tích các bãi bồi ven sông, ven biển và diện tích mặt nước chưa được sử dụng còn lớn. Có thể từng bước cải tạo các diện tích này thành đất canh tác hoặc thành vùng nuôi thuỷ sản, nhất là thuỷ sản nước lợ và thuỷ sản nước mặn.
Câu hỏi:
1. Phân tích những khả năng để đồng bằng sông Cửu Long thành vùng lương thực, thực phẩm hàng đầu của cả nước.
2. Tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay như thế nào? Những mặt nào đã làm được và những mặt nào còn tồn tại?
3. Phân tích mối quan hệ giữa vấn đề sử dụng và cải tạo tự nhiên với vấn đề lương thực, thực phẩm ở đồng bằng sông Cửu Long.
Duyên hải miền Trung
1. Khái quát chung
The Hải Vân (Sea and Clouds) pass near Da Nang
Duyên hải miền Trung bao gồm vùng duyên hải Bắc Trung Bộ (các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) và duyên hải Nam Trung Bộ (thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận). Khối núi Bạch Mã – nơi có đèo Hải Vân, được coi là ranh giới tự nhiên giữa hai vùng trên.
Đây là một lãnh thổ hẹp theo chiều Đông – Tây, nhưng lại kéo dài theo chiều Bắc – Nam, với sự phân hoá khá rõ của các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, của dân cư – dân tộc, điều kiện lịch sử… cho phép phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành để khai thác có hiệu quả nhất sự khác biệt lãnh thổ đó.
Duyên hải miền Trung có khá nhiều tài nguyên nhưng chưa khai thác được bao nhiêu. Một số loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn. Tài nguyên lâm nghiệp tương đối giàu. Tài nguyên nông nghiệp, thuỷ sản cũng không kém phần đa dạng. Nhưng đây lại là vùng thường xuyên chịu thiên tai và là vùng bị tàn phá nặng nề nhất trong thời gian chiến tranh. Hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng thực sự còn gặp nhiều khó khăn. Với sự tập trung đầu tư cho vùng, nhất là với sự hình thành và phát triển của địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung, trong tương lai gần đây, kinh tế của vùng sẽ có bước phát triển đáng kể.
2. Vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp
Duyên hải miền Trung là vùng duy nhất của nước ta mà tất cả các tỉnh đều giáp biển, có vùng biển rộng lớn phía Đông, tiếp đến là dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển và vùng đồi núi thấp phía Tây. Vì vậy, vấn đề hình thành cơ cấu kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp có ý nghĩa lớn với tất cả các tỉnh trong vùng.
a) Lâm nghiệp
Tài nguyên lâm nghiệp của toàn vùng chỉ đứng sau Tây Nguyên cả về diện tích và trữ lượng. Độ che phủ của rừng là 34%. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý (táu, lim, sến, kiền kiền, săng lẻ, lát hoa…), nhiều lâm sản, chim, thú có giá trị. Hiện nay, rừng giàu chỉ còn tập trung chủ yếu ở vùng sâu giáp biên giới Việt – Lào và ở sườn cao nguyên. Chính ở đây tập trung nhiều lâm trường, vừa khai thác, tu bổ và trồng rừng. Lâm sản khai thác chủ yếu được đưa về các cơ sở chế biến lâm sản ở Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn để chế biến nhằm phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Ở các tỉnh duyên hải miền Trung, việc đẩy mạnh khâu chế biến gỗ và lâm sản, tu bổ rừng và trồng rừng đã trở nên cấp bách. Việc bảo vệ và phát triển vốn rừng còn có tác dụng điều hoà nguồn nước, hạn chế tác hại của các cơn lũ đột ngột trên các sông ngắn và dốc của Trung Bộ. Ở vùng Bắc Trung Bộ việc trồng rừng ven biển có tác dụng chắn gió, bão và ngăn không cho cồn cát lấn sâu vào làng mạc, ruộng đồng.
b) Nông nghiệp
Việc phát triển nông nghiệp của vùng cần dựa trên cơ sở khai thác tổng hợp các thế mạnh về nông nghiệp của vùng trung du, đồng bằng và miền biển. Vùng đồi trước núi có thế mạnh về chăn nuôi đại gia súc (bò là chính). Đàn bò của vùng hiện nay có khoảng 2 triệu con, bằng 50% đàn bò của cả nước. Bắc Trung Bộ còn có một số vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm (cà phê ở Tây Nghệ An và Quảng Trị, cao su, hồ tiêu ở Quảng Bình và Quảng Trị, chè ở Tây Nghệ An).
Trong số các đồng bằng thuộc duyên hải miền Trung chỉ có đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh là tương đối lớn, còn các đồng bằng khác thì nhỏ hẹp, do phù sa bồi đắp các vụng biển cũ. Đất phần lớn là đất cát pha, thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp hàng năm (lạc, mía, thuốc lá…) nhưng không thật thuận lợi cho cây lúa. Ở đây đã hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng năm và các vùng lúa thâm canh. Tuy vậy, bình quân lương thực trên đầu người của vùng còn thấp (chưa đến 290 kg/người).
c) Ngư nghiệp
Bão Lingling bên ngoài bờ biển Việt Nam năm 2001
Biển miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có bãi tôm, bãi cá, nhưng lớn nhất là ở biển cực Nam Trung Bộ. Chỉ tính riêng các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ, sản lượng thuỷ sản năm 1999 đã vượt 400 nghìn tấn, gấp 2 lần sản lượng năm 1990. Sản lượng cá biển năm 1999 của toàn vùng duyên hải miền Trung là 385 nghìn tấn (của Nam Trung Bộ là 300 nghìn tấn), trong đó có nhiều loài cá quý (như cá thu, cá ngừ, cá trích, cá nục, cá hồng, cá phèn), tôm hùm, tôm he, mực… Bờ biển miền Trung có nhiều vụng, đầm phá thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Việc nuôi tôm hùm, tôm sú đang được phát triển ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh ở vùng Nam Trung Bộ (Phú Yên, Khánh Hoà). Hoạt động chế biển hải sản ngày càng đa dạng, phong phú. Tương lai, ngành thuỷ sản sẽ có vai trò ngày càng lớn hơn trong việc giải quyết vấn đề thực phẩm của vùng và tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý tới việc khai thác hợp lí và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong vùng.
3. Vấn đề hình thành cơ cấu công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng
Vấn đề hình thành có cấu công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng ở các tỉnh thuộc duyên hải miền Trung có ý nghĩa cấp bách. Đó là vì duyên hải miền Trung có nhiều tiềm năng về khoáng sản, lâm sản, thuỷ sản, nhưng tiềm năng về năng lượng tương đối hạn chế, cơ sở hạ tầng của vùng còn nghèo và bị tàn phá nhiều do chiến tranh, lại hay bị đe doạ huỷ hoại do thiên tai.
a) Cơ cấu công nghiệp của vùng đang trong quá trình hình thành
Trong vùng có một số mỏ khoáng sản có giá trị như mỏ sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), mỏ crômit Cổ Định (Thanh Hoá), mỏ thiếc Quỳ Hợp (Nghệ An). Duyên hải Nam Trung Bộ có trữ lượng lớn cát làm thuỷ tinh, ôxyt titan. Đất sét, cao lanh, đá vôi làm xi măng sẵn có ở Bắc Trung Bộ. Ngoài ra còn có một số mỏ đá quý.
Do hạn chế về điều kiện kỹ thuật và vốn nên nhiều tài nguyên khoáng sản của vùng vẫn ở dạng tiềm năng hoặc được khai thác không đáng kể (crômit, thiếc…)
Cơ sở năng lượng (điện) chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển cũng như các hoạt động kinh tế khác của vùng. Vấn đề này đang được giải quyết theo hướng sử dụng điện của nhà máy điện Hoà Bình qua đường dây 500 kV, xây dựng ở Nam Trung Bộ một số nhà máy thuỷ điện với quy mô trung bình như Sông Hinh (Phú Yên), Vĩnh Sơn (Bình Định), hoặc tương đối lớn như Hàm Thuận – Đa Mi (Bình Thuận). Ở Bắc Trung Bộ dự kiến sẽ xây dựng nhà máy thuỷ điện Bản Mai (Nghệ An).
Các trung tâm công nghiệp của vùng như Thanh Hoá - Bỉm Sơn, Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang đang được phát triển với nhịp độ nhanh, định hình rõ nét, với việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho các ngành công nghiệp cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, dệt. Trong vùng có một số nhà máy xi măng lớn như Bỉm Sơn, Nghi Sơn (Thanh Hoá).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi) đang được chú trọng đầu tư, đặc biệt với việc xây dựng cảng nước sâu Dung Quất và nhà máy lọc dầu số 1 ở khu công nghiệp Dung Quất, công nghiệp của vùng sẽ có những bước phát triển rõ nét trong thập kỉ tới.
b) Việc xây dựng cơ cấu công nghiệp của vùng gắn liền với việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là giao thông vận tải và thông tin liên lạc
Do lãnh thổ dài và hẹp nên trục đường quốc lộ 1, đường sắt Bắc – Nam và các thành phố, thị xã nằm dọc theo các trục đường này trở thành trục kinh tế xương sống của vùng. Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc – Nam đã và đang được nâng cấp, hiện đại hoá, giúp đẩy mạnh sự giao lưu giữa duyên hải miền Trung với các vùng cực phát triển của cả nước là đồng bằng sông Hồng (ở phía Bắc) và Đông Nam Bộ (ở phía Nam). Hệ thống sân bay của vùng đã được khôi phục, hiện đại, gồm sân bay quốc tế Đà Nẵng và các sân bay trong nước Vinh, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang.
Duyên hải miền Trung (nhất là Nam Trung Bộ) là khu vực thuận lợi nhất của nước ta để xây dựng các cảng nước sâu. Đây là lợi thế của vùng để phát triển nền kinh tế mở. Hiện nay, hệ thống cảng biển trong vùng đang được nâng cấp, trong đó có các cảng quốc tế Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang. Các cảng nước sâu mới xây dựng là Nghi Sơn (Thanh Hoá), Dung Quất (Quảng Ngãi).
Dự án đường Hồ Chí Minh nhằm hiện đại hoá các tuyến đường xuyên Trường Sơn, nối với đường quốc lộ 1 bằng các tuyến đường ngang theo hướng Đông – Tây, trong đó có các tuyến đường sang Lào, lên Tây Nguyên, nối các vùng khai thác với các cơ sở chế biến và các cảng xuất khẩu, làm cho sự phân công lao động theo lãnh thổ được phát triển ngày một hoàn chỉnh hơn.
Câu hỏi:
1. Hãy phân tích những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế ở các tỉnh duyên hải miền Trung.
2. Những vấn đề gì đang đặt ra đối với sự phát triển của ngành lâm nghiệp ở trong vùng? Hãy chứng minh.
3. Vấn đề lương thực, thực phẩm trong vùng cần được giải quyết bằng cách nào? Khả năng giải quyết vấn đề này?
4. Tại sao việc tăng cường và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành cơ cấu kinh tế của vùng?
Trung du và miền núi phía Bắc
1. Khái quát chung
Đường lên Phan Xi Păng vào mùa đông - Ảnh: Owlmain Ghi rõ nguồn khi sử dụng!
Trung du và miền núi phía Bắc có diện tích rộng lớn (102,9 nghìn km2), với vị trí địa lí đặc biệt, giáp với Thượng Lào và có thể giao lưu thuận lợi bằng đường sắt và đường ô tô với các tỉnh phía Nam Trung Quốc qua các cửa khẩu Lạng Sơn, Lào Cai và Móng Cái.
Trung du và miền núi phía Bắc kề liền với khu vực đồng bằng sông Hồng, giao lưu dễ dàng (nhất là vùng Đông Bắc) với khu vực kinh tế phát triển sôi động này của đất nước. Phía Đông là vịnh Bắc Bộ, một vùng biển giàu tiềm năng.
Trung du và miền núi phía Bắc bao gồm vùng Tây Bắc núi non hiểm trở và vùng Đông Bắc với các núi thấp và đồi, các dãy núi hình cánh cung. Đây là những vùng giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp (trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi gia súc lớn), công nghiệp (tài nguyên năng lượng, kim loại và không kim loại), du lịch, kinh tế biển và phần nào là lâm nghiệp (vì tài nguyên rừng đã bị suy thoái nhiều).
Trung du và miền núi phía Bắc là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Mông…). Nơi đây có Việt Bắc, cái nôi của cách mạng, có Điện Biên Phủ lịch sử. Do vậy, việc phát huy các thế mạnh của vùng không chỉ có ý nghĩa kinh tế lớn, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
2. Thế mạnh về khai thác, chế biến khoáng sản và thuỷ điện
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có khoáng sản và trữ năng thuỷ điện lớn nhất nước ta. Lòng đất ở đây giàu than, quặng sắt, mangan, đồng, chì, kẽm, đất hiếm, apatit. Tuy nhiên, đa số các mỏ lại ở nơi mà kết cấu hạ tầng giao thông vận tải chưa phát triển, các vỉa quặng thường nằm sâu dưới lòng đất cho nên việc khai thác đòi hỏi phải có các phương tiện hiện đại và chi phí khai thác cao. Trong tương lai, sự kết hợp các tài nguyên phong phú, đa dạng trên lãnh thổ của vùng là một thế mạnh mà không phải vùng nào cũng có.
Các mỏ than tập trung chủ yếu ở khu Đông Bắc (Quảng Ninh, Na Dương, Thái Nguyên). Vùng than Quảng Ninh (trữ lượng thăm dò được là 3 tỉ tấn, chủ yếu là than antraxit) là vùng than lớn bậc nhất và chất lượng than tốt nhất của khu vực Đông Nam Á. Năm 1998, sản lượng khai thác vào khoảng 10 triệu tấn, trong đó lượng xuất khẩu vào khoảng 3 triệu tấn. Nguồn than khai thác được còn dùng làm nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện, như nhà máy nhiệt điện Uông Bí (Quảng Ninh) có công suất lên tới 150 nghìn kW. Sắp tới sẽ xây dựng nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, công suất 600 nghìn kW.
Khu Tây Bắc có một số mỏ khá lớn như mỏ quặng đồng – niken (Sơn La), đất hiếm (Lai Châu).
Khu Đông Bắc có nhiều mỏ kim loại, đáng kể hơn cả là mỏ sắt (Yên Bái), thiếc và bôxit (Cao Bằng), kẽm – chì ở Chợ Điền (Bắc Cạn), đồng – vàng (Lào Cai). Mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) sản xuất khoảng 1000 tấn thiếc mỗi năm, để tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Khoáng sản phi kim loại đáng kể có apatit (Lào Cai). Mỗi năm khai thác khoảng 600 nghìn tấn quặng để sản xuất phân lân.
Trữ năng thuỷ điện của hệ thống sông Hồng (11 triệu kW) chiếm hơn 1/3 trữ năng thuỷ điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kW. Nguồn thuỷ năng lớn này đang được khai thác. Nhà máy thuỷ điện Thác Bà trên sông Chảy có công suất thiết kế là 110 nghìn kW. Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà có công suất thiết kế là 1,9 triệu kW. Dự kiến sẽ xây dựng một số nhà máy thuỷ điện lớn như nhà máy thuỷ điện Sơn La (trên sông Đà) với công suất là 3,6 triệu kW, thuỷ điện Đại Thị (trên sông Gâm) 250 nghìn kW…
Việc phát triển thuỷ điện sẽ tạo ra động lực mới cho sự phát triển của vùng, nhất là việc khai thác và chế biến khoáng sản trên cơ sở nguồn điện rẻ và dồi dào. Tuy nhiên với những công trình kỹ thuật lớn như thế, cần chú ý đến những thay đổi không nhỏ của môi trường.
3. Thế mạnh về cây công nghiệp, cây dược liệu, các loại rau quả cận nhiệt và ôn đới.
Trung du và miền núi phía Bắc có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác, ngoài ra còn có đất phù sa cổ (ở vùng trung du). Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện địa hình vùng núi. Vùng núi và trung du Đông Bắc địa hình tuy không cao, nhưng lại là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa đông bắc, là khu vực có mùa đông lạnh nhất nước ta. Vùng núi Tây Bắc tuy chịu ảnh hưởng yếu hơn của gió lạnh mùa đông, nhưng do nền địa hình cao nên mùa đông cũng vẫn lạnh. Bởi vậy, trung du và miền núi phía Bắc có thế mạnh đặc biệt để phát triển các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Đây chính là vùng chè lớn nhất cả nước, với các loại chè thơm ngon nổi tiếng ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà Giang, Sơn La.
Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng như trên vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho việc trồng các cây thuốc quý (tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…) và các cây ăn quả như mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và sản xuất hạt giống quanh năm.
Khả năng mở rộng diện tích và nâng cao năng suất cây công nghiệp, cây đặc sản và cây ăn quả của trung du và miền núi phía Bắc còn rất lớn. Nhưng một khó khăn lớn đối với khu Đông Bắc là thời tiết hay nhiễu động, thất thường, còn đối với khu Tây Bắc là nạn thiếu nước về mùa đông. Mạng lưới các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản (nguyên liệu cây công nghiệp) chưa cân xứng với thế mạnh của vùng.
Việc đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp và cây đặc sản sẽ cho phép phát triển nền nông nghiệp hàng hoá có hiệu quả cao của vùng và có tác dụng hạn chế nạn du canh, du cư.
4. Thế mạnh về chăn nuôi gia súc
Trung du và miền núi phía Bắc có nhiều đồng cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m. Các đồng cỏ thường không lớn. Tuy vậy ở đây có thể phát triển chăn nuôi trâu, bò (lấy thịt và lấy sữa), ngựa, dê. Bò sữa được nuôi tập trung ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La). Trây, bò thịt được nuôi rộng rãi, nhất là trâu. Trâu khoẻ hơn, chịu ẩm giỏi hơn bò, dễ thích nghi với điều kiện chăn thả trong rừng. Đàn trâu trong vùng có hơn 1,7 triệu con, chiếm 3/5 đàn trâu cả nước. Đàn bò khoảng 800 nghìn con, bằng 20% đàn bò cả nước.
Hiện nay, những khó khăn trong việc vận chuyển các sản phẩm chăn nuôi tới vùng tiêu thụ (đồng bằng và đô thị) đã hạn chế việc phát triển chăn nuôi gia súc lớn của vùng. Thêm vào đó, các đồng cỏ cũng cần được cải tạo, nâng cao năng suất.
Do giải quyết tốt hơn lương thực cho người, nên hoa màu lương thực được giành nhiều hơn cho chăn nuôi đã thúc đẩy nhanh việc phát triển đàn lợn trong vùng, lên tới gần 5 triệu con (năm 1999), chiếm 26% đàn lợn của cả nước.
5. Thế mạnh về kinh tế biển
Trong điều kiện mở cửa nền kinh tế, thế mạnh về kinh tế biển của trung du và miền núi phía Bắc sẽ càng được phát huy. Vùng biển Quảng Ninh là một vùng biển rất giàu tiềm năng, một vùng đang phát triển năng động cùng với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Ở đây đang phát triển mạnh ngành đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, nhất là đánh bắt xa bờ. Du lịch biển - đảo đang đóng góp đáng kể vào cơ cấu kinh tế, với quần thể du lịch Hạ Long đã được xếp hạng vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới. Cảng Cái Lân (một cảng nước sâu) đang được xây dựng và nâng cấp, tạo đà cho sự hình thành khu công nghiệp Cái Lân…
Câu hỏi:
1. Tại sao nói việc phát huy các thế mạnh của trung du và miền núi phía Bắc có ý nghĩa kinh tế lớn, ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc?
2. Hãy phân tích khả năng và hiện trạng phát triển cây công nghiệp và cây đặc sản trong vùng
3. Hãy phân tích khả năng và hiện trạng phát triển chăn nuôi gia súc lớn của vùng.
4. Hãy xác định trên lược đồ các mỏ lớn trong vùng, phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác thế mạnh về tài nguyên khoáng sản của vùng
5. Hãy xác định trên lược đồ các trung tâm công nghiệp quan trọng của vùng
ST