• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Những điều lý thú về các vị vua Việt Nam

Trạng thái
Không mở trả lời sau này.
Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá, chính vì vậy khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá (Ngư) sang tên chữ Hán

Lý Thánh Tông đổi niên hiệu vì được dâng voi trắng


Niên hiệu là danh hiệu của vị vua được đặt khi lên ngôi để thần dân trong nước gọi thay cho tên chính, đồng thời để tính năm trị vì. Theo các từ trong niên hiệu, người ta thấy niên hiệu bắt nguồn từ triết lý vương quyền trong Nho giáo, theo lý thuyết này, vua trị nước là do mệnh trời vì thế niên hiệu đều mang ý nghĩa tốt đẹp. Khi có một sự kiện lớn, hoặc nhằm giải trừ những điều không may mắn, một vị vua có thể cho cải nguyên (đổi niên hiệu).Với Lý Thánh Tông, vị hoàng đế thứ 3 của triều Lý, trong 18 năm trị vì (1054 - 1072) ông đã 5 lần đặt niên hiệu; đó là: Long Thuỵ Thái Bình (1054 – 1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065), Long Chương Thiên Tự (1066 – 1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068 – 1069), Thần Vũ (1069 – 1072). Đặc biệt niên hiệu thứ 4 được vua đặt liên quan đến một vật cống của đại thần, sử chép rằng vào tháng 2 năm Giáp Thân (1068), “châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân thế đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng thứ 1” ("Đại Việt sử ký toàn thư").Đây là lý do đổi niên hiệu rất lạ, niên hiệu này có nghĩa là Trời ban cho con voi quý; mặt khác niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng là một ẩn ý gắn với sự tích Hoàng hậu Ma-Da nằm chiêm bao thấy voi trắng 6 ngà còn non từ trên không bay xuống và chui vào hông phải, sau đó bà thọ thai, đủ tháng đủ ngày sinh hạ ra hoàng tử Tất-Đạt-Đa (sau này tu hành đắc đạo trở thành đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni).

Trần Thánh Tông làm gia phả, đổi tên của tổ tiên

Gia phả là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ... trong thời đại mà họ đã sinh ra và lớn lên của một gia đình hay một dòng họ. Đối với các quân vương, gia phả của vương triều thường được gọi là Ngọc phả, Thế phả, Ngọc điệp...
Năm Bính Dần (1266), vua Trần Thánh Tông sai làm gia phả của hoàng tộc nhà Trần, gọi là “Hoàng tông ngọc điệp”; điều thú vị ở đây là tên của tổ tiên họ Trần đều được đổi lại. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho biết vềnguồn gốc của Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần như sau: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý”.Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá, chính vì vậy khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá (Ngư) sang tên chữ Hán với bộ Nhật, bộ Sơn, bộ Mộc. Trong cuốn “Đông A liệt thánh tiểu lục” cho biết Trần Kinh tên thật là Kình (cá kình), Trần Hấp tên thật là Chắm (cá chắm), Trần Lý tên thật là Chép (cá chép), Trần Thừa tên thật là Dưa (cá dưa), Trần Liễu tên thật là Nheo (cá nheo), Trần Cảnh tên thật là Canh (cá lành canh)…

Lê Thánh Tông làm thơ… cầu được mưa

Cuộc đời hoàng đế Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại lạ kỳ được lưu truyền trong dân gian, dã sử, thần tích, tuy nhiên cũng có những chuyện được ghi chép trong chính sử, như câu chuyện vua làm thơ cầu được mưa.
Tháng 2 năm Bính Thìn (1496), đi thuyền từ Thăng Long về quê hương ở xứ Thanh Hoa để làm lễ bái yết, tấu cáo tại lăng tẩm các tiên vương đời trước. Ngày 14 tháng đó, vua nghe nói trời không mưa đã nhiều ngày bèn làm lễ cầu đảo, sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép rằng: “Trời không mưa, vua cầu đảo, tự tay viết ra 4 tờ tập thơ đã soạn, sai Nguyễn Đôn đem dán ở vách đền thần. Hôm ấy trống canh một, trời mưa nhỏ, đến canh 5 mưa to, nước tràn trề. Vua liền đề thơ ở miếu Hoàng Hựu rằng :“Cực linh anh khí chấn dao thiên/Uy lực nghiêm đề tạo hóa quyền/Khấu vấn sơn linh năng nhuận vật/Thông vi cam vũ tác phong niên.Nghĩa là: Rung trời anh khí rất thiêng liêng/Tạo hóa trong tay nắm giữ quyền/Thần núi nếu hay nhuần thấm vật/Hóa làm mưa ngọt được mùa liền”.

Vị vua đầu tiên dùng tranh vẽ bằng sơn trong cung đình

Không rõ việc dùng sơn để vẽ tranh ở nước ta có từ bao giờ nhưng trên một số di vật thuộc di chỉ thời Đông Sơn như Việt Khê (Hải Phòng), Đồng Dù (Thanh Hóa)… đã có sử dụng sơn. Sau này sơn càng được sử dụng rộng rãi, không chỉ sơn son thiếp vàng ở cung vua, phủ chúa mà còn được dùng trong sản xuất hàng hóa như tráp gỗ, mái chèo…hoặc trang trí tượng thờ, vẽ tranh.
Theo một câu chuyện ghi lại trong gia phả họ Đào ở làng Thọ Vực (xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, Hưng Yên) thì có lẽ bức tranh sơn dầu đầu tiên được trang trí trong cung đình là do vua Lê Dụ Tông đặt vẽ. Chuyện rằng có người thợ vẽ tên là Đào Thúc Kiên vốn làm nghề nhuộm, giỏi pha mầu di cư lên Thăng Long, trú tại phường Nam Ngư, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương (nay thuộc phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) làm nghề sơn dầu, vẽ tranh. Ông vẽ rất đẹp, tiếng đồn truyền vào tận trong cung, vua Lê Dụ Tông sai người đến đặt ông vẽ bức tranh quả dưa bở có cành lá, hạn 5 ngày phải xong.Do là người ham uống rượu nên cứ lần khân mãi, khi chỉ còn 1 ngày nữa là đến hạn hoảng quá ông liền mang bút vẽ nhưng không đủ thời gian cho sơn kịp khô, chẳng biết làm sao ông Kiên mang bức tranh ra sân phơi, không ngờ lớp sơn dày gặp nắng từ xanh chuyển sang hoe vàng, nứt rạn tạo thành quả dưa bở nứt rạn tự nhiên như quả dưa thật. Nhìn bức tranh ai cũng đều tấm tắc khen ngợi, vua Lê rất hài lòng liền cho triệu ông vào cung phụ trách các thợ lo việc trang trí nội điện.

Vua Minh Mạng phong chức quan cho một người ngủ ngoài hè đường

Là hoàng đế rất nghiêm túc trong việc tuyển chọn người có phẩm hạnh, tài năng để phong chức quan lo việc quản lý tại các công đường, dinh thự trên khắp cả nước, nhưng có lần vua Minh Mạng đã cho một người làm quan trong một tình huống rất lạ, người đó là Đỗ Công Lãm.
Sách “Quốc sử di biên” cho hay: “Lãm trước kia là học trò, ở kinh, trọ nhờ tại Thái y viện để dạy học. Một hôm, ngủ ngày ở hiên ngoài, xe vua đi qua, Lãm không biết, bị lính Cẩm y vệ quát tháo. Lãm thức dậy vội vàng chạy tránh, sau lại quay về lạy, nhận tội. Vua khen là người có nho hạnh, bảo Thái y viện cử giữ chức Mậu uẩn. Chưa được bao lâu, vua triệu vào, bổ làm Huấn đạo, cai quản huyện Hiệp Hòa, rồi thăng làm Tri phủ Ninh Giang”.

Khải Định kêu gọi dân chúng mua công trái

Công trái là hình thức nhà nước vay vốn của người dân, trong thời hạn nhất định người cho vay được quyền thu lại vốn và hưởng lãi theo quy định. Trước đó người cho vay chuyển tiền cho nhà nước và được nhận công trái là loại giấy tờ có ghi mệnh giá, đây được coi là tờ giấy bảo đảm bảo đảm trong khâu thanh toán cả gốc lẫn lãi của nhà nước.
Công trái xuất hiện ở nước ta từ cuối thời Nguyễn, giai đoạn bị Pháp đô hộ; theo sử sách thì trước tình hình khó khăn tại chính quốc, chính quyền bảo hộ Pháp đã ép triều Nguyễn phải mua công trái. Tháng 10 năm Đinh Tị (1917) vua Khải Định dụ rằng: “Chia sẻ lo buồn với bạn mà còn lần lữa lâu ngày thì còn gì là tình nghĩa lân bang. Hơn nữa đây lại là cho vay lấy lãi, nhẽ phải dốc hết của nhà ra mới gọi là tận tình, tận nghĩa. Khổ nỗi nhìn lại kho quỹ nước ta rỗng tuếch, khắp các hạt đất cằn, dân nghèo khiến ý nguyện khó thành, đúng là giàu lòng mà không giàu của, nghĩ cũng thấy vô cùng xấu hổ. Đành chỉ nên trích ra cho trẫm 1 vạn đồng bạc gọi là một chút tình của trẫm đem ra trợ giúp, còn các quan trong triều cũng nên trích ra một phần bổng, … Còn trong dân gian cũng đã thực hiện vận động mua công trái, tất cũng có triển vọng tốt, không cần nói đến ở đây” (Quốc sử di biên). Đến tháng 9 năm (1918) Khải Định lại kêu gọi “người nước ta từ các quan lại xuống đến các tầng lớp sĩ công nông thương, nếu ai còn dư của thì đều nên kịp thời mua công trái để giúp đỡ, vừa được thu lãi lại vừa được vinh dự vẻ vang”.Đầu năm Canh Thân (1920), Khải Định lại dụ dân chúng “quyên mộ quốc trái” của Pháp để “làm tròn nghĩa vụ với nước bạn”. Đến tháng giêng năm Nhâm Tuất (1922), theo yêu cầu của Pháp, vua Khải Định cho mở khoản công trái 6 triệu đồng để có tiền xây dựng tuyến đường sắt nối từ Thành Vinh (Nghệ An) với Đông Hà (Quảng Trị). Bài dụ có đoạn: “Xây dựng tuyến giao thông đường sắt giữa Bắc Kỳ và Trung Kỳ là rất hợp thời, nếu không vất vả một phen thì làm sao có cái an nhàn mãi mãi, không chịu phí tổn nhất thời làm sao có được yên ổn lâu dài. Các bậc hào phú ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ hãy xét cho dụng tâm kinh tế của triều đình mong muốn có toàn dân hưởng lợi lạc, từ đó mở lòng nộp vào công trái cho đủ số tiền” (Quốc sử di biên).


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Sau khi đánh bại cuộc xâm lược Đại Cồ Việt của nhà Tống, đầu năm Nhâm Ngọ (982), vuaLê Đại Hành đã lập Thái hậu Dương Vân Nga của triều Đinh làm một trong 5 Hoàng hậu của ông, phong hiệu là Đại Thắng Minh hoàng hậu. Theo thần tích, Hoàng hậu Dương Vân Nga có cô con gái tên là Lê Thị Phất Ngân, được vua đã gả cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn.Vua Lý Thái Tổ là con rể vua Lê Đại HànhÍt người biết rằng Lê Đại Hành, vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê lại là cha vợ của Lý Thái Tổ, vị vua sáng lập nhà Lý. Theo chính sử, sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt của nhà Tống, đến đầu năm Nhâm Ngọ (982), vua Lê Đại Hành đã lập Thái hậu Dương Vân Nga của triều Đinh làm một trong 5 Hoàng hậu của ông và phong hiệu cho bà là Đại Thắng Minh hoàng hậu.

Chính sử không cho biết Lê Đại Hành và Hoàng hậu Dương Vân Nga có bao nhiêu người con, nhưng theo các thần tích ở cố đô Hoa Lư thì hai người có một cô con gái tên là Lê Thị Phất Ngân. Khi đến tuổi trưởng thành, vua đã gả công chúa Phất Ngân cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn (người sau này trở thành người khởi nghiệp dựng lên vương triều Lý).


Hiện nay, tại đền vua Lê ở Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình), bên trái hậu cung thờ vẫn còn ban thờ công chúa Phất Ngân; các nhà nghiên cứu cho rằng việc phối thờ cùng vua cha và mẹ cho thấy công chúa phải có công tích, đức hạnh nổi tiếng mới được nhân dân đánh giá, tôn vinh như vậy.


Ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000) tại kinh đô Hoa Lư, công chúa Phất Ngân hạ sinh một người con trai, đặt tên là Lý Phật Mã. Tháng 9 năm Kỷ Dậu (1009) Lý Công Uẩn được quần thần nhà Tiền Lê tôn lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Lý, lúc này công chúa Phất Ngân trở thành một trong số những hoàng hậu của vua. Tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất, để lại di chiếu truyền ngôi cho con trưởng là Thái tử Lý Phật Mã. Thái tử lên ngôi (tức Lý Thái Tông) đã tôn phong mẹ mình làm Linh Hiển thái hậu.


Người ta cho rằng, vị hoàng đế từng có tuổi thơ 10 năm gắn bó với vùng đất cố đô trước khi về với Thăng Long nên Lý Thái Tông sau này xây chùa Một Cột, đền Đồng Cổ, đền Phạm Cự Lượng ở Thăng Long; đào kênh Lẫm, đầm Lẫm ở Thần Phù (Hoa Lư) và thực hiện nghi lễ cày ruộng tịch điền đều noi theo truyền thống từ thời ông ngoại của mình là vua Lê Đại Hành.


Trần Anh Tông dạy con cách ăn cơm

Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của triều Trần, ông tên thật là Trần Thuyên, lên ngôi tháng 3 năm Quý Tị (1293), làm vua 21 năm (1293 - 1314) thì nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức Trần Minh Tông) để lên làm thượng hoàng 6 năm (1314 - 1320). Sử sách đánh giá ông là “vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Bộ chính sử “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại một câu chuyện lý thú về việc Trần Anh Tông dạy con là Trần Minh Tông cách ăn cơm như sau: “Thượng hoàng có lần ban bữa ăn cho vua. Vua nhai rất kỹ, Thượng hoàng nói: "Đàn ông phải ăn như rồng nuốt, cọp cắn, cần gì phải nhai kỹ?". Khi ban bữa ăn cho các vương hầu, thượng hoàng cũng bảo như thế”.


Lê Tương Dực và mối liện hệ lạ lùng với Quốc Tử Giám

Lê Tương Dực là vị hoàng đế mà thời kỳ ở ngôi của ông chia làm hai giai đoạn: tốt và xấu. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết như sau: “Vua khi mới lên ngôi, ban hành giáo hóa, cẩn thận hình phạt, cũng đáng gọi là có làm. Song ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy”.


Một trong những việc làm được đánh giá có ý nghĩa là vào giữa năm Tân Mùi (1512) Lê Tương Dực “Sai Nguyễn Văn Lang trung tu Sùng Nho điện ở Quốc Tử Giám và hai giải vũ, sáu nhà Minh Luân, nhà bếp, phòng kho, cùng làm mới hai nhà bia bên đông và bên tây, mỗi gian đặt một tấm bia bên tả, một tấm bên hữu. Năm này, dựng hai nhà bia đề tên các tiến sĩ khoa Ất Sửu năm Đoan Khánh thứ 1 và khoa Mậu Thìn năm Đoan Khánh thứ 4”. (Đại Việt sử ký toàn thư).


Một đại thần được vua sai viết bài văn trên bia Tiến sĩ là Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Nhập thi kinh diên Đỗ Nhạc đã có những dòng ca ngợi vua như sau: “Thánh học ngày càng cao minh, thánh đức ngày càng thuần tuý. Hơn nữa, đến nhà Thái học hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, lại nghĩ tới hai khoa Ất Sửu, Mậu Thìn chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!”.


Tuy nhiên có một điều oái oăm là mấy năm sau đó, số phận của vua Lê Tương Dực lại kết thúc cũng chính ở Quốc Tử Giám mà nguyên nhân xuất phát từ chính sự ham chơi, thích xây dựng đền đài của ông. Đầu tháng 4 năm Bính Tý (1516) “Trịnh Duy Sản giết vua ở cửa nhà Thái Học. Trước đây, Duy Sản vì nhiều lần can ngăn trái ý vua, bị đánh bằng trượng. Duy Sản mới cùng với bọn Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm mưu việc phế lập” ("Đại Việt sử ký toàn thư"), sau đó những người này đem hơn 3000 quân đánh vào cung Bắc Thần.


Lê Tương Dực nghe tin có biến liền cưỡi ngựa tắt qua cửa nhà Thái Học (tức Quốc Tử Giám) thì bị Trịnh Duy Sản ngăn lại rồi sai võ sĩ dùng giáo đâm vua ngã xuống rồi giết chết.


Lê Ý Tông định lệ ai nộp tiền sẽ được làm quan

Việc mua quan bán tước trước thời Hậu Lê đã diễn ra, nhưng vào giai đoạn Lê Trung Hưng, loạn lạc xảy ra liên miên, vua chúa chỉ ham cảnh sống xa hoa khiến cho ngân khố quốc gia lúc nào cũng thiếu hụt, nghiêm trọng nhất là thời chúa Trịnh Giang chuyên quyền, bạo ngược.


Thực quyền nhà Lê giai đoạn Trung Hưng đều nằm trong tay chúa, vua chỉ là hư vị, tuy nhiên nhiều quy định “tai tiếng” được ban hành lại nhân danh vua khiến không ít vị hoàng đế nhà Lê phải chịu tiếng oan, như trường hợp của vua Lê Ý Tông.


Cuối năm Bính Thìn (1736) triều đình dưới thời vị vua này “định lệ ai nộp tiền thì được bổ làm quan. Cho quan văn võ cùng trăm họ nộp tiền, sẽ được bổ chức phẩm. Chức quan cao hay thấp, việc nhiều hay ít đều tùy theo số tiền nộp nhiều hay ít mà bổ khác nhau. Triều ban quan lục phẩm trở xuống, ai nộp tiền 600 quan thì được thăng chức một bậc, dân gian ai nộp tiền 2800 quan thì được bổ thực chức Tri phủ, nộp 1800 quan bổ thực chức Tri huyện” ("Đại Việt sử ký tục biên").
Tuy nhiên một bộ sử thời Nguyễn thì không nói rằng đó là lệnh từ vua Lê Ý Tông mà chỉ thẳng rằng đó là ý của chúa Trịnh Giang: “Giang hạ lệnh: Quan và dân ai nộp tiền sẽ được thăng chức hoặc bổ làm quan… Lúc ấy, Giang chơi bời, xa xỉ phóng túng, của cải ngày một hao mòn, bán quan mua tước, không việc gì hắn không làm. Vì thế mà sau này sinh ra họa loạn” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).

Lê Thuần Tông và mối duyên tình với con gái ông thợ vẽ

Đời Lê Dụ Tông đã tuyển được một người thợ rất giỏi vào cung phụ trách việc trang trí nội điện, đó là ông Đào Thúc Kiên quê ở làng Thọ Vực, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, Hưng Yên).


Do vừa phải trực tiếp vẽ, pha mầu lại phải trông nom nhiều việc trang trí, thiết kế nên Đào Thúc Kiên xin phép vua cho con gái của mình là Đào Thị Ngọc Nhiễm được mang cơm rượu vào cung cho cha, đồng thời phụ giúp thêm cho ông trong việc bút, màu.


Bấy giờ nghe tiếng về người thợ vẽ tài hoa, hoàng tử Lê Duy Tường rất tò mò muốn xem con người đó thế nào, một hôm hoàng tử đến xem ông Đào Thúc Kiên và toán thợ sơn vẽ, trang trí hoàng cung, tình cờ hôm đó lại gặp đúng lúc cô Nhiễm mang cơm vào. Ngỡ ngàng trước một thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng, hoàng tử đem long yêu mến rồi không lâu sau đó đã lấy cô làm vợ.


Khi vua Lê Dụ Tông mất, thái tử Lê Duy Phường lên nối ngôi, lấy hiệu là Vĩnh Khánh, làm vua mới được 3 năm thì đến ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) chúa Trịnh Giang kiếm cớ phế truất Lê Duy Phường và đưa em trai của ông là Lê Duy Tường lên làm vua đặt niên hiệu Long Đức (tức vua Thuần Tông).


Chồng trở thành hoàng đế, Đào Thị Ngọc Nhiễm lúc này cũng trở thành một hoàng phi, tháng 4 năm Đinh Dậu (1717) bà sinh cho vua một hoàng tử đặt tên là Lê Duy Diêu (sau được tôn làm vua, đó là Lê Hiển Tông).


Minh Mạnglén múa may vì quá hứng khởi

Thời vua Minh Mạng chấp chính nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trong đó có cuộc nổi dậy của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc do thủ lĩnh người Tày là Nông Văn Vân đứng đầu. Lực lượng này giương cờ chống lại triều đình trong thời gian chỉ hơn 1 năm, từ tháng 7 năm Qúy Tị (1833) đến giữa tháng 10 năm Giáp Ngọ (1834) nhưng đã khiến vua quan nhà Nguyễn mất ăn mất ngủ vì quy mô và tầm ảnh hưởng rộng của nó.


Sách “Bắc Kỳ tiễu phỉ” chép: “Thổ phỉ Tuyên, Cao, Thái, Lạng lan tràn, chỗ nào cũng có đứa hùng trưởng, mà đều lấy giặc Vân làm chủ...”, hay như sách “Đại Nam thực lục” có đoạn viết: “Việc nổi loạn là do Nông Văn Vân xướng xuất, tù trưởng các châu đều họa theo và đều nhận chức quan của Vân”.


Binh lính của 5 tỉnh được huy động để đánh dẹp với quân số lên đến hàng vạn người, rất vất vả mới chiếm được các đồn trại, thành lũy của quân khởi nghĩa, Nông Văn Vân trốn vào rừng Thẩm Pát (nay thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng). Quân triều đình vây kín rồi phóng hỏa đốt rừng, “Nông Văn Vân bị thiêu chết, rơi xuống hang đá Thẩm Pát, bên cạnh xác chết còn có một thỏi vàng và một con dao găm mạ vàng bạc” ("Bắc Kỳ tiễu phỉ").


Nghe tin thắng trận, vua Minh Mạng mừng rỡ vô cùng với những hành động rất bất ngờ, sách “Quốc sử di biên” cho biết như sau: “Mùa đông, tháng 10, Nông Văn Vân chết, Cao Bằng được yên. Vân tiến thoái đều cùng đường, bị đốt mà chết; quan quân chặt lấy đầu, truyền đưa các tỉnh. Bắt được mẹ và thê thiếp của Vân đều giải về kinh.


Vua mừng lắm, truyền mở tiệc rượu mua vui, sai cung tần, quanh tay nhau làm kiệu, rồi vua lén mà múa, hô liền mấy tiếng: Cao Bằng yên rồi! Cao Bằng yên rồi!”.


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vua Lê Gia Tông lên ngôi năm 10 tuổi, đến năm 14 tuổi bị bệnh qua đời, ở ngôi chỉ có 4 năm, chưa có sự nghiệp gì.Trần Minh Tông học đá cầu

Trần Minh Tông tên thật là Trần Mạnh, con thứ 4 của Trần Anh Tông, ông không chỉ nổi tiếng là vị vua tài giỏi mà còn là người rất đa tài, trong đó có tài đá cầu. Những tài năng này của ông có được phần lớn nhờ công dạy dỗ của quan Độc bạ là Trần Cụ.


Tháng giêng năm Ất Tỵ (1305) lúc bấy giờ hoàng tử Trần Mạnh được phong làm Thái tử, vua Trần Anh Tông đã sai Trần Cụ làm thày dạy cho vị vua tương lai bởi ông thấy “Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Loại cầu mà thái tử Trần Mạnh (sau là vua Trần Minh Tông) được học đá có cấu tạo gần như một quả bóng da, nó được Trần Cụ làm bằng cách khâu ghép các múi da thành mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu là chỗ bỏ cái bóng lợn vào thì hơi mỏng và nhẹ, để cân với sức nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên đến lúc rơi xuống đất lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển khác.


Lê Thánh Tông xử lý nạn cường hào

Từ khi chế độ phong kiến đi vào ổn định và phát triển, nhất là ở thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê, bộ máy quản lý tại xã thôn đã được định hình rõ nét với những quy định cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực của bộ máy quản lý cấp cơ sở đã nảy sinh một bộ phận những kẻ có quyền thế lợi dụng địa vị của mình để đè nén, áp bức nông dân cả một vùng, chúng câu kết với một số địa chủ nhằm lũng đoạn toàn bộ đời sống làng xã, tình trạng này nghiêm trọng nhất ở giai đoạn chính quyền phong kiến suy thoái.


Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” đã viết: “Cái hoạ quan lại là một, cái hoạ cường hào là hai. Chúng làm cho vợ con người ta thành goá bụa, con người ta thành mồ côi”.

Thời suy thoái đã vậy nhưng ngay cả khi chế độ phong kiến phát triển cực thịnh thì nạn cường hào vẫn hoành hành khiến triều đình lo lắng, Lê Thánh Tông chính là vị vua đầu tiên tìm cách hạn chế tình trạng xấu này. Theo sách “Thiên Nam dư hạ tập”, vua đã răn rằng: “Nếu cậy chức quyền, âm mưu kiếm lời, những lo đơn độc mưu gian chẳng thành, mà lôi kéo bè đảng làm hại người làm cho phong tục đồi bại. Nếu ai vi phạm vào điều này thì cho phép người biết rõ nộp đơn tố cáo. Nếu tội nhẹ thì phạt trượng, tội nặng thì bị biếm. Nếu Xã trưởng làm việc không đúng pháp luật cũng cho phép chọn cử người khác”.


Tháng 11 năm Tân Mão (1471) Lê Thánh Tông lệnh cho các quan ở Thừa tuyên Sơn Nam đi tra xét tình hình tại các phủ, huyện, xã, nhất tấu tình về tình trạng “cường hào thao túng, xúi giục kiện tụng, phong tục kiêu bạc, dân sinh đau khổ” (Đại Việt sử kí toàn thư).


Ngày 14 tháng 11 năm Ất Tị (1485) vua ban lệnh: “Nếu các cường hào cậy thế đánh người bị thương, chiếm đoạt ruộng đất tài sản, cày phá phần mộ của người khác từ 3 lần trở lên thì rõ ràng là cường hào lộng hành thì phải trừng trị và nghị tội theo luật” (Thiên Nam dư hạ tập). Sách Đại Việt sử kí toàn thư gọi đây là nạn “cường hào hoành hành” và cho biết vua ban lệnh trên theo lời tâu của Tả đô đốc Trung quân phủ, tước Kinh Dương bá Lê Quyền.


Lê Thần Tông lấy đỗ vị Tiến sĩ cao tuổi nhất lịch sử khoa cử

Lịch sử
khoa cử Nho học nước ta trải qua 844 năm (1075-1919), trong khoảng thời gian đó, các triều đại phong kiến đã mở được 185 khoa thi, lấy đỗ 2898 đại khoa và người trở thành tiến sĩ cao tuổi nhất là Quách Đồng Dần. Khoa thi mà Quách Đồng Dần ứng thí được Lê Thần Tông mở trong thời kỳ làm vua lần thứ nhất của mình (1619- 1643), khoa thi này vua chỉ lấy 5 người đỗ Tiến sĩ và ông cũng không biết rằng một trong số đó là tiến sĩ cao tuổi nhất lịch sử.
Quách Đồng Dần quê ở xã Phù Khê, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), dù tuổi đã già, gia cảnh gặp nhiều khó khăn mà vẫn không chịu rời đèn sách, kinh sử.

Cuối cùng những nỗ lực không ngừng của ông đã được đáp lại, khoa thi Giáp Tuất niên hiệu Đức Long thứ 6 (1634), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khi đó đã 68 tuổi, tiếng tăm lừng lẫy cả nước. Tại lễ vinh quy Quách Đồng Dần có làm bài thơ tự thuật, trong đó có câu: Lễ đăng cao đệ thế xưng kỳ/ Nam quốc toàn tri lão bất suy (Nghĩa là: Người khen tuổi lão đỗ cao/ Biết cho tuổi lão nhưng nào có suy).


Sau khi đỗ Quách Đồng Dần được vua cho giữ chức Tri huyện, rồi làm quan đến chức Hữu Thị lang Bộ Lễ, Tả Thị lang Bộ Lễ rồi về trí sĩ. Ông mất năm Canh Dần (1650) tại quê nhà, thọ 83 tuổi; vua Lê Thần Tông thương tiếc đã ban tên thụy cho ông là Phúc Giang và sai người về tế lễ.


Lê Gia Tông- vị hoàng đế yểu mệnh nhất

Vị hoàng đế có tuổi thọ ngắn nhất trong số các đế vương nước Việt là Lê Gia Tông, vua tên thật là Lê Duy Cối, còn có tên khác là Lê Duy Khoái, sinh năm Tân Sửu (1661) là con thứ của Lê Thần Tông, mẹ là Lê Thị Ngọc Hoàn.


Sau khi Lê Huyền Tông mất không có con nối, chúa Trịnh Tạc cùng triều thần lập em vua là Lê Duy Cối lên ngôi vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) khi mới 10 tuổi. Đến ngày 3 tháng 4 năm Ất Mão (1675) Lê Gia Tông bị bệnh mất, thọ 14 tuổi, ở ngôi 4 năm (1671-1675). Sử đánh giá về vua như sau: “Vua tướng mạo anh vĩ, tính thời khoan hoà, có đức độ của người làm vua, tiếc rằng ở ngôi không lâu, chưa thấy sự nghiệp gì” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Tháng 6 năm đó, triều đình làm lễ rước linh cữu Lê Gia Tông về an táng tại quê mẹ ở xã Phúc Lộc, huyện Thụy Nguyên, xứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa) và xây lăng gọi là lăng Phúc An. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chúa Trịnh cùng vợ con và triều thần “đến làm lễ viếng, khóc rất thương xót…Các quan văn võ trông thấy đều chảy nước mắt”.


Lê Hy Tông sai làm xe nước để tưới ruộng cho dân

Là quốc gia nông nghiệp, trồng lúa nước là chủ yếu nên việc tưới tiêu cho ruộng đồng không chỉ là mối quan tâm lớn của người nông dân mà được cả các vị quân vương nước Việt đặc biệt chú trọng bởi nông nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo của quốc gia: “Phi nông bất ổn” (Không có nông nghiệp thì xã hội không ổn định).


Để giảm bớt sự khó nhọc cho nhà nông, tạo thuận lợi hơn trong hoạt động mùa màng, nhất là trong hoàn cảnh hạn hán ở nhiều nơi trong cả nước nên tháng 10 năm Đinh Mão (1687) vua Lê Hy Tông đã sai làm ra một loại phương tiện tưới tiêu gọi là xe nước.

Sử sách chép rằng: “Mùa đông, tháng 10, không mưa. Triều đình sai các quan ở kinh đô đi về các đạo xem xét địa thế, làm xe nước để tưới ruộng, khám những ruộng lúa bị thiệt hại, bàn việc khoan xá bởi năm đó lúa má thu hoạch ít, giá gạo tăng vọt” (Đại Việt sử ký tục biên).


Không rõ xe nước ban đầu được chế tạo như thế nào, có hình dạng ra sao nhưng có lẽ cũng không khác mấy so với xe nước vẫn còn được sử dụng tại nhiều vùng nông thôn, miền núi ở nước ta như vùng Tây Bắc, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi…


Xe nước thường được dựng ở các khe nước, sông nhỏ, được làm chủ yếu bằng tre gỗ làm trục, giá đỡ, máng… và dựa vào sức đẩy của nước để quay tròn những bánh xe. Trên những bánh xe có gắn nhiều ống có độ nghiêng thích hợp, bánh xe quay múc nước vào ống rồi đổ vào hệ thống máng nước, từ máng nước theo mương nước để chảy vào đồng ruộng.


Tùy theo cường độ và lưu lượng của dòng nước mạnh hay nhẹ và nhu cầu nước cung cấp cho ruộng đồng mà người ta làm xe nước có nhiều hay ít bánh xe, ống nước.

Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vua Khải Định đặc biệt phấn khởi với chiếc tàu thủy do Bạch Thái Bưởi đầu tư làm, với chất lượng không thua kém tàu thủy Châu Âu. Nước Nam vốn kém trong ngành "máy móc kỹ xảo", vì thế vua đã phong hàm tước cho ông Bưởi để nêu gương và khích lệ người dân.Trần Nghệ Tông lập em trai làm Thái tử

Trần Nghệ Tông tên thật là Trần Phủ, là vị hoàng đế thứ 9 của triều Trần, ông vốn không có ý muốn làm vua mà chỉ thích sống an nhàn. Bấy giờ các hoàng thân nhà Trần căm tức việc Dương Nhật Lễ giết Thái hậu, cầm quyền chính mà “rượu chè hoang dâm, hàng ngày chỉ vui chơi, thích chơi các trò” (Đại Việt sử ký toàn thư) nên đã cùng nhau hợp quân thảo phạt.


Khi đó Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm Hoàng hậu của Dương Nhật Lễ, sợ bị vạ lây bèn trốn tránh lên trấn Đà Giang; em gái ông là công chúa Thiên Ninh biết được mới trách rằng: “Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ cho người khác, tôi nên hành động đi, tôi đem bọn gia nô theo sẽ dẹp yên được”.
Sau đó công chúa Thiên Ninh cùng một người em khác của Cung Định vương Trần Phủ là Cung Tuyên vương Trần Kính và các hoàng thân khác họp quân ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa tôn Trần Phủ làm minh chủ, ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) khi đi đến phủ Kiến Hưng (nay thuộc Nam Định) thì tôn lên làm hoàng đế rồi tiến về Thăng Long phế truất, giết chết Dương Nhật Lễ.

Cũng bởi không thích làm vua nên Trần Phủ (tức Trần Nghệ Tông) chỉ ở trên ngai vàng hai năm (1370 – 1372) thì nhường ngôi để làm Thái thượng hoàng. Trước đó vào tháng 4 năm Tân Hợi (1371) Trần Nghệ Tông lập em trai là Trần Kính làm Hoàng thái tử, làm tập sách Hoàng Huấn gồm 14 chương để ban cho, lại phong vợ cả của Hoàng thái tử làm Hoàng thái tử phi.


Chuyện một vị vua lập em làm Thái tử khá đặc biệt vì thường chỉ có lập con, lập cháu mà thôi. Lý do là bởi khi Nghệ Tông chưa làm vua, còn đi lánh nạn thì việc tôn ông làm minh chủ, việc chỉ huy quân lính, tập hợp lực lượng, chuẩn bị lương thảo khí giới để đánh Dương Nhật Lễ đều cho em ông là Trần Kính phụ trách, “cho nên Nghệ Tông đem ngôi nhường cho” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Lê Thái Tông cấm mang vào hoàng cung dù chỉ là 1 cái kim

Để bảo đảm sự an toàn đặc biệt cho Hoàng cung, tránh những nguy cơ đe dọa đến vua và hoàng tộc nên vào ngày 28 tháng 8 năm Giáp Dần (1434) vua Lê Thái Tông đã ban lệnh chỉ cho các tướng hiệu, quân nhân, nữ nhân, nội nhân giữ các cửa hoàng thành và cung cấm rằng:


“Từ nay về sau, nếu có cung nhân ở các điện và đại thần, tổng quản, hành khiển cùng bọn nữ quan vào chầu, khi đến cửa cấm thì người coi cửa phải chuyển tâu trước, đợi có sắc chỉ mới được vào. Đàn bà không có phẩm tước đều không được cho vào.

Nội nhân, nữ quan, nô tỳ ở các điện nếu không có việc gì, không được lui tới các điện khác. Nếu người canh cửa không cẩn thận, lấy tình riêng dung túng cho vào bậy, cùng là người nào mang các thứ đồ sắt từ một cái kim trở lên vào trong cung cấm mà không chuyển tâu trước thì phải chiếu luật trị tội” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Vua Lê Trang Tông lên ngôi ở Lào

Vị vua duy nhất lên ngôi ở nước ngoài này là Lê Trang Tông (1533-1548), ông tên thật là Lê Ninh, còn có tên khác là Lê Huyến, là vị hoàng đế đầu tiên của triều Lê Trung Hưng.


Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, giết hai vua Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng; một viên quan trung thành là Lê Quán đã đưa con của Lê Chiêu Tông là Lê Ninh đi trốn, sau đó tướng Nguyễn Kim tìm được, đưa sang đất Ai Lao (nước Lào ngày nay) tôn làm vua vào tháng giêng năm Qúy Tị (1533), mở đầu thời kỳ hỗn chiến Lê -Mạc (Nam-Bắc triều).


Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép ngắn gọn sự kiện lên ngôi của Lê Trang Tông ở nước ngoài như sau:
“Vua là con của Chiêu Tông, cháu xa đời của Thánh Tông, mẹ là Phạm thị, tên húy là Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên. Khi Đăng Dung cướp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh Hóa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai người dò tìm, đón vua sang nước Ai Lao tôn lập”.

Trong sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn viết về việc Nguyễn Kim lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao với nhiều nội dung hơn:


“Trước kia, khi Đăng Dung thí nghịch và tiếm ngôi, Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế ta (tức Nguyễn Kim - tác giả) lánh nạn sang ở tại châu Sầm Nưa thuộc Ai Lao, chiêu tập những người trung dũng, đầu tiên dựng lá cờ nghĩa, quyết chí diệt Mạc để khôi phục nhà Lê, bèn tìm khắp mọi nơi kiếm lấy cho cháu họ Lê, thì tìm được con nhỏ của Chiêu Tông là Ninh, lập làm vua, lên ngôi ở Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Từ đó, hội gió mây lôi cuốn, tiếng chính nghĩa lẫy lừng, quân trẩy đến đâu chẳng ai là không hưởng ứng. Công nghiệp trung hưng nhà Lê thực bắt đầu từ đấy”.

Lê Dụ Tông thay đổi cách ra đề, trừ bỏ tiêu cực trường thi

Thời Lê Trung Hưng, về cơ bản vẫn kế tục nền giáo dục, thi cử như thời Lê sơ nhưng việc tổ chức thi không còn giữ được sự nghiêm túc dẫn đến tình trạng “Các học giả chỉ chuộng nắn nót từng câu, văn chương ngày càng kém cỏi, chỉ học thuộc lòng rồi theo đúng sách viết ra… Thơ phú, tứ lục đều chép theo bài cũ, không sợ giống nhau” ("Lịch triều hiến chương loại chí").

Bấy giờ các quan trường thường dùng lại các đề có sẵn của các lần trước không thay đổi gì vì vậy có nhiều người làm bài sẵn mang bán để nho sinh học thuộc, thậm chí làm thành tài liệu đem vào trường thi sao chép, các quan chủ khảo cứ chấm theo đó để lấy đỗ. Kết quả không chọn được người thi có thực tài.Chính vì vậy vào tháng 10 năm Tân Mão (1711), Lê Dụ Tông đã tìm cách bài trừ tình trạng này bằng quy định mới. Sử chép rằng:“Theo lệ cũ, quan chấm thi nghĩ soạn sẵn, đề thi thường lấy trong Tứ thư và sử; về thể văn tứ lục không quá mươi bài; về thể phú không quá 4-5 bài, đều làm thành đề thi, không có sự thay đổi gì, gọi là “sách mẫu” (sư thư). Học giả nhiều kẻ soạn thành phiếu tóm tắt (thiếp quát) rồi chuyển cho nhau để bán chác, sĩ tử đi thi đua nhau tìm mua, học thuộc thể văn để lén đưa vào trường thi, y theo thế mà chép ra; quan chấm thi cứ tùy theo bài văn mà chọn lấy đỗ, không kể trùng lặp gì.

Cho nên việc lén đem văn vào trường hay nhờ người làm thay, tuy có lệnh cấm nghiêm ngặt nhưng vẫn xảy ra, mà những người trúng tuyển đại loại là hạng không có thực tài. Đến khoa này, triều đình mới ra lệnh cho các quan chấm thi không được noi theo lệ cũ. Thói xấu ở trường thi nhờ thế dần dần được sửa đổi” ("Đại Việt sử ký tục biên").

Gia Long đặt điểm trợ cấp cho người nghèo, kẻ ăn xin

Nhận thấy đất Bắc Hà (nay là miền Bắc Việt Nam), theo bản tấu trình của các quan trấn nhậm tâu về cho biết còn nhiều người dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn, cùng cực cần phải giúp đỡ, vua Gia Long đã ngay lập tức thiết lập các điểm trợ cấp các đối tượng này.


Theo sách “Quốc sử di biên”, vào tháng 12 năm Nhâm Thân (1812),
vua Gia Long cho “đặt điếm Đoàn Đầu ở chợ Đông của Bắc Thành (Hà Nội ngày nay- tác giả) làm điểm cấp dưỡng những kẻ ăn xin ở các trấn. Lại ban tiền kẽm ân tuất cho các phủ, huyện mỗi nơi 50 quan. Hễ lữ khách đi qua bị bệnh hoặc chết thì lấy tiền ấy cấp cho. Cứ cuối năm, làm sổ sách tâu lên. Cấp cho điếm Đoàn Đầu mỗi tháng một phương gạo, một quan tiền”.

Khải Định phong hàm tước cho “ông vua đường thủy” Bạch Thái Bưởi

Bạch Thái Bưởi, một thương nhân, một nhà tư sản dân tộc được nhiều người kính trọng, ngưỡng mộ vì đã ông khẳng định doanh tài nước Việt, từ hai bàn tay trắng vươn lên thành một doanh nhân kiệt xuất, là một trong “tứ đại gia” giàu có nhất Việt Nam đầu của thế kỷ XX. Tiếng tăm của ông khiến vua Khải Định cũng phải khâm phục.

Vào tháng 11 năm Canh Thân (1920), trong một lần bàn việc với các quan bộ Lại, vua Khải Định than phiền về sự lạc hậu, kém cỏi của đất nước trong ngành “máy móc kỹ xảo” nên “việc gì cũng chỉ làm theo sau các nước”. Bấy giờ nghe tin về thành công của Bạch Thái Bưởi, vua lấy làm mừng rỡ cho là việc cần khen thưởng để khuyến khích nên truyền bảo như sau:

“Xem như việc Bạch Thái Bưởi ở Bắc Kỳ mới chế tạo được chiếc tàu thủy gọi là Bình Chuẩn rất khéo, tốt không thua kém gì công nghệ bên châu Âu. Chiếc tàu này là do tay thợ nổi tiếng Nguyễn Văn Phúc làm ra, cả chủ và thợ đều là người Nam cả.

Ngày 23 tháng 7 vừa qua, khi trẫm tới thăm quý Toàn quyền và thăm quan tàu chiến ở Đà Nẵng thì vừa gặp lúc tàu này cũng vừa cập bến vào cảng nên có may mắn được ngắm xem, quả nhiên tàu ấy là do chủ ta, thợ ta đồng lòng hợp sức mà chế tạo ra.

Nước ta vốn dĩ của ít, thợ vụng, nếu không có Bưởi dám bỏ tiền ra thì đâu có việc cho Phúc thi thố, mà không có tài khéo của Phúc thì tiền của Bưởi cũng thành uổng phí mà thôi. Hai người này đã nêu cao tấm gương về sự tiến bộ, văn minh cho người nước ta mai sau soi vào.

Vậy truyền chuẩn thưởng trao cho Bạch Thái Bưởi hàm Hàn lâm viện Thị độc, Nguyễn Văn Phúc hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo để hai người được đội ơn mà càng thêm khích lệ phấn đấu hơn nữa” (Khải Định chính yếu).

Nếu xét theo thứ bậc hàm cấp trong quan chế phong kiến thì hai hàm này thuộc bên Văn giai (tức bên quan văn), theo đó hàm Hàn lâm viện Thị độc của Bạch Thái Bưởi thuộc Chánh ngũ phẩm, còn hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo của Nguyễn Văn Phúc thuộc Tòng thất phẩm.


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Quân nhà Lê Trung Hưng đánh dẹp các tàn dư của nhà Mạc, mà lực lượng mạnh nhất là của Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan thế lực nhỏ không "được" để ý, nên tự xưng vua. Nhưng do hoàn cảnh thiếu thốn nên nơi thiết triều của ông vua này chỉ là một ngôi điện lợp mái tranh sơ sài.

Trần Anh Tông nằm mộng thấy Lý Chiêu Hoàng

Chuyện kể rằng một lần vua Trần Anh Tông đi kinh lý vùng Dâu đã đến làng Giao Tự (tên Nôm là làng Chè) thuộc tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đêm đó ông nằm mộng thấy bà Lý Chiêu Hoàng hiện về, sáng hôm sau vua thức giấc đã triệu dân làng đến kể lại giấc mộng của mình và ban cho dân làng 5 thỏi vàng, 5 nén bạc và truyền cho dân làng lập miếu thờ bà Lý Chiêu Hoàng. Sau này dân tu bổ, mở rộng miếu thành đình, tôn Lý Chiêu Hoàng làm thành hoàng làng Giao Tự.


Một thuyết khác thì cho rằng ngôi đình Giao Tự đã có trước đời Trần Anh Tông. Vào thời ông trị nước, quân Nguyên xâm lược nước ta. Vua chỉ huy 5 vạn quân tiến đánh giặc, qua làng Giao Tự dừng chân nghỉ lại. Đêm vua ngủ nằm mơ thấy Thành hoàng làng, xưng tự hiệu là Phật Kim, xin phù giúp nước lập công nên ông đã ban cho dân vàng bạc để tu bổ đền thờ, phong Thành hoàng là: “Phật Kim Thượng Hoàng Thái Hậu linh ứng phụ quốc hiến hựu khang nhân chi thần”.


Lê Thánh Tông quy định cách xưng hô theo danh hiệu

Để tránh việc xưng hô lộn xộn, không thống nhất giữa các danh hiệu quan chức nên vào ngày 28 tháng 4 năm Đinh Mùi (1487), vua Lê Thánh Tông “nhắc rõ lệnh về xưng hô danh hiệu: Như thân vương thì người dưới xưng là điện hạ, tự thân vương xưng là phủ hạ; công, hầu, bá, phò mã và nhất nhị phẩm thì xưng là các hạ; nhị phẩm, tam phẩm xưng là môn hạ; tứ, ngũ, lục phẩm xưng là đại nhân; thất, bát, cửu phẩm xưng là quan trưởng... Kẻ nào còn dám xưng hô tiếm vượt như trước thì người gọi và người nhận đều phải đánh 5 roi, phạt 10 quan tiền” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Thời Lê Trang Tông đã “nhập khẩu” đậu Hà Lan

Đậu Hà Lan (tên khoa học là Pisum sativum) là loại đậu hạt tròn thuộc chi đậu Hà Lan được dùng làm rau ăn, trồng theo vụ vào mùa có khí hậu mát mẻ tại nhiều nơi trên thế giới. Có lẽ ít người biết rằng loại đậu này được du nhập vào nước ta thời nội chiến Nam – Bắc triều giữa nhà Lê Trung Hưng và nhà Mạc.


Loại đậu Hà Lan cùng một số mặt hàng khác được người Hà Lan lần đầu tiên đem đến buôn bán ở nước ta, ban đầu là ở phía Nam thuộc địa bàn quản lý của vua Lê Trang Tông vào năm Qúy Tị, niên hiệu Nguyên Hòa thứ nhất (1533). Triều đình, từ vua Lê cho đến quan lại, dân chúng đều ưa thích các mặt hàng Tây phương này nên tạo điều kiện cho việc kinh doanh cho người Hà Lan (khi đó dân ta quen gọi là Hòa Lan).

Sau đó người Hà Lan lại đem hàng hóa ra cả miền Bắc, đến vùng Sơn Nam (nay thuộc địa phận Thái Bình, Nam Định) là địa bàn quản lý của nhà Mạc để buôn bán. Chính từ các hoạt động này mà giống đậu Hà Lan đã được “nhập khẩu” vào nước ta.


Sách Lê triều dã sử cho biết cụ thể như sau: “Năm đầu niên hiệu Nguyên Hòa, người nước Hòa Lan ở Tây Dương, còn gọi là Hoa Lang, từ sở hội thương ở Ma Lục Giáp, Tân Gia Ba (nay thuộc Malacca của Malayssia và Singapore – tác giả) đến Gia Định xin thông thương mua bán hàng hóa, xin chịu nộp thuế. Lại từ Gia Định vượt thuyền đến vạn Lai Triều ở trấn Sơn Nam cư trú, mở chợ buôn bán. Các thứ hàng quần áo nhung vải rất tinh xảo, giá cũng rất đắt nhưng được người trong nước ưa chuộng.


Tương truyền nước ấy có một giống đậu, vị béo ngọt, nhỏ như lá tre, màu xanh mượt, hạt như đậu trắng. Người nước ta chọn được giống ấy, phần nhiều gieo trồng, nhân đó gọi là đậu Hòa Lan, có lẽ lấy tên nước đặt cho nó”.


Mạc Kính Khoan thiết triều trong cung điện "tranh tre nứa lá"

Mạc Kính Khoan là một trong những vua của nhà Mạc thời suy tàn, ở ngôi 15 năm (1623 - 1638), đặt niên hiệu là Long Thái.


Bấy giờ quân nhà Lê Trung Hưng đang tập trung đánh dẹp các tàn dư của nhà Mạc mà lực lượng mạnh nhất do Mạc Kính Cung chỉ huy nên chưa chú ý đến các thế lực nhỏ như của Mạc Kính Khoan, vì thế nhân cơ hội đó Kính Khoan tự lập làm vua. Do hoàn cảnh thiếu thốn nên nơi thiết triều của ông vua này không quy mô, đẹp đẽ mà chỉ là một ngôi điện đơn giản, mái lợp bằng lá tranh mà thôi.



Sách Đại Việt thông sử ghi rằng: “Riêng có Kính Khoan trước sau vẫn giữ vùng đất riêng, chưa từng dám ló ra. Khi quan quân kéo đến thì giải tán vào núi, giấu kín tung tích, khi quan quân rút đi thì lại ra dồn tụ. Triều đình cũng thấy nó suy yếu, không đáng lo lắm, chỉ chú ý tới Kính Cung. Do đó y được trộm sống trong vùng thảo dã trải hơn 20 năm rồi mới lên Cao Bằng, tiếm hiệu là Long Thái, lập điện ngụy bằng tranh lá ở xã Vu Toàn”.

Lê Hiển Tông phong người giỏi bói toán làm quan

Có những vị hoàng đế coi việc bói toán là hoạt động mê tín, lừa bịp tiền bạc của người nhẹ dạ cả tin nên không ưa thích, thậm chí còn ban lệnh hạn chế hành nghề, cấm đoán việc in ấn các sách có liên quan. Thế nhưng vào thời gian trị vì của mình, vua Lê Hiển Tông đã tổ chức cuộc tuyển chọn những người giỏi bói toán, ai được chấm đỗ sẽ được phong quan chức.


Sách Đại Việt sử ký tục biên cho biết vào cuối năm Bính Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746), vua ban lệnh “khảo trong cả nước, có người nào tinh thông thuật thiên văn, phong vũ, thái ất, bói toán, bấm độn. Ai trúng thì trao cho quan chức”.


Lê Chiêu Thống đánh TrịnhBồng

Nhà Lê Trung Hưng
gây dựng lên trong sự nghiệp đánh Mạc, về sau dần từng bước bị các đời chúa Trịnh tước đoạt quyền bính, chèn ép. Đến thời Lê Chiêu Thống, sau khi quân Tây Sơn diệt Trịnh, ủng hộ việc lên ngôi của vua Lê, rồi rút về Nam giao lại quyền cai trị đất Bắc Hà, ông vua này cũng muốn tự lập, tự quyết nhưng không ngờ các phe cánh ủng hộ họ Trịnh đã hợp nhau ép ông phải phong cho Trịnh Bồng làm Yến Đô vương, tái lập tình trạng cung vua phủ chúa như trước.

Do không có chỗ dựa nên Lê Chiêu Thống dù rất căm giận nhưng đành phải miễn cưỡng chấp thuận. Không lâu sau đó, nhờ lợi dụng được mâu thuẫn trong phe chúa Trịnh, lại có được một số quan tướng đem quân ủng hộ nên Lê Chiêu Thống đã cho binh lính tiến đánh Trịnh Bồng. Đây là lần đầu tiên vua Lê lại có sự mạnh tay với chúa Trịnh như vậy.


Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng 8 năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống sai em là hoàng đệ Lê Duy Trù đem thân quân cấm vệ đi đốc chiến, quan Nội hàn Bùi Dương Lịch làm tham tán việc quân đem lực lượng tiến đánh chúa Trịnh ở Đông Quan (nay là xã Đông Quan, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Ngoài ra còn có thêm binh lính của Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn Như Thái cùng kéo tới đánh kẹp lại khiến Trịnh Bồng thua to phải bỏ chạy rồi trốn đến vùng Yên Quảng (nay thuộc Quảng Ninh), không lâu sau chạy đến Lạng Sơn, lại bị thổ dân xua đuổi. Không nơi náu thân, Trịnh Bồng bèn trốn về đất Hữu Lũng (nay là một huyện thuộc Lạng Sơn) giáp giới với đất Bắc Giang. Nghĩ đến cơ nghiệp của cha ông không thể cứu vãn, khôi phục được nữa, Trịnh Bồng chán nản trốn đời bỏ đi tu rồi biệt tích sau không rõ kết cục ra sao; còn vua Lê Chiêu Thống sau này khi giặc Mãn Thanh bại trận trước Tây Sơn đã chạy theo giặc về phương bắc, sống nhục nhã ở đó cho đến cuối đời.


Vua Minh Mạng bắt các địa phương trồng mít

Nhận thấy để đất bỏ hoang không trồng cấy gì rất lãng phí, không đem lại lợi ích thiết thực nên vào tháng 3 năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng đã ban chiếu bắt các địa phương phải trồng mít và một số cây khác, vừa có thu hoạch hoa lợi lại góp phần bảo vệ đê điều giữ yên cho đời sống người dân.


Theo sách
Quốc sử di biên, tờ chiếu của Minh Mạng có đoạn viết như sau: “Chiếu sai các thành trấn, thành phủ và đường quan đều trồng cây mít, cách 5 thước trồng một cây. Đê sông lớn, đê sông nhỏ đều trồng cây liễu; các vườn tược bỏ hoang đều phải trồng đay gai”.

Khải Định được vua Ai Cập tặng đôi sư tử con

Có một món quà đặc biệt mà vua nước A Mi Xuy Nê (Ai Cập) gửi đến vua Khải Định thông qua người Pháp. Theo sách Khải Định chính yếu thì tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922), sau khi nhận được đôi sư tử non, vua Khải Định đã truyền lệnh cho các đại thần nhờ Khâm sứ Pháp đánh điện cho Toàn quyền Pháp ở Đông Dương, “chuyển hộ lời phúc đáp tới Hoàng tử xứ ấy được biết, nói rằng quý Điện hạ có lòng nhiệt thành, từ nơi xa xôi vẫn nghĩ tới chúng tôi, lại không tiếc mà đem tặng cho thứ sản vật đặc sản nổi tiếng của quý bang. Qủa nhân chân thành cảm ơn thịnh tình của Điện hạ và hảo ý của quý Khâm sai đại thần vô cùng. Cũng có một vật nhỏ mọn, xin được gửi thư riêng nói rõ sau. Từ xa, xin chúc quý Điện hạ ngày thêm mạnh khỏe, sáng suốt”.


Đến tháng 11 năm đó, vua Khải Định sáng tác bài thơ ngắn 8 dòng và nói với các triều thần rằng “Quốc vương nước A Mi Xuy Nê ở xa có gửi tặng một đôi sư tử non, đặt cho tên gọi là Ngũ Phong sư và Thập Vũ sư, đem nuôi nay đã thuần, ta vui mừng nên có làm một bài thơ” (Khải Định chính yếu).


Sưu tầm

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vua Minh Mạng rất quan tâm phát triển thủy quân, cho đóng nhiều tàu thuyền, mua một số kiểu tàu bọc đồng, thuyền chạy bằng hơi nước của Tây phương để làm mẫu để đóng theo. Để tăng cường sức chiến đấu cho thủy quân, Minh Mạng thường tổ chức thao diễn, luyện tập, đặc biệt vào năm Canh Tý (1840) vua cho mở cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên.Lý Thái Tông cho dựng biển chỉ đường

Hoàng đế thứ 2 của nhà Lý là Lý Thái Tông, tên húy là Phật Mã, trong thời gian 26 năm nắm quyền cai trị quốc gia ông đã thực hiện nhiều chính sách rất thiết thực cho đời sống xã hội. Ngày nay trên đường phố, chúng ta không lạ khi nhìn thấy các biển chỉ dẫn về khoảng cách, hướng đi đến các địa điểm khác nhau. Nhưng đó là điều mới mẻ ở thời Lý Thái Tông, khi ông cho cắm biển chỉ đường nhằm giúp người dân đi lại thuận tiện.


Lý Thái Tông là vị vua đầu tiên cho dựng biển chỉ đường tại các địa phương; tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1042), vua xuống chiếu cho dân “đắp đất làm ụ, cắm biển gỗ ở trên để tiện cho việc đi về 4 phương” (Đại Việt sử ký toàn thư). Không chỉ vậy, ông còn là vị vua đầu tiên cho lập hệ thống đưa tin trên toàn quốc, sau khi cắm biển cho chỉ đường không lâu, vào năm Qúy Mùi (1043) vua chia đường cái quan thành từng cung đoạn và đặt các trạm để chạy công văn.


Lê Thánh Tông cấm để chiến thuyền trống trải, bẩn thỉu

Thủy quân Đại Việt thời Lê Thánh Tông không chỉ là một lực lượng đông đảo mà rất hùng mạnh có khả năng tác chiến xa, bảo vệ tốt chủ quyền trên biển Đông. Có được điều đó là nhờ vào sự chú trọng phát triển, sự quan tâm từ việc lớn cho đến những chi tiết rất nhỏ của vị hoàng đế anh minh, lỗi lạc. Tại điều 200 thuộc chương Chức chế của bộ Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) do Lê Thánh Tông sai soạn thảo, ban hành là một minh chứng rõ nhất về điều này.


Nội dung điều luật quy định như sau: “Những người giữ chiến thuyền mà để trống trải, bẩn thỉu, không để tâm coi ngó, giữ gìn thì bị đánh 50 roi, biếm một tư. Sắp xếp chiến thuyền không đúng phép, có khi bị hư hại, hễ ít thì tội nặng hơn tội trên một bậc, nếu hư hoảng nhiều thì bị tội đồ. Quan chủ ti không hay biết thì bị phạt biếm. Nếu thuyền quan bị hư hỏng thì thêm một bậc tội”.

Lê Chân Tông quy định việc xử kiện phải theo trình tự các cấp

Lê Chân Tông là hoàng đế thứ 18 của nhà Hậu Lê, tên thật là Lê Duy Hựu, ở ngôi vua 6 năm, đặt một niên hiệu là Phúc Thái (1643-1649). Trước thời Lê Chân Tông cầm quyền, các quân vương đã có quy định khác nhau liên quan đến việc giải quyết các vụ án mà cấp thấp xét xử, nhất là do quan huyện tiến hành. Đến năm Ất Dậu niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645), vua ban lệ cho cấp xã được xét việc kiện tụng trước tiên, sau đó mới đến các cấp cao hơn.


Lệ này có nội dung như sau: “Chuẩn định, phàm các vụ kiện về hộ khẩu, hôn nhân, ruộng đất, trước hết phải từ xã trưởng, thứ đến phải qua các nha môn quan phủ, quan huyện, Thừa ty, Hiến ty, Cai đạo, Ngự sử; theo thứ tự điều tra giải quyết. Đối với các vụ tạp tụng như đánh chửi nhau, đòi nợ cũng cáo lên nha môn để khám xét, giải quyết. Theo thứ tự mà phúc cáo, cũng như lệ đối với các vụ kiện về hộ khẩu, hôn nhân, ruộng đất” (Lê triều hội điển).


Gia Long thưởng cho tàu nước ngoài dâng bản đồ Hoàng Sa

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn,
Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, trở thành vị vua đầu tiên củavương triều Nguyễn. Ngay từ khi lên ngôi, mặc dù còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng vua đã cho tái lập lại các đội Hoàng Sa, Bắc Hải như dưới thời các chúa Nguyễn để tiếp tục quản lý, khai thác, bảo vệ và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam trên biển Đông, đặc biệt là tại quần đảo Vạn lý Hoàng Sa (tên gọi chung của Hoàng Sa, Trường Sa trước đây).

Những việc làm của Gia Long thể hiện sự quan tâm của chính quyền đến các hải đảo, một phần lãnh thổ không thể tách rời của quốc gia. Không chỉ vậy, đối với những hoạt động góp phần vào việc tìm hiểu, thu thập thông tin liên quan đến Hoàng Sa đều được trọng thưởng không có sự phân biệt, như một chuyện được sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (quyển 55) cho biết.


Vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1817) vua Gia Long đã có một lệnh: “Tháng 6, thuyền Ma Cao đậu ở Đà Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên. Thưởng cho 20 lạng bạc”.


Đoạn chép nói trên tuy ngắn nhưng có thể cho ta suy đoán rằng thuyền Ma Cao ở đây có lẽ là thuyền buôn của người Hoa hoặc người Bồ Đào Nha (lúc đó đang thống trị Ma Cao), ngoài ra nó còn là minh chứng thể hiện rằng từ lâu nhiều người nước ngoài đã thừa nhận chủ quyền của nước Việt đối với các hải đảo tại biển Đông.


Minh Mạng cho “tập trận, bắn đạn thật” trên biển

Là vị hoàng đế rất quan tâm đến phát triển quân đội, trong đó có lực lượng thủy quân; ngoài việc cho đóng nhiều tàu thuyền, vua Minh Mạng còn mua một số kiểu tàu bọc đồng, thuyền chạy bằng hơi nước của Tây phương, lấy đó làm mẫu để đóng theo.


Bên cạnh đó, để tăng cường sức chiến đấu cho thủy quân, Minh Mạng thường tổ chức thao diễn, luyện tập, đặc biệt vào năm Canh Tý (1840) vua cho mở cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên.


Theo truyền thống trước đó, lực lượng thủy quân thường rèn luyện các phép bày trận, chèo thuyền, tấn công…; đến đời Minh Mạng ông đã cho tập trận bắn đạn thật vào mục tiêu.

Sách Đại Nam thực lục cho biết như sau: Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài độ 3 trượng, ngang hơn 1 trượng, dựng phên nứa làm giả lá buồm được dựng lên. Đặt bè ở biển xa bờ, xung quanh thả neo để khỏi bị trôi. Những thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh tề đợi lệnh.


Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhổ neo kéo thuyền chạy về phía bè. Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng hồng y lên ngắm vào bè nổi, bắn liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại quay trở về.


Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế, khi đến chỗ quy định lại bắn súng như trước và chèo thuyền về chỗ bày hàng ban đầu. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ xuống, truyền lệnh thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.


Một câu đối độc đáo của vua Khải Định

Có những điều bất ngờ về vua Khải Định, vị hoàng đế bị mang tiếng là bù nhìn, nịnh Tây. Ông vua này có nhiều thú giải trí, ngay từ hồi chỉ là một thân vương đã múa bút tự trào bằng đôi câu đối dài và độc đáo.


Câu đối này, vế đầu viết bằng chữ Nôm nói về các thú chơi đời thường, vế sau viết bằng chữ Hán nhắc đến chuyện quốc gia, đến những nhân vật nổi tiếng trong
lịch sử nước nhà:

- Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng, dạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng;

- Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật tử Quân, như Trần Quốc Tuấn, như Phạm công Thượng thướng quân, như Bạch Vân Phu tử, như Ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn, thời chi tế, thế chi sừ, khỉ nhưng nhiên phủ, thân long đắc vũ tiện vân đằng.

Cụ Vương Hồng Sển trong hồi ký
Hơn nửa đời hư (tr.289, NXB Văn Nghệ, California, 1995) khi dẫn lại những giai thoại văn chương về Khải Định đã cho rằng nếu quả đúng vua là tác giả của câu đối này thì phải thừa nhận ông là người thông minh, có học.


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vua Tự Đức không có con nên nhận Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh làm con nuôi – cả ba là con ruột của Kiên thái vương Hồng Cai, em khác mẹ với Tự Đức. Ba anh em cùng làm vua, nhưng mỗi người một số phận.

Lê Ngọa Triều cho róc mía trên đầu nhà sư

Lê Long Đĩnh
(còn gọi là Lê Ngọa Triều) là con thứ 5 của vua Lê Đại Hành. Để cướp ngôi, Lê Long Đĩnh đã giết hại Lê Trung Tông (Lê Long Việt) anh cùng cha khác mẹ. Đây là một vị vua tàn bạo, lại dâm ô vô độ nên sinh bệnh không ngồi được lâu, khi thiết triều thường nằm để văn võ bá quan chầu lạy và nghe tấu trình công việc. Vì vậy mà nhân dân và sử sách thường gọi ông là Lê Ngọa Triều.

Sự nghiệp làm vua của Lê Long Đĩnh kéo dài được 4 năm (1005-1009) nhưng không để lại một dấu ấn gì, có chăng chỉ là một hình ảnh của một ông vua tàn bạo lấy việc tra tấn người làm thú vui tiêu khiển. Lê Ngọa Triều đã nghĩ ra nhiều cách tra tấn dã man để hành hạ người phạm tội, kể cả tội nặng và tội nhẹ.


Lê Ngọa Triều từng sai lấy rơm tẩm dầu quấn quanh những người phạm tội rồi đốt, bắt tù nhân trèo lên cây cao rồi sai người chặt gốc cho cây đổ…


Đặc biệt, vua sai người dùng dao sắc róc mía trên đầu Tăng thống Quách Mão – một vị Quốc sư được nhân dân kính trọng làm đầu nhà sư máu chảy lênh láng. Lê Ngọa Triều chết sớm, khi mới có 24 tuổi.


Hồ Nguyên Trừng – ông tổ của súng thần công

Là con trai đầu của Hồ Quý Ly nhưng Hồ Nguyên Trừng đã không nối nghiệp cha làm vua mà nhường cho em của mình là Hồ Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng là một người giỏi về nhiều lĩnh vực, nổi bật nhất là việc ông đã chế tạo được súng thần công và được xem là ông tổ chế tạo súng thần công. Sau này, mỗi khi chế tạo xong một khẩu súng thần công thì người ta thường lập bàn thờ - chính là để tưởng nhớ Hồ Nguyên Trừng.


Trong cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược, Hồ Nguyên Trừng đã nhiều lần thân chinh đi đánh giặc, ông từng nói với cha mình: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Câu nói đó phản ánh nguyên nhân cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của cha con Hồ Quý Ly thất bại chính là không tập hợp được sức mạnh của nhân dân.


Cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược của nhà Hồ thất bại, năm 1407, Hồ Nguyên Trừng cũng với gia tộc bị bắt và giải sang đất Minh nhưng Hồ Nguyên Trừng đã không bị sát hại. Ngược lại, Hồ Nguyên Trừng lại được nhà Minh trọng dụng vì khả năng chế tạo vũ khí. Đến đời Minh Tông Anh, Hồ Nguyên Trừng được phong làm Tả thị lang Bộ công. Tuy vậy lòng ông vẫn hướng về quê hương nên đã viết cuốn “Nam ông mộng lục.



Lê Lợi được Nguyễn Chích dâng kế tiến vào Nghệ An

Nguyễn Chích quê ở Đông Sơn – Thanh Hóa, là một trong những công thần góp công to lớn trong thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng. Khi giặc Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Chích đã tập được hơn 1.000 nghĩa quân, lập căn cứ ở núi Hoàng Nghiêu đánh nhau với giặc trong nhiều năm.


Năm 1420, khi biết tin Lê Lợi đứng dậy khởi nghĩa, Nguyễn Chích đã đem toàn bộ lực lượng xin gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Sau 6 năm đứng dậy khởi nghĩa nhưng vẫn chưa có tiếng vang, Nguyễn Chích đã thấy rằng cuộc khởi nghĩa không nên chỉ loanh quanh ở vùng đất Lam Sơn nhỏ hẹp mà phải phát triển rộng ra nhằm đề phòng biến cố.


Là người hiểu tường tận vùng đất Nghệ An, Nguyễn Chích đã hiến kế cho Lê Lợi: “Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người đông. Nay ta trước hãy lấy Trà Lân chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân rồi dựa vào nhân lực, tài lực ở đấy rồi quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”.


Đó là một kế sách rất thông minh của Nguyễn Chích, nghĩa quân Lam Sơn đã mở rộng được căn cứ và tiến ra Đông Đô với một sức mạnh ngút trời để rồi làm nên chiến thắng lẫy lừng của khởi nghĩa Lam Sơn. Có thể nói Nguyễn Chích là tiền đề trong chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Nguyễn Chích được nhà vua ban quốc tính (Lê Chích) và được phong tước Đình thượng hầu, đứng thứ 8 trong số 93 đại công thần.


Một nhà có 3 anh em làm vua

Triều Nguyễn đến thời vua Tự Đức thì tình hình xã hội đã rất rối ren do sự xuất hiện của người Pháp. Tự Đức bị bệnh đậu mùa nên không có con nhưng khi mất đi có lẽ ông không thể ngờ được rằng 3 người con nuôi của mình lại trở thành 3 ông vua nối ngôi nhau liên tiếp. Điều đáng nói nữa là 3 người con mà Tự Đức nhận làm con nuôi đều là con của Kiên thái vương Hồng Cai (em khác mẹ với vua Tự Đức).


Thế nhưng 3 ông vua này lại có 3 số phận hoàn toàn khác nhau. Nguyễn Phúc Ưng Đăng lên ngôi lấy niên hiệu là Kiến Phúc nhưng do có mâu thuẫn với đại thần Nguyễn Văn Tường nên đã bị Tường đầu độc chết khi mới làm vua được 8 tháng.


Sau đó Nguyễn Phúc Ưng Lịch (em vua Kiến Phúc) mới 13 tuổi lên làm hoàng đế lấy niên hiệu là
Hàm Nghi. Đây là một vị vua yêu nước, chính Hàm Nghi khi bị Pháp đuổi bắt đã bôn tẩu ra Quảng Trị và hạ chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp để mở đầu cho hàng loạt cuộc khởi nghĩa chống pháp trên khắp cả nước.
Sau đó Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt, chúng ra sức dụ dỗ ông nhưng không được. Cuối cùng Pháp đã đày Hàm Nghi sang Angiêri (một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi). Năm 1943, sau 54 năm bị đày, Hàm Nghi mất tại Angiêri, thọ 72 tuổi.

Khi Hàm Nghi bị thực dân Pháp truy đuổi phải chạy ra Quảng Trị thì Nguyễn Phúc Ưng Đường (anh của vua Kiến Phúc và Hàm Nghi) được Pháp đưa lên làm vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Tuy nhiên đây là một ông vua không có quyền lực gì. Đồng Khánh làm vua được được 3 năm, chết lúc 25 tuổi.


Khi Đồng Khánh lên làm vua, ở xứ Huế đã có hai câu thơ nói về sự kiện này vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay: “Một nhà sinh đặng ba vua/ Vua còn, vua mất, vua thua chạy làng”. Vua còn là Đồng Khánh, vua mất là Kiến Phúc, vua thua chạy làng là Hàm Nghi.



Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Vua ban lệnh khi chuyển đi nơi khác, các quan không được lấy đồ đạc của nhà công mang theo, nhà công phải được trông coi chờ quan mới đến dùng.

Lý Thái Tông có 4 chàng rể người dân tộc thiểu số

Là một quốc gia gồm nhiều thành phần dân tộc sống gắn bó, đoàn kết, trải hàng ngàn năm lịch sử cùng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, do đó các chính quyền Việt Nam từ xưa rất coi trọng vấn đề dân tộc.


Thời nhà Lý, kế thừa chính sách của các triều đại trước, đối với vùng núi rừng xa xôi, nơi cư trú của các dân tộc ít người, Lý Thái Tổ vẫn áp dụng chính sách “cơ mi” (ràng buộc lỏng lẻo).


Ngoài ra để tăng cường và đẩy mạnh mối quan hệ, liên kết; bên cạnh việc phong chức tước, quyền hạn; ban thưởng tiền bạc, triều Lý còn thông qua các cuộc hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng lớn có thế lực để qua vai trò của họ tập hợp cư dân thành khối thống nhất quanh nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.


Trong số các hoàng đế của triều đại này, Lý Thái Tông là vị vua gả nhiều con gái cho các tù trưởng, thủ lĩnh người dân tộc nhất. Tháng 3 năm Kỷ Tị (1029) vua gả công chúa Bình Dương cho Thân Thiệu Thái, châu mục châu Lạng (nay là Lạng Sơn). Năm Bính Tý (1036) gả công chúa Kim Thành cho châu mục châu Phong (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ) là Lê Thuận Tông; gả công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai (nay thuộc Sơn Tây, Hà Tây) là Hà Thiện Lãm; gả công chúa Ngọc Kiều cho châu mục châu Chân Đăng (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ và 1 phần Sơn Tây).


Lê Thánh Tông quy định việc sử dụng “nhà công vụ”

Nhà công vụ hiểu một cách đơn giản là nhà ở thuộc tài sản công được dành cho quan chức (và gia đình họ) sử dụng trong thời gian nhất định khi đảm nhiệm một vị trí cụ thể tại một địa phương. Đến lúc không còn làm quan hoặc được chuyển đổi đi nhận vị trí khác thì người đó phải trả lại nhà công vụ để bố trí cho người mới.

Tuy nhiên vẫn có những người muốn biến công thành tư. Cách đây 500 trăm năm, hoàng đế Lê Thánh Tông để ý việc này, và đưa ra các cách thức xử lý cụ thể, ông trở thành nguyên thủ đầu tiên quy định chế độ sử dụng “nhà công vụ” và tài sản công.


Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, tháng 4 năm Bính Tuất (1466), vua ban lệnh “cấm các quan đổi đi chỗ khác không được lấy các thứ đồ dùng ở nhà công”. Đến tháng 2 năm Canh Tuất (1490) Lê Thánh Tông “định lệ quan đổi đi nơi khác phải giao lại nhà công. Từ nay trở đi, quan các nha môn nào đổi thăng đi, về nghỉ để tang hay ốm chết…thì chỗ nhà ở và các đồ vật giao cho quan lại sai người coi giữ, đợi khi quan mới đến dùng”.


Lê Thần Tông chấm đỗ người không làm hết bài thi

Trong thi cử Nho học thời xưa có nhiều quy định rất chặt chẽ, khắt khe, bài thi nếu chỉ phạm một chữ húy thì dù có viết hay đến mấy cũng bị đánh trượt, hoặc dù có làm hết bài nhưng chưa chắc đã vượt nổi tài thơ văn của những người cùng thi khác. Ấy thế mà một thí sinh vào thi, làm không hết bài vẫn được chấm đỗ, không những thế còn là người đỗ đầu khoa thi, đó là câu chuyện của Nguyễn Minh Triết quê ở xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, xứ Hải Dương (nay thuộc xã An Lạc, huyện Chí Linh, Hải Dương).


Khoa thi Hội năm Tân Mùi (1631) đời Lê Thần Tông, đề thi gồm 2 phần: Phần đề phú có nội dung “Lấy đức làm chính trị”, phần đề thơ là “Tiêu Hà đứng đầu”; tất cả gồm 12 mục. Lọt vào kỳ thi Hội chỉ có 60 người, do thời gian ngắn mà đề mục lại nhiều nên 59 người đều làm sơ lược, tính toán miễn sao cho đầy đủ 12 mục.


Riêng Nguyễn Minh Triết thì lần lượt làm từng mục, dẫn giải cụ thể, biện luận rõ ràng vì thế khi hết giờ, phải nộp bài thì ông mới chỉ xong được 4 mục. Vua Lê Thần Tông xem bài thi thấy ý tứ rất hay bèn hỏi các khảo quan và nữ học quan Nguyễn Thị Duệ, mọi người nói nếu chấm thì rất xứng đỗ đầu. Cuối cùng vua truyền bảo: “Thơ chỉ hay một câu, phú chỉ hay một đoạn mà còn được, huống chi bốn mục. Bài nếu đáng đỗ đầu thì cứ để đỗ đầu”.


Vậy là dù bài thi không hoàn thiện nhưng thí sinh Nguyễn Minh Triết lại được chấm đỗ Đình nguyên Thám hoa. Ông chính là người cao tuổi thứ nhì trong số gần 80 vị đỗ Thám hoa trong
lịch sử nước ta.

Lê Ý Tông ban hành âm nhạc trong các ngày đại lễ

Âm nhạc được sử dụng trong các nghi lễ cung đình từ rất lâu nhưng còn đơn giản, chưa thống nhất, chưa phân định cụ thể đối với từng nghi thức. Đến đời Lê Ý Tông (1735-1740), lần đầu tiên âm nhạc được quy định sử dụng với các tiết tấu, thanh điệu khác nhau ở những ngày đại lễ khác nhau.


Sách Lê triều hội điển cho hay: “Theo pháp điển hồi quốc sơ, chỉ làm lễ rước và lạy mừng, nhạc chương chưa đủ. Vĩnh Hựu năm thứ nhất (1736) mới kính vâng ngự chế, báo rõ bá quan rằng: Các lễ Diên Thọ, Chính Đản, Yết Giao, Tế Cờ, xét về nhiều mặt được coi là đại lễ. Hợp các nhạc chương lại để cùng diễn tấu. Như vậy ngước lên thấy tình văn tuyên xướng (được phô bày thỏa thích), tiết tấu ung dung. Gây dựng được cái tự cổ chưa từng có. Thánh đức cùng thiên địa đại đồng, ấy là cái thể nghiệm sự ứng dụng vậy”.


Theo đó, nhạc chương dùng trong các ngày đại lễ có 5 chương, là: Từ bình, Thanh bình, Hòa bình, Thăng bình, Thừa bình.


Minh Mạng cho cắm biển ghi tên đường phố tại kinh đô

Ngày nay, không chỉ tại các đô thị lớn mà các thị trấn nhỏ đều có những tấm biển đề tên của các con đường, con phố tạo thuận tiện rất nhiều trong việc xác định vị trí, tìm địa chỉ, quản lý hành chính…, thậm chí còn có tác dụng nhắc nhớ, tri ân đến những chiến công, địa danh, con người cụ thể.


Nếu như việc dựng biển chỉ hướng đi các nơi, lập cột mốc đánh dấu khoảng cách đường đi đã được một số vị vua thời Tiền Lê, Lý tiến hành thì việc đặt tên đường phố, dựng biển ghi tên lần đầu được thực hiện dưới triều vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục cho biết vào tháng 5 năm Canh Thìn niên hiệu Minh Mạng thứ nhất (1820), vua cho “đặt đường phố ở Kinh thành có khắc biển, ghi tên”.


Vua Khải Định ban thưởng cho những người đại thọ

Tôn kính, trọng vọng người già là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ hàng ngàn năm qua. Chính vì vậy sử sách ghi chép rất nhiều đến việc các quân vương nhiều triều đại từng ban yến tiệc, thưởng tiền bạc, lụa là cho các bậc phụ lão trong nước. Thậm chí vào đời Trần, triều đình còn hỏi ý kiến của người già nên làm gì trước cuộc xâm lược của giặc Nguyên Mông: lịch sử đã ghi nhận về “hội nghị Diên Hồng” với tiếng hô: “Quyết đánh” của các bô lão.


Thời Khải Định ở ngôi, có một sự kiện độc đáo liên quan đến người cao tuổi, đó là vào tháng 5 năm Kỷ Mùi (1919) vua ban thưởng cho 8 người đại thọ, trong đó có một nhân vật rất nổi tiếng là cụ Đoàn Tử Quang, người được coi là thí sinh cao tuổi nhất trong lịch sử thi cử nước ta.


Sách Khải Định chính yếu viết: “Tháng 5, chuẩn ban thưởng biển ngạch cùng tiền bạc với mức khác nhau cho 8 vị quan viên cao thọ, gồm: Cấm binh, phó vệ úy Trịnh Văn Hòa ở tỉnh Quảng Nam (94 tuổi); nguyên Thống chế về hưu Nguyễn Như Cung ở phủ Thừa Thiên (81 tuổi); Quang lộc tự Thiếu khanh Trương Thỉnh ở tỉnh Quảng Nam (81 tuổi); Đoàn Tử Quang hàm Trước tác đang an dưỡng tại quê nhà thuộc tỉnh Hà Tĩnh (101 tuổi); Thái Tân, dân thường cao thọ ở tỉnh Hà Tĩnh (101 tuổi); Phạm Văn Châu ở tỉnh Quảng Nam (101 tuổi); Nguyễn Văn Hỗ ở tỉnh Quảng Nam (101 tuổi); Đồng Vũ ở tỉnh Bình Định (101 tuổi)”.

Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Lịch sử Việt Nam có nhiều nhân vật mang những đặc điểm về cuộc đời hay sự nghiệp rất lạ lùng và thú vị, trong số đó có chuyện đăng quang lên ngôi. Chúng ta thường nghe đến chuyện Lê Thần Tông và nhiều tài liệu viết trong thời gian gần đây đều cho rằng ông là người duy nhất trong số hơn 100 vị vua Việt Nam có hai lần lên ngai vàng làm vua. Thực sự có đúng như vậy hay không?

Tìm trong sử sách ta thấy rằng trước Lê Thần Tông đã có Lý Huệ Tông là người từng hai lần làm vua, một lần ông xưng vương và lần thứ hai xưng đế.


Tự ý lên ngôi rồi lại được truyền ngôi

Lý Huệ Tông tên húy là Lý Hạo Sảm, có tên khác là Lý Kiểu, sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) tại hoàng cung ở kinh đô Thăng Long. Vua là con trưởng của Lý Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm (không rõ tên). Lý Huệ Tông lên ngôi ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224) truyền ngôi cho con gái rồi đi tu, ở ngôi tổng cộng 14 năm.


Trước khi làm hoàng đế đã có thời gian ông từng làm vua, bấy giờ vào đời Lý Cao Tông, vì có loạn Quách Bốc nên triều đình phải bỏ Thăng Long đi phiêu dạt, thái tử Lý Hạo Sảm chạy đến trú nạn tại thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình); mới đến vùng này, nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ.


Nhà Trần Lý vốn xuất thân làm nghề đánh cá, sau trở nên giàu, người quanh vùng theo phục, tự xây dựng lực lượng riêng, nhân có Thái tử đến bèn dựa vào gây thanh thế. Thái tử sau khi lấy con gái của Trần Lý liền phong cho ông tước Minh Tự, phong em vợ Trần Lý là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ, Phạm Ngu làm Thượng phẩm phụng ngự. Mấy người này chiêu tập binh mã dưới danh nghĩa giúp Thái tử Sảm rồi lập ông làm vua, lấy tôn xưng là Thắng Vương.

Biết tin con mình tự ý xưng vương, lập triều đình riêng và phong tước tùy tiện nên Lý Cao Tông rất tức giận. Khi ấy, mặc dù vẫn phải lánh nạn ở Quy Hoá giang nhưng vua vẫn muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi liên lạc với họ lực lượng của Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi ở vùng Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) nhưng mưu không thành. Trần Lý và Tô Trung Từ nhân đó muốn giành thế mạnh với các nhóm quân khác bèn mang binh lực về kinh thành Thăng Long đánh Quách Bốc.


Cuối năm Kỷ Tị (1209) loạn Quách Bốc bị dẹp nhưng Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ trở thành người đứng đầu lực lượng họ Trần đã đón vua Lý Cao Tông về cung và trở thành trọng thần của triều đình.


Tháng 3 năm Canh Ngọ (1210), Lý Cao Tông sai quan Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ đón Thái tử Sảm về kinh. Chuyện tự xưng vương trước đó vua không xét tới nên thái tử thoát tội rồi được truyền ngôi, lên làm hoàng đế tháng 10 năm Canh Ngọ (1210).


Con mất sớm, cha lại lên ngôi

Tuy nhiên Lý Huệ Tông cũng không phải là người đầu tiên hai lần lên ngôi vua mà người đó là Hùng Vương ngành thứ 18. Theo ghi chép của Ngọc phả đền Hùng (Hùng triều ngọc phả) thì họ Hồng Bàng truyền được 18 ngành, mỗi ngành gồm nhiều đời vua. Ngành vua thứ 18 có hiệu là Hùng Duệ Vương truyền được 5 đời vua, cai trị 150 năm; bản Thần tích xã Vi Cương (Phú Thọ) vua cuối của ngành này tên húy là Huệ Lang, sinh ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh Thân, hóa ngày mồng 5 tháng 5.


Hùng Duệ Vương ngành thứ 18 đời cuối cùng truyền cho trưởng nối ngôi xưng là Hùng Kinh Vương nhưng ông chỉ làm vua được 6 năm thì mất, những người con trai khác cũng đã mất sớm, chỉ còn hai con gái là Tiên Dung và Ngọc Hoa nên Hùng Duệ Vương lại lên làm vua lần thứ hai, về sau già yếu quá mới có ý cho con rể là Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh, tức Tản Viên Sơn Thánh) kế vị nhưng vì Nguyễn Tuấn không muốn nên vua đành giao cho ông tạm thay quyền trị quốc.

Thần tích xã Vi Cương chép rằng: “Ban đầu truyền ngôi cho con trưởng là Kinh Vương cai trị được 6 năm thì mất. Vua truyền cho rể hiền là Tản Viên Sơn nhiếp chính, thay mệnh vua cha chế định thiên hạ. Được 10 năm, cha con đồng lòng hóa thành thượng tiên chính giác, đại pháp thần nông, làm người tiên vạn cổ bất diệt, rồi nhường ngôi cho Thục An Dương Vương, cũng là tôn diệt Hùng Vương, là tông phái hoàng đế triều trước, là cháu 16 đời làm Bộ chúa phụ đạo.


Hùng Duệ Vương có 100 cung phi. Vua trị nước, sau mê tửu sắc, sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa; hoàng tôn miêu duệ gồm 21 chi với 194 cháu chắt. Việc trị nước đến lúc cáo chung, cơ đồ nhà Hùng mạt vận, 20 hoàng tử cùng 4 công chúa đã mất, không có người kế dõi.


Về sau chỉ hai người, một người là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa gả cho Chử Đồng Tử hóa tiên bất diệt, một là Mỵ Nương Ngọc Hoa công chúa gả cho Tản Viên Sơn Tinh. Vua nhường quyền cho rể hiền được 10 năm thì nhường ngôi lại cho Thục An Dương Vương. Duệ Vương và Tản Viên Sơn Thánh, hai cha con cùng hóa thành tiên bất diệt, vạn đời xưa nay thực đáng là bậc minh vương đại thánh, đời sau không ai sánh kịp”.


Bản Ngọc phả cổ truyền về mười tám chi đời thánh vương triều Hùng thì ca ngợi Hùng Duệ Vương, người đầu tiên hai lần làm vua như sau:


“Duệ Vương là người tư chất như thánh, tài lược anh hùng, thừa hưởng tổ tông bồi đắp, cơ nghiệp thịnh trị…Bên trong chú trọng võ bị, bên ngoài phòng ngự biên cương, dốc lòng dựng nước giàu mạnh để giữ yên trong nước, luôn xem gương đời trước để trị nước, tuân theo mệnh trời, kính trọng quỷ thần, muốn trời ban điềm lành giúp nước. Do vậy vua càng sùng trọng kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước trong nước tu tạo từ vũ, nghi trượng trang nghiêm, hàng ngày dâng tiến hương hoa, tỏ lòng thành phụng thờ, còn các quan châu huyện đều mỗi tháng hai kỳ đến miếu sở tại, mật đảo bách thần để mạch nước trường thọ”.


Sưu tầm
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Khi Nguyễn Trãi bị kết tội, người con gái của ông bị bắt làm nô tỳ, sung vào hàng nữ nhạc. Tuy nhan sắc tuyệt đẹp nhưng bị câm, chỉ ngồi gõ phách. Một lần vào cung trình diễn, Lê Thánh Tông thấy người con gái gõ phách mới hỏi: “Cô gái này sao không hát đi?”. Người con gái bỗng cất tiếng hát với âm điệu du dương, nỉ non: Hẹn nhau từ thuở Thiên đình/Lòng nào nỡ phụ tâm tình thế ru, khiến mọi người sửng sốt.Lý Thái Tông ban thưởng cho toàn dân

Sử sách đánh giá Lý Thái Tông, hoàng đế thứ hai của triều Lý là vị vua thông minh, tài giỏi, có đức độ, rất thương dân chúng. Trong thời gian ở ngôi ông đã thực hiện nhiều công việc nhằm hạn chế sự đau khổ, oan ức cho dân; khuyến khích sản xuất để cải thiện đời sống cho mọi người và thậm chí hai lần còn rộng lòng với cả nước mà không có sự phân biệt.


Chính vì điều đó mà Lý Thái Tông trở thành vị vua đầu tiên ban thưởng cho toàn dân; chính sử chép rằng vào ngày 15 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) ông “xuống chiếu cho lấy tiền lụa ở kho lớn ban cho thiên hạ”. Đến tháng 8 năm Tân Mão (1051) vua tổ chức “cho dân ăn uống to và ban cho dân vải lụa, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Trần Thánh Tông ngủ chung giường, dùng chung chăn gồi với họ hàng

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vị vua mở nghiệp nhà Trần là Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là thái tử Trần Hoảng để lên làm thượng hoàng. Thái tử đăng quang trở thành hoàng đế Trần Thánh Tông, người được khen ngợi là “có lòng nhân thứ, có đức hiếu đễ, yêu người thân, hòa trong họ, tôn người hiền, trọng đạo đức, chọn người hiền lương để hầu Kinh Diên, kén người đức hạnh để giúp thái tử; cơ nghiệp nhà Trần do đấy được bền vững” (Việt giám thông khảo tổng luận).


Có thể nói, hiếm có vị vua nào lại có sự gần gũi với anh em họ tộc như Trần Thánh Tông. Vào mùa xuân, tháng giêng năm Mậu Thìn (1269) vua từng nói với tôn thất rằng: "Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn quý, được cả thiên hạ phụng sự nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc".Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sau đó vua “xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng”.

Lê Thánh Tông là con rể của Nguyễn Trãi?

Sau khi xảy ra “thảm kịch Lệ Chi Viên”, Nguyễn Trãi và gia đình bị tru di tam tộc, chỉ có hai người thiếp của ông may mắn trốn thoát, một người sinh ra Nguyễn Anh Vũ, một người sinh ra Nguyễn Thị Đào.


Xuất thân cũng như tên gọi của bà Nguyễn Thị Đào hiện chưa thống nhất, có sách viết bà tên là Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Ngọc Huyên; có tài liệu thì nói bà là con, sách khác cho hay bà là cháu của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên phần nhiều giai thoại, dã sử thì nói rằng bà là con của Nguyễn Trãi, sau được vua Lê Thánh Tông đưa vào cung lập làm Trường Lạc hoàng hậu.

Sách Tang thương ngẫu lục và truyền tụng dân gian cho hay khi Nguyễn Trãi bị kết tội, người con gái của ông bị bắt làm nô tỳ, sung vào hàng nữ nhạc. Tuy nhan sắc tuyệt đẹp, tuổi chừng 17, 18 nhưng bị câm, không hát được chỉ ngồi gõ phách. Một lần đội này vào cung trình diễn, Lê Thánh Tông thấy người con gái gõ phách mới hỏi: “Cô gái này sao không hát đi?”. Người con gái bỗng cất tiếng hát với âm điệu du dương, nỉ non: "Hẹn nhau từ thuở Thiên đình/Lòng nào nỡ phụ tâm tình thế ru", khiến mọi người sửng sốt.


Vua thấy vậy, gọi đến gần, trông dung nhan như nàng Ngọc Nữ mà Thái hậu mộng bèn hỏi quê quán, cha mẹ. Người con gái ứa nước mắt kể rằng mình là con gái Tế Văn hầu Nguyễn Trãi, vì nỗi nhà oan ức, luôn kìm giữ trong lòng, nói ra không được, đành phải làm câm cho khỏi chịu thêm oan khổ. Lê Thánh Tông nghe xong rất cảm thương và cho dẫn cô gái đến gặp Thái hậu.


Theo sách Ức Trai tập sự trạng, mẹ Lê Thánh Tông là Quang Thục thái hoàng hậu có lần mơ thấy lên thiên đình, được Thượng đế ban cho một tiên đồng. Tiên đồng xin cho một người vợ, Thượng đế chỉ một ngọc nữ. Sau này bà Quang Thục sinh vua, diện mạo giống như tiên đồng trong mộng. Khi Lê Thánh Tông dẫn cô gái câm đến gặp, Thái hậu thấy nàng giống ngọc nữ lấy làm mừng rỡ, đồng ý cho vua đưa vào cung làm vợ.


Kinh thành Thăng Long cháy lớn, Lê Thần Tông phải đi lánh nạn

Một trong những vụ hỏa hoạn lớn tại kinh thành Thăng Long thời Hậu Lê là vụ cháy xảy ra vào tháng 6 năm Tân Mùi (1631) khiến quần thần phải đưa vua Lê Thần Tông đi ra ngoại thành tránh nạn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, bấy giờ “chúa Trịnh ngồi ngự ở Đông Lâu, sai đào sông cho thuyền đánh nhau và tập bắn thì có lửa cháy từ đầu sông. Lửa cháy lan đến cửa bên trái của Vương phủ, phố phường hai bên và các nhà Triều Nguyên, Triều Đường trong thành Nội. Vua tránh ra nhà Hoa Dương hầu (không rõ tên), bốn ngày sau mới về cung”.


Một người phương Tây khi đó là P. Baldinotti, nhà truyền giáo người Ý đã cho biết cách phòng cháy và việc khôi phục vụ hỏa hoạn đó như sau: “Trong kinh thành có nhiều ao, vũng nước lớn, cho phép người ta có thể dập tắt ngay đám lửa khi nó cháy bén vào các nhà. Có nhiều đám cháy thiêu huỷ 5, 6 nghìn nóc nhà, nhưng chỉ độ 4, 5 ngày sau, người ta dựng lại hoàn toàn những ngôi nhà đó” (Bản tường trình về Đàng Ngoài)

Minh Mạng mong muốn dòng họ Nguyễn làm vua được 500 năm

Năm Qúy Mùi (1828) để phân rõ các chi ngành của dòng họ, tránh xảy ra tranh chấp trong nội bộ hoàng gia, đảm bảo đế nghiệp lâu dài cho con cháu mình, vua Minh Mạng đã làm 11 bài thơ gồm một bài “Đế hệ thi” cho dòng dõi của ông và 10 bài “Phiên hệ thi” cho dòng dõi các em trai của ông. Mỗi bài này gồm 20 chữ có ý nghĩa tốt đẹp dùng làm tên lót cho con trai của một thế hệ, cứ thế cho đến hết 20 chữ trong bài thơ.
Khi ban bố phép đặt tên đặc biệt và độc đáo này, vua đã có lời rằng: “Trẫm không dám so sánh với nhà Chu xưa ở Trung Nguyên, bói năm được 700 năm, bói đời được 30 đời. Nhờ các tiên đế ta tích nhân đức, chính sự ân huệ tốt, họ Nguyễn Phúc mới được cội sâu gốc bền, nghiệp lớn tốt thịnh. Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn, được hưởng 500 năm, tức là hơn 20 đời, không dám mong nhiều hơn”.

Trên thực tế Triều Nguyễn - triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam tồn tại hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua.


Vua Thiệu Trị mở khoa thi võ đầu tiên của triều Nguyễn

Tháng 6 năm Bính Ngọ (1846), khoa thi võ đầu tiên của triều Nguyễn được tổ chức, theo sách “Đại Nam thực lục”, bấy giờ nhân gần đến ngày sát hạch võ nghệ theo thông lệ hàng năm, vua Thiệu Trị đã sai bộ Binh tìm chọn địa điểm thuận tiện để lập trường thi võ và để quân lính ở kinh đô diễn tập cho quân lính các tỉnh đi thi xem cũng như luyện tập để thi. Vua còn chuẩn định thi võ 3 năm một lần gọi là khoa thi Võ kinh.


Trường thi là khoảng đất rộng trong đài Trấn Bình, xung quanh võ trường đều bưng kín bằng phên nứa, 4 góc có điếm canh, đều cắm cờ, ngoài cùng cắm chông tre. Bên trong chia làm 4 khu vực chính gọi là Vi theo thứ tự: Trí, Dũng, Tài, Lực. Trước mỗi Vi có 1 chòi cao 7 thước 2 tấc, có đặt súng bắn, cạnh chòi có bao lan để trông coi, bên dưới dựng nhà tranh cho võ sinh ở.

Phép thi được quy định như sau: Kỳ thứ nhất thi xách tạ nặng gọi là kỳ “Kiền nhất hiệu”, kỳ thứ hai: Múa côn sắt, giáo gọi là kỳ “Khôn lục hiệu”, kỳ thứ ba: thi bắn súng điểu sang, gọi là kỳ “Tôn ngũ hiệu”. Đó là thi Hương võ, còn thi Hội võ cũng giống như vậy nhưng ở cấp độ cao hơn: Thi Hương cử tạ 100 cân ta, thi Hội cử tạ 120 cân ta; thi Hương múa côn sắt 30 cân ta, thi Hội múa côn sắt 50 cân ta.


Võ sinh thể hiện sở trường của mình có thể chọn 1 trong 18 loại binh khí mà thao diễn, trình bày kiến thức lĩnh hội được trong sách “Võ Kinh”, giúp quan Chánh phó chủ khảo dễ định tài hơn kém. Thi Hương bắn 6 phát súng điểu sang thi Hội phải bắn 8 phát.


Kết quả, khoa thi võ đầu tiên của nhà Nguyễn lấy đỗ được 51 người, đây là những Tiến sĩ võ đầu tiên của vương triều này. Đỗ đầu là Phạm Đức Sáng, xếp thứ nhì là Lê Ủy, đứng thứ ba là Trương Tín.



Sưu tầm

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
ó nhiều vị vua nước Việt, chuộng lời nói thẳng, mong muốn sửa mình khi nhận ra những sai lầm, thậm chí thấy cảnh người dân khổ sở vì thiên tai, bệnh dịch mà tự trách tội, nhận lỗi bởi cho rằng mình vẫn chưa làm tròn bổn phận. Trong số đó có Lê Thái Tông, hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Lê.
Giấc mộng trước khi mất của Lý Cao Tông

Lý Cao Tông là vị vua thứ 7 của vương triều Lý, tên thật là Lý Long Trát, lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175) khi đó mới hơn 2 tuổi. Thời gian trực tiếp nắm quyền, Lý Cao Tông chỉ chú ý đến việc du ngoạn, săn bắn và tổ chức các cuộc vui chơi, yến tiệc mà không quan tâm đến triều chính, dân chúng nên khiến nhà Lý dần dần suy yếu.


Ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210) Lý Cao Tông qua đời tại cung Thánh Thọ, ở ngôi 35 năm, thọ 37 tuổi. Sách Đại Việt sử lược cho biết trước khi mất, “vua nằm trên giường bệnh bỗng thấy hai người mặc áo xanh, cầm trượng đứng cạnh. Vua hỏi người cầm trượng là ai. Tả hữu tâu rằng không thấy ai cả. Đêm đó vua mất”.


Lý Cao Tông mất đi để lại một xã hội rối loạn, một vương triều đang trong cảnh lung lay nghiêm trọng khiến cho “phúc nhà Lý ngày một hao mòn, đến nỗi mất nước. Kinh Thi có câu: “Bên trong mê sắc đẹp, bên ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích nhạc, nhà cao tường đẹp, người nào phạm một trong các điều ấy tất phải diệt vong”, mà vua thì phạm đủ các điều ấy, còn làm gì được” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Hồ Hán Thương định phép hạn chế nô tỳ

Thời Trần, việc sử dụng nô tỳ trong các vương phủ, quan tướng, nhà gia thế giàu có rất phổ biến, thậm chí triều đình còn cho phép các thân vương lập đội quân riêng mà lực lượng chủ yếu là nô tỳ của chính những người đó. Sau khi nhà Hồ thành lập đã ban hành nhiều biện pháp cải cách trong đó có chính sách hạn chế số nô tỳ.


Tháng 4 năm Tân Tị (1401) vua Hồ lúc đó là Hồ Hán Thương “lập phép hạn chế gia nô, chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải sung vào nhà nước, mỗi người được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời; gia nô người nước ngoài thì không theo lệ này.

Các gia nô đều thích vào trán để đánh dấu: Gia nô của quan thì thích hình viên ngọc có tia sáng (hỏa châu), có khi lấy bổ sung vào quân điện tiền; gia nô của công chúa thì thích hình cây dương, cây đường; gia nô của đại vương thì thích 2 khuyên đỏ, gia nô của quan nhất phẩm thì thích 1 khuyên đen; của quan nhị phẩm trở xuống thích 2 khuyên đen” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Lê Thái Tông ban chiếu tự trách mình

Có nhiều vị vua nước Việt, chuộng lời nói thẳng, mong muốn sửa mình khi nhận ra những sai lầm, thậm chí thấy cảnh người dân khổ sở vì thiên tai, bệnh dịch mà tự trách tội, nhận lỗi bởi cho rằng mình vẫn chưa làm tròn bổn phận. Trong số đó có Lê Thái Tông, hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Lê.


Ngày 27 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1438) vì có nhiều thiên tai, Lê Thái Tông đã xuống chiếu tự trách tội. Bài chiếu viết:


“Mấy năm nay hạn hán, sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện. Khoảng tháng 4, tháng 5 năm nay, nhiều lần sét đánh vào vườn cây trước cửa Thái miếu ở Lam Kinh. Cứ nghiệm xét việc xảy ra tai họa, nhất định là có duyên do trong đó. Có phải do trẫm không lo sửa đức để mọi việc bê trễ hay là do quan tể phụ bất tài xếp đặt không điều hòa? Hay là dùng người không đúng, để người tốt kẻ xấu lẫn lộn? Hay là hối lộ công khai mà việc hình ngục có nhiều oan trái? Hay là làm nhiều công trình thổ mộc để sức dân mỏi mệt? Hay là thuế khóa nặng nề mà dân túng thiếu?


Trẫm tự trách tội mình, đại xá cho thiên hạ. Tất cả các đại thần, các quan văn võ các ngươi nên chỉ ra những lầm lỗi kể trên, cứ thẳng thắn nói hết, đừng kiêng nể gì. Nếu có điều gì tiếp thu được, nhất định sẽ khen thưởng cất nhắc, dẫu có ngu dần vu khoát, cũng không bắt tội. Ngõ hầu có thể lay chuyển lòng trời, chấm dứt được tai biến, để nước nhà mãi mãi hưởng phúc lớn vô cùng vậy” (Đại Việt sử ký toàn thư).


Tránh nạn “chạy điểm”, Lê Dụ Tông bắt công bố ngay kết quả thi

Thời Lê Trung Hưng, việc học hành và thi cử suy kém, quy chế thi cử càng lỏng lẻo mất kỷ cương dẫn đến phát sinh nhiều tệ nạn trường thi như hỏi bài nhau, mượn người khác vào thi hộ..., thậm chí muốn dự kỳ thi Hương thì chỉ cần dùng tiền chạy chọt là không phải qua sát hạch hoặc bỏ tiền lo lót để qua được việc sát hạch này.


Trước thực trạng này, triều đình nhà Lê đã ban hành nhiều quy định nhằm chấn chỉnh như định lại văn thể thi Hương, quy định cách chấm quyển thi Hội, trách nhiệm khảo hạch học trò...


Một trong số các cách thức nhằm khôi phục trật tự thi cử là việc triều đình Lê Dụ Tông vào tháng 6 năm Ất Dậu (1705) “ra tờ sức răn hiệu quan ở các huyện, khi phúc hạch học trò, hễ người nào thực đỗ thì nên yết bảng ngay, đừng để người ta mơ hồ việc đỗ hay hỏng, đến nỗi đua nhau chạy vạy, cầu cạnh. Làm thế để phép khảo khóa được công minh” (Đại Việt sử ký tục biên).


Lê Hiển Tông bị ép ký vào bản án giết con

Vụ thảm án lớn nhất đời Lê Hiển Tông xảy ra vào tháng 3 năm Kỷ Sửu (1769) xuất phát từ việc ghen tức của chúa Trịnh Sâm với Thái tử Lê Duy Vĩ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết:


“Thái tử lúc còn nhỏ, thông minh, nhanh nhẹn, xem rộng sách Kinh, sách Sử, đối với sĩ phu rất lễ độ; thần dân không ai là không mến yêu thái độ, dung nghi. Trịnh Doanh rất trọng tài của thái tử, nên đem con gái trưởng là Tiên Dung quận chúa gả cho. Thái tử vẫn bực tức về nỗi nhà Lê mất quyền bính, khẳng khái có chí thu nắm lấy quyền cương.

Trịnh Sâm lúc lớn lên làm thế tử, đối với thái tử, hắn vẫn ghen ghét về địa vị tài năng. Một hôm, thái tử và Sâm cùng ở phủ đường được chúa Trịnh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngôi một mâm, lúc ấy vợ Trịnh Doanh là Nguyễn Thị ngăn đi và nói: "Thế tử, với thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi cùng mâm? Nên phân biệt ngồi làm hai chiếu". Sâm giận đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng: "Ta với Duy Vĩ hai người, phải một chết một sống, quyết không song song cùng đứng với nhau được".


Kịp khi Sâm nối ngôi chúa, bàn với hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đĩnh định mưu truất bãi thái tử nhưng không có lẽ gì buộc tội, bèn vu cho thái tử tư thông với người phủ thiếp của Trịnh Doanh, rồi đem tội trạng ấy tâu bày với nhà vua bắt thái tử giam vào ngục”.


Lê Hiển Tông tuy làm vua, không những không cứu được con mà còn bị ép ký vào bản án mà chúa Trịnh đã cho viết sẵn. Lúc đó Phạm Huy Dĩnh theo lệnh của Trịnh Sâm, biết thái tử đang ở hoàng cung liền dẫn quân vào bắt và “nói với vua rằng:


"Thần nghe thái tử ẩn trong điện, xin bắt giao cho thần". Nhà vua ôm thái tử hồi lâu không nỡ buông ra. Đĩnh quỳ mãi dưới sân. Thái tử biết không thoát được, khóc lạy ở trước giường vua rồi ra chịu trói. Đĩnh đưa thái tử về trong phủ Chúa. Sâm sai giam, tra kết thành án, bắt vua ký tên vào, bèn phế thái tử làm dân thường” (Đại Việt sử ký tục biên).


Không lâu sau, thái tử bị Trịnh Sâm giết hại.


Vua Gia Long than thở trước ngọn đèn

Một trong những điều khiến vua Gia Long phải lo tính sau khi lên ngôi, đó là việc chọn người lập làm Thái tử để sau này kế vị ngai vàng nhưng lúc đó triều thần chia làm hai phe, một phe ủng hộ việc lập Nguyễn Phúc Mỹ Đường (tức Hoàng tôn Đán) con của Hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Cảnh (lúc này đã mất); phe còn lại ủng hộ hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm. Sách Quốc sử di biên cho hay: “Vua muốn lập (Phúc Đảm) làm thái tử nhưng các quan bàn tán không nhất. Vua vì thế chần chừ không quyết định được, ngày đêm thường than thở trước ngọn đèn xanh. Chỉ có Qúy Kiệt tán thành việc lập Đảm làm thái tử để ràng buộc lòng người”.


Trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện có đoạn viết: “Trước đây, thấy vua ở ngôi mà tuổi đã cao, các quan liền xin lập ngôi trừ vị, trong số đó có người đề nghị thẳng là nên lập Hoàng tôn Đán nhưng vua không nghe”.


Cuối cùng vua Gia Long quyết định chọn hoàng tử Đảm rồi xuống chiếu lập làm thái tử vào ngày 11 tháng 6 năm Bính Tý (1816) và đổi tên thái tử thành Nguyễn Phúc Hiệu (sau này nối ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng).


Vua Đồng Khánh cho các quan đi giày vào triều

Tưởng rằng các quan văn võ khi vào thiết triều phải mũ áo, cân đai, phẩm phục, đia hia, cầm hốt gọn gàng nhưng ai ngờ tuy quan phục đầy đủ nhưng phần lớn họ vẫn phải đi chân đất. Đến tháng 10 năm Ất Dậu (1885) đời vua Đồng Khánh mới cho phép các quan được đi giày.


Sách Đồng Khánh chính yếu có đoạn chép: “Chuẩn cho các quan văn võ từ ấn quan trở lên được phép đi giày khi thị triều. Theo lệ cũ chỉ các vương công mới được đi giày vào chầu; đến giờ vì giao thiệp nhiều lên, mà quan lại đi chân đất làm việc gây mất thể diện nên mới cho phép như thế”.


Sưu tầm

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Trạng thái
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top