Những Chuyện chưa ai kể về Bác Hồ

Hide Nguyễn

Du mục số
Một lần, trong chuyến đi khảo sát, Bác Hồ ghé qua Định Hoá (Thái Nguyên) thăm hỏi cán bộ, anh em, lúc đó ông Nguyễn Thế Văn được lệnh pha tách cà phê mời Bác.



Ông Nguyễn Thế Văn (người đi sau) đóng giả Bác Hồ trên đường kháng chiến ( Ảnh chụp năm 1950)

Để viết được bài này, trước tiên tôi xin cảm ơn bác Nguyễn Dư (Khâm Thiên-Hà Nội) đã nhiệt tình đưa tôi đến gặp ông Nguyễn Thế Văn, 94 tuổi, người đã đi theo chăm sóc Bác Hồ từ thời kháng chiến cho đến những năm 60 của thế kỷ XX. Đến giờ, hai vợ chồng ông Nguyễn Thế Văn vẫn sống đơn sơ, đạm bạc trong căn hộ 20m2 tại khu tập thể Quảng Bá, Nghi Tàm, Hà Nội.

Những bức ảnh quý hiếm đăng tải trong bài viết này là ảnh độc quyền chưa công bố của ông Nguyễn Thế Văn.

[FONT=arial, helvetica, sans-serif] Bài học lớn từ một tách cà phê[/FONT]

Ông Nguyễn Thế Văn quê ở Thái Bình, có thời được cử đi xây dựng ở an toàn khu cho Trung ương ở Định Hóa (Thái Nguyên). Vì thấy ông tính tình cẩn thận, chu đáo nên cấp trên chuyển ông sang làm người chuyên phụ trách lương thực tiếp tế cho cán bộ. Một lần, trong chuyến đi khảo sát, Bác Hồ có ghé qua Định Hoá thăm hỏi cán bộ, anh em, lúc đó ông Nguyễn Thế Văn được lệnh pha tách cà phê mời Bác.

Trong lúc pha cà phê ông cũng không biết đấy chính là Bác Hồ, khi anh em trong đội nói "Bác Hồ đấy..." ông mới giật mình, xúc động, tay run run pha cà phê mà trong lòng chỉ sợ mình pha ẩu Bác uống không thấy ngon. Nào ngờ, khi ông bưng tách cà phê lên mời Bác, Bác đã ngỏ ý hỏi ông có muốn đi theo Bác không? Còn gì vui hơn thế, về sau ông mới biết Bác rất tinh tường, chỉ cần ngửi mùi cà phê, cách pha và dáng điệu bưng của ông Bác đã biết ông là người cẩn thận, chu đáo và đáng tin cậy. Bắt đầu từ đó, ông là người thân cận duy nhất lo cho Bác từ giấc ngủ đến bữa ăn và theo Bác đi khắp nơi từ các vùng miền trong cả nước đến Trung Quốc, Liên Xô (cũ)...



Ông Nguyễn Thế văn (ngoài cùng bên trái) cùng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phổ biến chủ trương của Bác trước nhân dân ( Ảnh chụp năm 1960)

Từ khi đi theo Bác, ông học được nhiều điều ở Bác, nhất là tinh thần tiết kiệm thì không ai bằng. Song có lẽ, ấn tượng sâu sắc nhất về tính thương người và tiết kiệm của Bác là ở bữa ăn, ông kể: "Mỗi bữa ăn của Bác chỉ có một niêu cơm nhỏ, một đĩa tai hoặc mũi lợn luộc, một chút mắm chua. Khi ăn, bao giờ Bác cũng gắp tai -mũi lợn ra một chiếc đĩa nhỏ rồi lấy chén đậy lại. Sau đó, Bác lấy dao khoanh tròn niêu cơn, lấy cháy ra ăn trước. Ăn xong, Bác bưng xuống bếp đưa cho tôi và anh em cán bộ phục vụ đĩa thịt tai lợn và bảo chỗ này Bác chưa gắp đến, các chú ăn đi. Chúng tôi nhìn nhau rơi nước mắt, chỉ có vài miếng thịt mỏng mà Bác còn phần chúng tôi thì..."

May áo cho... cái quạt

Những dịp theo Bác đi khảo sát tình hình thời sự ở Trung Quốc, ông mới thực sự nhận thấy tính hóm hỉnh của Người. Va li quần áo của Bác chỉ có hai chiếc quần đùi, hai chiếc áo may ô và một bộ trang phục để tiếp khách thế nhưng Bác luôn dặn ông phải hết sức cẩn thận cất giữ chiếc va li như báu vật, nếu đi đâu ra khỏi phòng phải cho vào tủ khoá lại. Thấy ông ngạc nhiên, Bác bảo "Đây là bí mật quốc gia, đừng tiết lộ ra ngoài". Sau này, ông mới hiểu, Bác không muốn người nước ngoài nhìn thấy sự quá giản dị của một vị lãnh tụ.
Khi về nước, Ban chấp hành TW Đảng Trung Quốc có tặng Bác một chiếc quạt điện, Bác không dùng mà bảo ông: "Chú may cho cái quạt này một chiếc áo rồi cất đi, bao giờ dân có Bác mới dùng". Không dám cãi lời Bác, ông cất đi, trong lòng vừa thấy vui vì sự hóm hỉnh của Bác lại vừa thấy xót xa. Trong một lần đi quan sát tại Định Hoá - Thái Nguyên, khi ông đang "ngộp thở" trước tiếng reo hò của bà con trong xã thì thấy Bác chỉ tay lên khẩu hiệu bên trên và nói: "Này chú ơi, cái xã này giỏi lắm nhé, thấy Bác đến liền giăng ngay khẩu hiệu Hồ Chủ Tịch muốn nằm". Ông nhìn theo tay Bác chỉ và chợt bật cười, thay cho "Hồ Chủ Tịch muôn năm" là "Hồ Chủ tịch muốn nằm". Sau đấy, Bác nhắc nhở anh chị em phải chịu khó rèn rũa, học câu chữ cho chính xác, tránh những trường hợp sai sót đáng cười.

"Tiết kiệm tiền cho nhân dân Liên Xô"




Bác Hồ cùng phái đoàn chính phủ thăm Liên Xô ( Ảnh chụp năm 1955)

Năm 1955, Hồ Chủ Tịch cùng phái đoàn Việt Nam đi cám ơn các nước XHCN trong đó có Liên Xô, tại đây họ đã tiếp đón Hồ Chủ Tịch theo đúng tiêu chuẩn một vị lãnh tụ, nhưng chính điều đó lại làm cho Bác rất phiền lòng. Hàng ngày, Mỗi bữa ăn là một bàn tiệc. Hai lần Bác bảo ông Văn nhắc họ đừng làm như thế nữa nhưng phía bạn vẫn cứ theo lễ tiếp đón nguyên thủ quốc gia. Lần thứ ba, Bác mời tất cả những cán bộ trong nhà khách cùng bảo vệ vào ăn, khi ăn xong Bác mới mời người quản lý ra và bảo:"Đấy chú xem, cả chục người ăn còn không hết huống hồ chúng tôi chỉ có hai người. Lần sau, chú đừng làm như thế nữa, đây là tôi tiết kiệm tiền cho nhân dân Liên Xô". Về sau, trước khi đến bữa ăn, người phụ trách lại ra hỏi Bác xem hôm nay Người muốn ăn gì? Còn ông Văn lại có thêm một cơ hội để học hỏi đức tính của Người.

Giờ đây, khi đã ở tuổi 94, râu và tóc bạc phơ nhưng trông ông Văn vẫn nhanh nhẹn, hoạt bát, nhất là khi được hỏi về Người ông phấn chấn hẳn. Ông nói: "Tôi được như thế này là nhờ những năm tháng sống cận kề bên Bác". Có lẽ vậy mà giờ đây cuộc sống của hai vợ chồng ông đơn sơ, đạm bạc? Đồ đạc trong nhà không có gì đáng giá ngoài những bức ảnh chụp ông hồi trẻ bên cạnh Bác Hồ và nhưng tấm huân, huy chương ông treo khắp nhà. Khi tôi hỏi ông có mong muốn điều gì không trong suốt những năm tháng ông đi theo Người? Ông cười, nụ cười thật hiền hậu: "Sống được là tốt rồi" và như muốn chứng minh cho điều mình vừa nói, ông nhắc lại cho tôi nghe câu nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh mà ông luôn khắc sâu trong lòng: "Chú ạ, ở đời ai cũng có công nhưng không nên kể, kể ra là công không thật, nên bỏ chữ kể đi".

  • Trần Mạnh Hào
Việt Báo (Theo_VietNamNet)
 
1.Câu chuyện về ba chiếc ba lô

Trong những ngày sống ở Việt Bắc, mỗi lần Bác đi công tác, có hai đồng chí đi cùng. Vì sợ Bác mệt, nên hai đồng chí định mang hộ ba lô cho Bác, nhưng Bác nói:

- Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít.

Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba-lô rồi, Bác còn hỏi thêm:

- Các chú đã chia đều rồi chứ?

Hai đồng chí trả lời:

- Thưa Bác, rồi ạ.

Ba người lên đường, qua một chặng, mọi người dừng chân, Bác đến chỗ đồng chí bên cạnh, xách chiếc ba lô lên.
- Tại sao ba lô của chú nặng mà Bác lại nhẹ?

Sau đó, Bác mở cả 3 chiếc ba lô ra xem thì thấy ba lô của Bác nhẹ nhất, chỉ có chăn, màn. Bác không đồng ý và nói:

- Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.

Hai đồng chí kia lại phải san đều các thứ vào 3 chiếc ba lô.


2. Không Ai được vào đây


Sách “Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử”, tập 10, do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996, trang 334, có đoạn:

“Ngày 27 tháng 4 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe hai đồng chí: Lê Đức Anh và Chu Huy Mân báo cáo công việc, sau đó Người mời hai đồng chí ở lại ăn cơm với Người”.

Sáng hôm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi bỏ phiếu bầu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã… Người bỏ phiếu tại hòm phiếu số 6, đơn vị 1, tiểu khu 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đặt tại Nhà thuyền Hồ Tây.

Khi Bác Hồ đến, trong Nhà thuyền đã có nhiều cử tri đang bỏ phiếu. Tổ bầu cử thấy Bác đến, ra hiệu để đồng bào tạm dừng và tạo “điều kiện” để Bác bỏ phiếu trước. Biết ý, Bác nói “sòng phẳng”:

- Ai đến trước, viết trước, Bác đến sau, Bác chờ. Bác chờ cho đến hàng mình, mới nhận phiếu và vào “buồng” phiếu.

Nhà báo Ma Cường chợt nghĩ thật là “hạnh phúc một đời của người làm báo”, “cơ hội ngàn năm có một” và vội giơ máy lên bấm, rất nhanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tay che phiếu lại, nói với Ma Cường:

- Không ai được vào đây. Đây là phòng viết phiếu kín của cử tri. Phải bảo đảm tự do và bí mật cho công dân.

Nhà báo buông máy, nhưng vẫn thấy hạnh phúc.

Theo lời kể của các đồng chí ở gần Bác, trước khi đi bầu cử Bác không cho ai “gợi ý” cả, Bác nói:

- Ấy, đừng có “lãnh đạo” Bác nhé. Bác không biết đảng uỷ hướng dẫn danh sách để ai, xoá ai đâu nhé. Đưa lý lịch của những người ứng cử đây để Bác xem. Có chú nào dự buổi ứng cử viên trình bày ý kiến với cử tri, nói lại để Bác cân nhắc, Bác tự bầu.



3. Bát chè sẻ đôi



Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một thìa con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, mà anh em phục vụ vừa mang lên, xẻ một nửa cho đồng chí liên lạc.

- Cháu ăn đi!

Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:

- Ăn đi, Bác cùng ăn...

Cám ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về. Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng bấm vào vai anh lính thông tin:

- Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất một nửa.

- Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa rớt nước mắt, nhưng không ăn lại sợ Bác không vui, mà ăn thì biết cái chắc là các anh mắng mỏ rồi…



4. Một Bữa Ăn Tối Của bác




Tháng 4 năm 1946, giữa lúc đất nước đang bề bộn công việc, thì Bác vẫn dành nh÷ng th× giờ quý b¸u về Ninh B×nh dàn xếp nh÷ng vấn đề đối nội, đối ngoại có lợi cho quốc gia. Vào khoảng ngày 10 đến 12, Bác đi qua thị xã Ninh Bình để xuống Phát Diệm. Lúc đó tôi là quyền Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh. Một dịp may hiếm có được đón Bác về tỉnh, nghĩ vậy, tôi mời đồng chí Uỷ viên thư ký kiêm Phó Chủ tịch và Ch¸nh V¨n phòng đến hội ý. Hai đồng chí cũng cùng chung một ý nghĩ như tôi.

Tôi phân công đồng chí Phó Chủ tịch huy động nhân dân ra tập trung đón Bác, đồng chí Chánh Văn phòng chuẩn bị cơm mời Bác, còn tôi phụ trách việc dọn dẹp văn phòng, chuẩn bị chỗ nghỉ và chỗ ngủ cho Bác qua đêm.

Quả như tôi dự đoán, sáu giờ chiều thì xe Bác về đến phía nam thị xã Ninh Bình. Nhân dân đã vẫy cờ, hô khẩu hiệu rồi ùa xuống lòng đường đón Bác. Bác ra khỏi xe vẫy chào nhân dân. Nhân lúc đó chúng tôi mời Bác vào trụ sở Uỷ ban hành chính tỉnh.

Trước sự nhiệt tình của nhân dân thị xã, không nỡ từ chối, Bác đã vào gặp Uỷ ban hành chính tỉnh Ninh Bình.

Đến cổng cơ quan, Bác bảo đồng chí lái xe dừng lại rồi xuống đi bộ. Vừa đi Bác vừa hỏi tình hình đời sống của nhân dân, đặc biệt đồng bào ở vùng công giáo. Chúng tôi báo cáo với Bác về nh÷ng khó khăn trong tỉnh, một số nơi nông dân còn bị đói.

Bác căn dặn chúng tôi phải chú ý đoàn kết lương giáo, động viên bà con tích cực tăng gia sản xuất để chống đói, chú ý công tác diệt giặc dốt, mở nhiều lớp bình dân học vụ vào buổi trưa, buổi tối, vận động bà con đi học.

Chúng tôi mời Bác nghỉ lại cơ quan cho đỡ mệt rồi dùng bữa tối. Thực ra bữa cơm chúng tôi chuẩn bị cho Bác không có gì ngoài một con gà giò luộc, nước dấm nấu bí đao, vì lúc đó kinh phí của Uỷ ban hành chính tỉnh cũng hết sức khó khăn.

Bác nói:

- Hàng ngàn đồng bào đang chờ Bác ngoài kia, Bác không thể nghỉ ở đây đÓ ăn cơm được vì 9 giờ tối Bác đã có việc ở Chủ tịch phủ. Bây giờ các chú giúp Bác: một chú ra tập hợp đồng bào vào một ngã tư rộng gần đây để Bác ra nói chuyện với đồng bào mươi phút, một chú ra cửa hàng bánh mua cho Bác một cặp bánh giò. Còn các chú đi với Bác thì tranh thủ ăn cơm trước. Nói chuyện xong, Bác ngược Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trong xe Bác sẽ ăn bánh vừa đỡ tốn kém, vừa tiết kiệm được thời gian cho Bác.

Chúng tôi vâng lời Bác làm theo.

Nói chuyện với đồng bào Ninh B×nh hôm đó, Bác nhấn mạnh:

- Đồng bào chú ý đoàn kết lương giáo vì âm mưu của kẻ thù luôn tìm cách chia rẽ đồng bào lương giáo.

- Đồng bào tích cực tăng gia sản xuất chống giặc đói, chống giặc dốt.

- Đồng bào chuẩn bị tinh thần chịu đựng gian khổ để chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.

Kết thúc, Bác hỏi:

- Đồng bào có đồng ý thực hiện ba điều tôi nêu ra không?

- Đồng ý! Đồng ý! Hồ Chủ tịch muôn năm.

Hàng ngàn nắm tay gân guốc giơ lên hưởng ứng. Tiếng hô và tiếng vỗ tay râm ran.

Bác vẫy tay chào đồng bào rồi lên xe về Hà Nội. Xe đi được một quãng Bác mới bắt đầu dùng “bữa ăn tối” của mình.


5. Thời Gian Quý Báu



Sinh thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? Kể cũng hơi khó trả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “tự bạch” và kín đáo, ý nhị vốn là một đặc điểm của lối ứng xử phương Đông.

Tuy nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh hoạt đời thường, điều ta có thể thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” là các thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân.

Ở một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện tiếp xúc và làm việc với Bác Hồ, điều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm việc không đúng giờ.

Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V Trường huấn luyện cán bộ ViÖt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.
Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:

- Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao nhiêu?. Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động.

Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. Bác hỏi:

- Chú đến chậm mấy phút?

- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!

- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.

Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu, vì vậy thường không bao giờ để bất cứ ai phải đợi mình.
Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi hộp chờ đợi.

Bỗng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa, tiếc rẻ: mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá.

Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:

- Bác đến rồi, anh em ơi! Bác đến rồi!

Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần sắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.

Về sau, anh em được biết: giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác...

Nhưng Bác không đồng ý: “Đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết đến khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cho cả lớp học phải chờ uổng công!”.

Ba năm sau, giữa thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào dịp tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô tập trung tại Uỷ ban Hành chính thành phố để lên chúc tết Bác Hồ. Sắp đến giờ lên đường, trời bỗng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn đi để Bác khỏi phải chờ lâu thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.

Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc tết các đại biểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”.


6. Chú Còn Trẻ Chú Vào Hầm Trước Đi



Một ngày tháng 7 năm 1967 ở Hà Nội, đồng chí Mai Văn Bộ được Bác Hồ gọi đến mời cơm tiễn chân trước khi đồng chí lên đường đi Paris nhận nhiệm vụ Tổng đại diện Chính phủ ta bên cạnh Chính phủ Pháp.

Trong bữa cơm, Bác kể chuyện về khu Luýc-xăm-bua, Mông-pac-nát, nơi Bác có nhiều kỷ niệm. Bác nói Bác rất yêu Paris, Paris đã dạy cho Người nhiều điều...

Bỗng tiếng còi báo động rú lên. Một chiến sĩ bảo vệ yêu cầu Bác và các đồng chí khác xuống hầm. Ít phút sau đã nghe tiếng đạn nổ.

- Thưa Bác, tác chiến báo cáo chúng nó đánh cầu Long Biên. Mời Bác vào hầm trú ngay cho.

Bác quay lại Đồng chí Bộ, nói:

- Bác già rồi, chẳng bom đế quốc nào ném đâu. Chú còn trẻ, chú cần vào hầm trú ẩn trước.

Rồi Bác đẩy đồng chí Bộ đi trước, sau đó đến đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí cảnh vệ.

Bác là người vào hầm trú ẩn sau cùng.
 
[FONT=&quot] 7. [/FONT] Bác có phải là vua đâu

[FONT=&quot]Có một số người có ngôi cao, chức cả, sống trong sự trọng vọng, chiều chuộng của mọi người, thường xuyên được hưởng sự ưu đãi đặc biệt, lâu dần cũng quen đi mà không hề biết rằng mình đã nhiễm phải thói đặc quyền, đặc lợi.

[/FONT] [FONT=&quot]Suốt đời tâm niệm là người công bộc của nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, Bác Hồ của chúng ta luôn luôn hoà mình vào cuộc sống chung của đồng bào, đồng chí, không nhận bất cứ một sự ưu tiên nào người khác dành cho mình.

[/FONT] [FONT=&quot]Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhiều nhân sĩ, trí thức cao tuổi theo Bác lên Việt Bắc, đi kháng chiến, đèo cao, suối sâu, đường bùn lầy, nhiều vị phải nằm cáng. Anh em phục vụ lo Bác mệt cũng đề nghị Bác lên cáng, Bác gạt đi: Bác còn khoẻ, còn đi được, các chú có nhiệm vụ đưa Bác đi như thế này là tốt rồi.

[/FONT] [FONT=&quot]Cuối năm 1961, Bác về thăm xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, một xã có phong trào trồng cây tốt. Tại một ngọn đồi thấp, Bác đứng nói chuyện với nhân dân trong xã. Trời đã gần trưa, tuy đã sang đông mà nắng còn gay gắt. Nhìn Bác đứng giữa nắng trưa, ai cũng băn khoăn. Đồng chí chủ tịch huyện cho tìm mượn được chiếc ô, định giương lên che nắng cho Bác, thì Bác quay lại hỏi:[/FONT]
[FONT=&quot]- Thế chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào không? Thôi, cất đi, Bác có phải là vua đâu?

[/FONT] [FONT=&quot]Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông quý hiếm thường chỉ có ở khúc [/FONT]sông hồng đoạn [FONT=&quot]Bạch Hạc - Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:

[/FONT] [FONT=&quot]- Cá ngon quá, thế mà chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức.

[/FONT] [FONT=&quot]Miếng ngon không bao giờ Bác chịu ăn một mình. Chia sẻ ngọt bùi là thế, tưởng chuyện cũng sẽ qua đi. Nhưng đến bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ra không bằng lòng.

[/FONT] [FONT=&quot]- Bác có phải là vua đâu mà phải cung với tiến!

[/FONT] [FONT=&quot]Rồi Người kiên quyết bắt mang đi không ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.

[/FONT] [FONT=&quot]Những anh em công tác trong Phủ Chủ tịch hàng ngày vẫn thường đi lại bằng xe đạp, thỉnh thoảng có gặp Bác đi bộ. Nhìn thấy Bác, mọi người đều xuống dắt xe ch[/FONT]ê[FONT=&quot] Bác đi qua rồi mới lên xe đi tiếp. Thấy vậy, Bác thường khoát tay ra hiệu bảo anh em cứ đi tiếp, không cần xuống xe. Nhưng ai có thể cho phép mình ngồi trên xe khi Bác đi bộ. Một lần, Bác gọi đồng chí vừa xuống dắt xe lại gần và bảo:[/FONT]
[FONT=&quot]- Các chú có công việc của mình nên cứ tiếp tục đạp xe mà đi. Bác đâu có phải là cái đền có biển “hạ mã” ở trước để ai đi qua cũng phải xuống xe, xuống ngựa?

[/FONT] [FONT=&quot]Lão Tử có nói: “Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên mới được trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên trước, đặt thân mình ở ngoài mà lại còn”. Bác Hồ sống quên mình, không nghĩ đến mình mà lại trở thành sống mãi. Lời Lão Tử thật sâu sắc lắm thay!


[/FONT]
8. Từ Đôi Dép Đến Chiếc Ô tô


[FONT=&quot]Đôi dép của Bác ''ra đời'' vào năm 1947, được ''chế tạo'' từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc.

[/FONT] [FONT=&quot]Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.

[/FONT] [FONT=&quot]Trên đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng:

[/FONT] [FONT=&quot]- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa… Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.

[/FONT] [FONT=&quot]Chẳng những khi ''hành quân'' mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm chân, tiếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy.

[/FONT] [FONT=&quot]Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…

[/FONT] [FONT=&quot]Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các đồng chí cảnh vệ cũng đã đôi ba lần ''xin'' Bác Đôi Dép[/FONT][FONT=&quot] nhưng Bác bảo ''vẫn còn đi được''.[/FONT]
[FONT=&quot]Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới…[/FONT]
[FONT=&quot]Máy bay hạ cánh xuống Niu Đê-li. Bác tìm dép. Anh em thưa:

[/FONT] [FONT=&quot]- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi… Thưa Bác….

[/FONT] [FONT=&quot]Bác ôn tồn nói:

[/FONT] [FONT=&quot]- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự…

[/FONT] [FONT=&quot]Thế là các ông "tham mưu con" phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi…

[/FONT] [FONT=&quot]Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, chụp ảnh lại rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm anh em cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ "đôi hài thần kỳ" ấy.

[/FONT] [FONT=&quot]Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép "thâm niên ấy". Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác, Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:

[/FONT] [FONT=&quot]- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…

[/FONT] [FONT=&quot]Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:

[/FONT] [FONT=&quot]- Thưa Bác, cháu, để cháu sửa…

[/FONT] [FONT=&quot]- Thưa Bác, cháu, cháu có "rút dép" đây…

[/FONT] [FONT=&quot]Nhao nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh rồi; có "rút" cũng vô ích…[/FONT]
[FONT=&quot]Bác cười nói:

[/FONT] [FONT=&quot]- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ!

[/FONT] [FONT=&quot]Bác "lẹp xẹp" lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra, "thách thức":

[/FONT] [FONT=&quot]- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác…

[/FONT] [FONT=&quot]Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, "vượt vây" chạy biến…

[/FONT] [FONT=&quot]Bác phải giục:

[/FONT] [FONT=&quot]- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:

[/FONT] [FONT=&quot]- Tôi, để tôi sửa dép…

[/FONT] [FONT=&quot]Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.

[/FONT] [FONT=&quot]Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:

[/FONT] [FONT=&quot]- Tại dép của Bác cũ quá, Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ…

[/FONT] [FONT=&quot]Bác nhìn các chiến sĩ nói:

[/FONT] [FONT=&quot]- Các cháu nói đúng… nhưng chỉ có đúng một phần… Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn ''thọ'' lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên… Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo…

[/FONT] [FONT=&quot]Đôi dép cá nhân đã vậy, còn ''đôi dép'' ô tô của Bác cũng thế!

[/FONT] [FONT=&quot]Chiếc xe ''Pa -biết -đa'' sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã cũ, Văn phòng xin ''đổi'' xe khác, ''đời mới'' hơn, tốt hơn, nhưng Bác không chịu:

[/FONT] [FONT=&quot]- Xe của Bác hỏng rồi à?

[/FONT] [FONT=&quot]Anh em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi nhanh hơn, êm hơn.

[/FONT] [FONT=&quot]Bác nói:

[/FONT] [FONT=&quot]- Ai thích nhanh, thích êm thì đổi…

[/FONT] [FONT=&quot]Hôm sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay ''ai'' xui mà Bác đứng đợi bên xe mà xe cứ ''ì'' ra. Bác cười bảo đồng chí lái xe:

[/FONT] [FONT=&quot]- Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác cháu ta đi cũng kịp…

[/FONT] [FONT=&quot]Vài phút sau, xe nổ máy..

[/FONT] [FONT=&quot]Bác lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ:

[/FONT] [FONT=&quot]- Thế là xe vẫn còn tốt![/FONT]
 
Ngày 15-10-1954, sau khi quân ta tiến vào thủ đô được năm ngày, Bác bí mật vào Hà Nội và tạm dừng chân ở nhà thương Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Trung ương quân đội 108). Lúc này việc chọn cho Bác một chỗ ở riêng được các đồng chí lãnh đạo đặt ra và trao đổi nhiều lần.

nha.bmp



Nhưng các biệt thự đẹp, sang trọng ở dọc các phố Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Nguyễn Gia Thiều, Lý Nam Đế... lần lượt có chủ mới. Đó là những cán bộ cấp cao từ chiến khu mới về.

Chọn chỗ của người thợ điện

Trong những ngày ở nhà thương Đồn Thủy, nghe báo cáo về một số dư luận không hay lắm về việc nhà cửa có liên quan đến một vài cán bộ cấp cao, Bác tâm sự với một đồng chí bên cạnh: "Người ta ai cũng muốn có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn, ăn mặc sung sướng nhưng những cái đó dù sao cũng chỉ là nhất thời, còn tiếng xấu thì còn lại muôn đời, lưu truyền mãi mãi...".

Cuối cùng, Bộ Chính trị cũng quyết định đưa Bác về ở và làm việc tại dinh toàn quyền cũ, ngôi nhà to đẹp nhất nước lúc bấy giờ.

Ngày 15-12-1954, nhân đến thăm bộ đội diễn tập duyệt binh để chuẩn bị tham gia đón Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ đô, Bác cùng các đồng chí giúp việc ghé vào thăm nhà mới được phân. Ai cũng nghĩ ngôi nhà này thật sự xứng đáng với Bác. Nhưng một bất ngờ đã xảy ra. Sau khi xem xét cả trong lẫn ngoài, Bác nói với các đồng chí đi cùng: "Ngôi nhà rất đẹp, không thua kém những công trình đẹp nhất ở thủ đô Paris. Các chú cần có kế hoạch quét dọn, sửa chữa để dùng vào việc khác, ví dụ như làm nơi vui chơi cho các cháu thiếu nhi chẳng hạn, còn Bác thì dứt khoát không ở đây".

Sau khi xem xét một số ngôi nhà ở khu vực xung quanh, Bác quyết định chọn chỗ ở cho mình là ngôi nhà cấp bốn của người thợ điện.

Ngày 19-12-1954, nhân kỷ niệm tám năm ngày Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc, từ nhà thương Đồn Thủy Bác dọn đến nơi mới. Đây là căn nhà mái bằng cách nhà sàn hiện nay khoảng 100m. Nó đã bỏ không khá lâu, hình như là từ sau Hiệp định Genève được ký kết, trong đó có qui định quân Pháp phải rút khỏi Hà Nội sau ba tháng. Do đó mà quanh nhà và lối đi cây và cỏ dại đã mọc đầy.

Bộ phận văn phòng khẩn trương dọn dẹp, làm vệ sinh, nặng nhất là phải cùng nhau khiêng cái máy nổ đang nằm chềnh ềnh chính giữa nhà, dầu mỡ chảy lênh láng, đen kịt, bốc mùi rất khó chịu. Anh em bảo vệ, công vụ, văn phòng nhìn nhau ngao ngán. Bác nhìn thấy nỗi thất vọng của mọi người liền vui vẻ động viên: "Các chú chỉ cần hăng hái làm "cách mạng" trong một ngày là cải tạo xong thôi. Chúng ta sẽ có một chỗ ở đàng hoàng gấp trăm ngàn lần cán bộ và nhân dân hiện nay đang ở".

Chỉ một thời gian ngắn, cảnh vật xung quanh ngôi nhà đã thay đổi hẳn. Con đường vào nhà được rải sỏi. Bác cho trồng hai hàng dâm bụt hai bên đường. Tuy nhiên, do nhà đổ mái bằng nên mùa hè rất nóng, còn mùa đông thì lạnh giá, ánh sáng mặt trời không đủ cho Bác làm việc. Khoảng hơn 3g chiều đã phải thắp đèn. Các đồng chí lãnh đạo mỗi lần đến làm việc rất băn khoăn về nơi ở và làm việc của Bác, nhiều lần đề nghị Bác chuyển nơi khác nhưng Bác vẫn giữ ý kiến của mình. Bác nói với các đồng chí phục vụ: "Hãy nhìn nhân dân sống như thế nào để mà sống cho phù hợp. Sống phù hợp với nhân dân mới hiểu được nhân dân".

Không làm quá to, không dùng gỗ tốt

Bác thỉnh thoảng có đến thăm vài gia đình cán bộ ở những khu biệt thự to trên dưới mười phòng, trang hoàng lộng lẫy như vua chúa ngày xưa, bóng điện từ ngoài cổng cho đến trong nhà có đến vài chục ngọn. Mỗi lần đến thăm như thế, lúc ra về Bác tự nói với mình và cũng muốn cho các đồng chí phục vụ ngồi bên nghe thấy: "Trong lúc nhân dân, cán bộ còn rất nghèo khổ, khó khăn, có gia đình hàng chục nhân khẩu chen chúc trong một căn hộ hơn chục mét vuông mà họ sống trong những biệt thự như vậy mà vẫn phởn phơ, vô cảm. Thật không chịu nổi". Có lần đến thăm như thế, khi ra cửa Bác hỏi chủ nhà: "Nhà nhiều bóng đèn như thế này có hôm nào quên tắt không?".

Sau hơn bốn năm sống và làm việc ở ngôi nhà người thợ điện, sau này là "nhà 54", ngày 18-5-1958 Bác chuyển sang ở ngôi nhà sàn, cũng ở ngay trong khuôn viên Phủ chủ tịch.

Thời gian thi công nhà sàn là thời gian Bác đi công tác nước ngoài trong vòng một tháng. Trước khi đi Bác cho gọi kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đến căn dặn là phải tiết kiệm, không làm quá to, không dùng gỗ tốt. Tầng dưới nhà sàn sẽ là nơi dùng để họp Bộ Chính trị và tiếp khách quí. Xung quanh làm một hàng ghế ximăng sát tường để dành cho các cháu thiếu nhi mỗi lần Bác mời vào vui chơi với Bác.

Ngôi nhà có hai tầng. Từ tầng một lên tầng hai bằng chiếc cầu thang gỗ 14 bậc. Tầng hai được ngăn làm hai phòng, mỗi phòng khoảng 9m2, một phòng làm việc, một phòng ngủ. Trong phòng làm việc có 1 bàn, 1 ghế và 1 giá sách sát tường chia làm nhiều ô để đựng tài liệu và sách báo. Phòng ngủ có một chiếc giường rộng 1,2m. Bốn góc giường cắm bốn cọc gỗ để mắc màn. Phía đầu giường có hai chiếc gối, một để gối ngủ, còn một để chồng lên gối ngủ cho đầu cao lên mỗi khi Bác đọc sách. Bên cạnh gối là chiếc quạt lá cọ. Bác bảo là để dự phòng khi mất điện hoặc khi đi ra ngoài. Hơn nữa, Bác nói thỉnh thoảng cũng cần phải cho quạt điện nghỉ để dùng được lâu.

Ngôi nhà sàn của Bác đã trở thành một di tích lịch sử quí hiếm, một tài sản tinh thần vô giá đối với các thế hệ mai sau. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: "Cái nhà sàn của Bác vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng và trong lúc tâm hồn của Bác lộng gió thời đại thì cái nhà nhỏ đó luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn. Một đời sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao".
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top