Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Giáo Án, Tài liệu GV
Chuyện Nghề Giáo
Những chú ý khi dạy bài Tác phẩm văn chương
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 15894" data-attributes="member: 699"><p><strong><u>3. Dạy bài lý luận văn học</u></strong></p><p><strong><u></u></strong></p><p><strong>A. Ðặc điểm kiểu bài: </strong></p><p></p><p>- Nếu như bài văn học sử là sự tổng kết những một thời kỳ, giai đoạn văn học, tổng kết sự nghiệp sáng tác của một tác gia hoặc giới thiệu một tác phẩm thì bài lý luận văn học lại là những nguyên lý, quy luật, đặc điểm được rút ra từ các hiện tượng văn học. Do đó, kiến thức trong bài lý luận văn học có những đặc điểm sau: </p><p></p><p>+ Tính khái quát.</p><p> </p><p>+ Tính trừu tượng. </p><p></p><p>+ Tính tổng hợp. </p><p></p><p>- Do vậy, bài lý luận văn học cũng như bài văn học sử thường khó dạy, khó học. Những đặc diểm trên quy định cách thức giảng dạy lý luận văn học. </p><p></p><p><strong>B. Phương hướng giảng dạy: </strong></p><p><strong></strong></p><p>- Do các bài lý luận văn học được xếp vào cuối chương trình, khi học sinh đã học xong các tác giả, tác phẩm cụ thể cho nên phương pháp dạy lý luận văn học là thông qua các tác giả, tác phẩm cụ thể, thông qua lịch sử văn học giúp học sinh hình thành những khái niệm lý luận. Tức là từ kiến thức cụ thể đi đến hình thành kiến thức khái quát, trừu tượng. </p><p></p><p>Ví dụ: Ðể giúp học sinh nhận biết đặc điểm của truyện (Bài Ðặc điểm của truyện - chương trình lớp 10), giáo viên có thể nêu một tác phẩm truyện học sinh đã học (Truyện Kiều chẳng hạn) yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi: Câu chuyện viết về ai, câu chuyện xảy ra như thế nào? Xảy ra ở đâu? Xảy ra khi nào?. Từ câu trả lời của học sinh, giáo viên có thể tiếp tục khơi gợi: Vậy theo em truyện là gì? Truyện khác thơ ở những điểm nào? </p><p></p><p>- Tận dụng vốn hiểu biết văn học mà học sinh đã có làm cơ sở cho việc hình thành khái niệm. Trong quá trình học tập, học sinh đã ít nhiều hiểu các khái niệm lý luận cơ bản, tuy chưa đầy đủ như: tác phẩm văn học, hình tượng, chủ đề.... Giáo viên phải biết khơi dậy, đánh thức vốn kiến thức tiềm ẩn của các em, từ đó bổ sung, hình thành kiến thức mới. Do vậy, nên sử dụng hình thức diễn giảng quy nạp và đàm thoại. </p><p></p><p>Ví dụ: Ðể giúp học sinh hiểu thế nào là tác phẩm truyền miệng và tác phẩm viết, giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể tên một vài tác phẩm văn học dân gian đã học sau đó trả lời câu hỏi: Tác giả của những tác phẩm văn học dân gian đó là ai, Những tác phẩm văn học dân gian được lưu truyền đến đời nay bằng cách nào?. Từ đó, giáo viên giúp học sinh hiểu thế nào là tác phẩm truyền miệng. </p><p></p><p>- Biểu bảng, sơ đồ là một trong những phương pháp phù hợp cho việc dạy lý luận văn học, đặc biệt là với loại bài tổng kết. Nhìn vào biểu bảng, sơ đồ học sinh sẽ có sự so sánh, nhận biết đặc điểm riêng của từng loại khái niệm và sẽ củng cố lại kiến thức đã học. </p><p></p><p>Ví dụ: Bảng tổng kết đặc điểm của các thể loại: tự sự, trữ tình, kịch: </p><p></p><p>Ðặc điểm của truyện ---------- Ðặc điểm của thơ ---------- Ðặc điểm của kịch </p><p></p><p>...................... ........................ .................... </p><p>........................ ..................... ................... </p><p>..................... ....................... ..................... </p><p></p><p></p><p>- Xây dựng mô hình nhận dạng (đây là biến thái của hình thức quy nạp). Nội dung của mô hình này là: nêu những hiện tượng cụ thể, yêu cầu học sinh phân loại đúng, sai, giúp học sinh nhận biết khái niệm từ những vấn đề cụ thể, từ đó hình thành khái niệm. Ðặc điểm của bảng câu hỏi này là có sự pha trộn giữa các thông tin đúng và sai. </p><p></p><p>Ví dụ: Khái niệm truyện có thể được dạy như sau: </p><p></p><p>- Hoạt động 1: phát bản photo cho học sinh, yêu cầu học sinh đánh dấu: Ðúng hoặc Sai. Nội dung bản photo là nêu các hiện tượng cụ thể về truyện học sinh đã biết. Sau đó, học sinh phải dùng phép loại suy, loại bỏ câu sai, chọn câu đúng. </p><p></p><p> A. Truyện Ðúng - Sai. </p><p> 1. Kể về một nhân vật, một sự việc nào đó. </p><p> 2. Nhân vật không có tên. </p><p> 3. Tính cách nhân vật không được chú ý miêu tả. </p><p> 4. Tâm lý nhân vật hiện lên rõ nét. </p><p> 5. Có thể xác định được hoàn cảnh xảy ra câu chuyện </p><p> (xảy ra khi nào, ở đâu). </p><p> 6. Không thể kể lại câu chuyện. </p><p> 7. Ngôn từ có nhạc điệu, có vần. </p><p> 8. Truyện thường ngắn, dễ thuộc. </p><p> </p><p> B. Thế nào là truyện? </p><p>............................................................................................................ </p><p> </p><p>- Hoạt động 2: Dựa trên bản trả lời, học sinh tự rút ra khái niệm như thế nào là truyện </p><p></p><p>- Hoạt động 3: Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu định nghĩa của mình, sau đó, giáo viên bổ sung một số ý cần thiết. </p><p></p><p>(Bảng câu hỏi trên có thể được phát cho từng học sinh hoặc một nhóm khoảng 4 - 5 học sinh để các em thảo luận). </p><p></p><p>- Chú ý là trong khi một khái niệm đối với giáo viên là điểm xuất phát của hoạt động dạy học thì đối với học sinh lại là điểm kết thúc của quá trình học tập. Quá trình học tập đi từ cụ thể đến trừu tượng và quay vòng lại. Học sinh sẽ hiểu, nhớ lâu khái niệm nếu bản thân học sinh trải qua quá trình tìm tòi, quan sát từ đó hình thành khái niệm và nếu khái niệm được cụ thể hóa bằng những dẫn chứng, minh họa, ví dụ cụ thể lấy từ cuộc sống hàng ngày. Khi ấy, trong trí nhớ của học sinh, khái niệm trở thành khái niệm sống, không còn là là khái niệm chết, khái niệm trừu tượng trên trang sách. </p><p></p><p>( Sưu tầm )</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 15894, member: 699"] [B][U]3. Dạy bài lý luận văn học [/U][/B] [B]A. Ðặc điểm kiểu bài: [/B] - Nếu như bài văn học sử là sự tổng kết những một thời kỳ, giai đoạn văn học, tổng kết sự nghiệp sáng tác của một tác gia hoặc giới thiệu một tác phẩm thì bài lý luận văn học lại là những nguyên lý, quy luật, đặc điểm được rút ra từ các hiện tượng văn học. Do đó, kiến thức trong bài lý luận văn học có những đặc điểm sau: + Tính khái quát. + Tính trừu tượng. + Tính tổng hợp. - Do vậy, bài lý luận văn học cũng như bài văn học sử thường khó dạy, khó học. Những đặc diểm trên quy định cách thức giảng dạy lý luận văn học. [B]B. Phương hướng giảng dạy: [/B] - Do các bài lý luận văn học được xếp vào cuối chương trình, khi học sinh đã học xong các tác giả, tác phẩm cụ thể cho nên phương pháp dạy lý luận văn học là thông qua các tác giả, tác phẩm cụ thể, thông qua lịch sử văn học giúp học sinh hình thành những khái niệm lý luận. Tức là từ kiến thức cụ thể đi đến hình thành kiến thức khái quát, trừu tượng. Ví dụ: Ðể giúp học sinh nhận biết đặc điểm của truyện (Bài Ðặc điểm của truyện - chương trình lớp 10), giáo viên có thể nêu một tác phẩm truyện học sinh đã học (Truyện Kiều chẳng hạn) yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi: Câu chuyện viết về ai, câu chuyện xảy ra như thế nào? Xảy ra ở đâu? Xảy ra khi nào?. Từ câu trả lời của học sinh, giáo viên có thể tiếp tục khơi gợi: Vậy theo em truyện là gì? Truyện khác thơ ở những điểm nào? - Tận dụng vốn hiểu biết văn học mà học sinh đã có làm cơ sở cho việc hình thành khái niệm. Trong quá trình học tập, học sinh đã ít nhiều hiểu các khái niệm lý luận cơ bản, tuy chưa đầy đủ như: tác phẩm văn học, hình tượng, chủ đề.... Giáo viên phải biết khơi dậy, đánh thức vốn kiến thức tiềm ẩn của các em, từ đó bổ sung, hình thành kiến thức mới. Do vậy, nên sử dụng hình thức diễn giảng quy nạp và đàm thoại. Ví dụ: Ðể giúp học sinh hiểu thế nào là tác phẩm truyền miệng và tác phẩm viết, giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể tên một vài tác phẩm văn học dân gian đã học sau đó trả lời câu hỏi: Tác giả của những tác phẩm văn học dân gian đó là ai, Những tác phẩm văn học dân gian được lưu truyền đến đời nay bằng cách nào?. Từ đó, giáo viên giúp học sinh hiểu thế nào là tác phẩm truyền miệng. - Biểu bảng, sơ đồ là một trong những phương pháp phù hợp cho việc dạy lý luận văn học, đặc biệt là với loại bài tổng kết. Nhìn vào biểu bảng, sơ đồ học sinh sẽ có sự so sánh, nhận biết đặc điểm riêng của từng loại khái niệm và sẽ củng cố lại kiến thức đã học. Ví dụ: Bảng tổng kết đặc điểm của các thể loại: tự sự, trữ tình, kịch: Ðặc điểm của truyện ---------- Ðặc điểm của thơ ---------- Ðặc điểm của kịch ...................... ........................ .................... ........................ ..................... ................... ..................... ....................... ..................... - Xây dựng mô hình nhận dạng (đây là biến thái của hình thức quy nạp). Nội dung của mô hình này là: nêu những hiện tượng cụ thể, yêu cầu học sinh phân loại đúng, sai, giúp học sinh nhận biết khái niệm từ những vấn đề cụ thể, từ đó hình thành khái niệm. Ðặc điểm của bảng câu hỏi này là có sự pha trộn giữa các thông tin đúng và sai. Ví dụ: Khái niệm truyện có thể được dạy như sau: - Hoạt động 1: phát bản photo cho học sinh, yêu cầu học sinh đánh dấu: Ðúng hoặc Sai. Nội dung bản photo là nêu các hiện tượng cụ thể về truyện học sinh đã biết. Sau đó, học sinh phải dùng phép loại suy, loại bỏ câu sai, chọn câu đúng. A. Truyện Ðúng - Sai. 1. Kể về một nhân vật, một sự việc nào đó. 2. Nhân vật không có tên. 3. Tính cách nhân vật không được chú ý miêu tả. 4. Tâm lý nhân vật hiện lên rõ nét. 5. Có thể xác định được hoàn cảnh xảy ra câu chuyện (xảy ra khi nào, ở đâu). 6. Không thể kể lại câu chuyện. 7. Ngôn từ có nhạc điệu, có vần. 8. Truyện thường ngắn, dễ thuộc. B. Thế nào là truyện? ............................................................................................................ - Hoạt động 2: Dựa trên bản trả lời, học sinh tự rút ra khái niệm như thế nào là truyện - Hoạt động 3: Giáo viên yêu cầu học sinh phát biểu định nghĩa của mình, sau đó, giáo viên bổ sung một số ý cần thiết. (Bảng câu hỏi trên có thể được phát cho từng học sinh hoặc một nhóm khoảng 4 - 5 học sinh để các em thảo luận). - Chú ý là trong khi một khái niệm đối với giáo viên là điểm xuất phát của hoạt động dạy học thì đối với học sinh lại là điểm kết thúc của quá trình học tập. Quá trình học tập đi từ cụ thể đến trừu tượng và quay vòng lại. Học sinh sẽ hiểu, nhớ lâu khái niệm nếu bản thân học sinh trải qua quá trình tìm tòi, quan sát từ đó hình thành khái niệm và nếu khái niệm được cụ thể hóa bằng những dẫn chứng, minh họa, ví dụ cụ thể lấy từ cuộc sống hàng ngày. Khi ấy, trong trí nhớ của học sinh, khái niệm trở thành khái niệm sống, không còn là là khái niệm chết, khái niệm trừu tượng trên trang sách. ( Sưu tầm ) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Giáo Án, Tài liệu GV
Chuyện Nghề Giáo
Những chú ý khi dạy bài Tác phẩm văn chương
Top