Nho giáo Việt Nam nhìn từ thế kỉ XXI

Chị Lan

New member
NHO GIÁO VIỆT NAM NHÌN TỪ THẾ KỶ XXI

Hà Thúc Minh​

Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỉ VI trước công nguyên, nhưng ảnh hưởng của nó không những chỉ ở Trung Quốc mà còn lan rộng sang nhiều nước phương Đông khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…hình thành khu vực văn hóa mà người ta thường gọi là “khu vực văn hóa Nho giáo”. Vậy Nho giáo vào Việt Nam như thế nào, từ lúc nào, sớm hơn, cùng thời hay muộn hơn những nước khác như Triều Tiên, Nhật Bản?

Dựa vào tiêu chí gì để xác định thời điểm Nho giáo vào Việt Nam? Thường có ba tiêu chí, đó là: kinh điển Nho giáo, Nho sĩ và những di tích hoặc hoạt động thuộc về Nho giáo như miếu mạo, tranh tượng, trường học, chế sách….

Sách Lịch sử Việt Nam chép: “Đến đầu công nguyên, triều đình phương Bắc có biến loạn, Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập triều đại Tân (8-23). Đông Hán lại thay thế triều Tân. Trong thời gian đó, bọn quan lại nhà Hán ở Giao Chỉ âm mưu cát cứ, nhưng sau lại nhanh chóng quy phục triều Đông Hán. Từ đấy ách thống trị của nước ngoài – với những viên quan Tích Quang, thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên, thái thú Cửu Chân..đã trở nên rất hà khắc. Điều đó biểu hiện trên hai mặt: lối bóc lột và mức độ đồng hóa….Trong chính sách đồng hóa, chúng bắt nhân dân ta phải tuân theo “lễ giáo” phong kiến Hán, từ cách ăn mặc đến việc lấy vợ lấy chồng. Chúng mở một vài trường.

Sách Lịch sử Việt Nam chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, cho nên niên đại, sự kiện chẳng có gì khác nhau, khác nhau là ở nhận1 xét, đánh giá sự kiện, một bên thiên về vạch trần thủ đoạn nô dịch của kẻ xâm lược, một bên thiên về ghi nhận công lao “khai hóa” của nhà cầm quyền. Về vấn đề này sách Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:

“Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ nghĩa dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển huyện…Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ thái thú ấy”2.

Mục đích của xâm lược là nô dịch, khai hóa là thủ đoạn, cho nên xâm lược và nô dịch là hai anh em song sinh. Tuy nhiên không phải kẻ xâm lược nào cũng biết phát huy thủ đoạn khai hóa. Khai hóa để nhằm nô dịch tốt hơn, nhưng dẫu sao vẫn còn dễ “chấp nhận” hơn đối với ai bị nô dịch mà không hề biết gì đến khai hóa. Các sử gia hoàn toàn còn đủ tỉnh táo để phân biệt điều đó. Cho nên không tìm được, dẫu cho là một chữ, ghi nhận cái gọi là khai hóa đối với những quan lại như Tô Định, Mã Viện trong Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục…..

Cái gì cũng có mức độ của nó. Vấn đề là ghi nhận của các sử gia đối với các quan lại có bị chao đảo giữa hai cực hay không. Tác giả bài viết không dám và cũng không phải lúc để bình công luận tội ai đó ở đây, mà chỉ xin đề cập những gì liên quan đến việc truyền bá Nho giáo vào nước ta mà thôi.

Về Nhâm Diên và Tích Quang, Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét rằng “phong hóa văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấ”. Bản chữ Hán ghi là: “Lĩnh Nam văn phong thủy nhị thái thú yên” [……………]

Sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép: “phong tục Hoa hạ lan tràn trên đất Lĩnh Nam là bắt đầu từ đời hai thái thú ấy”.

Hà Thành Hiên trong Lịch sử truyền bá Nho học phương Nam3 nâng lên thành đề mục của một chương: “Hoa phong của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú” (Lĩnh Nam Hoa phong thủy ư nhị thú). Ông triển khai “Hoa phong” đó thành 4 biểu hiện như sau: giáo hóa về canh tác nông nghiệp, về phục trang, về hon thú và đặc biệt về truyền bá Nho giáo, Nho giáo bao giờ cũng đặt “giáo hóa lễ nghĩa” ở hàng đầu của chính sách quản lý xã hội. Cho nên việc “xây dựng trường học, giáo hóa lễ nghĩa” là sự hiện diện rõ nét nhất của Nho giáo. Hơn nữa, “hai thái thú Tích Quang, Nhâm Diên biết sử dụng sức mạnh hành chính một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch để thúc đẩy giáo hóa lễ nghĩa, chính thức xây dựng trường học, truyền bá kinh điển Nho giáo. Như vậy là có sự đỡ đầu của Nhà nước, có kinh phí mở lớp học, có nơi chốn để dạy học, có thày giáo chuyên nghiệp, những việc đó đã tạo điều kiện cho con em dân tộc Lạc Việt học hành thuận lợi, mang lại hiệu quả rõ rệt”4

Nếu bỏ qua không cần quan tâm nhiều đến cái gọi là công lao “khai hóa” nhiều ít của Nhâm Diên, Tích Quang, thì có thể thừa nhận rằng Nho giáo đã truyền bá vào Việt Nam từ đầu công nguyên. Tuy nhiên, cột mốc để đánh dấu thời điểm truyền bá Nho giáo vào Việt Nam vẫn có thể kéo lùi về quá khứ cho đến thế kỉ II trước công nguyên. Từ Thiên Sĩ trong Lịch sử nước Việt Nam xưa (Cổ Nam Việt quốc sử), cho rằng: “thời kì mới của văn hóa Hán truyền bá về phương Nam bắt đầu từ triều đại nhà Tần và cao trào đầu tiên là từ khi nó truyền bá vào nước Nam Việt”5. Hà Thành Hiên dựa vào nhận xét đó, cho rằng “Nho học với tư cách là cốt lõi của văn hóa Hán, thì cao trào đầu tiên của nó là khi truyền bá vào nước Nam Việt”. Đương nhiên truyền bá một học thuyết không phải là công việc của một người, nhưng diễn viên chính ở đây không ai khác ngoài Triệu Đà. Triệu Đà người Chân Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, được xem là từ “tư tưởng đến hành động đều chịu nhiều ảnh hưởng của Nho học”. Chính sách cai trị của ông theo nguyên tắc “dĩ hòa vi quý” của Nho giáo. Ông rất tích cực truyền bá chữ Hán. Hai lần Giả Nghị (nhà nho đời Hán) đến thuyết phục ông thần phục nhà Hán theo tư tưởng Nho giáo, ông đều chấp nhận…đó là những lí do để cho ràng Triệu Đà là “nhân vật đầu tiên mở màn cho Nho học vào Lĩnh Nam”6

Sách Lịch sử Việt Nam không đề cập đến thời điểm truyền bá Nho giáo quá sớm như vậy. Với thái độ dè dặt, tác giả của sách cho rằng đến cuối thế kỷ II, Nho giáo mới thực sự được truyền bá ở nước ta: Từ Đông Hán trở về sau, nhất là từ cuối thế kỷ II, sĩ phu Hán tộc sang Giao Chỉ ngày càng đông. Nho giáo được phổ biến mạnh hơn trước. Những kinh điển của Nho gia như Luận ngữ, kinh Xuân Thu..được đem giảng dạy trong các trường học do chính quyền mở hoặc do sĩ phu lập. Theo học các trường này là con em bọn quan lại địa chủ Hán tộc và một số con em tầng lớp trên của xã hội Việt mà kẻ ngoại xâm dựa vào để cai trị.

Tuy nhiên vào thời kì này, Nho học không thể xem là đã thịnh hành trên đất Việt. Số người Việt được học hành và đỗ đạt chẳng bao nhiêu. Kẻ thống trị nước ngoài chỉ nhằm đào tạo bộ máy cai trị của chúng một số thuộc viên làm tay sai mà thôi6”

Về thời điểm này, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép:

“Sứ thần Ngô Sĩ Liên bàn: Nước ta được thông Thi, Thư, Tập Lễ, Nhạc thành một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ vương. Công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?”7.

Sách Việt sử thông giám cương mục không những không đánh giá Sĩ Nhiếp quá cao như Ngô Sĩ Liên mà còn có phần chê bai là đằng khác, không gọi Sĩ Nhiếp là Sĩ vương bởi vì Nhiếp chỉ là thái thú một quận:

“Sĩ Nhiếp chẳng qua là một thái thú nhà Hán, tùy thời nịnh hót, cầu sao cho mình được an toàn chứ không có mưu lược tài cán gì giỏi cả8”.

Thực ra thống trị ngoại bang vì muốn đề cao công lao “khai hóa” cho nên thường hạ thấp văn hóa của dân bản địa cũng là chuyện chẳng có gì khó hiểu. Có điều chắc chắn là nếu văn hóa của nước ta trước đó chỉ là con số không thì không làm sao có thể bảo toàn bản sắc văn hóa của mình sau hàng nghìn năm bị ngoại bang thống trị.

Như vậy, Nho giáo truyền bá vào nước ta muộn nhất từ thế kỷ II, sớm hơn một chút là từ đầu công nguyên, sớm hơn nữa là từ thế kỷ II trước công nguyên. Nếu cho rằng Nho giáo truyền bá vào nước ta vào thế kỷ thứ II trước công nguyên thì tương ứng với Triều Tiên, Nhật Bản cũng không có gì là không hợp lí. Nho giáo vào Triều Tiên rồi mới truyền sang Nhật Bản, cho nên Nho giáo vào Triều Tiên sớm hơn Nhật Bản. Theo Đại từ điển triết học, mục Lịch sử triết học Triều Tiên (History of Korean philosophy)9, Nho giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ I khi đất nước Triều Tiên đang bị tranh chấp giữa Cao Cú Lệ, Bách Tề và Tân La. Nhưng theo Khổng Tường Lâm, Nho giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ I trước công nguyên và vào Nhật Bản từ thế kỷ II sau công nguyên10. Vương Thủ Hoa xác định rõ hơn về niên đại. Theo ông thì vào năm 284, Vương Nhân thuộc Bách Tề vào Nhật Bản mang theo sách Luận ngữ và Thiên tự văn, sự kiện đó có thể là cột mốc đánh dấu Nho giáo truyền bá vào Nhật Bản11.

Liên quan đến truyền bá Nho giáo là xây dựng Văn miếu, nơi lễ bái, tỏ lòng tôn trọng đối với Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho và các vị hiền triết. Nho giáo là sản phẩm của Trung Quốc, cho nên Văn miếu xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là lẽ đương nhiên. Hình thức đầu tiên là sau khi Khổng Tử qua đời, học trò lưu giữ vật dụng hàng ngày của Khổng Tử để cúng bái. Văn miếu ở Trung Quốc chính thức được xây dựng vào năm 492 (năm thứ 13, Thái Hòa, Bắc Ngụy). Năm 630 (năm thứ 4, Trinh Quan đời Đường), tất cả các trường học ở Châu, Huyện đều phải xây dựng Văn miếu. Từ đó Văn miếu trở thành phổ biến ở Trung Quốc. Ở Triều Tiên, năm 983 (năm thứ 2, Cao Lệ Thành Tông) mới phỏng theo Trung Quốc xây dựng Văn miếu trong Quốc tử giám. Đến dời Lý (thế kỷ XIII) toàn quốc đã có hơn 160 công trình Văn miếu. Nho giáo vào Nhật Bản muộn hơn Việt Nam, Triều Tiên nhưng Văn miếu lại xây dựng sớm hơn. Thời đại Nại Lương (Nara), năm 768, Văn miếu chính thức xây dựng trong Quốc tử giám13.

Qua quá trình Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, có thể rút ra vài nhận xét sau đây:

Thứ nhất, Ở Việt Nam, nhiều sử sách xưa nay ghi chép Văn miếu được xây dựng vào năm 1070, Quốc tử giám vào năm 1076. Nếu điều đó là đúng14 thì trớ trêu thay, Nho giáo vào Việt Nam sớm nhất so với Triều Tiên và Nhật Bản nhưng Văn miếu và Quốc tử giám lại xây dựng muộn hơn cả. Thông thường xây dựng trường học rồi mới xây Văn miếu, ở ta thì làm ngược lại, phải chăng điều đó cũng chứng tỏ Việt Nam tiếp thu Nho giáo không “bài bản” như các nước khác?
Thứ hai, Ở Việt Nam Nho giáo và Phật giáo du nhập khoảng cùng thời gian, nhưng ở Triều Tiên và Nhật Bản, Nho giáo du nhập sớm hơn Phật giáo. Phật giáo vào Triều Tiên từ thế kỷ IV, vào Nhật Bản thế kỷ VI. Như vậy, quan hệ Nho, Phật ở các nước đó không giống như ở Việt Nam và cũng không giống như ở Trung Quốc. Tam giáo ở Trung Quốc tranh chấp nhau kịch liệt rồi mới “đồng nguyên” ở thời nhà Tống, trên cơ sở Nho giáo. Ở Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, cả ba đạo đó đều là “ngoại nhập”, cho nên “đồng nguyên” trước rồi “phân hóa” sau.

Thứ ba, Ở Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản đều có hiện tượng Nho giáo phê phán và thay thế Phật giáo. Điều đó xảy ra ở Việt Nam và Triều Tiên cùng vào khoảng thế kỷ XIII – XIV, còn ở Nhật Bản muộn hơn, vào thế kỷ XVI – XVII. Như vậy, có thể thấy xã hội phong kiến cả ba nước trong quá trình “lựa chọn” đều xem Nho giáo, đặc biệt là Tống Nho là tư tưởng chủ đạo. Tuy nhiên ở Triều Tiên cũng như ở Nhật Bản đều rất đề cao học thuyết “Tâm học” của Vương Dương Minh, trong khi ở Việt Nam lại không mặn mà với học thuyết này bao nhiêu.

Thứ tư, Nói chung khi Nho giáo chưa được độc tôn thì học phong tương đối được tự do phát triển, nhưng khi Nho giáo được độc tôn thì ngược lại học phong lại rơi vào tình trạng bế tắc, khuôn sáo.

Thứ năm, Nhật Bản tiếp thu ảnh hưởng của Trung Quốc, Ấn Độ muộn nhất, nhưng lại tiếp thu văn minh phương Tây sớm nhất. “Lan học” (Hà Lan) đến với xứ sở hoa Anh đào sớm nhất so với các nước trong khu vực văn hóa Nho giáo. Phàm những nơi nào kết hợp tốt văn minh phương Đông và văn minh phương Tây thì nơi đó kinh tế – xã hội phát triển tương đối nhanh. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Singapore…là những thí dụ.

Thứ sau, Ở Trung Quốc thành lập Văn miếu, Quốc tử giám năm 492 như trên đã nói, lần đầu tiên mở khoa thi là vào năm 606 (Tùy Đại Nghiệp, năm thứ 6). Nghĩa là từ khi mở trường cho đến khi tổ chức thi phải mất hơn một trăm năm. Trong khi đó ở nước ta mở trường và tổ chức thi chỉ cách nhau vài ba năm, thậm chí thi trước rồi mới mở trường học sau! (thi năm 1075, xây Quốc tử giám năm 1076). Như vậy là không cần biết học với ai, học ở đâu, học như thế nào, nói cách khác là không cần biết đầu vào chỉ quan tâm đến đầu ra mà thôi!

TAM GIÁO THỜI LÝ TRẦN

Lịch sử là thời gian, thời gian thì chẳng có bắt đầu và cũng chẳng có kết thúc. Nhưng lịch sử không chỉ là thời gian, lịch sử có bắt đầu, cho nên nó cũng có kết thúc. Cho dù kết thúc là tiền đề của bắt đầu, cho dù thời gian là lịch sử, thì thời đại Lý – Trần vẫn mãi mãi là một trong những thời đại hoàng kim bậc nhất của lịch sử dân tộc.

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, bốn trăm năm quá đủ để khẳng định tính độc lập, tự chủ, bản lĩnh dân tộc của quốc gia Đại Việt. Thời kì huy hoàng này không phải từ trên trời rơi xuống mà chính là sản phẩm của cả thiên niên kỉ đấu tranh bất khuất của dân tộc trước đó, đồng thời cũng là điểm tựa cho tương lai dân tộc hàng nghìn năm sau này.

Thực ra ở thời đại Lý – Trần, dân tộc Việt Nam không tranh nhất, nhì với ai trên thế giới, nhưng có lẽ khong có lí do gì để ưu tư về cái gọi là “nguy cơ tụt hậu” cả. Không phải chỉ so sánh trong tương quan với châu Á mà ngay cả trên toàn thế giới. Thế kỉ XI – Xiv, là nửa sau của hàng nghìn năm trung thế kỉ của phương Tây. Ai cũng biết đó là thời kì thần quyền kết hợp với vương quyền, hay nói đúng hơn là thời đại của thần quyền. Bốn trăm năm thời Lý Trần ở Việt Nam không phải là thời đại của thần quyền mà là thời đại vương quyền. Người ta cho rằng, nói chung quá trình tiến hóa của lịch sử nhân loại là từ thần quyền đến vương quyền, từ vương quyền đến dân quyền….Thời Lý Trần ở Việt Nam không phải thần quyền mà là vương quyền, cho dầu Phật giáo ảnh hưởng không nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực văn hóa Nho giáo (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên…) chưa bao giờ thần quyền đặt trên vương quyền. Thời kì Lý Trần là đặc điểm của đặc điểm này. Không phải chỉ có Phật giáo, Đạo giáo mà ngay cả đến Nho giáo không nhiều thì ít đều có tính tôn giáo và đều trở thành cái gọi là “tam giáo đồng nguyên”, nhưng nhiều lắm cũng chỉ là cánh tay phải của vương quyền mà thôi. Đương nhiên thần quyền hay vương quyền không phải là tiêu chuẩn duy nhất để đo nấc thang tiến hóa của lịch sử, nhưng dẫu sao đó cũng là biểu hiện văn minh của văn minh nhân loại lúc bấy giờ. Trong khi phương Tây đang đi từ dưới đất lên trời, hướng lên trời để xoa dịu bất công ở dưới đất thì cũng vào lúc đó, thời Lý Trần ở Việt Nam lại đặt hết niềm tin vào thế giới bên này thay vì cầu phúc ở thế giới siêu việt bên kia. Chính vì vậy nhiều nhà tư tưởng khai sáng thời Phục hưng ở phương Tây như Voltaire, Diderot, Montesquieu…đều dựa vào văn hóa “hướng xuống đất” ở phương Đông để chống lại văn hóa “hướng lên trời” của nhà thờ trung thế kỷ.Vì vậy nên bước đi chậm dần của lịch sử Việt Nam sau đó so với phương Tây không phải là “lỗi” của thời Lý Trần, không phải do tiên thiên bất túc mà chủ yếu là do hậu thiên tạo ra. Nói như vậy không có nghĩa là ở thời Lý Trần, lịch sử Việt Nam chỉ có những bước tiến mà không có những bước lùi so với đương thời ở phương Tây.

Bước tiến về thế giới quan thời Lý Trần không nhiều thì ít, dĩ nhiên không thể không chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên nhân tố quyết định tính chất của thời Lý Trần không phải do bên ngoài mà do bên trong. Cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nhưng Việt Nam không giống như Nhật Bản, Triều Tiên và cũng khác với văn hóa mà nó chịu ảnh hưởng. Thời kỳ Tống Nguyên (tương đương với thời Lý TRần), Nho giáo ở Trung Quốc đã đạt tới đỉnh cao. Tư duy triết học của Nho giáo càng phát triển bao nhiêu càng gắn chặt với hệ thống chính trị phong kiến bảo thủ bấy nhiêu. Nó không bắt người ta hướng lên trời như phương Tây. Nó thay thế mục tiêu “trời” xa vời bằng mục tiêu “con trời” (thiên tử) gần gũi hơn. Nói đúng hơn là hai mục tiêu kết hợp làm một, cái siêu việt cũng là cái hiện thực và cái hiện thực cũng là cái siêu việt. Không phải mọi người đều bình đẳng như nhu trước “chúa trời” mà thôi. Nấc thang đẳng cấp xã hội hiện hữu chặt chẽ từ bên trong lẫn bên ngoài. Đẳng cấp bao giờ cũng tỉ lệ ngược với bình đẳng và tự do. Xã hội vừa bị bắt buộc vừa tự nguyện vận hành theo “đơn tuyến”. Chỉ có “trên” nói “dưới” nghe, “trên” bảo “dưới” làm, chân lý bao giờ cũng thuộc về “trên” chứ không bao giờ thuộc về “dưới” cả. Học thuyết Lý – Khí của Tống Nho thực ra không nằm ngoài mục đích đó. Vì vậy nên Đới Chấn (1723 – 1777) đã điểm đúng huyệt ý đồ chính trị của quan điểm triết học Lí – khí của Tống Nho:

“Bề trên lấy “lý” để tráchBề trên lấy “lý” để trách phạt kẻ dưới, bậc trưởng bối lấy “lý” để trách mắng kẻ hậu sinh, người giàu sang quyền quý lấy “lý” để trách cứ kẻ nghèo hèn cực khổ. Bên trên cho dù có sai cũng thành đúng còn kẻ dưới, kẻ hậu sinh, kẻ cùng khổ dựa vào “lý” để cãi lại, cho dù có đúng đi nữa cũng thành sai” (tôn giả dĩ lý trách ti, trưởng giả dĩ lí trách ấu, quý giả dĩ lí trách tiện, tuy thất vị chi thuận, ti giả, ấu giả, tiện giả dĩ lí tranh chi, tuy đắc vị chi nghịch. Mạnh Tử tự nghĩa sơ chứng).

Không phải chỉ có Đới Chấn mới lên án Tống Nho “dựa vào lí để giết người” (dĩ lí sát nhân) mà hầu hết như các triết gia “thực học” thời Minh – Thanh, trong đó có Hoàng Tông Hy (1610 – 1695), đều cùng một tiêu điểm. Hoàng Tông Hy phê phán quan niệm “công” và “tư” thiên lệch, đơn tuyến. Vua đâu phải là đại diện cho cái gọi là “công”, nhưng lại “thay cái đại công trong thiên hạ bằng cái đại tư của riêng mình” (dĩ ngã chi đại tư vi thiên hạ chi đại công. Minh di đãi phỏng lục, Nguyên quân). Hoàng Tông Hy còn phê phán quan niệm xã hội “trị”, “loạn” đơn tuyến:

“Thiên hạ yên ổn hay loạn lạc không phải biểu hiện ở chỗ tồn vong của một dòng họ mà chính là ở chỗ trăm họ đau khổ hay vui sướng” (Thiên hạ chi trị loạn bất tại nhất tính chi hưng vong, nhi tại vạn dân chi ưu lạc. Nguyên thần).

Như vậy là vào thời kì lịch sử đồng đại với Lý Trần, Trung Quốc đã hoàn chỉnh thể chế chính trị phong kiến cũng như hệ tư tưởng chủ đạo Tống Nho, nhưng lại có phần quá đà. Triều đại Tống Nguyên đã kéo dài và xiết chặt thêm thể chế “nhất thống pháp lệnh” (pháp lệnh do nhất thống) của nhà Tần lẫn chính sách “độc tôn Nho giáo, loại bỏ mọi học thuyết” (bãi truất bách gia, độc tôn Nho giáo) của nhà Hán, nhưng lại trượt dài trên con đường phản nhân văn. Nho giáo thời Tiên Tần ít ra cũng còn kêu gọi hãy bình đẳng đối với bản tính con người, “tính tương cận”, “tính bản thiện”, ai ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn…..Khổng Tử chẳng đã từng nói “thái quá” cũng như “chưa tới” (quá do bất cập) đó sao? Tính đẳng cấp xã hội và tư duy đơn tuyến, giáo điều có tính tôn giáo hay “tôn giáo hóa” như nhiều học giả nhận xét ở thời kì Tống Nguyên, quả đã có tác dụng không nhỏ về củng cố thể chế chính trị nhưng lại tạo ra một bước lùi, đánh mất tính hài hòa trong quan hệ xã hội, trong đời sống tinh thần của con người.

Như vậy là thời Tống Nguyên đã “quá” một bước nhưng lại “bất cập” một bước so với thời Lý Trần. Kỷ nguyên độc lập của dân tộc được Ngô Quyền mở đầu ở thế kỉ thứ X, tuy trải qua ba triều đại Ngô, Đinh, Lê nhưng thời gian “thực tập” để hình thành một “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” chỉ khoảng hơn 60 năm, thật quá ngắn ngủi đối với một dân tộc hàng nghìn năm không có chủ quyền. Triều đại nhà Lý “chính thức” mở đầu kỉ nguyên mới của quốc gia Đại Việt hùng mạnh trên bản đồ thế giới chứ không riêng gì châu Á. Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đã phủ định thời kì thiên về phòng thủ của Đinh, Lê trước đó và thay thế bằng kỉ nguyên củng cố trong phát triển. Nên nhớ xu thế phát triển là xu thế đang đặt ra, mới bắt đầu đặt ra, chứ không phải đã được đặt ra. Cho nên ý thức củng cố chưa bao giờ bị xem nhẹ. “Tả” khuynh trong xu thế phát triển không có nhiều lí do để tồn tại lúc bấy giờ. Lý Công Uẩn đổi tên Đại La thành Thăng Long cũng thể hiện điều đó và cũng để nhắc nhở con cháu về sau đừng bao giờ quên điều đó. Lý Công Uẩn rất am hiểu Kinh Dịch, hào “sơ cửu” [……….] (hào đầu tiên) trong quẻ Càn [….] là “tiềm long vật dụng” [………] tức là rồng còn ở trong vực, hào “cửu nhị” (hào thứ hai) là “hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân” nghĩa là rồng đã hiện ra nơi cánh đồng, điều kiện thuận lợi để tiếp xúc vơi bên ngoài”. Cho nên “Thăng Long” không phải là “Rồng bay” mà chỉ là “Rồng hiện”. “Thăng” không phải lúc nào cũng có nghĩa là “bay”. “Thăng” còn có nghĩa là “tiến” đến, Lý Công Uẩn từ Hoa Lư tiến ra Đại La. Hào “cửu ngũ” (hào thứ năm), gần đến đỉnh cao mới gọi là “phi long tại thiên” […..].Đến lúc này mới là “rồng bay”. Nhưng tiếc rằng “dục tốc bất đạt” sau thời Lý Trần đã không thấu hiểu được quan hệ hài hòa giữa “hiện” và “bay” của thời trước.

Quốc gia Đại Việt thời Lý Trần hưng thịnh, không phải một bước lên trời, nhưng không đóng khung xã hội, đóng khung con người bằng chiếc nón “kim cô” Lý khí của Tống Nho. Nước và Nhà trong quan hệ thống nhất, hài hòa, tinh thần dân tộc mạnh mẽ hơn nhiều so với ý thức giai cấp. Nếu có ý thức hệ thì ý thức hệ đó nhằm hướng tới dân tộc chứ không phải giai cấp. Hơn nửa thế kỉ sau khi dời đô ra Thăng Long, nhà Lý mới “nhớ” tới Nho giáo, mới trùng tu Văn miếu, Quốc tử giám, mới mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tuy vậy, nhưng cũng chưa “ai” được đặt và cũng chẳng cần đặt “ai” ngồi ở vị trí chủ tọa. Chưa có ý thức hệ rõ ràng có lẽ cũng không phải là điều hay, nhưng dẫu sao cũng không đến nỗi đóng khung cái đầu lại như Tống Nho, cho nên hài hòa trong đời sống tinh thần chắc chắn tác động không nhỏ đối với đời sống xã hội. Nho, Phật, Đạo đều được “xem xét” đều được hoan nghênh nếu có lợi ích cho độc lập dân tộc, cho đời sống xã hội. Nhưng khoa thi Tam giáo ở nhà Lý vào năm 1195 và ở nhà Trần năm 1227, 1247 đã thể hiện điều đó. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí nhận xét:

“Đời Lý, Trần đều xem trọng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên lúc bấy giờ những người được tuyển chọn cần phải tinh thông cả hai đạo ấy. Dù là chính giáo hay dị giáo không phân biệt, đều được tôn trọng như nhau. Thí sinh đi thi những khoa ấy nếu không học rộng biết nhiều thì cũng không đỗ được”.

“Tam giáo” bao gồm Nho, Phật, Đạo, cả ba giáo lý đó đều ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt ở thời Lý Trần, chứ không phải chủ yếu chỉ có Phật, Nho như có người đã ngộ nhận. Thời Lý Trần, Phật giáo Thiền tông và Mật tông ảnh hưởng qua lại không những với Nho giáo, mà đặc biệt là với Đạo giáo. Sự dị đồng giữa Mật giáo và Đạo giáo là vấn đề không thể không nghiên cứu, nhưng cho tới nay vẫn còn đang bỏ trống. Thiền tông gần với Đạo gia chứ không phải gần với Đạo giáo như Mật tông. Đạo gia thường ảnh hưởng ở tầng lớp sĩ phu, trí thức bên trên, còn Đạo giáo phần lớn lại gắn liền với đời sống tinh thần của đông đảo dân chúng. Ngay ở Thăng Long cũng như Phú Xuân sau này cũng chẳng thiếu gì kiến trúc, vết tích của Đạo giáo, huống hồ ở thời Lý Trần.

Không phải chỉ có Phật giáo Thiền tông và Mật tông mới có quan hệ mật thiết với Đạo gia và Đạo giáo, Nho giáo gắn bó với Đạo gia và Đạo giáo cũng không kém. Chẳng phải Đạo giáo cũng có kinh điển gọi là Tam giáo nguyên lưu sưu thần đại toàn, sưu tập nhiều hình ảnh của cả Nho, Đạo, Thích đó sao? Kinh Dịch là kinh điển hàng đầu (quần kinh chi thủ) của Nho giáo, đồng thời cũng là kinh điển chủ yếu của Đạo giáo. Chẳng hạn như Tam huyền bao gồm Dịch, Lão Tử, Trang Tử. Chu Dịch tham đồng khế là sách luyện đan dựa vào âm dương ngũ hành đều được đưa vào Chính thống Đạo tạng.
Ảnh hưởng của Đạo giáo không chỉ trong dân gian mà còn thấp thoáng ngay trong Chiếu dời đô mở đầu thời Đại Việt hưng thịnh. Lý Công Uẩn cho rừng vị thế của thành Đại La “ở vào nơi trung tâm của trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi” (trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế). “Rồng cuộn hổ ngồi” (……………..long bàn hổ cứ) là từ ngữ quen thuộc của Đạo giáo. Ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc có địa bàn của Đạo giáo gọi là “Long hổ sơn” (……..núi Long Hổ). Đạo giáo xem đó là “phúc địa” (đất lành) thứ 32. Theo Độc sử phương dư kỉ yếu, sở dĩ có tên gọi như vậy là vì vị trí ở đó có thế “long ngang, hổ cứ” (…..rồng vươn hổ ngồi). Theo Quý khê huyện chí, Trương Lăng đã từng luyện “long hổ đan” ở đây nên rồng xanh (thanh long) và hổ trắng (bạch hổ) xuất hiện. Vả lại khi nói đến Đại La, Lý Công Uẩn còn nhắc đến Cao Biền vốn là nhân vật mà tên tuổi gắn liền với thuật phong thủy của Đạo giáo.

Đó là trong Chiếu dời đô, còn trong “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” Lý Thường Kiệt không dùng khái niệm “thiên mệnh” truyền thống của Nho giáo như trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn mà lại dùng từ ‘thiên thư”: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. “Thiên thư” có nghĩa là “chiếu của thiên tử”, “mệnh lệnh do trời ban xuống” và theo Đạo giáo thì cũng có nghĩa là “kinh sách ghi chép lời nói của Nguyên thủy Thiên Tôn” (Nguyên thủy Thiên Tôn sở thuyết chi kinh dã). Tùy thư kinh tịch chí cho rằng “Thiên thư” là kinh của Đạo giáo (Đạo kinh giả). Sách Lĩnh Nam chích quái chép câu thứ hai trong bài thơ nói trên hơi khác, không phải “Tiệt nhiên định phận” mà là “Hoàng thiên dĩ định….”. “Hoàng thiên” cũng là thuật ngữ của Đạo giáo. “Hoàng thiên” thường xuất hiện trong Thái bình kinh. Trương Giác tự xưng là “Hoàng thiên đương lập” (thay ý trời). Lý Thường Kiệt cho người đọc bài thơ này ở đền Trương Hống, bên bờ sông Cầu, e rằng ít nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo cũng chẳng có gì là lạ và cũng chẳng có gì làm cho bài thơ kém giá trị. Ngược lại là đằng khác! Điều đó càng chứng tỏ sức sống của tư duy triết học hài hòa thời Lý Trần, không câu nệ, không cố chấp, sẵn sàng tiếp thu bất cứ tư tưởng, học thuyết nào miễn là có lợi cho sự tồn tại và phát triển của đất nước.

Thực ra, không phải tự nhiên mà thời Lý Trần lại có thể hài hòa những tư duy hài hòa mà nó chịu ảnh hưởng. Đó chính là kết quả, là sản phẩm của hàng nghìn năm đấu tranh của dân tộc. Mâu thuẫn, đối lập giữa bên trong và bên ngoài kéo dài đã đành mà mâu thuẫn, đối lập ngay bên trong cũng không kém phần phức tạp. Loạn 12 sứ quân ngay sau khi nước nhà độc lập là một minh chứng cho điều đó. Tuy nhiên, tư duy hài hòa, thống nhất cái đa dạng, thống nhất các mặt đối lập cuối cùng cũng đã thắng, đã chỉ ra cho dân tộc đâu là con đường hợp lý, đâu là triết lí sinh tồn đúng đắn nhất của dân tộc. Triết học hài hào xem đấu tranh là phương tiện, thống nhất mới là mục đích. Nói đến biện chứng là nói đến mâu thuẫn, đấu tranh, phát triển, cho nên thường tuyệt đối hóa mâu thuẫn, đấu tranh và vô hình chung đã tương đối hóa tính thống nhất, xem thống nhất đồng nghĩa với đứng im, không vận động, không phát triển. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và sức sản xuất tạo thành động lực đấu tranh, kết quả đấu tranh không phải là để đấu tranh mà chính là để thống nhất, để giải quyết mâu thuẫn đó. Khi quan hệ sản xuất và sức sản xuất thống nhất thì xã hội thay vì càng phát triển chứ đâu phải là ngưng trệ? Như vậy phải chăng mâu thuẫn là động lực, thống nhất cũng là động lực? Cái gọi là “phép biện chứng” thường tự làm nghèo bằng cách đồng nhất với phương pháp “một phân đôi” (One divides into two) và luôn đặt “thống nhất” (hai hợp một) trong quan hệ đối lập. Tư duy triết học hài hòa thống nhất cả hai mặt đó, không lệch về phía nào. Thực ra, triết học hài hòa mới là phép biện chứng đúng nghĩa của nó. Henri Maspéro cho rằng người Việt cổ đã có nhận thức về sự phân đôi sự vật. Điều đó đúng nhưng có lẽ cũng cần bổ sung không những “phân đôi” mà còn “hợp một”. Người Việt cổ đã nhận thức điều đó lẽ nào người Việt thời Lý Trần lại không? Thời cổ đại Hy Lạp, đã có tư duy biện chứng “bẩm sinh”, “chất phác”, lẽ nào người Việt thờ Lý Trần lại không có được tư duy triết học hài hòa của thời điểm lúc đó hay sao?

Tư duy về “hài hòa” (Harmony) hay “hòa” đã sớm xuất hiện ở thời cổ đại Hy Lạp ở phương Tây (Harmonia), Pythagore có lẽ là nhà triết học đi tiên phong trong lĩnh vực này. “Hài hòa” [….] hay “hòa” cũng là phạm trù nhận thức tương đối phổ biến ở thời Xuân Thu – Chiến Quốc ở phương Đông. Cũng có nhiều học giả cho rằng hạt nhân của Nho giáo không phải là “nhân” mà là “hòa”. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử 8 lần đề cập đến chữ “hòa”, tuy nghĩa chữ không hoàn toàn giống nhau nhưng cũng không xa nhau lắm. Khổng Tử đặt “hòa” và “đồng” trong quan hệ đối lập (Quân tử hòa nhi bất đồng, Tiểu nhân đồng nhi bất hòa. Luận ngữ, Tử Lộ)13. “Hòa” là thống nhất trong đa dạng, “đồng” là thống nhất trong đơn điệu, không có sức sống. Con người hài hòa với tự nhiên, với xã hội, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần.

Nho giáo vào Việt Nam vào khoảng cuối thời Tây Hán nhưng mãi đến thời nhà Lý mới được nhà nước Đại Việt chính thức thừa nhận. Tuy chịu ảnh hưởng nhiều ở Hán Nho (Triệu Đà, Nhâm Diên, Tích Quang, Sĩ Nhiếp….đều là quan lại thời Hán), nhưng xã hội Lý Trần xem ra vẫn không ưa thích gì mấy chủ trương “độc tôn Nho giáo” bài xích các học thuyết khác (Bãi truất bách gia, độc tôn Nho giáo) của Đổng Trọng Thư. “Tam giáo hòa đồng”, hay là xu thế hài hòa chiếm ưu thế chứ không phải chỉ có Nho giáo được độc tôn trong toàn bộ đời sống tinh thần xã hội. Xã hội hài hòa mở rộng cửa cho những tư tưởng hài hòa và chính tư tưởng hài hòa đến lượt nó càng làm cho xã hội hài hòa hơn, sống động hơn. Thời Lý Trần tiếp thu Nho giáo theo chú giải cũng như tinh thần của Nho giáo thời Hán, và cả Nho giáo thời Đường. Một nhà nước mới được độc lập cần xây dựng thể chế chính trị, đương nhiên mô hình “trung – hiếu”, “quân – thần”, hàng nghìn năm của Nho giáo trở thành mẫu mực. Nhật Bản và Triều Tiên tiếp thu Nho giáo cũng bắt đầu từ mô hình này. “Cương, thường” của Hán Nho gắn liền với xã hội đẳng cấp khắc nghiệt được “phục chế” đậm nét ở Nhật Bản, Triều Tiên, nhưng lại mờ nhạt ở Việt Nam thời Lý Trần. Chữ “hòa” của Nho giáo nguyên thủy thể hiện ở thời Lý Trần trước hết là hài hòa xã hội. Tuy là xã hội phong kiến, thậm chí có người còn cho là xã hội chiếm hữu nô lệ, nhưng cho dù phong kiến, nô lệ hay tàn dư nô lệ gì đi nữa, quan hệ đẳng cấp xã hội lúc bấy giờ xem ra chưa phân tầng chặt chẽ, chưa có những “Pharaon” khắc nghiệt như ở nhiều nơi khác trên thế giới, quan hệ giữa “thống trị” và “bị trị” không là quan hệ hài hòa nhiều hơn là đối kháng, không phải chỉ có một chiều “sống chết mặc bay” mà nhiều chiều. “Chăm lo cho dân” là trách nhiệm thực sự của nhà vua chứ không phải là câu đầu lưỡi như sau này. Hạn hán, lụt lội là tai ương uy hiếp nghiêm trọng đến đời sống người dân canh tác nông nghiệp. Trần Minh Tông ý thức rất rõ về trách nhiệm của một vị vua là “không việc gì trọng đại hơn” là phải “cứu giúp ngay” dân chúng trong cảnh màn trời chiếu đất khi khi gặp phải bão táp lụt lội14. Nhiệm vụ của vua không phải đi cày, nhưng tập quán nghìn đời trong quan hệ hài hòa giữa người đứng đầu và thành viên của bộ lạc vẫn luôn nhắc nhở Lý Thánh Tông. Năm 1038, khi vua tế Thần nông xong muốn cầm cày tự cấy ruộng, quan lại can ngăn: “Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì phải làm thế!”. Lý Thánh Tông đáp: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì để cổ vũ thiên hạ”15. Tế lễ trời đất và tổ chức quân đội là hai việc không thể thiếu của nhà nước nếu muốn củng cố chính quyền. Nhưng công việc tế lễ quan trọng này ở thời Lý Trần không phải chỉ có mục đích “hướng lên” mà “hướng xuống” xem ra quan trọng cũng không kém. Chẳng hạn như Lý Thái Tông, Lý Anh Tông cầu đảo cho dân chúng được mùa vào những năm 1045, 1143…”lòng dân” gắn liền với “mệnh trời” là bài học chính trị có hàng nghìn đời ở Trung Quốc nhằm “răn đe” nhắc nhở đến nghĩa vụ của người cầm quyền, cho dù là có tự nguyện hay không tự nguyện ý thức về điều đó. Nhưng cái có tính “bắt buộc” này hình như lại trở thành cái có tính “tự nguyện” đối với các vị vua Lý Trần. Những câu nói “kinh điển” của Lý Thánh Tông cần chép lại đã đành mà có lẽ cần phải khắc chữ vàng vào sử sách, bởi vì không phải thời nào cũng có được điều “đơn giản” đó. Vào dịp tháng 10, trời rét buốt, nhà vua nói với các quan tả hữu:

“Trẫm ở trong cung, nào lò sửa ngự, nào áo lót cầu mà còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian đã đành mà ngay đến ăn cũng không đủ no, mặc cũng không đủ ấm, đói rét cực khổ, có khi không đáng tội chết, Trẫm rất lấy làm thương xót. Bèn hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và cơm ăn ngày hai bữa”15.

Có lần nhà vua xử kiện ở điện Thiên Khánh, chỉ vào công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, bảo với ngục lại:
“Ta yêu dân cũng như yêu con ta. Là cha mẹ của dân, ta rất thương xót vì dân không biết mà mắc vào hình phạt. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay tội nhẹ, đều nhất luật khoan giảm”.

Với tình nhân ái như vậy, Hình thư của nhà Lý không phải chỉ cốt “giết kẻ vô đạo để có đạo” mà một yêu cầu không thể thiếu đối với luật pháp đó là không “khắc nghiệt”, không xử “oan uổng” và “tiện dụng cho dân”16.

Nhân ái của Tống Nho càng hướng lên trên càng “quên” bên dưới. Nhân ái thời Lý Trần đương nhiên chẳng bao giờ “quên” bên trên, nhưng dẫu sao vẫn là nhân ái không đánh mất tính hài hòa xã hội. Hài hòa là biểu hiện quan hệ xã hội, nhân ái là nội dung thực hiện quan hệ gì đó. thời bình “khoan sức cho dân” thì thời chiến có sức mạnh tổng hợp “sát thát”. Tinh thần dân tộc là động lực, là tiền đề hài hòa giải tỏa những xung khắc bên trong. Nếu không thì làm sao mà Trần Hưng Đạo lại chịu tắm cho Trần Quang Khải để cho dân tộc Việt Nam mãi mãi ngẩng cao đầu tự hào với những chiến công hiển hách:

“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san”


Như vậy là thời Lý Trần tuy tiếp thu Nho giáo Hán Đường nhưng ít nhất có hai điều không theo. Đó là độc tôn Nho giáo và thiết chế cương thường quá ư chặt chẽ của Hán Nho. Ngược lại, trong quá trình đưa Nho giáo lên hệ tư tưởng chính thống, Nhật Bản và Triều Tiên lại chú ý khai thác điều đó. “Hiến pháp 17 điều” của Thái tử Thánh Đức (Shotoku Taishi, 574 – 622), ngoài điều 2 và điều 10 ra, hầu như còn lại đều dựa vào tinh thần cương thường của Nho giáo. Vào thế kỷ VII (675), Vương triều Tân La thống nhất đất nước, Nho giáo ở Triều Tiên bắt đầu chiếm vị trí ưu thế. Nếu Quốc tử giám, trường Đại học Việt Nam, có từ thế kỉ XI (1076) thì ở Triều Tiên đã có từ thế kỉ VII (682). Nếu khoa cử ở Việt Nam có từ thế kỉ XI (1075) thì ở Triều Tiên bắt đầu từ thế kỉ VIII (788)17. Tuy về sau “Hoa lang đạo” muốn hài hòa triết lí “vô vi” của Đạo gia, cũng như tinh thần “tích thiện” của Phật giáo, nhưng “trung – hiếu”, “cương thường” của Nho giáo vẫn còn ở vị trí chủ đạo. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý Nhật Bản và Triều Tiên tuy “khép kín” về lĩnh vực chính trị nhưng lại “mở ra” về lĩnh vực học thuật, nhất là Nhật Bản. Điều đó có thể giải thích cho những thành tựu, cho những bước phát triển xã hội về sau này của Nhật Bản và ít nhiều của Hàn Quốc.

Cũng như Nho giáo, Phật giáo ảnh hưởng nhiều nước ở châu Á, nhất là thời Lý Trần ở Việt Nam. Nếu Suzuki nhận xét rằng văn hóa châu Á đi ra từ dưới những mái chùa, thì điều đó hoàn toàn đúng ở thời Lý Trần, lúc mà đất nước hầu như được che phủ bởi những mái chùa và sư sãi chiếm quá nửa dân số. Tuy nhiên trọng tâm Phật giáo thời Lý Trần không phải là “tích thiện”. “Nhập thế”, “xuất thế” là một chủ thể mà Phật giáo không thể không giải quyết. Hình như trên thế giới chưa có nơi nào Phật giáo được thử thách trong quan hệ giữa “đạo” và “đời” như Phật giáo thời Lý Trần. Thực ra “xuất thế” và “nhập thế” không phải chỉ là vấn đề của riêng Phật giáo mà cả Nho và Đạo đều quan tâm. Nhưng những dị biệt của ba giáo lại có xu hướng hài hòa trước vấn đề trọng đại vào bậc nhất của dân tộc, đó là vấn đề dựng nước và giữ nước. Lịch sử Việt Nam chẳng bao giờ quên cống hiến của Phật giáo dưới thời Lý Trần đối với vấn đề này. Khai sinh cả hai triều đại Lý và Trần lẽ nào lại không có công lao của Phật giáo? Chẳng phải Lý Công Uẩn đã lớn lên từ nhà chùa và có lẽ nếu không có quốc sư Vạn Hạnh thì e rằng cũng chẳng có nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Nếu không có quốc sư Phù Vân núi Yên Tử hết lòng khuyên can vua Trần Thái Tông “Phật tại tâm chứ không phải tại tâm” thì Trần Thủ Độ cũng khó lòng chèo chống cho cơ đồ nhà Trần. Hình như đó cũng là một trong những lí do để sử sách đặc sệt ý thức hệ Tống Nho sau này “xem xét” cái gọi là tính “hợp pháp”, tính “chân chính của hai triều đại Lý Trần. Khâm định Việt sử thông giám cương mục phê: “Nhà Lý, nhà Trần lấy được nước, đều không theo chính nghĩa”18. Giá như không có cái gọi là chính nghĩa không biết từ đâu từ trên trời rơi xuống đó thì đỡ bất hạnh cho người dân Việt Nam biết bao nhiêu! Cũng may mà tư tưởng hài hòa sống động mới là ý thức xã hội thời Lý Trần chứ không phải là cái khung “chính nghĩa” lỗi thời mà chừng nào còn nó thì lịch sử Việt Nam còn dẫm chân tại chỗ.

Phật giáo không có cái “khung” giáo điều, chuẩn mực cho mọi nơi, mọi lúc, Phật tử “hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Trần Anh Tông trước khi qua đời đem đốt hết mọi thứ đã được viết ra, kể cả tập thơ Thủy vân tùy bút, chắc cũng vì không muốn cho con cháu đời sau phải cố chấp, không biết tùy thời biến đổi.

Biện chứng là vận động, biến đổi. Một trong tam pháp ấn của Phật giáo là “vô thường” (anitya), nghĩa là luôn luôn biến đổi (impermanent)19. Như trên đã đề cập, không phải chỉ có mâu thuẫn mới là động lực, thống nhất hoặc đúng hơn, hài hòa cũng là động lực của vận động biến đổi. Hầu hết các thiền sư thời Lý Trần đều lĩnh hội sâu sắc vấn đề này. Trong cái “sai biệt” có cái “vô sai biệt”, có cái hài hòa của những mặt đối lập. Hài hòa giữa “có” và “không” tức là hài hòa về bản thể luận là cơ sở để giải tỏa những khúc mắc khác. Thiền sư Cứu Chỉ cho rằng Phật giáo không bị bó buộc đối với “có” và “không”, cho nên đã “liễu ngộ” được lẽ sống – chết (Duy hữu Phật giáo bất hứa hữu vô, khả liễu sinh tử, Truyền đăng tập lục). Thiền sư Trí Thiền cũng quả quyết chỉ có Phật giáo mới đoạn tuyệt được với “có”, “không”, mới thoát khỏi vòng sống chết khổ sở (Nhiên xuất sinh tử khổ, đoạn hữu vô kế, phi Thích tắc bất năng dã. Truyền đăng tập lục). “Trung đạo” (Madhyamapratipad) của Nagarjuna, nói không với cái “có” và nói không với cả cái “không”, hay là “bình đẳng quan” (Samata), “bất nhị pháp môn”…của Phật giáo nói chung đều hiện diện ở Phật giáo Lý Trần. “Hài hòa” được diễn đạt theo thể phủ định, bởi vì nếu “mọi sự quy định là phủ định” (Omnis determinatio est negatio) thì phủ định cũng là quy định. Nói cách khác là luôn nhận thức đối tượng trong quá trình biến đổi. “Hài hòa” bắt đầu từ tồn tại, phi tồn tại. Phật giáo Lý Trần cũng vậy, cũng cần giải quyết việc trọng đại sống – chết của con người. “Liễu ngộ” sống – chết lại gắn liền với tồn tại hay không tồn tại của dân tộc. Cứu một mạng người bằng xây bảy ngôi chùa, cứu cả dân tộc thì công đức vô biên. “Nhập thế” hay “xuất thế” khi dân tộc vừa thức dậy sau hơn nghìn năm bị áp bức? “Nhập thế” hay “xuất thế” khi cả dân tộc đang bị đe dọa bởi kẻ thù xâm lăng. Đạo hay là đời, đời hay là đạo? Đặc điểm của Phật giáo Lý Trần chính là ở đây. Trần Nhân Tông vừa sống ở đời lại vừa vui với đạo một cách thản nhiên như đói thì ăn, buồn ngủ thì đi ngủ vậy (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, cơ tắc xan hề khốn tắc miên). Đúng là ‘đạo” cũng là “đời” mà “đời” cũng là “đạo”. Ai dám bảo Trần Nhân Tông, vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là không đắc đạo? Ai dám bảo Trần Nhân Tông, ngọn cờ của dân tộc hai lần đánh tan quân Nguyên Mông là không nhập đời? Hài hòa giữa đạo và đời hay tạm gọi là hài hòa giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất làm cho sức mạnh của một con người, của một dân tộc tăng gấp đôi. Chỉ những ai có đời sống hài hòa mới thưởng thức được những cái đẹp mà những kẻ bị cuốn hút vào vòng xoáy trục vật không thể nào không có được. Một bức tranh đồng quê hay là cả tâm hồn ngọ đạo của Trần Nhân Tông:

Thôn trước thôn sau mờ mờ như khói phủ
Cảnh vật trong bóng chiều nửa có nửa không
Mục đồng cất tiếng sáo lùa trâu về
Cò trắng từng đôi bay là là xuống cánh đồng.
(Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ sog song phi hạ điền).


Thực ra trên đời chẳng có ai lại quyết tâm bảo vệ cái hay, cái đẹp mà mình không nhận ra. Giá trị của triết lí hài hòa có ẽ chính là ở đó.

Ăng ghen nhận xét:

“Tư tưởng lí luận của thời đại đều là sản phẩm của một thời kì lịch sử. Trong những thời đại khác nhau nó có những hình thức hoàn toàn khác nhau. Do đó nó có những nội dung hoàn toàn khác nhau”20.

Vậy nội dung tư duy lí luận bốn trăm năm của thời đại Lý Trần, quốc gia Đại Việt vừa mới hưng thịnh chẳng bao lâu sau hơn nghìn năm chống ngoại xâm là gì? Nếu triết học hài hòa là “triết học chân chính” thì nó cũng là “tinh hoa tinh thần”21 của thời đại Lý Trần.

“Tinh hoa tinh thần” của thời đại tạo ra những giá trị bất hủ cho thời đại. Nguyễn Trãi hoàn toàn khách quan khi so sánh vị thế ngang ngửa giữa triều đại Lý Trần ở Việt Nam và triều đại Tống Nguyên ở Trung Quốc. Mỗi bên đều “làm chủ một phương”, khác về “bờ cõi núi sông”, khác về “phong tục”, nhưng “hào kiệt không bao giờ thiếu” (Bình Ngô đại cáo). Có lẽ nên bổ sung thêm một điều, đó là tính thông thoáng mà Huỳnh Thúc Kháng gọi là “không khí tự do” ở thời Lý Trần khác xa với thể chế chuyên quyền độc đoán của triều đại Tống Nguyên.

Cũng không phải ngẫu nhiên mà Lê Quý Đôn lại so sánh những điểm đồng dị của mỗi nơi:

“Nước ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng nhà Tống nhà Nguyên ở Trung Quốc. Lúc ấy tinh anh nhân tài, phong cách văn chương không khác gì ở Trung Quốc” (Kiến văn tiểu lục, Thiên chương). Lê Quý Đôn còn tự hào về sức mạnh quân sự thời nhà Lý. Ông cho rằng chính sử sách nhà Tống đã ghi chép việc Tống Thần Tông nghe theo Tống Duyên Khánh, tri châu đất Hoạt, học tập binh pháp của triều nhà Lý:

“Ấy, binh pháp của nhà Lý nước ta được triều Tống Trung Quốc bắt chước như thế!” (Vân đoài loại bgữ, quyển 1).
“Tinh hoa tinh thần” thời đại Lý Trần đặc sắc như vậy, nhưng tại sao khi chế độ phong kiến trung ương tập quyền càng củng cố bao nhiêu thì nó càng trở nên ‘vang bóng một thời” bấy nhiêu.

Vấn đề đó có liên quan đến tiến trình lịch sử của cả nhân loại. M.Weber cho rằng thực ra điều kiện vật chất, kinh tế ở phương Tây và phương Đông chẳng có gì khác nhau bao nhiêu trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Thậm chí ở một số lĩnh vực nào đó, phương Đông còn trội hơn cả phương Tây. Chẳng hạn như nhiều thế kỉ qua, sự phát triển đô thị ở Ấn Độ về nhiều mặt, tương đương như ở phương Tây. Hệ thống kĩ thuật sô, vi tính hiện đại đều có nguồn gốc ở Ấn Độ. Pháp luật, phân công lao động…đều không kém phương Tây. Trung Quốc và các nước khác ở phương Đông cũng vậy, họ không phải là người vốn sinh ra không biết làm kinh tế. Nhưng tại sao chỉ có phương Tây mới làm cho chủ nghĩa tư bản trở thành ‘động lực ngang dọc thiên hạ” (force overwhelm world)? (Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản). Theo Weber, có hai điều kiện tiên quyết: đó là tính quy phạm, còn gọi là điều kiện tinh thần và tính chế độ, còn gọi là điều kiện vật chất. Chỉ khi nào hai điều kiện đó thống nhất với nhau thì chủ nghĩa tư bản mới xuất hiện. Ấn Độ thiếu hẳn điều kiện tinh thân, đúng hơn là “không có tư duy siêu hình hỗ trợ về mặt tinh thần”. Còn ở Trung Quốc thì văn hóa Nho giáo trở thành lực cản, người dân an phận thủ thường “không sợ thiếu, không sợ nghèo”, kinh tế khá một chút đã vội thỏa mãn, thiếu ý chỉ tiến thủ, không thể nào động viên người dân thực hiện kinh tế tư bản chủ nghĩa được. Trong lúc đó ở phương Tây, kinh tế của tín đồ đạo Tin lành lại hướng về việc chứng minh cho cái gọi là “thiên chức” mà Chúa đã gửi gắm, như tinh thần khắc khổ tiết kiệm….Weber cho rằng đó là “một trong những nhân tố quan trọng về tinh thần của chủ nghĩa tư bản”, tinh thần này bắt nguồn từ “tinh thần cấm dục của Cơ đốc giáo”21.

Lập luận của M. Weber đã bị không ít nhà nghiên cứu chỉ trích, họ cho rằng sai lầm chủ yếu của Weber là đồng nhất Nho giáo ở các thời kì khác nhau và lẫn lộn giữa “phát sinh học” (Genetic) và “kết cấu” (Structure).

Có lẽ Weber cũng không hoàn toàn làm cho mọi người phải thất vọng, dẫu sao Weber cũng đã chỉ ra cái gọi là những hạn chế chung của xã hội phương Đông, trong đó có lẽ có cả xã hội thời Lý Trần. Weber cho rằng chủ nghĩa tư bản hình thành trước tiên ở thành thị, nhưng thành thị phương Đông luôn nằm dưới quyền điều hành của chế độ trung ương tập quyền hay quân đội, không được pháp luật, chính trị trao cho quyền tự chủ như ở phương Tây. Do đó, phương Đông chưa từng xuất hiện giai tầng tự do hóa. Ngoài ra quyền sở hữu, quyền tự do công dân….đều chưa được thừa nhận. Về tư pháp thì cực kì “phi lí tính” bởi vì pháp luật được thực hiện theo tinh thần chuyên chế, độc đoán cá nhân (Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản)22.

Xã hội thời Lý Trần đương nhiên chưa phải là chủ nghĩa tư bản, và cũng chưa đủ điều kiện để chuyển sang chủ nghĩa tư bản. Cái gọi là “dân chủ” như biểu hiện ở hội nghị Diên Hồng, như có người đã nhận định, thực ra cũng mới chỉ là phương tiện để “chủ dân” chứ chưa phải là “dân chủ”. Còn những hạn chế khác mà Weber nói tới đâu phải là “lỗi” của riêng thời đại Lý Trần.

Giá như lịch sử tiếp tục phát triển, đổi mới tư duy triết học hài hòa của chính mình, giá như lịch sử sớm hướng về những nhân tố hợp lý của kinh tế thị trường ở phương Tây như Nhật Bản chẳng hạn. Giá như lịch sử không tự đóng khung bằng những tín điều của Tống Nho, (Huỳnh Thúc Kháng còn gọi là cặn bã của Tống Nho), thì có lẽ xã hội phong kiến chuyên chế ở Việt Nam sẽ được rút ngắn hơn nhiều, chứ không phải kéo dài lê thê hàng nghìn năm như vậy. Lịch sử là thời gian, thời gian đã qua thì chẳng bao giờ trở lại, nhưng lịch sử thường hay lặp lại, lặp lại cả cái hay lẫn cái dở, bởi vì lịch sử không chỉ là thời gian.


TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN CUỐI CÙNG Ở VIỆT NAM & TỐNG NHO

Hiện nay ở các nước gọi là khu vực văn hóa Nho giáo, như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, không ai bảo ai nhưng họ giống nhau ở chỗ đều phân kì lịch sử triết học cận đại vào khoảng giữa thế kỉ XIX đến khoảng giữa thế kỷ XX. Có lẽ giai đoạn lịch sử triết học cận đại của Việt Nam cũng không nằm ngoài tiền lệ đó. Bởi vì đó là thời điểm cọ xát giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây ở khu vực địa lí này. Tuy nhiên mỗi một vùng đất lịch sử khác nhau, văn hóa khác nhau lại thể hiện điều đó theo cách khác nhau.

Học giả Nhật Bản Nizokuchi Yozo nhận xét về tư tưởng cận đại của các nước châu Á như sau:

“Cho dù là tốt hay là xấu, cuối cùng thế giới vẫn là thế giới này. Nói một cách cụ thể hơn, Nhật Bản là Nhật Bản, Trung Quốc là Trung Quốc, chấu Á là châu Á, châu Âu là châu Âu. Tất cả đều dựa trên nền tảng chung của nhân loại nhưng đồng thời mỗi nước lại có đặc điểm lịch sử, văn hóa riêng của mình. Những vấn đề đang đặt ra cho mỗi nước là do mỗi nước tự gánh vác.

Những vấn đề được đặt ra ở mỗi nước nếu so sánh với nhau, không có cái gọi là đi trước hay đi sau. Lịch sử và văn hóa riêng ở mỗi nước, mỗi dân tộc đều có giá trị bình đẳng như nhau”23.

Phương pháp nghiên cứu của Nizokuchi Yozo cũng rất có lý:

“Chúng ta không thể trốn tránh lịch sử và văn hóa cố hữu của mình. Nếu thực sự muốn cải cách lịch sử và văn hóa của nước nhà thì việc đầu tiên phải bắt tay nghiên cứu một cách chính xác diện mạo thật sự của lịch sử văn hóa dân tộc.
Mặt khác, muốn nghiên cứu chính xác diện mạo lịch sử, văn hóa của nước nhà thì cần phải hiểu biết chính xác lịch sử, văn hóa của những nước khac. Sau đó, so sánh một cách chính xác nước mình với nước khác, như vậy mới có thể đánh giá một cách đúng đắn giá trị lịch sử cũng như giá trị văn hóa của mỗi một nước”24.

Lịch sử chẳng có thời kì nào mà không quan trọng cả, nhưng quá khứ là cái đã qua, tương lai là cái chưa tới, cho nên hiện tại mới là cái thực sự đang tồn tại. Quá khứ cắt nghĩa hiện tại, hiện tại cắt nghĩa tương lai. Thời kì cận đại là bản lề của quá khứ và hiện tại.

Cũng như triều đại phong kiến trước đó, ý thức hệ của nhà Nguyễn vẫn là ý thức hệ Nho giáo. Nhưng Nho giáo ở triều Nguyễn là Nho giáo nào? Ở Trung Quốc, từ khi Nho giáo xuất hiện ở thế kỉ VI trước công nguyên cho tới tận ngày nay không phải thời kì nào cũng như nhau, nếu như không muốn nói rằng ông Khổng Tử trước và ông Khổng Tử sau lắm khi không nhận ra nhau. Người ta cho rằng Tống Nho là đỉnh cao của Nho giáo ở Trung Quốc, Tống Nho đã triết học hóa Nho giáo bằng thuyết Lý khí. Tống Nho cũng tôn giáo hóa Nho giáo bằng cách siêu việt hóa, biến cái gọi là “lý” trở thành “thiên lý” và đặt nó trong quan hệ đối lập với “nhân dục” (dục vọng của con người). Cho dù điều đó đúng hay sai đi nữa thì sự khác nhau giữa Nho giáo một nghìn năm đầu và một nghìn năm sau chắc chắn không thể tránh khỏi, mặc dù “trọng truyền thống” là đặc điểm của văn hóa phương Đông.
 
Nho giáo hiện diện ở Việt Nam không phải chỉ là Nho giáo ở thiên niên kỉ trước hoặc thiên niên kỉ sau mà có đủ cả trước và sau. Vào thế kỉ II trước công nguyên, Triệu Đà và nhiều chính khách Trung Hoa với nhiều lí do khác nhau đã truyền bá Nho giáo vào Việt Nam. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục nhận xét có lý rằng người truyền bá Nho giáo sớm nhất vào nước ta không phải là Sĩ Nhiếp, Nhâm Diên, Tích Quang mà chính là Triệu Đà bởi vì:

“Triệu Đà làm vua ở nước Nam Việt và truyền nối đã ngót trăm năm. Xem bức thư trả lời Văn đế nhà Hán thì Triệu Đà vốn là người có học thức, có lẽ nào lại chưa biết dạy dân phép cấy cầy và lễ giá thú mà phải đợi bắt đầu từ hai thái thú ấy?”25.

Bán đảo TRiều Tiên cũng cận kề với lục địa Trung Hoa, hơn nữa vào năm 108 trước công nguyên, Hán Vũ Đế đã thiết lập chế độ quận huyện ở Triều Tiên kéo dài hơn 4 thế kỷ, cho nên Triều Tiên đương nhiên cũng là nơi chịu ảnh hưởng Nho giáo sớm nhất. Nhưng theo nhận định của công trình Lịch sử triết học Triều Tiên của Viện Khoa học nước cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên xuất bản năm 1962 cho rằng Nho giáo có thể du nhập vào Triều Tiên từ thế kỷ V thế kỷ VI trước công nguyên chỉ e rằng cũng thiên về phỏng đoán hơn là dựa vào căn cứ xác thực. Nhiều công trình khảo cứu cho rằng Nho giáo vào Triều Tiên khoảng thế kỷ III trước công nguyên26. Như vậy Nho giáo vào Triều Tiên hoặc đồng thời hoặc sớm hơn Việt Nam ít nhiều.

Nho giáo đến với Nhật Bản có phần muộn màng hơn so với nhiều nước khác. Mãi đến thế kỷ III sau công nguyên, Nhật Bản mới gián tiếp chịu ảnh hưởng Nho giáo từ Triều Tiên, tập quán xưa nay vẫn cho rằng A Trực Kỳ và Vương Nhân là những người đầu tiên truyền bá Nho giáo vào Nhật Bản. Hai trăm năm sau, vào thế kỷ V, Nhật Bản mới chịu ảnh hưởng trực tiếp Nho giáo từ Trung Quốc27. Nho giáo đi đến đâu thì chữ Hán, cái vỏ dùng để biểu đạt tư tưởng Nho giáo cũng theo đến đấy. Trước thế kỷ V Nhật Bản chưa có chữ viết, cho nên tiếp thu Nho giáo đồng thời cũng có nghĩa là tiếp thu chữ Hán. Ngôn ngữ đa âm của Nhật Bản phải sáng tạo thêm chữ Katakana, Hiragana mới có thể hài hòa Nho giáo bên kia bờ đại dương với văn hóa của xứ sở hoa Anh đào.

Nho giáo tuy vào Việt Nam từ thuở xa xưa nhưng cũng không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Từ khi nhà Lý rời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long vào đầu thế kỉ XI và sau đó chẳng bao lâu đã trùng tu Văn miếu, mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử, tôn tạo Quốc tử giám…..Có thể xem đó là những dấu hiệu ban đầu chủ động gặp gỡ của giai cấp phong kiến đối với Nho giáo hay nói cách khác là Nho giáo đã chính thức trở thành một trong ba cây cột trụ tinh thần chống đỡ toàn bộ kiến trúc triều đại nhà Lý và cả triều đại nhà Trần sau này. Hình như sự ra đời của cố đô Thăng Long và sự thăng trầm ngót nghìn năm lịch sử của nó thấp thoáng có bóng dáng Nho giáo. Triều Tiên và Nhật Bản hơi khác ở chỗ ngay từ đầu, hình như họ chủ động đến với Nho giáo hơn là thụ động suốt hơn mười thế kỷ như Việt Nam.

Đỉnh cao của Nho giáo ở Trung Quốc là Tống Nho. Tống Nho cũng được gọi là “Đạo học” hay “Lý học”. “Tâm học” được xem là một phần của Lý học. Ở Việt Nam, nói đến Tống Nho chủ yếu nói đến Trình – Chu (Trình Hạo, Trình Di và Chu Hy). Hình như Tâm học của Vương Dương Minh được đề cao và ảnh hưởng nhiều ở Nhật Bản, Triều Tiên hơn là ở Việt Nam. Trần Trọng Kim cũng đã cảm thán về tình trạng học thuật “cách li” trong lịch sử Việt Nam:

“Hãy xem như ở bên Tàu, trong đời nhà Minh và nhà Thanh có bao nhiêu học phái ta cũng không biết. Một cái học như Dương Minh học đầy khắp cả nước Tàu và tràn sang đến nước Nhật Bản, mà ở bên ta không thấy ai nói đến. Hoặc giả có người nào biết mà nói ra, thì cũng không có ảnh hưởng gì đến sự học thuật”28.

Như vậy, tuy cũng là Tống Nho nhưng Tống Nho ở Nhật Bản và Triều Tiên có thêm vị trí quan trọng của Vương Dương Minh trong khi Việt Nam lại “không thấy ai nói đến”. Đó có lẽ là điều khi nghiên cứu lịch sử triết học Việt Nam cũng không thể không nói đến.

Tống Nho truyền bá vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ XII đời nhà Trần. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép:

“Quý Sửu năm thứ 3 (1253)…..tháng 9, xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng học Tứ thư lục kinh“.

Ai cũng biết kinh điển của Nho giáo trải qua thời gian rất dài để rồi cuối cùng mới định hình thành Tứ thư ngũ kinh như thường gọi. Tứ thư bao gồm Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Đại học. Trung dung và Đại học vốn là hai thiên trong sách Lễ ký, người đầu tiên tách Đại học thành sách riêng biệt là Hàn Dũ và là người đầu tiên tách Trung dung thành sách riêng biệt là Lý Cao. Tuy nhiên, Trình Hạo, Trình Di mới đúng là người chính thức “đề xướng sách Đại học, Trung dung là sách độc lập tách khỏi sách Lễ ký“29. Nhưng sách Đại học, Trung dung trở thành “thư” và cùng với Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân thu trở thành ngũ kinh, thực ra bắt đầu từ khi Chu Hy hợp nhất các sách Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học và chú thích gọi là Tứ thư tập chú, in ấn phát hành vào năm Quang Tông Thiệu Hưng nguyên niên Nam Tống (1190)30. Năm Diên Hựu (1314 – 1320) triều đình nhà Nguyên hạ lệnh khoa cử phải lấy sách Tứ thư tập chú làm mẫu mực và từ đó trở đi đến cuối đời Thanh, suốt 700 năm trở thành sách gối đầu giường của sĩ tử thập phương31.

Tống Nho được truyền bá ở Việt Nam chậm nhất là vào giữa thế kỷ XIII. Không biết ngẫu nhiên hay là tất yếu mà Tống Nho chiếm lĩnh “thị trường” tư tưởng ở Nhật Bản và Triều Tiên cũng suýt soát vào thời điểm này. Tuy vẫn còn ý kiến khác nhau về thời điểm Tống Nho ở xã hội Nhật Bản, nhưng hầu hết các học giả đều cho rằng Tống Nho được truyền bá ở Nhật Bản cũng vào khoảng giữa thế kỷ XIII, thời đại Liêm Xương (Kamakura Bakufu Jidai) (1193 – 1333), do những vị Tăng Nhật Bản lặn lội du học ở Trung Quốc mang về hoặc do con thuyền của những vị Tăng Trung Quốc rẽ sóng đến với xứ sở hoa Anh đào sùng Phật chở theo cả ông Chu Hy lẫn Vương Dương Minh32. Tuy nhiên phải trải qua 350 năm sau đó, mãi đến năm 1603 mới được Đức Xuyên mộ phủ (Tokugawa) công nhận là “quan học”, mới trở thành độc tôn ở Nhật Bản33. Như vậy thời đại Đức Xuyên, cũng được gọi là thời đại Giang Hộ (Edo Jidai) (1603 – 1867), thời đại cực thịnh của xã hội phong kiến Nhật Bản đã gắn bó mật thiết với Tống Nho.

Tống Nho hiện diện ở bán đảo Triều Tiên cũng vào khoảng thế kỷ XIII (hậu kỳ vương triều Cao Ly). Lý Sắc, Trịnh Mộng Chu, Trịnh Đạo Truyền…..đều là những nhà Chu Tử học nổi tiếng lúc bấy giờ. Tuy nhiên cũng vào thế kỉ XV sau khi vương triều Lý hình thành (1392), Tống Nho mới được độc tôn34. Hóa ra số 13 là con số “xui xẻo” của phong kiến phương Tây, nhưng hình như lại là con số “hên” của phong kiến phương Đông!

Tống Nho được truyền bá gần như cùng một lúc ở Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, nhưng có lẽ lên tiếng phê phán mạnh mẽ Tống Nho sớm nhất lại bắt đầu từ Việt Nam. Vào cuối thế kỉ XIV (năm Nhâm Thân 1392), Hồ Quý Ly chẳng có chút nể nang gì đối với Tống Nho cả. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép:

“Quý Ly làm sách Minh Đạo 14 thiên dâng lên, đại khái cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư. Ở Văn miếu thờ Chu Công chính giữa, ngoảnh về phương Nam, Khổng Tử ngoảnh về phương Tây. Cho rằng sách Luận ngữ có 4 chỗ đáng ngờ như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, ở nước Trần hết lương, Công Sơn Phật Hất gọi mà Khổng Tử cũng muốn đến…..Cho rằng Hàn Dũ là nhà Nho ăn cắp văn người khác, Chu Mậu Thúc, Trình Hạo, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Tử đều là học thì rộng nhưng tài thì kém, không ích lợi gì cho đời, chẳng qua cũng chỉ là ăn cắp văn chương của người xưa mà thôi!”35.

Nhận xét có phần “qúa trớn” của Hồ Quý Ly đương nhiên không thể tránh khỏi phản ứng kịch liệt của những “ông Chu Hy” Việt Nam:

“Chu Tử sinh ở cuối đời Tống, tiếp nối các tiên Nho Hán Đường, chú giải sáu kinh, ngược dòng tìm nguồn, lãnh hội được ý của thánh nhân ở sáu kinh, rõ ràng được đạo thánh trong lời chú giải. Luận bàn một cách kĩ càng nghiêm túc, thấm sâu vào lòng người, thuyết minh rõ ràng, chỉ dẫn xa rộng, được gọi là Tập đại thành của Nho học, là mẫu mực cho kẻ hậu học. Huống hồ lại có Trình Tử khởi xướng phía trước, Chu Tử bổ sung những chỗ chưa đủ phía sau. Như vậy là nghĩa lí tinh tường lắm rồi, kẻ hậu sinh chỉ có thể mở rộng thêm ra, trau chuốt cho bóng bẩy hơn nữa mà thôi, cớ sao lại còn dám chê bai tranh cãi?”36.

“Bản án” của Hồ Quý Ly làm cho những kẻ hậu sinh sau đẻ muộn nhụt hết ý chí. Ngay những nhà bác học, nhà khảo cứu lừng danh như Lê Quý Đôn, khi đặt bút viết cái gì cũng phải rào trước đón sau. Trong lời tựa sách Dịch kinh phu thuyết, Lê Quý Đôn viết:

“Tôi là kẻ ngu hèn kém cỏi, kính cẩn đọc sách thánh hiền, nghiền ngẫm Truyện, Nghĩa của Trình Tử, Chu Tử, kê cứu thêm chú giải của Tiên Nho, bồi hồi cảm thán viết thêm mấy lời, gộp lại thành năm quyển cốt để tu dưỡng tính chứ đâu dám gọi là công trạng, sự nghiệp gì cho cam”.

Trong lời tựa sách Thư kinh diễn nghĩa ông thanh minh rằng chẳng lúc nào ông dám xa rời giáo lý Tống Nho, lúc nào “cũng không dám sính lời bàn mới lạ để trái với lời bàn trước của Y Xuyên (Trình Di) và Khảo Đình (Chu Hy).

Ông Chu Hy quả thật là lợi hại! Ông đã triết học hóa và đưa Nho giáo lên đỉnh cao. Nhờ có ông mà nhà Lê đã phối hợp chặt chẽ giữa “đạo thống” (chính trị nhất thống) và “học thống” (học phong nhất thống), làm cho xã hội trở thành đơn điệu hóa, không ai dám nghĩ gì khác ngoài đạo lý cương thường đã hóa đá, nói chi đến cái gọi là sáng tạo. Đến nỗi Nguyễn Trãi, tác giả bản anh hùng ca”Bình Ngô đại cáo” oanh liệt một thời, chẳng bao lâu đã phải than thở rằng:

“Ai ai cũng bằng câu hết
Cả nước chẳng còn có Sử ngư”


Tuy nhiên, về mặt nào đó, xã hội cũng không phải không có những bước phát triển nhất định, cũng có những biểu hiện phồn vinh nào đó. Tình trạng “mát mái xuôi chèo” này đã sản sinh ra những kiểu văn chương như Tao Đàn nhị thập bát tú, những Thiên Nam dư hạ…..những ngâm vịnh “âm dương, nhật nguyệt” phong lưu tao nhã, thoát tục, giữa vua tôi, nhưng khá nổi hình như quanh đi quẩn lại cũng chẳng có điệp khúc gì mới. Tác giả Lịch sử Việt Nam nhận xét rằng:

“Thơ của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn để lại khá nhiều về số lượng, nhưng nội dung chủ yếu chỉ nhằm ca tụng, sùng bái nhà vua nên hình thức cầu kì, khuôn sáo, tư tưởng tình cảm thiếu chân thật”37.

Tác giả Lịch sử Việt Nam giải thích nguyên nhân của hiện tượng đó như sau:

“Do thắng lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh giành độc lập, ý chí xâm lược của phong kiến phương Bắc bị đè bẹp và nạn ngoại xâm không còn là mối đe dọa trực tiếp nữa. Ở trong nước, tinh thần độc lập và ý chí tự lập tự cường được nâng cao thêm……Đó là những tiền đề chính trị và kinh tế cho sj củng cố quốc gia thống nhất và chế độ trung ương tập quyền. Nhưng mặt khác, khi nhiệm vụ lịch sử chủ yếu chống ngoại xâm đã hoàn thành về cơ bản thì giai cấp phong kiến lại có chiều hướng tăng cường chế độ chuyên chế. Chế độ trung ương tập quyền vì thế phát triển theo khuynh hướng quân chủ chuyên chế”38.

“Từ khi đi học cho đến khi đi thi, học sinh phải rèn luyện theo khuôn khổ Nho giáo, học tập sách kinh điển của Nho giáo và lịch sử các vương triều phương Bắc. Đối với tầng lớp Nho sĩ, làm quan là lí tưởng cao siêu nhất, tất cả lí trí, tình cảm và hành vi đều phải theo đúng “đạo của thánh hiền”. Lối đào tạo đó tất nhiên hạn chế đầu óc suy nghĩ độc lập, bóp nghẹt ý chí phê phán của con người. Lớp Nho sĩ do nhà Lê đào tạo ra khá đông và không phải không có những người xuất sắc về học vấn và năng lực. Nhưng tài năng của họ bị thế giới quan của Nho giáo khống chế, bị khuôn khổ chật hẹp của chế độ chuyên chế gò bó. Trong số họ, chỉ một số ít người có tinh thần dân tộc mạnh mẽ mới trở thành học giả, những nhà thơ, nhà văn, nhà sử học lỗi lạc có cống hiến với học thuật nước nhà”39.

Lê Quý Đôn nhận xét rằng thời Lê sơ những người làm quan trong triều “phần nhiều bộc lộ chí khí sáng suốt, có những lời nói quả cảm”. Nhưng khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức, mở rộng khoa cử, tuyển nhiều nhân tài, sĩ tử tập lối văn chương bóng bẩy, đục gọt từng câu, mong sao được đỗ để ra làm quan. Nay muốn tìm lấy hạng người khí tiết, khảng khái trong thời này, xem ra có phần thưa thớt”.. Còn từ đầu thế kỷ XVI về sau, theo Lê Quý Đôn thì quả là thời kì sa sút đáng cảm thán”

“Từ năm Đoan Khánh (1505 – 1509) trở về sau, lời bàn luận sáng suốt bẵng đi, thói cầu cạnh ngày một thịnh, người có chức vị ít giữ được phong độ thanh liêm nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp việc thì rụt rè cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dẫu người được gọi là bậc danh nho cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa. Rồi nào thơ, nào ca trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là cùng, tệ hại biến đổi lần này không thể nào nói ho xiết được”40.

Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng có lẽ là một trong những học giả chính khách khảng khái, ưu thời mẫn thế ở thế kỉ XX, chua xót nhất đối với tình trạng học thuật hư danh, đồi bại này. Theo ông, phong hóa nước nhà bắt đầu bước vào con đường sa sút kể từ khi Tống Nho vàoViệt Nam:

“Nói tóm lại, thời đại nước ta thuộc Minh chỉ trên vì mươi năm (kể từ nhà Hồ mất năm 1406, đến vua Lê Thái Tổ hiệu Thuận Thiên năm đầu 1428) mà học giới nước ta bị luồn khí độc, làm cho cái học hay tốt từ đời Trần về trước quét sạch sành sanh, không còn sót chút gì, lại lưu cái họa bùa mê của Tống Nho nhập chung với con ma khoa cử làm hại học giới nước ta sau này….”41.

Huỳnh Thúc Kháng vẫn xem Hồ Quý Ly là một “tay gian hùng”, nhưng lại đánh giá cao việc Hồ Quý Ly bài xích Tống Nho:

“Hồ Quý Ly có làm bản Minh Đạo, 14 thiên, trong đó có trích 4 điều nghi ngờ trong sách Luận ngữ và chê bọn Chu, Trình là học rộng mà tài sơ. Thì cái thông tệ và chỗ sở đoản của Tống Nho, người mình lúc bấy giờ, đã có kẻ thấy đực rõ ràng, nào có phải là nhất vị theo mù như sau này đâu. Dù là cái án ấy xuất tự tay gian hùng, song lấy cái nghĩa “không lấy người mà bỏ lời nói”…..thì chúng ta phải nhận cái án Tống Nho mà Hồ Quý Ly đã tuyên bố trên là cái thiết án rất xác dáng”43..

Theo ông “nếu học phong hời Trần không có chút không khí tự do” thì Hồ Quý Ly đâu dám phê phán Tống Nho. Theo Huỳnh Thúc Kháng, phong hóa đặc sắc, có một không hai của đời Trần về trước sở dĩ có được là nhờ ở chính sách gọi là “tự do”.

“Tín giáo được tự do nên tư tưởng có chiều phát triển. Trong lịch sử nước Nam ta về đời Trần, không những võ công trác tuyệt (đánh đuổi quân Nguyên) mà nói đến học giới, có vẻ cao hơn Tống Nho nhiều, không kể triều Lê về sau, lối học khoa cử và thuyết Tống Nho đã tràn sang bên kia”44.

“Xem đó học giới đời Trần có vẻ đặc sắc, lúc bấy giờ tín giáo còn tự do, cái học khoa cử chưa bó buộc, học thuyết Tống Nho cũng mới truyền sang, chưa thịnh hành, nên học vấn có vẻ phát triển, mà nhân tài đời ấy cũng sản xuất nhiều tay lỗi lạc phi thường, có mạt như lói học nhà Nho sau này đâu”45.

Như vậy là do độc tôn Tống Nho, kết hợp với chế độ khoa cử “câu cơm” làm cho học phong xã hội nước ta từ triều Lê đã sa sút dần. Sang đến triều nhà Nguyễn học phong lại càng ngày càng xuống cấp bởi vì nhà Nguyễn không những vẫn tiếp tục mà còn đẩy mạnh hơn chính sách độc tôn Tống Nho cũng như chế độ khoa cử hư danh của triều Lê trước đó. Chỉ cần đọc bài “Biện luận về Đạo” của Tự Đức cũng đủ thấy quan niệm “đạo thống” của ông triệt để đến mức nào. Ông kịch liệt bác bỏ mọi tôn giáo, mọi học thuyết “phi chính thống” lúc bấy giờ. Ông tuyên bố:

“Còn như đạo Lão, đạo Thích, đạo Gia tô………chỉ là những thứ do một số người tự tôn lên chứ không phải là đạo”.
Chính vì vậy nên Huỳnh Thúc Kháng đã chê bai triều Nguyễn một cách thậm tệ.

“Khốn nạn thay! Sau đại định rồi, lại đem cái đồ phấn sức thái bình là thứ học Tống Nho và khoa cử kia mà trương ra! Đến triều Thiệu Trị, Tự Đức trở đi thì toàn cả sĩ phu đều xu vào trong một cái khuôn sáo áy”.

Theo ông, thỉnh thoảng có được một vài người “vượt ra ngoài phạm vi Tống Nho, thời không sao dung được với đời. Còn ngoài ra, rành là cái nào “thi đỗ làm quan, rung đùi ngâm vịnh”, không có tư tưởng gì là thực dụng . Lối học khoa cử đời Lê đã kém hèn là bao nhiêu, mà lối học triều Nguyễn lại kém hèn hơn nữa”46.

Theo Huỳnh Thúc Kháng thì tư tưởng, học phong của thời kì cận đại là kết quả, đồng thời cũng là sự tiếp nối theo chiều hướng càng ngày càng xấu của thời kì trước đó”.

“Hán học ở nước ta trên trăm năm lại đây, không những không được như Tống Nho (cặn bã của Tống Nho) lại kém hơn lối học khoa cử của triều Lê một bậc nữa. (Triều Lê thi cử cần phải học nhiều sách, đời Nguyễn chỉ học bộ “tiết yếu” nói trên là đủ rồi)….Than ôi! Cái học Khổng Mạnh lai ra Tống Nho, Tống Nho lại lai sang khoa cử, đến TốngNho và khoa cử nhập chung lại mà lai ra cái học “Tiết yếu” của Bùi Huy Bích, thì trong học giới ấy còn bảo có nhân tài xuất hiện được hay sao?”47.

Văn minh phương Tây ảnh hưởng đến các nước thuộc văn hóa Khổng giáo ở châu Á vào khoảng giữa thế kỉ XIX. Triều Tự Đức ở nước ta chính là võ đài chung kết của trận đấu giữa hai võ sĩ này. Trong các nước thuộc khu vực văn hóa Khổng Giáo, Việt Nam là nơi tiếp thu văn minh phương Tây muộn màng nhất. Trong khi Tống Nho ở Trung Quốc bị xu hướng thực học (Huỳnh Thúc Kháng và nhiều chí sĩ khác thường gọi là thực dụng) đả kích tới nơi tới chốn, sau đó lại bị các nhà cải cách bồi thêm bằng những thế võ “khoa học”, “dân chủ” học được ở phương Tây làm cho triều đại Mãn Thanh không muốn “biến” cũng phải biến thì ở Việt nam, chẳng mấy ai biết đến cái gọi là “thực học”, còn tư tưởng cải cách, theo Huỳnh Thúc Kháng “nếu mà không có cái cuộc chính biến nước Tàu (1898) cùng cuộc Nga Nhật chiến tranh (1904), sách mới Khương, Lương truyền sang, thì giấc mộng bát cổ của sĩ phu ta, e đến ngày nay cũng chưa nguôi”48.
Trong khi ở Nhật Bản phong trào Duy Tân rầm rộ, ảnh hưởng của Lan học (Hà Lan học) phổ biến khắp nơi thì ở nước ta những sĩ phu thức thời như Đinh Văn Điền, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch….cho dầu chỉ mới kêu gọi hãy quan tâm đến đời sống hiện tại, bớt trông về quá khứ Nghiêu Thuấn, hãy nhìn xuống đất hơn là cứ nhìn lên trời, vậy còn bị cho là thuộc loại đầu óc “điên cuồng”, nói gì đến cải cách to tát. Tuy nhiên, cái gì đến thì trước sau cũng phải đến. Cho nên “sau trận Nga Nhật đánh nhau (1904), sách mới truyền sang, khuấy tan cái vùng không khí mây mù lâu nay. Từ đó kẻ xướng phế khoa cử, người cổ động Tây học, phong trào Âu hóa tràn khắp trong xứ mà cái học “Tử viết” từ đó phải hạ màn xuống”. Nhưng cho dù có tiếp thu Âu học đi nữa thì cũng không thể triển khai vào đời sống quốc kế dân sinh như ở những nơi khác, ngược lại chính bởi vì “cái não Tống Nho và khoa cử di truyền đã lâu, không phải mài chùi rửa cho sạch được. Bởi thế cái vỏ bề ngoài tuy đổi khác mà cái gân óc bề trong vẫn còn y nguyên”49.

Chẳng trách Phan Chu Trinh cho rằng trước đây là “hủ Nho” thì bây giờ gọi là “hủ Âu”.

“Hủ Nho” và “hủ Âu” của thời cận đại là hậu quả của thời cổ đại. Đó là hiện thực đáng buồn của lịch sử, nhưng cái đáng lo hơn chính là cái gì để lại cho đời sau đây? Huỳnh Thúc Kháng than thở rằng:

“Ôi! Có lẽ linh hồn người minh đã bị cái học Tống Nho nhiễm sâu mà không chữa được hay sao! ….Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, ở trên cõi đời không có cái gì vượt ra ngoài luật nhân quả. Bởi vì cái học Tống Nho và khoa cử là cái nhân ngày trước mà ngày nay chúng ta phải mang cái quả không tốt kia. Nếu ngày nay trong học giới ta không lo tạo cái nhân tốt thì cái quả xấu sau này biết đâu là bờ”50.

Huỳnh Thúc Kháng lên án gay gắt nhất tệ hại từ đời Lê đến đời Nguyễn là chính sách độc tôn Tống Nho và chế độ khoa cử hư danh, hủ bại. Tuy nhiên, Huỳnh Thúc Kháng cũng không có thời gian chỉ rõ hơn cái gọi là “độc hại” của Tống Nho, thực chất là cái gì? Như trên đã đề cập, đối trọng của Tống Nho ở ngay Trung Quốc hoặc ở các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên mạnh hơn ở Việt Nam nhiều. Điều đó càng chứng tỏ ảnh hưởng Tống Nho ở Việt Nam sâu sắc hơn mà thôi. Những sĩ phu ít nhiều đối trọng với Tống Nho như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát..thực ra cũng chỉ tập trung phê phán Tống Nho ở chỗ thiếu quan tâm, xa dời đời sống thực tế, hoặc đôi lời chỉ trích “có mức độ”. Hãy xem vài nhận xét của Nguyễn Văn Siêu về Chu Hy:

Tập chú của Chu Hy cho rằng “trời lấy âm dương, ngũ hành hóa sinh ra muôn vật, khí làm nên hình mà lý cũng hình thành từ đấy”. Như thế có nghĩa là khí làm chủ mà lý là phụ. Thuyết âm dương, ngũ hành là gốc của Thái cực đồ thuyết của Chu Đôn Di, cho nên đã được ghi đầy đủ. Nhưng xét thấy ở Kinh Dịch chưa từng nói đến khí và cũng chưa thấy nói đến ngũ hành…có phân biệt lí và khí gì đâu. Tiên Nho đời Tống chỉ tranh biện về thứ tự trước sau của lí và khí, cho nên có chỗ thì nói lí có trước khí có sau, có chỗ lại nói khí làm nên hình mà lí cũng xuất hiện từ đấy. Như vậy thành ra mỗi chỗ nói một khác, không phù hợp với nhau” (Tứ thư trích giảng).

Tập chú của Chu Hy giải thích “minh đức” là đức sáng do trời phú cho…Nói như thế là cho rằng tâm làm cho đức sáng sủa. Như vậy thì chẳng khác gì nhà Phật nói “minh tâm”.

Tập chú giải thích “chí thiện” là sự lí đương nhiên rất mực. Như vậy chỉ giải thích cái bên ngoài mà không giải thích cái bên trong. Đã vậy thì làm sao có thể cho rằng “minh đức” là “tính thiện” (Tứ thư trích giảng).

Phê phán như vậy đương nhiên là rất cần thiết, nhất là đối với học phong lúc bấy giờ. Tuy nhiên cũng chưa chỉ ra được mặt trái của Tống Nho. Chưa có thể xem như là một “đối trọng” của Tống Nho đương thời. Tệ hại không phải chỉ ở chỗ “độc tôn” Tống Nho mà chính là ở bản thân Tống Nho.

Tống Nho là bước tiến, đồng thời cũng là bước lùi trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Tống Nho đã đưa Nho giáo lên đỉnh cao, đã triết học hóa Nho giáo bằng lí thuyết Lí khí. Trong khi nó “tập đại thành” và hoàn thiện hệ thống lí luận thì cũng có nghĩa là nó đã củng cố hệ thống chính trị phong kiến bằng cách làm cho người ta từ quá trình “bị” trở thành “được” tinh vi hơn, tự nguyện hơn.

Tống Nho thường được gọi là “Lý học” hay “Đạo học”, bắt đầu từ Chu Đôn Di với “Thái cực đồ thuyết”, Trình Hạo và Trình Di tiếp nối và đỉnh cao là thuyết “tồn nhân lí, khử nhân dục” (giữ gìn đạo lí trời sinh ra và loại trừ dục vọng con người) của Chu Hy. Người ta còn gộp cả “Tâm học” của Vương Dương Minh vào cái gọi là Tống Nho. Tuy nhiên, Tống Nho có mặt ở Việt Nam chủ yếu là “Trình chu” (Trình Hạo, Trình Di và Chu Hy). Học thuyết của họ có thể tóm lại ở ba điểm sau đây:

1. Thuyết Lý – Khí

Thế gian hữu hình đang tồn tại không thể không lí giải từ bản thân nó mà phải lí giải từ cái ngoài nó. Cũng như muốn lí giải hoạt động của con rối thì phải lí giải từ phía sau của những kẻ đang điều khiển nó. Kẻ đứng sau đó là “Lý”. Là cái không thể thấy được (hình nhi thượng). Cái không thể thấy này đương nhiên là có trước, quyết định cái có sau là “khí” (thế gian hữu hình). Khí nhất nhất không được vượt khỏi tầm tay Lí. Không có cái gì được gọi là sáng tạo hay đổi mới mà tất cả chỉ làm sao không ra khỏi khuôn khổ “lí” đã được quy định từ trước. Chu Hy đã giành 40 năm trời để chú thích Tứ thư ngũ kinh, kinh điển của Nho giáo. Chú thích của Chu Hy trở thành nhận thức “chuẩn” làm mẫu mực cho sĩ tử khoa bảng suốt 700 năm sau đó. Chú thích này đương nhiên cũng được bệ vào làm chuẩn cho sĩ tử ở Việt Nam lúc bấy giờ. Cho nên cái gọi là học vấn thực ra chỉ là cốt nói theo cho đúng với Chu Hy mà thôi. Mọi suy tư ngoài chuẩn ra đều không thể tồn tại.

2. Quan hệ giữa Lý và Dục


Hệ thống chính trị của Tống Nho cũng như ở xã hội phong kiến ở các nước trong khu vực văn hóa Nho giáo, cơ bản là hệ thống đạo đức – chính trị. Chính trị vững hay không tùy thuộc vào đạo đức, đạo đức lên hay xuống tùy thuộc vào chính trị vững hay không vững. Thuyết Lí – khí nhằm thuyết minh cho hệ thống chính trị phong kiến là duy nhất bất biến (Lí có trước quyết định và không bao giờ thay đổi). “Lí” là biểu hiện tập trung của chính trị, đồng thời cũng là toàn bộ nội dung tư tưởng đạo đức xã hội. Nói cách khác “lí” là cái thiện tuyệt đối, thể hiện ở cái gọi là “tam cương ngũ thường”. “Ngũ thường” là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. “Ngũ thường” là nền tảng của “tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương). “Lý” là tính “thiện” của con người, cho nên “Lí” cũng là “tính”. “Lý” và “Tính” là chuẩn mực đạo đức của con người. Muốn tu dưỡng và đạt được chuẩn mực đạo đức này thì cần phải đặt trong quan hệ giữa “lí” và “dục”. “Dục” là nhu cầu sống tự nhiên của con người. Nhu cầu nay duy trì sự tồn tại của con người, đồng thời cũng tiềm ẩn mẫu thuẫn hệ thống chính trị. Do đó, chấp nhận nhu cầu cần thiết cũng như ngăn chặn nhu cầu “vượt mức” cũng chỉ là một. Bởi vì “mức” độ khó xác định, cho nên logic tất yếu thường dẫn tới là “tồn thiên lí, khử nhân dục”. Cho nên người ta thường phê phán Tống Nho “không biết sự tình” chính là như vậy. Làm gì có sự bền vững của hệ thống chính trị luôn đặt trong quan hệ đối lập với nhu cầu sống của người dân? Cho nên một trong hậu quả dẫn đến là quan hệ giữa Nước và nhà càng yêu cầu thống nhất bao nhiêu thì lại càng bị tách rời bấy nhiêu.

3. Quan hệ giữa Nghĩa và Lợi


Nghĩa là nghĩa vụ, cống hiến đối với xã hội. Lợi là quyền lợi, hưởng thụ từ xã hội đem đến. Con người sống ở đời ai cũng phải làm việc, phải cống hiến cho xã hội, nhưng đông thời cũng hưởng thụ lợi ích của xã hội. Tống Nho thường đặt “nghĩa” và “lợi” trong quan hệ đối lập. Quan niệm “nghĩa” là hạnh phúc chứ không phải “lợi” là hạnh phúc. Lập luận này tưởng chừng như có thể thuyết phục mọi người sẽ vì quốc gia, vì cái chung mà quên cái riêng, chỉ lo làm lợi cho đất nước, không nghĩ gì đến lợi nhà. Nhưng kết quả hình như ngược lại, “nghĩa” chỉ là cái người ta chưng ra ở bên ngoài còn “lợi” mới thực sự là cái mà người ta quan tâm. Hơn nữa quan niệm này thường là lí do biện họ cho những chính sách thiếu quan tâm đến lợi ích chính đáng của cá nhân, hoặc thả nổi trong quan hệ phân phối, tạo thành tình trạng bất côn, bất hợp lí trong xã hội.

Qua đó ít nhiều có thể thấy rằng tác hại từ triều Lê đến triều Nguyễn khong phải chỉ ở chỗ độc tôn Tống nho mà còn ở chính bản thân Tống Nho. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn tính hợp lí của Tống Nho. Sự tồn tại của Tống Nho suốt 700 năm qua cũng có thể xem là bằng chứng nào đó cho tính hợp lí của nó. Hơn nữa tính hợp lí tồn tại ngay ở tính “trung dung” của những cực đoan, nếu biết khai thác. Còn bản thân triều Nguyễn, cho dù “tiếp tay” cho những cái gì gọi là “độc hại” của Tống Nho, những không có nghĩa là không cống hiến gì đối với lịch sử. Không có triều đại nào thư tịch lại được xuất bản nhiều như triều Nguyễn, những bộ sử giá trị của dân tộc không thể thiếu như Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, An Nam hội điển sự lệ…. đều được soạn ra dưới triều Nguyễn. Những thành tựu khác về kinh tế, xã hội chắc còn có thể kể thêm nhiều nữa. Tuy nhiên, thành tựu gì cũng không thể bù đắp cho những sai lầm trong lĩnh vực tư tưởng thời tiền cận đại, hay nói cách khác là sự nghèo nàn về triết học khó có thể tha thứ được. Nếu như không mắc phải những sai lầm này thì triều đình nhà Nguyễn có lẽ cũng không đến nỗi phải thúc thủ trước một đội quân xâm lược không lấy gì gọi là mạnh mẽ cho lắm lúc bấy giờ.
Lịch sử là chiếc gương thần, chính vì nó là chiếc gương thần cho nên không phải lúc nào cũng chỉ biết khen người đang soi nó là đẹp nhất trần gian được. Soi bóng trước chiếc gương bình thường ở cửa hàng mỹ phẩm có thể sửa đổi dung nhan con người, soi bóng trước tấm gương lịch sử thì có thể sửa đổi tư thế và bước đi của cả dân tộc hướng về tương lai công bằng, dân chủ và văn minh.


BÀN VỀ TÍNH TÔN GIÁO CỦA NHO GIÁO


Nho giáo là từ dùng để chỉ học thuyết do Khổng Tử sáng lập ra từ thế kỉ Vi trước công nguyên. Cũng thường được gọi là Nho học, Nho gia hoặc có khi còn gọi là Khổn học, Khổng giáo….Nếu gọi là Nho học như hiệ nay, có nghĩa là mặc nhiên xem nó như một học thuyết chứ khôn phải là tôn giáo. Thực ra gọi là Nho giáo đâu phải khẳng định mười mươi rằng đó là một tôn giáo. Phùng Hữu Lan đã nói đúng ‘tôn giáo” là từ được dịch thuật từ thuật ngữ Religion ở phương Tây, xuất xứ từ tiếng La tinh Religio có nghĩa là liên hệ, nối kết chứ không phải là từ vốn có ở Trung Quốc. Người ta cho rằng chữ giáo trong Trung dung “Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” (Cái mà trời truyền xuống cho con người gọi là tính, hành động tuân thủ theo tính gọi là đạo, tu dưỡng theo với đạo gọi là giáo) mới có tính chất tôn giáo. Còn chữ “giáo” trong Hán thư, thiên Nghệ văn chí “thuận âm dương, minh giáo hóa” (thuận theo âm dương, sáng tỏ giáo hóa) thì chữ “giáo” ở đây chỉ có nghĩa là “giáo hóa” mà thôi. Cho nên không phải bất cứ chỗ nào có chữ “giáo” đều là tôn giáo. M. Weber cũng nhận xét rằng:

“Trong từ ngữ của Trung Quốc không có từ nào chuyên dùng để chỉ khái niệm “tôn giáo” cả. Từ mà họ sử dụng chỉ có cái gọi là “giáo” tứ là “học thuyết” (Lehre, học thuyết của một nhân sĩ nào đó) và “lễ” (Riten). Cho dù là “lễ” có tính chất tôn giáo hay là “lễ” có tính chất truyền thống, đều gọi là “lễ”51.

Còn Khổng giáo là từ xuất hiện ở những năm đầu của thế kỉ XX, đồng nghĩa với những chủ trương phục cổ lỗi thời, cho nên sau năm 30 hầu như ở lục địa Trung Hoa không mấy ai sử dụng nó nữa. Tuy nhiên từ “Khổng giáo” vẫn được sử dụng ở các khu vực khác như Hồng Kông, Đài Loan….và cho đến nay hầu như vẫn còn được dùng khá phổ biến ở phương Tây. Philippe Langlet giải thích như sau:

“Thông thường người Pháp chúng tôi nói Khổng giáo (Confnucianisme) hơn là Nho giáo, vì các nhà Nho xem Khổng Tử như là vị Tiên sư của mình. Nhưng tiếp tế – isme trong confucianisme lộ rõ tính hệ thóng quá. Cho nên người Pháp chúng tôi thường dịch sai từ “giáo”, có nghĩa là dạy cách suy tư, mà tinh thần phân tích của chúng tôi ngần ngại không biết gọi đó là chính trị, triết học, đạo lí hoặc tôn giáo”52.

Philippe Langlet băn khoăn bởi vì theo ông thì “một nguyên tắc trong Kinh thánh dạy chúng tôi từ hai nghìn năm nay là “phải trả cho chúa cái gì của chúa, trả cho Cé sar cái gì của Cé sar”, và văn minh hiện đại của chúng tôi được xây dựng trên tính phi tôn giáo, tách rời hai lĩnh vực tôn giáo và chính trị. Chúng tôi phân biệt hiền triết và tôn giáo”53.

Sở dĩ chữ “giáo” mà nhiều dịch giả phương Tây lưỡng lự chưa biết dịch như thế nào cho hợp lí như Langlet đa nói cũng bởi vì họ chưa biết cái gì là của Cé sar để trả về cho Cé sar. Thực ra vấn đề này ngay cả những nhà tư tưởng lừng danh ở phương Tây cũng đâu đã có cái nhìn giống nhau. Những nhà triết học Đức như Kant, Hégel, Schelling…thì cho rằng Nho giáo không phải là tôn giáo, Khổng tử không phải là giáo chủ mà chỉ là “Socrate ở phương Đông”. Trong khi G. W.VLeibniz, Montesquieu, David Hume lại cho rằng Nho giáo là tôn giáo. Leibniz khẳng định Khổng tử thừa nhận quỷ, thần và cho rằng “lý” của Tống Nho và “thần” của đạo Cơ đốc hoàn toàn giống nhau. Cũng có học giả như Herbert Fingarette, Roger Ames, David hall lại cho rằng Nho giáo chỉ có “tính tôn giáo”. Theo Fingarette, Nho giáo đầy dẫy tư tưởng đạo đức nhưng thảng hoặc người ta phát hiện trong Luận ngữ cũng đề cập đến đức tin ma lực thần bí nào đó.
Trong lịch sử nước ta, vấn đề Nho giáo có phải là tôn giáo hay không cũng chẳng hấp dẫn gì bao nhiêu đối với xã hội. Vào triều đại nhà Lý năm 1195, lần đầu tiên triều đình mở khoa thi gọi là “tam giáo”. Khoa thi “tam giáo” lại được tiếp tục vào những năm 1227 và 1247 dưới triều đại nhà Trần. Điều đó chứng tỏ triều đình phong kiến đã chú ý đến Nho giáo, muốn đặt Nho giáo vào vị trí “bình đẳng” với Phật giáo và Đạo giáo đang thịnh hành lúc bấy giờ. Và như vậy, vô hình chung Nho giáo cũng được xem như là tôn giáo. Có lẽ do phản ứng của các nhà Nho và cũng do xu thế của xã hội cho nên về sau triều đình không còn mở những khoa thi “tam giáo” nữa. Tuy nhiên, cho đến nay, người Việt Nam vẫn quen gọi là Nho giáo. Có lẽ nếu gọi là Nho giáo chắc cũng không có gì sai trái cho lắm. Người ta muốn hiểu đó là một học thuyết về đạo đức hay là học thuyết đạo đức – chính trị có tính tôn giáo hay thậm chí là tôn giáo đi nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì bao nhiêu đối với xã hội.

Có người cho rằng ở Trung Quốc vấn đề Nho giáo là tôn giáo cũng xưa như là chuyện về trái đất vậy. Thế nhưng vấn đề lại bắt đầu được thiên hạ chú ý nhiều thực ra là từ nhà truyền giáo phương Tây Mateo Ricci đến Trung Quốc vào thế kỉ XVII. Nguyên do là vì nếu cho rằng Nho giáo là tôn giáo thì đạo Cơ đốc khó có thể hợp tác được, bởi vì theo nguyên tác tôn giáo hợp tác với phi tôn giáo dễ hơn là hợp tác với tôn giáo khác. Nghi thức cúng bái tổ tiên của Nho giáo trở thành đề tài chủ yếu để nhận định Nho giáo có phải là tôn giáo hay không? Lúc đầu vấn đề chỉ có tính học thuật nhưng sau đó lại trở thành vấn đề chính trị. Vào năm 1704 khi giáo hoàng La Mã hạ lệnh cấm tín đồ đạo Cơ đốc thờ cúng tổ tiên và lễ bái Khổng Tử thì lập tức hoàng đế Khang Hy cũng trả đũa bằng cách ra lệnh cấm giáo hội phương Tây truyền giáo ở Trung Quốc. Qua đó cũng có thể thấy rằng vấn đề Nho giáo không chỉ đóng khung trong phạm vi học thuật mà còn “đụng” đến cả văn hóa, tôn giáo, chính trị…

Thời gian trôi qua, đến giữa thế kỉ XX, Đường Quân Nghị, Mâu Tông Tam…lại tiếp tục luận chứng Nho giáo là ton giáo từ bình diện triết học. Rằng Nho giáo không phải chỉ là học thuyết đạo đức, nhân ái ở thế giới bên này như nhiều người lầm tưởng, chính nó cũng có tính siêu việt như những tôn giáo khác nhưng lại là “siêu việt nội tại” (transcendental immanent) có tính đặc thù của phương Đông. Vả lại tâm trạng lo âu về nối dõi dòng giống cũng phải được xem là biểu hiện của tôn giáo. Sau đó, vào dịp Hiệp hội vô thần Trung Quốc vừa mơi thành lập cuối năm 1978, Nhiệm Kế Dũ lại phát biểu một cách hệ thống và khẳng định lại một lần nữa Nho giáo là tôn giáo. Khẳng định này làm cho phần lớn học giả Trung Quốc đều tỏ ra không đồng tình. Rất nhiều ý kiến khác nhau, không phải chỉ ở nội dung mà ngay ở cách đặt vấn đề. Có người cho rằng đây là tiền đề của toàn bộ văn hóa, học thuật, nếu không giải quyết vấn đề này thì chẳng thể nào có được nhận thức, có được đánh giá đúng đắn về toàn bộ truyền thống văn hóa của Trung Quốc (Lý Khôn, Trung Quốc Nho giáo sử, Lời tựa). Nhưng cũng có người không xem vấn đề lại nghiêm trọng đến mức như vậy. Chẳng hạn như Thương Nhất Giai lại cho rằng bàn về vấn đề này chẳng khác gì bàn về thứ tự trước sau của “con gà và hột gà”. Điều quan trọng không phải chỉ ra nó là cái gì mà chính là chỉ ra nó có giá trị gì đối với nhân loại. Thực ra “trên thế giới chẳng có tôn giáo nào gọi là tôn giáo chuẩn cả, chỉ cần có tín đồ và đông đảo dân chúng tham gia thì có thể xem như là tôn giáo” (Khôi phục Khổng giáo hay Nho giáo chính thức trở thành tôn giáo của nhân dân Trung Quốc).

Xin cho phép tác giả bài viết này được đứng ở giữa hai xu hướng vừa nói ở trên.

Ai cũng biết, Nho giáo là học thuyết đề cao giá trị của đạo đức hơn là đề cao chân lí khách quan của tri thức. Nhận thức tri thức có thể giúp con người phân biệt được đúng, sai nhưng đó cũng chỉ là điều kiện càn chứ không phải là điều kiện đủ đối với con người, nếu như chưa muốn nói rằng điều kiện cần thực ra không phải lúc nào cũng cần. Tri thức là vô hạn cho nên nhận thức tri thức thường tạo ra trạng thái “thiếu”, còn nhận thức đạo đức, nhận thức giá trị lại làm cho con người tự thỏa mãn về cái gọi là “đủ”. Nho giáo cho rằng tuy con người sống trong trời đất nhưng việc đầu tiên cũng như việc cuối cùng không phải là nhận thức về Trời, Đất, hiểu biết về Trời, Đất. Hay nói cách khác, cần phân biệt đối tượng nhận thức và mục đích nhận thức. Do đó, xuất phát điểm phải là con người. Nhận thức về tự nhiên bao giờ cũng phải đặt trong quan hệ nhận thức về con người. Nhận thức về chan lí và nhận thức về giá trị song hành, nếu như không muốn nói rằng cái gì không cần cho con người thì cái đó thường được xem là không có giá trị. Phàn Trì hỏi thầy thế nào là Nhân, thế nào là hiểu biết. Khổng Tử đều hướng Phàn Trì về với con người, có nghĩa là phải “yêu người” và “hiểu biết” về con người (Luận ngữ, Nhan Uyên).

Hiểu biết về con người sẽ chẳng đi đến đâu nếu tách con người khỏi trời đất. Thiên, Địa, Nhân được gọi là “tam tài”, trong “tam tài” thì “thiên thời” không bằng “địa lợi”, “địa lợi ” không bằng “nhân hòa”. “Nhân hòa” không có gì khác hơn là sự hòa mục, thương yêu con người với nhau. Cho nên toàn bộ tinh thần Nho giáo tóm lại chỉ ở trong một chữ “nhân” như nhiều học giả đã nhận định.

“Nhân” hay “nhân ái” là tình thương của con người đối với con người. Hầu như chẳng có tôn giáo nào trên đời lại không đề cập đến tình thương. Tuy nhiên, đạo đức là chuyện của con người còn tôn giáo là chuyện bên trên con người. Nhưng dù sao, mẫu số chung của nó vẫn là “trái tim”. Cho nên Mác mới xem tôn giáo như là “trái tim” của thế giới trần tục không có trái tim. Tuy nhiên, tôn giáo thường hướng về “trái tim” của thế giới bên này. “Nhân” của Nho giáo là “trái tim” của thế giới bên này, cho nên người ta có lí do để cho ràng Nho giáo là học thuyết về đạo đức chứ không phải là tôn giáo. “Nhân” của Nho giáo được xếp hàng đầu trong bảng giá trị của xã hội. “Nhân” hay “tình thương” không phải do Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo, đề cập đến. Cũng không phải là “sáng tác” của những bậc thánh hiền nào trước đó, mặc dù trước Khổng Tử, chữ “Nhân” cũng đã xuất hiện không ít trong các thư tịch cổ xưa. Bởi vì “tình thương”, như có người đã nói, không phải chỉ bắt đầu từ con người, không phải chỉ là thuộc tính của con người mà của cả động vật nữa. Chu Dư Đồng vào những năm 20 của thế kỉ XX, trong bài “Hiếu và sùng bái sinh thực”, chỉ ra rằng:
“Chữ hiếu của Nho gia là bắt đầu để hoàn thiện chữ “Nhân”. Tư tưởng cơ bản của nó bắt nguồn trực tiếp từ triết học phồn thực và gián tiếp từ tôn giáo nguyên thủy sùng bái sinh thực”54.

Tống Kim Lan giải thích thêm:

“Thông tin từ tự dạng nguyên thủy của chữ “hiếu” cho biết đó là sự giao hợp giữa nam và nữ, sự sinh đẻ con cái. Chữ “hiếu” lưu giữ chữ “gia” của “gia đình” trong chữ Hán cổ xưa. Bởi vì yếu tố cơ bản để hình thành gia đình là vợ chồng và con cái. Vợ chồng hình thành từ quan hệ giao cấu, con cái là sản phẩm của vợ chồng khi giao cấu55″.

Từ những kết quả nghiên cứu trên, Trương Lệ Hồng mới nhận xét rằng chính bản năng tính dục là nguồn gốc của chữ “hiếu”56. Nếu chữ “hiếu” có nguồn gốc bản năng tính dục thì chữ “Nhân” của Nho giáo cũng từ đó mà ra. Hơn nữa, quan hệ cha mẹ, con cái là quan hệ huyết thống gần nhất, cho nên chữ Hiếu không những chỉ có nguồn gốc ở bản năng tính dục tự nhiên mà còn có nguồn gốc huyết thống tự nhiên nữa. Do đó, tự nhiên hoặc nhiều hoặc ít cũng là điểm tựa của Nho giáo. Điều đó cũng chẳng có gì là lạ, bởi vì xã hội nguyên thủy của con người chẳng có gì khác biệt là mấy so với tự nhiên. Robert Lowie từ hiện tượng cấm ăn thịt đồng loại của vật tổ đã phê phán sự nhầm lẫn trước đây về hiện tượng này:

“Chính những luật cấm này đã thức tỉnh sự chú ý và làm cho ta tưởng rằng tục thờ vật tổ là một hình thái tôn giáo và thậm chí là một quá trình cần thiết trong bước phát triển tôn giáo”.

Như vậy là đạo đức chữ “hiếu” và tục thờ cúng có nguồn gốc từ tự nhiên chứ không phải nhất thiết là biểu hiện của tôn giáo. Tuy nhiên cũng không cần phải đi tìm chuẩn mực của đạo đức từ những gien của động vật như những nhà đạo đức tiến hóa luận E.O. Wilson, R.Darwrin…Cái gì đi quá xa đều cần phải quay trở lại. Con người dựa vào nhận thức để hành động, nhưng “chuẩn” của nhận thức biếtdựa vào đâu nếu không dựa vào tự nhiên, cái gần gũi nhất với con người. Sùng bái hay tin vào tự nhiên chưa có gì để khẳng định đó là tôn giáo. Chừng nào con người tin rằng ngoài thế giới tự nhiên bên này còn có thế giới phi tự nhiên bên kia thì chừng đó mới có thể xuất hiện tôn giáo”.

Hệ từ trong Kinh Dịch giải thích rằng sở dĩ Dịch hữu ích với mọi người bởi vì Dịch chỉ ra “chuẩn mực” (nguyên tắc) để con người hành động. Chuẩn mực đó không phải ở đâu khác mà chính từ tự nhiên, tức là từ Trời, Đất:

Kinh Dịch sở dĩ có được là do đã dựa vào chuẩn mực của Trời, Đất. Cho nên nó có thể chứa đựng mọi đạo lí trong thế gian” (Dịch dữ thiên, địa chuẩn, cố năng di luân thiên địa chi đạo).

Nhà Nho Lê Quý Đôn rất am tường về Kinh Dịch. Theo ông, toàn bộ tinh thần của Dịch có thể tóm lại ở hai từ “tự nhiên” mà thôi:

Kinh Dịch có câu: trong khoảng trời đất, chỉ có vật. Vạn vật đều có cái lẽ đương nhiên của nó, lại có cái sở dĩ nhiên của nó. Suy cái lẽ ấy, tìm cái lẽ ấy, một lời nói có thể bao trùm được là: tự nhiên mà thôi (Dịch viết: thiên đại chi gian duy vật. Vạn vật các hữu đương nhiên chi lí, hựu hữu sở dĩ nhiên chi cố. Suy kì lí, cầu kì cố, nhất ngôn dĩ tế chi viết: tự nhiên nhi dĩ hỹ. Vân đài loại ngữ).

Có lẽ “tự nhiên” hay “thiên’ quá bao la cho nên dễ sinh ra “hiểu nhầm”. Có người cho rằng không phải cái gọi là “Thượng đế” hay chữ “thiên” lúc nào cũng dùng để chỉ ông Trời có nhân cách. Hội trưởng hội Gie-su Trung Quốc Long Hoa Dân, kịch liệt phản đối dịch chữ “thiên” trong Kinh Thư thành “Deus” (thần) như ở chữ La tinh55. Trong khi học giả người Pháp F.Quesnay (1694 – 1774) lại một mực cho rằng chữ “thiên” trong Kinh Thư cũng chẳng qua chỉ là tên gọi khác của vị thần ság tạo56. Học giả Nhật Bản Nozoguchi yozo cho rằng “tự nhiên” của phương Tây và cái gọi là “tự nhiên” của phương Đông không hoàn toàn giống nhau. “Tự nhiên” ở đây có nghĩa “vốn là như vậy” (bản lai). Yozo cho rằng chú thích của Quách Tương thế kỉ thứ III sau công nguyên về chữ “thiên” ở thiên Trí Bắc du, sách Trang Tử chính là với nghĩa đó: “Vật chi tự nhiên phi hữu sử nhiên dã” (Vạn vật tự nhiên không do ai sắp đặt cả)57.

Như vậy, nói gì thì nói chữ “tự nhiên” hay “thiên”58 ở phương Đông trước hết dùng để chỉ giới tự nhiên, môi trường mà con người gần gũi, nhất là ở thời kì sơ khai của nhân loại. Thuyết “tứ đoan” của Mạnh Tử không thể không có cái “tự nhiên” hoặc “tính tự nhiên” theo nghĩa trên. “Đoan” là đầu mối, là bắt đầu, nói cách khác, xuất phát điểm của nó là tự nhiên. “Đoan” là tự nhiên, cho nên nó cũng là “chuẩn” để con người noi theo như Kinh Dịch đã khẳng định. “Tứ đoan” là bốn hiện tượng tâm lí thuần túy tự nhiên, đó là “tình thương” (trắc ẩn chi tâm), “nhường nhịn” (từ nhượng chi tâm), “xấu hổ” (tu ố chi tâm), “phân biệt đúng sai” (thị phi chi tâm). Bốn hiện tượng tâm lí tự nhiên này là cơ sở của đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí. Như vậy cơ sở của nhân, nghĩa, lễ, trí là tự nhiên. Nhưng “tự nhiên” ở đây không phải hoàn toàn chỉ có nghĩa là bản năng tự nhiên. Nó còn có nghĩa “vốn là như vậy”, là “bản tính” (cũng thường được dịch là Nature, tức là nó có sẵn từ trước. Cái có sẵn từ trướcmới cho rằng bản tính con người vốn là thiện, cái thiện “tiên thiên” này bị cái “hậu thiên” của tự nhiên lẫn của xã hội làm cho nó trở thành cái “ác”. Giống như sông , suối ở đầu nguồn thì nước trong, càng chảy đi xã bao nhiêu thì nước càng đục bấy nhiêu. Cho nên đạo đức chính là quay về với cái vốn có gọi là “lương tri”, “lương năng”, gọi chung là “lương tâm”. Chu Hy giải thích về chữ “lương” như sau:

“Lương là cái thiện vốn có (lương giả, bản nhiên chi thiện dã. Mạnh Tử tập chú)

Như vậy, cái gọi là bản tính, bản thiện, bản lai cái “tiên thiên” (apriorie) này mới được gọi là “lương tâm”. “Lương tâm” tự nhiên mà có, là tiêu chuẩn để phân biệt con người và con vật. Giữa con người và con vật chẳng khác nhau mấy về “bản năng tự nhiên”. Do đó cái “tự nhiên” ở đây không những không được hoan nghênh mà con trở thành đối tượng cần phải khắc phục của đạo đức. Như vậy là cái tự nhiên tiên thiên và cái tự nhiên hậu thiên được đặt trong quan hệ đối lập. Hay nói cách khác, cái tự nhiên hậu thiên là sự tha hóa của cái tự nhiên tiên thiên. Nhưng nếu tiếp tục đặt câu hỏi về xuất xứ của cái tiên thiên thì lại dễ lạc đường vào vương quốc của cái “siêu việt” (Transcendent). Cho nên ở đây, giữa tự nhiên và siêu việt, giữa đạo đức và tôn giáo cũng bắt đầu hình thành “vùng đệm” không có chủ quyền. Thực ra không ít vấn đề liên quan đến Nho giáo có phải là tôn giáo hay không lại nằm ngay ở “vùng đệm” này. Chẳng hạn như cái “tiên thiên” của Nho giáo có vượt qua cái “siêu việt” hay không? Vượt qua ở đâu và lúc nào? Nếu thờ cúng tổ tiên là biểu hiện không thể thiếu của chữ “hiếu”, vậy thì nghi thức cúng bái tổ tiên của Nho giáo đủ để khẳng định Nho giáo là tôn giáo hay không?

Cũng có người cho rằng nghi thức cúng bái tổ tiên chỉ là biểu hiện tâm lí, tình cảm đạo đức, trách nhiệm của người hậu sinh đối với những bậc tiền bối, không hề có yếu tố tôn giáo nào ở đây cả. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng người đi sau đã thần thánh hóa tổ tiên và cúng bái là dịp cầu xin để được ban phước. Do đó, nghi thức cúng bái này có khác gì tôn giáo đâu! Thực ra cũng khó có thể đặt một trạm kiểm soát nào để phân biệt ranh giới những điều đó ở “vùng đệm” như vậy.

Tuân Tử là nhà Nho chẳng cần phân biệt hay kiểm soát nào cả. Bởi vì ông chưa bao giờ đặt cái chuẩn ở tự nhiên cả. Ngay đối với cái gọi là bản tính tự nhiên của con người, ông không những chẳng bao giờ cho là “thiện” mà ngược lại còn cho là “ác”. Chẳng có cái “thiện” nào ở trong tự nhiên cả. Nói như vậy không có nghĩa “tự nhiên” chỉ là vô tích sự. Theo ông, tự nhiên là vật liệu thô, không có nó không làm gì được cả. Nhưng cái “chuẩn” không nằm trong nó mà nằm ở trong tay con người. Như vậy, đạo đức, lễ giáo không phải là đối lập mà chính là “hợp tác” giữa con người và tự nhiên.
Cho nên mới nói rằng: bản tính con người cũng giống như khúc cây thô sơ ban đầu chưa từng đẽo gọt gia công vậy. Sau đó nó mới được đẽo gọt chạm trổ bằng lễ, nghĩa đâu vào đấy. Nếu như con người không có bản tính ban đầu thì lấy gì để tu sửa. Nếu không tu sửa bản tính con người không thể tự nó trở thành tốt đẹp được. Cho nên mới nói rằng trời đất hợp nhất sinh ra vạn vật, âm dương nối tiếp sinh ra biến hóa, bản tính ban đầu của con người hợp nhất với lễ giáo gia công thì thiên hạ bình yên. (Cố viết: tính giả, bản thủy tài phác dã; ngụy giả, văn lí long thịnh dã. Vô tính tắc nguy chi vô sở gia; vô ngụy tắc tính bất năng tự mỹ….Cố viết: thiên địa hợp nhi vạn vật sinh, âm dương tiếp nhi biến hóa khởi, tính, ngụ hợp nhi thiên hạ trị. Tuân Tử, Lễ luận).

Vì cái “chuẩn” không nằm ở tự nhiên cho nên nó không cần đến cái “tiên thiên” và càng không cần đến cái gọi là “siêu việt” nào cả. Cho nên Tuân Tử không kéo “trời” lại gần con người mà ngược lại càng đẩy ra xa hơn. Theo ông, ai mà “nhận thức minh bạch sự khác nhau giữa con người và trời thì người đó mới đáng được xem là đã đạt được cảnh giới tối cao của hiểu biết” (Minh ư thiên nhân chi phân, tắc khả vị chí nhân hỹ. Tuân Tử, Thiên luận). Chẳng trách Hàn Dũ sau này, khi tiến hành “đạo thống”, tiến hành thống nhất đạo Nho, đã loại Tuân Tử ra khỏi “hàng ngũ” của nhà Nho.

Ngược lại với Tuân Tử, có thể nói Đổng Trọng Thư là nhà Nho điển hình nhất trong các nhà Nho kéo trời lại gần người nhất. Quan niệm “trời với người là một” đã trở thành hệ thống hoàn chỉnh trong học thuyết của ông. Cho nên không phải không có lí do để cho rằng Hán Nho là Nho giáo đã được tôn giáo hóa thời kì đầu. Cái “tiên thiên” và cái “siêu việt” càng ngày càng lấn át và đẩy lùi cái “tự nhiên” ra khỏi phạm vi đạo đức. “Dục” là nhu cầu tự nhiên của con người trở thành nguyên nhân của mọi tội lỗi, đạt đỉnh cao ở thời kì Tống Nho với phương châm “cấm dục”. Cho nên Nhiệm Kế Dũ mới cho rằng Tống Nho là thời kì thứ hai Nho giáo được tôn giáo hóa. Như vậy là “trời” và “dục” hình như luôn trong trạng thái loại bỏ nhau. Tuân Tử chẳng cần đến “trời” cho nên ông cũng không có lí do gì để “ác cảm” với dục vọng tự nhiên của con người. Theo ông, đạo đức và dục vọng không loại trừ lẫn nhau, cách quản lí đất nước hay nhất không phải là hạn chế dục vọng của con người mà ngược lại cần phải thỏa mãn và điều chỉnh nó cho hợp lí:

“Phàm những ai quản lí đất nước bằng cách loại trừ dục vọng con người đều không những không loại trừ được nó mà còn bị nó loại trừ. Phàm những ai quản lí đất nước bằng cách giảm thiểu dục vọng của con người đều không thể thực hiện được mà ngược lại còn bị chính dục vọng không cógiới hạn nào thao túng” (Phàm ngữ trị nhi đãi dục giả, vô dĩ đạo dục nhi khốn ư hữu dục giả. Phàm ngữ trị nhi đãi quả dục giả, vô dĩ tiết dục nhi khốn ư đa dục giả dã. Tuân Tử, Chính danh).

Lê Quý Đôn là nhà Nho gần với Đổng Trọng Thư hơn là gần với Tuân Tử. Ông phê phán Tuân Tử ví Tuân Tử đã “bật đèn xanh” cho dục vọng tự nhiên của con người:

“Than ôi! Nếu tin lời Tuân Tử nói là đúng thì xưa nay đạo trị nước cũng chỉ là phương tiện để tìm thú vui, thỏa mãn tình dục hay sao?” (Vân đài loại ngữ).

Cũng như nhiều nhà Nho khác, khi Lê Quý Đôn đẩy dục vọng tự nhiên của con người ra xa bao nhiêu thì ông lại càng gần “trời” bấy nhiêu. Ông không đồng tình với việc Tuân Tử đã tách “trời” ra khỏi con người:

“Cung thất, nhà cửa, vật dụng, thuyền xe, áo quần, thức ăn, đồ uống, mỗi vật đều có cái lí. Trời quả là đã làm ra nó, thánh nhân biết trước lòng dân làm ra và lưu hành nó. Thật là không đúng nếu nói rằng người ta làm ra vật dụng không can dự gì đến trời” (Vân đài loại ngữ).

“Trời” của Lê Quý Đôn một khi đã đi hơi xa khỏi cái “tự nhiên” thì thường trở thành “ông trời” có nhân cách, trở thành chủ thể của “tiên định”.

“Trời thì không có hơi có tiếng, không có mùi vị, nhưng khi giáng lâm thì thật hiển hách. Mệnh trời không thể lường hết được những việc lớn việc nhỏ chưa bao giờ là không tiền đinh. Thuyết tiền định người xưa thường nói đến đã thấy chép trong kinh sử. Trên từ bậc vương công, dưới đến làng nước, có khi trong mộng mị, có khi trong bói toán, có khi trong câu hát đồng dao. Lúc mới đầu dường như mơ hồ khó tin, nhưng rốt cuộc đều có chứng nghiệm cả. Đó là số và cũng là lí” (Vân đài loại ngữ).

“Căn cứ vào những việc kể trên mà xem xét thì không những việc hưng thịnh hay suy thoái của nước nhà đối với những việc bình thường, thời vận bế tắc hay thông đạt của sĩ phu đều được đinh trước ở cõi u minh thiêng liêng. Họ tên, tướng mạo đi đứng, động tĩnh của mọi người đều được tiền định cả, không phải cứ muốn tự do là được đâu….Họa phúc sắp xảy ra, lành hay dữ đều có thể biết trước được. Bởi vì trong tâm của con người có điểm linh nghiệm, thông suốt, cho nên quỷ thần mới thác vào đó để báo cho biết” (Vân đài loại ngữ).

Đương nhiên , Lê Quý Đôn không phải là nhà Nho Việt Nam cá biệt nói đến quỷ thần, nói đến tiền định. Nhưng cho dù Lế Quý Đôn có đề cập đến những điều đó đi chăng nữa thì cũng là chuyện bình thường của xứ sở truyền thống văn hóa ít nhiều có tính tôn giáo dựa trên nền canh tác nông nghiệp khép kín. Ngay cả ở thời kì khai sáng của phương Tây khi khoa học phát triển cùng với xu hướng tách khỏi tôn giáo có nghĩa là “ông trời” hay “thượng đế” cũng bắt đầu tách khỏi con người, cho nên Voltaire vừa tiến về phía trước với thuyết vô thần nhưng đồng thời cũng lùi lại phía sau với thuyết tự nhiên thần luận (déisme) của mình. Sợ rằng “thượng đế” sẽ ra đi cho nên Voltaire cho rằng nếu cần cũng có thể có một “thượng đế” nhân tạo. Cũng ở thế kỉ XVIII nhưng Lê Quý Đôn đâu cần ông “thượng đế” nhân tạo làm gì, bởi vì ông “trời” ở xứ sở này vẫn còn sờ sờ ra đấy chưa có ai đụng đến, càng không có ai đuổi ông đi đâu cả.

Nho giáo là học thuyết đạo đức- chính trị. Nếu Nho giáo có tính tôn giáo có nghĩa là không riêng gì đạo đức có tính tôn giáo mà cả chính trị cũng có tính tôn giáo. Đạo đức Nho giáo dựa trên chứ “hiếu” vốn là đạo đức “cận tự nhiên”. Em bé sơ sinh đã biết dựa vào bầu sữa mẹ để sống, nó chẳng cần đến ông trời nào cả. Chữ “hiếu” có thể tồn tại độc lập trong xã hội loài người trước khi nhà nước ra đời và sau khi nhà nước không còn nưa. Chữ “trung” không thể tồn tại nếu không có chữ “hiếu”, tuy nhiên chữ “trung” chính trị này một mặt áp đặt chữ “hiếu” đạo đức, mặt khác vì muốn củng cố quyền uy phi tự nhiên, cho nên chính nó mới cần đến hào quang của cái gọi là “thế thiên hành đạo”. Vậy như Nho giáo có tính tôn giáo thì có lẽ trách nhiệm đó do chính trị nhiều hơn là do đạo đức của chính nó.

Nếu Tống Nho là Nho giáo tôn giáo hóa lần thứ hai, đồng thời lại là triết hoạc hóa ở đỉnh cao thì càng chứng tỏ điều đó là xu hướng tất yếu của quá trình củng cố ngày càng chặt chẽ của xã hội phong kiến. Người ta cho rằng “tâm” và “tính”. “lí” và “thiên”, “thần” của Tống Nho chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một nội dung. Hơn nữa, thuyết tu tâm dưỡng tính của Tống Nho càng ngày càng được “bổ sung” từ phương pháp tu hành của Phật giáo. Đạo giáo. Chẳng trách Lương Khải Siêu cho rằng Lý học của Tống Nho, thực ra “bên ngoài là Nho, bên trong là Phật” (Nho biểu, Phật lí), còn Cố Viêm Vũ thì định nghĩa “Lý học tức là Thiền học” (Sở vị Lý học, Thiền học dã). Quan hệ giữa đạo đức- chính trị – tôn giáo – triết học ở phương Đông vào thời kì này khác với phương Tây. Ở phương Tây, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị (chính quyền thế tục) làm cho khoa học và triết học đều bị kẹt suốt cả nghìn năm ở thời Trung cổ. Triết học trở thành thần học, trở thành đầy tớ của Cơ đốc giáo không hơn không kém. Thời Phục hưng đã giải phóng cho khoa học và triết học cho nên mới tạo ra cuộc cách mạng sản xuất một ngày bằng hai mươi năm như Mác đã nói. Ở phương Đông nếu Nho giáo có tính tôn giáo thì triết học cũng vậy. Sự kết hợp giữa chính quyền thế tục và tôn giáo làm cho triết học chỉ còn một nhiệm vụ duy nhất chạy theo khen “phò mã tốt áo”. Sự xuất hiện của “thực học” và các trào lưu cải cách, nhất là cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, không phải là gì khác hơn ngoài việc giải phóng cho khoa học và triết học. Nho giáo có tính tôn giáo hay là tôn giáo liên quan đến vấn đề giải phóng triết học. Tiền đề của phát triển xã hội ở phương Đông phụ thuộc vào việc chính trị có thể “biến triết học thành hiện thực”57 hay không?

Thực ra, nếu Nho giáo là tôn giáo hay có tính tôn giáo gì đó thì cũng chẳng sao cả, bởi vì tư duy “thực thể” của thế kỉ XX đã dần dần thay thế bằng tư duy “phi thực thể” của thế kỉ XXI. Có nghĩa không phải lúc nào cũng đặt quan hệ giữa tôn giáo – khoa học như là hai thực thể hoàn toàn đối lập với nhau. Tuy Hồ Chí Minh cho rằng Nho giáo “không phải là tôn giáo”, nhưng có lẽ quan trọng hơn không phải ở đó mà là ở chỗ Nho giáo có đề cập đến tu dưỡng “đạo đức và phép xử thế” cũng như về “hòa mục xã hội” (Tạp chí Học tập, số 6/1970). Vấn đề không phải là tôn giáo mà chủ yếu là ở chỗ mục tiêu của nó hướng tới, đó là “hạnh phúc cho nhân loại”, là “phúc lợi cho xã hội”.

“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung hay sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết.

Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy58.

Tóm lại, Nho giáo trước hết là một học thuyết về đạo đức, luân lí. Xã hội phương Đông là xã hội quân tử chứ không phải là xã hội thị dân, cho nên đạo đức ngay từ đầu đã gắn bó với chính trị. “Gắn bó” chứ chưa phải là chính trị hoặc chính trị hóa. Chính trị chỉ là phương tiện thực hiện đạo đức chứ không phải ngược lại. Học thuyết đạo đức Nho giáo này phải nhờ đến chính trị và xem chính trị như là phương tiện để triển khai đạo lí của chính nó. Bản thân chính trị cũng dần dần nhận thấy được điểm tựa vững chắc ở học thuyết đạo đức, luân lí “trời cho” này. Do đó, đến lượt nó, nó đã biến Nho giáo thành vệ sĩ tinh thần một cách đắc lực. Nó làm cho người ta lầm tưởng về giá trị tự thân của đạo đức trong khi đạo đức trở thành điểm đi còn chính trị mới là điểm đến. Nếu Nho giáo “siêu việt” hóa thì chính trị cũng “siêu việt hóa” không kém. Mục đích của “siêu việt” hóa không phải nằm ở phía trước mà chính là nằm ở phía sau, mặc dù quan hệ này không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận. A.Jtoynbee chia tôn giáo làm hai loại: tôn giáo đúng đắn và tôn giáo sai lầm. Theo ông tôn giáo đúng đắn là “tôn giáo dạy chúng ta phải có tấm lòng tôn trọng, quý mến đối với con người và hết thảy giới tự nhiên bên ngoài con người. Ngược lại tôn giáo sai lầm là tôn giáo dung túng sự phá phách, hi sinh giới tự nhiên bên ngoài để thỏa mãn nhu cầu bên trong của con người”59.

Toynbee cho rằng Nho giáo là tôn giáo có “thế giới quan nhân đạo”, dạy con người luôn phải sống “hòa hợp với tự nhiên”60. Chẳng cần phải nói, ai cũng biết rằng Nho giáo có nhiều điều không đúng, nhưng nếu nó có tính tôn giáo thì cũng chẳng có gì là lạ ở xứ sở nông nghiệp tự nhiên như ở trên đã nói. Nếu nó là tôn giáo thì đó là “tôn giáo đạo đức” hay “đạo đức tôn giáo”, như có người đã gọi. Nó xứng đáng được xem là một trong những “tôn giáo nhân văn” xưa nhất của con người trên trái đất này./.
--------------------
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T1, tr.89.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 1998, T1, tr.113.
3. Hà Thành Hiên, Nho học Nam truyền sử, Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, Bắc Kinh, 2000.
4. Sđd, tr.96.
5. Từ Thiên Sĩ, Cổ Nam Việt quốc sử. Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, 1988, tr.158 (trích theo Hà Thành Hiên, Sđd, tr.74).
5. Sđd, tr.74
6. Sđd, tr.79
7. Sđd, tr.94
8. Sđd, tr.102
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 1998, T1, tr.136.
10. Phùng Khiết chủ biên, Triết học đại từ điển, Thượng Hải Từ thư xuất bản xã, 1991.
11. Nho học dữ nhị thập nhất thế kỉ, Hoa Hạ xuất bản xã, Bắc Kinh, 1996, T.2, tr.1552.
12. Vương Thủ Hoa…., Nhật Bản triết học sử giáo trình, Sơn Đông Đại học xuất bản xã, 1989, tr.40. Nhưng theo Ishi Da Kazu Yoshi trong Nhật Bản tư tưởng sử, Cát Xuyên Hoằng văn quán, Đông Kinh, 1966, T.1, tr.88 mục “Tư tưởng Nho giáo ở những ngày đầu du nhạap” thì điều đó cũng chưa có bằng chứng xác đáng.
13. Những sự kiện nói trên chủ yếu căn cứ theo Khổng Tường Lâm trong Nho học và nhị thập nhất thế kỉ.
14. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Năm Canh Tuất (1070) “Mùa thu tháng 8 làm Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và tứ phối” (T.1, tr.234). Bnả chữ Hán ghi là: thu bát nguyệt, tu văn miếu, tố Khổng Tử, Chu công cập tứ phối tượng”. Như vậy tu có nghĩa là “sửa lại” chứ không phải bắt đầu. Cho nên e rằng Văn miếu không phải xây dựng vào năm này mà có lẽ còn sớm hơn nhiều.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “chọn viên quan văn chức người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám” (T.1, tr.239). Như vậy là chọn người vào Quốc tử giám, chứ không nhất thiết là xây Quốc tử giám vào năm đó.
15. Sách Tả truyện, Chiêu công nhị thập niên, sách Quốc ngữ, Trịnh ngữ ghi chép giải thích của Yến Tử và Sử Bá về “hòa” và “đồng”: “hòa” là sự phối hợp hài hòa năm mùi vị, năm âm thanh. Thức ăn phải pha chế điều hòa chua, cay, mặn, ngọt….., âm nhạc phải phối hợp âm điệu cao thấp, dài ngắn…Nếu như không như vậy thì không gọi là thức ăn, âm nhạc. Về việc nước cũng vậy, nếu vua có nói thì mình phải nói không hoặc phủ định khác đi để tìm ra cách đúng đắn nhất. Như vậy gọi là “hòa”. Nếu vua nói như thế nào mình nói như thế ấy, có khác gì thức ăn chỉ toàn là nước như nhau, âm nhạc chỉ có một âm thanh đơn điệu. Tham khảo bản dịch tiếng Anh Analecsts of Confucius của nhà xuất bản Hoa ngữ giáo học, Bắc Kinh, 1994: Agenleman unites with people of principle and never folws others blindly. A petty man follows others blindly ưithout regard to principle.
16. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T.2, tr.116.
17. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T.1, tr.214.
18. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T.1, tr.230
19. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T.2, tr.232.
20. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb KHXH, H, 1972, T.1, tr.207.
21. Theo Dương Hoán Anh, Khổng Tử tư tưởng tại quốc ngoại đích truyền bá ảnh hưởng. Giáo dục khoa học xuất bản xã, 1987.
22. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 1998, T.1, tr.447.
23. Trong cái luôn biến đổi có cái không biến đổi, ví dụ như Niết bàn, Chân như, Phật tính, Pháp thân. Thiên Thai Tông có giáo lí Thường trụ pháp tính, Thường trụ pháp thân (Xem Phật giáo đại từ điển, Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ty, Bắc Kinh, 1994).
24. Ph. Ăng ghen, Biện chứng của tự nhiên. Nxb Sự thật, H, 1976, tr.51.
25. Mác – Ăng ghen toàn tập, Nxb Sự thật, H, 1978, T.1, tr.145.
26. Lược trích theo Dư Hoài Nhan, Đối thoại giữa Nho gia hiện đại và Weber (Modern Confucian & Weberism).
27. Lược trích theo Dư Hoài Nhan, Đối thoại giữa Nho gia hiện đại và Weber (Modern Confucian & Weberism).
[Tóm tắt]
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên, ảnh hưởng sang nhiều nước ở châu Á, hình thành “khu vực văn hóa Nho giáo”. Nho giáo truyền bá sớm nhất vào hai nước Việt Nam và Triều Tiên, Nhật Bản muộn hơn. So sánh Nho giáo ở Trung Quốc cũng như ở các nước chịu ảnh hưởng, có thể hiểu rõ hơn về Nho giáo ở Việt Nam. Nho giáo vào Việt Nam và Triều Tiên vào khoảng đầu công nguyên, vào Nhật Bản (gián tiếp từ Triều Tiên) từ thế kỷ thứ III (284). Tuy vậy, do đặc điểm xã hội, Nho giáo ở Việt Nam bắt đầu có vị trí từ thế kỷ XI (triêu2 Lý). Ở Triều Tiên vào cuối thế kỷ thứ IV Nho giáo dã được giai cấp thống trị bản xứ tiếp thu. (Năm 372 đã lập Thái học giáo dục con em 立太學教育子弟). Ở Nhật Bản, Nho giáo tuy du nhập hơi muộn nhưng lại được hoan nghênh sớm hơn ở Việt Nam. Tư tưởng Nho giáo trong “Hiến pháp 17 điều” (Jushichijo kempo) của Thái tử Shotoku Taishi năm 607, đã thể hiện khá rõ nét (trong 17 đuều chỉ có điều thứ 2 và thứ 10 chịu ảnh hưởng của Phật giáo, ngoài ra là tư tưởng Nho giáo). Như vậy có thể thấy rằng Nho giáo phải được giai cấp thống trị bản xứ tiếp thu thì mới có thể tồn tại và phát triển. Ở Việt Nam, giai cấp phong kiến triều đại nhà Lý chủ động tiếp thu Nho giáo và biến nó thành “cần câu cơm” để lôi cuốn sĩ tử trong nước. Thời Lý Trần Nho giáo ảnh hưởng nhiều trong xã hội nhưng chưa phải ở vị trí độc tôn. Do đó không khí học thuật còn tự do. Về sau, từ triều Lê trở đi, Nho giáo trở thành xơ cứng, giáo điều, sĩ tử chỉ cốt đi thi để được vinh thân mà thôi. Anh hưởng của nó kéo dài hơn năm trăm năm cho đến tận ngày nay. Nho giáo trở thành một phần không thể thiếu cua văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng của nó tốt có, xấu có. Tuy nhiên rat tiếc là việc đầu tư nghiên cứu Nho giáo chưa được xem trọng ở Việt Nam.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top