Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Tuổi trưởng thành là một giai đoạn mà hầu hết chúng ta đều phải trải qua. Khi chưa bước vào tuổi trưởng thành, chúng ta chưa hề biết rằng chúng ta sắp phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, những điều kiện và hoàn cảnh sống, những thay đổi lớn của cuộc đời trong tương lai như thế nào. Chúng ta có hay không một công việc? Một gia đình riêng? Một căn nhà, Một ai đó để yêu thương, chăm sóc? Những đứa trẻ? Những công danh, sự nghiệp trước mắt chúng ta như thế nào?...
Hay đơn giản hơn là không ai có thể đoán trước rằng mình sẽ như thế nào trong giai đoạn kế tiếp sau tuổi thanh niên - tuổi trưởng thành – Đây là một giai đoạn có thể nói là ảnh hưởng lớn nhất đến đời sống của con người, là giai đoạn vô cùng quan trọng, có sự thay đổi nhiều nhất của cuộc đời.
Nghiên cứu về người trưởng thành mà cụ thể là về các nhiệm vụ của người trưởng thành Việt Nam và so sánh nó với lý thuyết “Nhiệm vụ của người trưởng thành” của Levinson, chúng tôi mong muốn sẽ khám phá được những nhiệm vụ quan trọng của người trưởng thành Việt Nam và để giúp những người đã, đang và sẽ trải qua lứa tuổi như chúng tôi, các anh, các chị và các bạn thanh thiếu niên có những góc nhìn và có thêm những hiểu biết sâu hơn về nhiệm vụ của người trưởng thành – giai đoạn mà đại đa số chúng ta dù muốn hay không đều vẫn phải trải qua.
Nghiên cứu về người trưởng thành và nhiệm vụ của người trưởng thành ở các nước khác trên thế giới chúng ta có thể bắt gặp những tên tuổi như: Erikson, Levinson… Tuy nhiên ở Việt Nam đây còn là điều khá mới mẻ và không phải người Việt Nam nào cũng biết để có thể nâng tầm nhận thức và thay đổi hành vi của mình sao cho có thể có sự phát triển tốt nhất. Thông qua đề tài “Những nhiệm vụ cơ bản của người trưởng thành” này chúng tôi muốn tìm hiểu những nhiệm vụ của người trưởng thành Việt Nam và xem việc xác định nhiệm vụ của họ như thế nào và có điểm tương đồng hay khác biệt gì so với lý thuyết về nhiệm vụ của người trưởng thành của Levinson đã đưa ra hay không? Đồng thời chúng tôi cũng mong muốn có thể nắm rõ hơn nữa những đặc điểm tâm lý của người trưởng thành Việt Nam để trau dồi thêm vốn tri thức, kinh nghiệm cho bản thân.
1. Những nghiên cứu về khái niệm người trưởng thành
Trong sự phát triển tiếp diễn suốt cuộc đời. Con người phải trải qua các giai đoạn, thời kì với những đặc điểm tâm sinh lí khác nhau. Khác với quá trình phát triển ở thời thanh, thiếu niên, thời kì đầu trưởng thành (hay còn gọi là thời trưởng thành trẻ tuổi) có những thay đổi rất phức tạp trong nhận thức, tư duy, thái độ… Sự thay đổi đó phụ thuộc rất cụ thể vào hoàn cảnh xã hội, văn hoá và nền giáo dục của từng cộng đồng, từng dân tộc, trong các thời đại khác nhau mà cá nhân đó sống và hoạt động.
Dấu hiệu đặc trưng của người trưởng thành là khả năng phản ứng với những thay đổi và thích nghi với các điều kiện mới. Trong cuộc sống hàng ngày của người trưởng thành cần phải đưa ra những quyết định và vượt qua những khó khăn một cách độc lập nhất định. Và việc giải quyết các khó khăn mâu thuẫn, các vấn đề nảy sinh trong hoạt động sống một cách tích cực là nền tảng ở hoạt động của người trưởng thành.
Vậy người trưởng thành là gi? Tuổi trưởng thành được xác định như thế nào? Trong lịch sử tâm lý học đã từng có nhiều nghiên cứu khác nhau về vấn đề này. Khái niệm “người trưởng thành” là một khái niệm tổng hợp được xem xét trên cả ba bình diện, đó là: sinh học, tâm lí và xã hội. Việc nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan niệm khác nhau về vấn đề này chúng ta phải xem xét xem họ đứng trên phương diện nào, lấy tiêu chí nào trong ba yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội làm tiêu chuẩn .
Năm 1985, Birren và Cunningham đã xác định các thời kì phát triển của người trưởng thành theo “Ba yếu tố cấu thành độ tuổi” đó là: Sinh học, xã hội và tâm lí. Trong mỗi một nền văn hoá, xã hội khác nhau thì các đặc điểm tâm sinh lý, độ tuổi của người trưởng thành không giống nhau. Các yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau. Thế nhưng không phải cả ba yếu tố này xuất hiện cùng một thời điểm trong mỗi con người, mà ở người này yếu tố tâm lí, xã hội hình thành trước yếu tố sinh học, ở người khác yếu tố sinh học lại hình thành trước yếu tố tâm lí xã hội… Những công trình nghiên cứu về xã hội học, tâm lý học trên thế giới cho thấy sự chín muồi sinh học thường diễn ra sớm hơn yếu tố tâm lý, xã hội. Việc ba yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không chín muồi cùng một thời điểm cũng gây ra không ít khó khăn cho mỗi chúng ta. Nó là một trong những nguyên nhân gây nên sự khủng hoảng tâm lí lứa tuổi.
Vậy thì thế nào là tuổi sinh học, tuổi tâm lí, xã hội. Theo nghiên cứu của hai ông đã chỉ ra:
Tuổi sinh học là tuổi phản ánh hoàn cảnh của cá nhân trong mối tương quan với tuổi thọ dự kiến họ, một điều hiển nhiên là nó rất biến động từ cá nhân này sang cá nhân khác, không có ai giống ai. Ví dụ như: một người 39 tuổi, làm việc trong môi trường độc hại và bị mắc các chứng bệnh hiểm nghèo, sắp chết sẽ khác biệt hoàn toàn về tuổi sinh học so với một người khoẻ mạnh, không bệnh tật làm việc trong một môi trường thuận lợi, còn có thể sống được 33 năm nữa hoặc nhiều hơn nữa(không xét đến trường hợp tai nạn hay bức tử khác…).
Tuổi xã hội có liên quan trực tiếp đến vị thế xã hội của mỗi cá nhân so với các chuẩn mực văn hoá. Ví dụ, một người phụ nữ 35 tuổi ở Mĩ có chồng và có 3 con khác biệt hoàn toàn với một người phụ nữ khác 35 tuổi, cũng ở Mỹ mà chưa lập gia đình. Và người phụ nữ 35 tuổi đã có chồng, con ở Mỹ lại càng khác biệt so với những người phụ nữ 35 tuổi cũng có chồng và 3 con ở Việt Nam.
Tuổi tâm lí thể hiện con người có khả năng xử lý các yêu cầu, đòi hỏi của môi trường xã hội, của công việc hàng ngày và thích ứng với môi trường đó ở mức độ nào. Tuổi tâm lí chứa đựng trong nó trình độ trí tuệ, khả năng học tập, kĩ năng sống và các đặc điểm tâm lí khác như: Động cơ, thái độ, cảm xúc, tình cảm, ý chí vươn lên trong cuộc sống…
Xét về độ tuổi, năm 1968, Neugarten nghiên cứu và đưa ra khái niệm “tuổi thời gian”. Và tuổi thời gian được hiểu như là “một dạng biểu đồ bên trong” cho chúng ta biết chúng ta có vận động theo đường đời nhanh hay chậm. Ví dụ như một sinh viên đại học 35 tuổi thì được coi là học muộn hay một thủ tướng 35 tuổi thì được coi là người trưởng thành sớm so với những người cùng tuổi.
Tuổi thời gian cho chúng ta biết được các sự kiện hay những biến cố nhất định trong đời sống của mỗi con người như thế nào trong theo các chuẩn mực vốn có của mỗi nền văn hoá, mỗi dân tộc. Ví dụ, ở Việt Nam một công dân 18 tuổi với nữ, 20 tuổi với nam trở nên được phép kết hôn. Một người 15 tuổi mà kết hôn thì được coi là kết hôn sớm (tảo hôn) những người này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và chịu sức ép của dư luận. Một người sau 45 tuổi mới lập gia đình thì được coi là muộn. Những người này phải hứng chịu những khó khăn về mặt tâm lí hơn rất nhiều so với những người kết hôn đúng độ tuổi mà pháp luật và xã hội qui định.
Tuy nhiên ngày nay việc xác định theo tuổi thời gian có những dao động lớn. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự phát triển toàn cầu hoá, việc du nhập các lối sống khác nhau trên thế giới trở nên dễ dàng hơn, tự do hơn. Việc xác định những chuẩn mực cũng trở nên khó khăn hơn. Việc kết hôn, ly hôn và tái hôn thường gặp trong suốt cuốc đời chứ không phải chỉ trong tuổi đầu trưởng thành. Hay những sinh viên 35- 40 học trong một lớp đại học không phải là hiếm. Những người thuộc nhóm tuổi nhất định có thể tham gia vào các hình thức hoạt động và các biến cố đời sống khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì người trưởng thành được hiểu là “người đã lớn khôn và tự lập được”. Đây là một khái niệm rất trừu tượng. Và theo cách hiểu của chúng tôi theo định nghĩa này thì người trưởng thành là người đã “lớn” tức đã hoàn thiện về mặt thể chất, còn “khôn” đã chín muồi về mặt tâm lí. Và là người “tự lập được” nghĩa là có sự trưởng thành về mặt xã hội. Có khả năng sống, hoạt động độc lập trong xã hội được.
Trong từ điển Anh - Việt thì từ Adult được dịch là người lớn với nghĩa là: người trưởng thành về mặt tâm tư tình cảm, đủ tuổi để đi bỏ phiếu, lấy vợ lấy chồng......; thành niên
Tuy nhiên, theo cách hiểu của chúng tôi thì “người trưởng thành là người đã có sự hoàn thiện về mặt thể chất và có sự chín muồi về mặt tâm lí, xã hội”.
Xã hội luôn vận động, con người ngày càng phát triển, kéo theo những sự thay đổi về mặt hình thái cũng như các đặc điểm về tâm, sinh lý chính vì thế để tìm được một định nghĩa phù hợp nhất cho mọi thời đại, mọi khu vực địa lý và các nền văn hoá, xã hội... khác nhau là một việc làm không hề đơn giản.
Hay đơn giản hơn là không ai có thể đoán trước rằng mình sẽ như thế nào trong giai đoạn kế tiếp sau tuổi thanh niên - tuổi trưởng thành – Đây là một giai đoạn có thể nói là ảnh hưởng lớn nhất đến đời sống của con người, là giai đoạn vô cùng quan trọng, có sự thay đổi nhiều nhất của cuộc đời.
Nghiên cứu về người trưởng thành mà cụ thể là về các nhiệm vụ của người trưởng thành Việt Nam và so sánh nó với lý thuyết “Nhiệm vụ của người trưởng thành” của Levinson, chúng tôi mong muốn sẽ khám phá được những nhiệm vụ quan trọng của người trưởng thành Việt Nam và để giúp những người đã, đang và sẽ trải qua lứa tuổi như chúng tôi, các anh, các chị và các bạn thanh thiếu niên có những góc nhìn và có thêm những hiểu biết sâu hơn về nhiệm vụ của người trưởng thành – giai đoạn mà đại đa số chúng ta dù muốn hay không đều vẫn phải trải qua.
Nghiên cứu về người trưởng thành và nhiệm vụ của người trưởng thành ở các nước khác trên thế giới chúng ta có thể bắt gặp những tên tuổi như: Erikson, Levinson… Tuy nhiên ở Việt Nam đây còn là điều khá mới mẻ và không phải người Việt Nam nào cũng biết để có thể nâng tầm nhận thức và thay đổi hành vi của mình sao cho có thể có sự phát triển tốt nhất. Thông qua đề tài “Những nhiệm vụ cơ bản của người trưởng thành” này chúng tôi muốn tìm hiểu những nhiệm vụ của người trưởng thành Việt Nam và xem việc xác định nhiệm vụ của họ như thế nào và có điểm tương đồng hay khác biệt gì so với lý thuyết về nhiệm vụ của người trưởng thành của Levinson đã đưa ra hay không? Đồng thời chúng tôi cũng mong muốn có thể nắm rõ hơn nữa những đặc điểm tâm lý của người trưởng thành Việt Nam để trau dồi thêm vốn tri thức, kinh nghiệm cho bản thân.
1. Những nghiên cứu về khái niệm người trưởng thành
Trong sự phát triển tiếp diễn suốt cuộc đời. Con người phải trải qua các giai đoạn, thời kì với những đặc điểm tâm sinh lí khác nhau. Khác với quá trình phát triển ở thời thanh, thiếu niên, thời kì đầu trưởng thành (hay còn gọi là thời trưởng thành trẻ tuổi) có những thay đổi rất phức tạp trong nhận thức, tư duy, thái độ… Sự thay đổi đó phụ thuộc rất cụ thể vào hoàn cảnh xã hội, văn hoá và nền giáo dục của từng cộng đồng, từng dân tộc, trong các thời đại khác nhau mà cá nhân đó sống và hoạt động.
Dấu hiệu đặc trưng của người trưởng thành là khả năng phản ứng với những thay đổi và thích nghi với các điều kiện mới. Trong cuộc sống hàng ngày của người trưởng thành cần phải đưa ra những quyết định và vượt qua những khó khăn một cách độc lập nhất định. Và việc giải quyết các khó khăn mâu thuẫn, các vấn đề nảy sinh trong hoạt động sống một cách tích cực là nền tảng ở hoạt động của người trưởng thành.
Vậy người trưởng thành là gi? Tuổi trưởng thành được xác định như thế nào? Trong lịch sử tâm lý học đã từng có nhiều nghiên cứu khác nhau về vấn đề này. Khái niệm “người trưởng thành” là một khái niệm tổng hợp được xem xét trên cả ba bình diện, đó là: sinh học, tâm lí và xã hội. Việc nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan niệm khác nhau về vấn đề này chúng ta phải xem xét xem họ đứng trên phương diện nào, lấy tiêu chí nào trong ba yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội làm tiêu chuẩn .
Năm 1985, Birren và Cunningham đã xác định các thời kì phát triển của người trưởng thành theo “Ba yếu tố cấu thành độ tuổi” đó là: Sinh học, xã hội và tâm lí. Trong mỗi một nền văn hoá, xã hội khác nhau thì các đặc điểm tâm sinh lý, độ tuổi của người trưởng thành không giống nhau. Các yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau. Thế nhưng không phải cả ba yếu tố này xuất hiện cùng một thời điểm trong mỗi con người, mà ở người này yếu tố tâm lí, xã hội hình thành trước yếu tố sinh học, ở người khác yếu tố sinh học lại hình thành trước yếu tố tâm lí xã hội… Những công trình nghiên cứu về xã hội học, tâm lý học trên thế giới cho thấy sự chín muồi sinh học thường diễn ra sớm hơn yếu tố tâm lý, xã hội. Việc ba yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không chín muồi cùng một thời điểm cũng gây ra không ít khó khăn cho mỗi chúng ta. Nó là một trong những nguyên nhân gây nên sự khủng hoảng tâm lí lứa tuổi.
Vậy thì thế nào là tuổi sinh học, tuổi tâm lí, xã hội. Theo nghiên cứu của hai ông đã chỉ ra:
Tuổi sinh học là tuổi phản ánh hoàn cảnh của cá nhân trong mối tương quan với tuổi thọ dự kiến họ, một điều hiển nhiên là nó rất biến động từ cá nhân này sang cá nhân khác, không có ai giống ai. Ví dụ như: một người 39 tuổi, làm việc trong môi trường độc hại và bị mắc các chứng bệnh hiểm nghèo, sắp chết sẽ khác biệt hoàn toàn về tuổi sinh học so với một người khoẻ mạnh, không bệnh tật làm việc trong một môi trường thuận lợi, còn có thể sống được 33 năm nữa hoặc nhiều hơn nữa(không xét đến trường hợp tai nạn hay bức tử khác…).
Tuổi xã hội có liên quan trực tiếp đến vị thế xã hội của mỗi cá nhân so với các chuẩn mực văn hoá. Ví dụ, một người phụ nữ 35 tuổi ở Mĩ có chồng và có 3 con khác biệt hoàn toàn với một người phụ nữ khác 35 tuổi, cũng ở Mỹ mà chưa lập gia đình. Và người phụ nữ 35 tuổi đã có chồng, con ở Mỹ lại càng khác biệt so với những người phụ nữ 35 tuổi cũng có chồng và 3 con ở Việt Nam.
Tuổi tâm lí thể hiện con người có khả năng xử lý các yêu cầu, đòi hỏi của môi trường xã hội, của công việc hàng ngày và thích ứng với môi trường đó ở mức độ nào. Tuổi tâm lí chứa đựng trong nó trình độ trí tuệ, khả năng học tập, kĩ năng sống và các đặc điểm tâm lí khác như: Động cơ, thái độ, cảm xúc, tình cảm, ý chí vươn lên trong cuộc sống…
Xét về độ tuổi, năm 1968, Neugarten nghiên cứu và đưa ra khái niệm “tuổi thời gian”. Và tuổi thời gian được hiểu như là “một dạng biểu đồ bên trong” cho chúng ta biết chúng ta có vận động theo đường đời nhanh hay chậm. Ví dụ như một sinh viên đại học 35 tuổi thì được coi là học muộn hay một thủ tướng 35 tuổi thì được coi là người trưởng thành sớm so với những người cùng tuổi.
Tuổi thời gian cho chúng ta biết được các sự kiện hay những biến cố nhất định trong đời sống của mỗi con người như thế nào trong theo các chuẩn mực vốn có của mỗi nền văn hoá, mỗi dân tộc. Ví dụ, ở Việt Nam một công dân 18 tuổi với nữ, 20 tuổi với nam trở nên được phép kết hôn. Một người 15 tuổi mà kết hôn thì được coi là kết hôn sớm (tảo hôn) những người này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và chịu sức ép của dư luận. Một người sau 45 tuổi mới lập gia đình thì được coi là muộn. Những người này phải hứng chịu những khó khăn về mặt tâm lí hơn rất nhiều so với những người kết hôn đúng độ tuổi mà pháp luật và xã hội qui định.
Tuy nhiên ngày nay việc xác định theo tuổi thời gian có những dao động lớn. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự phát triển toàn cầu hoá, việc du nhập các lối sống khác nhau trên thế giới trở nên dễ dàng hơn, tự do hơn. Việc xác định những chuẩn mực cũng trở nên khó khăn hơn. Việc kết hôn, ly hôn và tái hôn thường gặp trong suốt cuốc đời chứ không phải chỉ trong tuổi đầu trưởng thành. Hay những sinh viên 35- 40 học trong một lớp đại học không phải là hiếm. Những người thuộc nhóm tuổi nhất định có thể tham gia vào các hình thức hoạt động và các biến cố đời sống khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì người trưởng thành được hiểu là “người đã lớn khôn và tự lập được”. Đây là một khái niệm rất trừu tượng. Và theo cách hiểu của chúng tôi theo định nghĩa này thì người trưởng thành là người đã “lớn” tức đã hoàn thiện về mặt thể chất, còn “khôn” đã chín muồi về mặt tâm lí. Và là người “tự lập được” nghĩa là có sự trưởng thành về mặt xã hội. Có khả năng sống, hoạt động độc lập trong xã hội được.
Trong từ điển Anh - Việt thì từ Adult được dịch là người lớn với nghĩa là: người trưởng thành về mặt tâm tư tình cảm, đủ tuổi để đi bỏ phiếu, lấy vợ lấy chồng......; thành niên
Tuy nhiên, theo cách hiểu của chúng tôi thì “người trưởng thành là người đã có sự hoàn thiện về mặt thể chất và có sự chín muồi về mặt tâm lí, xã hội”.
Xã hội luôn vận động, con người ngày càng phát triển, kéo theo những sự thay đổi về mặt hình thái cũng như các đặc điểm về tâm, sinh lý chính vì thế để tìm được một định nghĩa phù hợp nhất cho mọi thời đại, mọi khu vực địa lý và các nền văn hoá, xã hội... khác nhau là một việc làm không hề đơn giản.