Nhật Ký Đặng Thùy Trâm

ButBi

New member
Xu
0
Lời tác giả

Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942, trong một gia đình trí thức. Bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dược sĩ Doãn Ngọc Trâm – Nguyên giảng viên trường Đại học Dược khoa Hà Nội.

Tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thuỳ Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường B. Sau ba tháng hành quân từ miền Bắc, tháng 3 năm 1967 chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh viện dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh.
Chị được kết nạp Đảng ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, chị bị địch phục kích và hy sinh anh dũng lúc mới chưa đầy 28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm tuổi nghề.

Hài cốt của chị được đồng bào địa phương an táng tại nơi chị ngã xuống và luôn hương khói. Sau giải phóng, chị được gia đình và đồng đội đưa về nghĩa trang Liệt sĩ xả Phổ Cường. Năm 1990, gia đình đã đưa chị về yên nghĩ tại nghĩa trang Liệt sĩ xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu hai cuốn nhật ký của Liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm ghi trong những ngày ở chiến trường. Bản thân hai cuốn nhật ký này cũng có một số phận kỳ lạ: chúng rơi vào tay những con người có lương tri bên kia chiến tuyến, được họ giữ gìn và tìm mọi cách để đưa về cho gia đình chị. Sau hơn một phần ba thế kỷ lưu lạc, đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30.4.2005), nó đã trở về với gia đình liệt sĩ. Hiện cuốn nhật ký được lưu giữ tại Viện Lưu trữ về Việt Nam ở Lubbock, Texas, Mỹ.

Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp. Chúng tôi cũng chú giải một số điểm cần thiết để bạn đọc có thể hiểu hơn hoàn cảnh cũng như lịch sử và bản thân tác giả.

Ngoài ra, trong phần ảnh tư liệu, được phép của những người có liên quan, chúng tôi có sử dụng những bức ảnh trong album gia đình, ảnh chụp ở Quảng Ngãi trong những năm 1969 – 1970 do Frederic Whitehurst cung cấp và một số bức ảnh do liệt sĩ Nguyễn Văn Giá – Phóng viên hãng phim Thời sự - Tài liệu Việt Nam chụp tháng 10.1969 ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi trước khi anh hy sinh.
Vương Trí Nhàn
 
Lời giới thiệu

Lời giới thiệu

Thời chống Mỹ từng có một bác sĩ,
một con người, tên là Đặng Thuỳ Trâm…
Tác giả những dòng nhật ký sau đây bạn đọc sẽ đọc thuộc về một lớp người khá đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội ta từ sau 1945 - họ có mặt trong công cuộc chiến đấu chống Mỹ từ mấy năm đầu tiên, khi ở miền Nam, các cơ sở cách mạng triển khai đến tận nhiều huyện đồng bằng, và trên toàn quốc, cuộc chiến tranh dù đã gian khổ nhưng chưa có cái không khí bức bối khắc nghiệt như từ đầu những năm 70 trở đi.

Và một điều đáng nói nữa: trước đó, họ thuộc lứa thanh niên đầu tiên được đào tạo theo tinh thần của những người đi kháng chiến chống Pháp, cái tinh thần “cuộc sống mới”, ấp ủ từ những ngày Việt Bắc gian khổ mà hào hùng

Hà Nội trước chiến tranh thanh bình, yên ả lạ thường. Bao trùm xã hội là một không khí thiêng liêng, thành kính. Ngay đối với người dân thường mọi chuyện làm ăn sinh sống chỉ có ý nghĩa là sự chuẩn bị cho ngày mai có mặt ở chiến trường. Nền kinh tế tem phiếu chưa làm mấy ai khó chịu. Trong tâm trí đám học trò chúng tôi (tôi với Thùy Trâm vốn học cùng lớp trong suốt ba năm cấp ba ở trường Chu Văn An, nên dưới đây, việc dùng chữ chúng tôi là có một lý do chính đáng) lúc nào cũng thấm đẫm tinh thần lãng mạn của Ruồi trâu, của Pavel Korsaghin trong Thép đã tôi thế đấy và cả của Marius và Cosette trong Những người khốn khổ. Sách vở lúc ấy là đồng nghĩa với văn hoá. Thêm một điã nhạc cổ điển, với một vài bông hoa trên bàn nữa thì coi như mãn nguyện hoàn toàn. Có mặt trong đám đông dự mít tinh ở quảng trường Ba Đình trong một ngày lễ lớn (trước 1965, những ngày lễ lớn bao giờ cũng có mít tinh, đâu cả chục ngàn người), anh bạn tôi mặt ngẩng cao dõi theo mấy cánh chim bay mãi vào những đám mây xa. Đêm giao thừa ngay khi có chiến tranh rồi thì mấy ngày Tết vẫn có ngừng bắn, cũng như mọi người, chúng tôi dắt xe đạp đi bộ quanh Hồ Gươm trong tiếng nhạc dập dìu của mấy bài Hà Nội Huế Sài Gòn, Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó…

Và có thể nói mà không sợ ngoa là từ đấy, nhiều người đi thẳng ra chiến trường.

Nhật ký tôi viết mấy năm ấy còn ghi lại được hình ảnh về những người lính ớ đánh Khe Sanh 1967: Quần áo ba lô người nào cũng tinh tươm, niềm tin sáng bừng trong mắt, chỉ sợ không đi thì lỡ mất dịp có mặt trong lễ chiến thắng.

Một niềm tin tưởng như chỉ có ở tôn giáo - thứ niềm tin mang đầy cảm giác thánh thiện - chi phối hành động mọi người. Lao vào chiến tranh lúc ấy không phải chỉ là nghĩa vụ mà còn là niềm ao ước, là vinh dự mà nhiều anh em chúng tôi cảm thấy phải giành lấu bằng được.

Tốt nghiệp đại học 1966, Thuỳ Trâm lại xung phong đi khá xa, vào tận Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ở đó chị làm công việc đặc trưng cho người phụ nữ trong chiến tranh là phụ trách một bệnh viện huyện, và từ đó tạo nên cho mình một số phận.

Không phải ngẫu nhiên, hai người lính thám báo Mỹ hôm qua, trong bức thư gởi tới người mẹ của liệt sĩ vừa viết mới đây, khẳng định một cách chắc chắn như đinh đóng cột: “Trên bất cứ đất nước nào trên thế giới, điều đó đều được gọi là anh hùng”

Họ muốn nói tới cái sự việc từng ám ảnh họ một thời gian dài: người bác sĩ này đã đứng ra cầm súng bảo vệ cho những thương binh, và đã ngã xuống như một người lính vừa rời tay súng.

Tuy nhiên, theo tôi, trước khi để cái hành động dũng cảm cuốn cùng Thùy Trâm “đóng đinh” vào tâm trí mình, những người lính bên kia chiến tuyến thật ra đã bị chinh phục. Phải có một nhân tố nào nữa, thiết yếu hơn, khiến họ tự nhủ phải cứu bằng được cuốn nhật ký rồi bị hút theo chị, mải miết tìm cách giải mã những dòng chữ chị ghi và sau này còn để rất nhiều thời gian lần theo dấu vết của chị.

Chỉ có toàn bộ con người Thùy Trâm mới đóng nổi vai trò đẹp đẽ đó.
Gần đây, khi đi ra với thế giới, nhiều người trong chúng ta chợt hiểu ra một sự thực: Hai chữ Việt Nam bấy lâu mới chỉ gắn với một cuộc chiến tranh. Và chúng ta còn phải phấn đấu nhiều để người ta hiểu rằng việt Nam còn là một xã hội, một đất nước, một nền văn hoá.

Ngay từ lúc ấy, trong vai trò một chiến sĩ, Thuỳ Trâm đã tự chứng tỏ mình mình còn là một con người với nghĩa rộng rãi nhất của từ này.

Một mặt, chị có ý thức về bổn phận. Chị yêu thương mọi người. Chị đau nỗi đau của mỗi bệnh nhân đến với mình. Chị muốn trở thành một người tốt. Những cách nói mà với một số bạn trẻ ngày nay tưởng như là công thức (chẳng hạn trái tim đập cùng một nhịp với nhân dân đất nước, chẳng hạn niềm yêu thương vô hạn độ) chính là những lẽ sống đã được Thuỳ Trâm tự nguyện chấp nhận.

Mặt khác,chị vẫn dành riêng cho mình một cuộc sống riêng tư. Chị tha thiết với thiên nhiên cây cỏ. Một phần tháng ngày của chị được dệt bằng những vui buồn của quá khứ. Trong khi thất bại trong tình cảm riêng. con người này lại biết tìm ra ngay từ bằng người chung quanh những yếu tố tốt đẹp, rồi lý tưởng hoá thêm lên để biến họ thành những biểu tượng sinh động, bù đắp cho một cuộc đống nội tâm vốn quá dồi dào, quá nồng nhiệt.
Có một quy ước những ai ở vào lứa tuổi chúng ta đều biết và tự nguyện ghi nhớ, tự nguyện tuân theo, đó là không nên nói nhiều đến cô đơn cùng nỗi buồn. Sự phức tạp của tình cảm lại càng là điều cấm kỵ.

Cái gì cũng phải rành rẽ. Đơn giản. Rõ ràng - cái kiểu rõ ràng thô thiển một chiều. Về phần mình mặc dù là con người hết lòng tin vào lý tưởng, song Thuỳ Trâm không bị những luật lệ không ghi thành văn bản ấy ràng buộc. Với sự nhạy cảm của một trí thức, chị lắng nghe trong mình mọi băn khoăn xao động. Chị không xa lạ với những phân vân khó xử. Trong nhật ký, người nữ bác sĩ ghi ra gần hết tất cả những cung bậc tình cảm mà ai người ở vào địa vị ấy đều trải qua, và có cảm tưởng chỉ làm như vậy mới tìm được sự cân bằng cần thiết.

Tuy cái chết không được miêu tả nhiều trong nhật ký, nhưng trong tâm trí Thuỳ Trâm, nó luôn luôn có mặt. Nó đứng thấp thoáng đằng sau các sự kiện, và cuộc đối diện với cái chết làm nên một phần nội dung cuộc sống, tức cũng là làm nên vẻ đẹp cao thượng của con người lúc đó mới 27 tuổi này. Đọc nhiều trang, nhất là nửa phần viết về sau, khi đề cập tới nhiều hy sinh mất mát, tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều tác phẩm văn học có liên quan tới cùng một chủ đề.Đây là một bài thơ mà nhà thơ Nga Aleksei Surkov đã viết trong cuộc chiến tranh chống Phát xít:

Trong hầm ta ánh lửa sáng ngời
Từng thanh củi bọt sùi như lệ ứa
Tiếng đàn dạo một điệu trầm và nhẹ
Ca ngợi mắt em ca ngợi nụ cười em
Anh ở đây trên tuyết gần Mạc Tư Khoa
Những hàng dương đang ngọt ngào thầm thĩ
Cái bản tình ca anh vừa hát ấy
Bản tình ca buồn anh mong được em nghe
Giữa đôi ta dù xa cách mênh mong
Dù cái chết đến gần anh mấy bước
Dù có cả một cánh đồng băng tuyết
Trên đương dài ta vẫn đến gặp nhau
Ta hát ta đàn ta dẹp yên bão táp
Hạnh phúc mất ở ta dẫn nó trở về
Tình yêu sưởi chiến hào thêm ấm áp
Tình yêu này sáng mãi giữa tim anh.

Tôi dự đoán là đã có những lúc Thuỳ Trâm sống cái cảm giác mà bài thơ diễn tả, dù là không biết gì về nó. Hồi ở Hà Nội, chị cũng rất thích âm nhạc và thường quan âm nhạc để hình dung ra những gì thiết yếu của đời sống - sự hoà hợp, tình yêu, hạnh phúc.

* * *

Ngoài những Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, thơ Từ ấy của Tố Hữu , thơ Đợi anh về của Simonov, vào những ngày đọc lại nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm để góp phần chỉnh lý và biên tập lại thành một cuốn sách, thường trong đầu óc tôi còn trở đi trở lại một vài tác phẩm nước ngoài khác, đặc biệt là trường hợp Nhật ký Anne Frank.

Chỗ giống nhau đầu tiên: Đây đều là những tác phẩm viết về con người đối diện với chiến tranh. Trong cuộc sống khó khăn của một người bị ép phải chui nhủi trong một nơi ẩn náu, cô thiếu nữ Do Thái mang tên Anne Frank vẫn tìm đủ không gian để thể nghiệm mọi cảm giác làm người bình thường, và điều đó làm cô tự hào.

"Tôi có cái can đảm sống khác thường. Tôi luôn luôn cảm thấy mình sao khoẻ thế, sao tự do và trẻ trung thế."
"Thật lạ cho điều này: tôi chưa bao giờ rời bỏ hy vọng. Chúng có vẻ phi lý và khó thành tựu. Song mặc tất cả, tôi vẫn bám vào chúng. Vì tôi tiếp tục tin vào lòng tốt thiên bẩm của con người."
Những dòng chữ đơn giản đó hoàn toàn có thể đặt lẫn vào nhật ký Thuỳ Trâm mà không gượng gạo.

Còn một đếm nữa làm nên sự gần gũi giữa Thuỳ Trâm với Anne Frank, nó cũng là lý do khiến bọn tôi chọn cho tập ghi chép của chị cái tên đơn giản như hiện nay, đó là cái thể loại mà họ sử dụng - thể nhật ký.
Trong đời sống không thiếu gì những người khi bước vào đời háo hức định ghi nhật ký để rồi nửa đường đứt gánh bỏ dở. Khi bắt tay viết họ thường tự nhỉ mình sẽ thành thực với mình. Có biết đâu cái tôi của họ nghèo nàn nên đó là một sự thành thực vô nghĩa. Và họ không sao tìm đủ nghị lực duy trì nhật ký đến cùng.

Anne Frank thú nhận:
“Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những gì cảm nghĩ bằng không sẽ chết ngạt mất".
“Những người nào không viết không biết được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn vì không biết vẽ; nhưng bây giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra tôi đã có thể viết”.

Thuỳ Trâm không có những tuyên bố hùng hồn như vậy, nhưng quả thật với chị, nhật ký đã trở thành một phần cuộc đời. Trong nhật ký chị tìm ra một con người khác với một Thuỳ Trâm mọi người vẫn biết hằng ngày. Để chia sẻ. Để thú nhận. Để tìm thêm niềm tin. Và đôi khi như là để làm nũng với mình một chút, lối làm nũng chỉ chứng tỏ rằng vẫn có một thế giới riêng của mình mà không ai thông cảm hết.

Tất cả những yếu tố đó làm nên sức hấp dẫn của những trang nhật ký. Với chị, cái hấp dẫn ấy giúp chị có đủ hào hứng ghi chép một cách đều đặn. Với người đọc hôm nay, nó làm nên sức cuốn hút của những tâm sự, mặc dù trong hoàn cảnh đổi khác, mọi người đã nghĩ khác.

Do đặc điểm riêng của chiến tranh, ngay từ những ngày ấy, bao nhiêu công sức chúng ta để cả vào việc động viên nhau ra trận. Còn chính cuộc sống mỗi người trong lúc đó thì mới được ghi chép rất ít. Ba mươi năm sau, sự “tiêu hoá” vẫn dừng lại ở trình độ cũ. Mỗi khi nói về chiến thắng, ta vẫn chỉ biết nói với nhau những lời lẽ mọi người đã từng nghe mấy chục năm trước. Tại sao? Phần thì những sôi động để kiếm sống để tồn tại lúc nào cũng cuốn hút mọi người. Phần nữa cũng là bởi ta chưa có ý thức đầy đủ về lịch sử, về sự có mặt của quá khứ trong hiện tại. Công tác tổng kết về chiến tranh quá chậm, các bộ phận lịch sử chiến tranh không hoạt động như đáng lẽ phải hoạt động. Mỗi người bình thường chưa được gợi ý thu thập lại các tài liệu đã ghi hoặc tìm tòi lại lục khi lại trong ký ức những kỷ niệm xưa để viết ra thành những hồi ký có giá trị chân thực.

* * *

Ngay sau khi biết rằng đây là một cuốn nhật ký viết trong chiến tranh, có thể có bạn đọc - nhất là bạn đọc trẻ - sẽ hỏi: Lại cho chúng tôi một tấm gương để bảo chúng tôi học theo chứ gì?

Không đâu bạn ạ! Ở đây bạn sẽ không tìm thấy những lời khuyên nhủ mà chỉ bắt gặp một con người với một cuộc sống cụ thể của thời chiến. So với lớp thanh niên ngày nay, người thanh niên của gần bốn chục năm trước có một cách sống khác, một cách sống không lắm chiều cạnh phong phú, không tự do nhiều vẻ, nhưng lại trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Sự tận tụy làm người của Thùy Trâm là nhân tố khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lý tưởng cũng phải kính trọng. Còn với chúng ta, tin rằng nó cũng có những hiệu ứng tương tự.

Trong cuốn lịch sử văn học thế kỷ XX đang có trong tay, tôi bắt gặp một nhận xét của A. Malraux: "Điều huyền bí hơn cả không phải là chúng ta bị ném vào mớ hỗn độn vật chất cùng với hành tinh, mà là trong “lao tù” đó, chúng ta rút tỉa từ bản thân cá nhân mình những nhân tố con người - nó cần vừa đủ để cái hư không sẵn có trong chúng ta bị phủ nhận”
Câu nói mang trong mình nó nhiều triết lý, mà một trong những triết lý đó là: trong sự muôn mày muôn vẻ của thực tại, con người vẫn là mẫu số chung làm nên những giá trị vĩnh cửu.

Nhật ký Đặng Thùy Trâm có cái nhân tố nhân văn đầy bí mật đó. Nếu cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong quay trở tại tìm ra những thiết tha cao đẹp và cả những cay đắng bi thảm có thể có trong kiếp người của chính mình, tức là sự hy sinh của một con người ở 27 có thêm một ý nghĩa chân chính.
VƯƠNG TRÍ NHÀN​
 
Câu chuyện về những tấm lòng

Câu chuyện về những tấm lòng

Sáng 25-4-2005, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ. Đó là điện thoại gọi đến từ văn phòng Quaker Hà Nội. Người của văn phòng báo tin hiện có một người Mỹ đang giữ cuốn nhật ký của chị gái tôi - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Thùy của chúng tôi.

Chị tôi hi sinh năm 1970 tại chiến trường Quảng Ngãi. Cống hiến của chị tôi ghi trong hồ sơ đề nghị truy tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì rất đơn sơ: bác sĩ, hi sinh tại chiến trường. Thời gian công tác: năm năm, ba tháng, năm ngày...

Những kỷ vật còn lại của chị tôi do đồng đội gửi về chỉ gồm mấy tấm ảnh, một số thư của gia đình từ miền Bắc gửi vào. Các anh cũng nói chị tôi có ghi nhật ký – đó là thói quen của chị tôi từ nhỏ - nhưng đã bị giặc lấy đi trong một trận càn.
* * *
Trung tuần tháng 3-2005, một cuộc hội thảo thường niên về chiến tranh VN được tổ chức tại Trung tâm Việt Nam - Đại học Texas, Mỹ. Rất nhiều người đến dự. Tại hội thảo, người ta thảo luận về chiến tranh VN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt cộng mà Frederic nhận được khi tham gia chiến tranh ở VN. Sự kiện thu hút được sự chú ý của người nghe qua lời kể xúc động của Fred về quá trình từ lúc nhận được cuốn nhật ký cho tới lúc quyết định tặng nó cho viện lưu trữ về Việt Nam ở Lobbock, cũng như qua những trang nhật ký đầy tình yêu thương và khát vọng hoà bình đã được Robert dịch sang tiếng Anh. Buổi hội thảo kết thúc, mọi người xôn xao đặt ra nhiều câu hỏi, nhiều người ngỏ ý muốn giúp Fred tìm gia đình nữ bác sĩ.

Ted Engelmann là một trong những người có mặt ở hội thảo. Ba ngày sau khi hội thảo kết thúc, Ted sang VN. Ở Hà Nội, anh đã nhờ một người bạn làm ở văn phòng Quaker Hà Nội tìm giúp gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê. Những nhân viên ở đây rất nhiệt tình, lần theo manh mối ít ỏi có trong cuốn nhật ký, họ đã tìm sang tận Đông Anh, nơi bố tôi làm việc từ gần 50 năm trước. Nhưng ở đó, người duy nhất làm việc cùng thời với bố tôi cũng đã nghỉ hưu từ năm 2000. Bệnh viện Đông Anh cử người về tận quê ông để hỏi địa chỉ gia đình tôi. Ông lại chỉ sang Trường đại học Dược Hà Nội, nơi mẹ tôi công tác trước khi về nghỉ hưu từ 20 năm trước. Cứ như thế, bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được gia đình tôi và trao lại chiếc đĩa CD chứa đựng tâm huyết của người viết nhật ký 35 năm về trước.

Những ngày sau đó tôi nhận được rất nhiều thư của hai anh em Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst. Họ kể về những năm tháng ở VN và hành trình bao năm qua họ đã tìm kiếm gia đình tôi như thế nào. Có những lúc họ tưởng như tuyệt vọng không thể nào tìm được gia đình tôi, đã sợ rằng khi họ chết đi, hai cuốn nhật ký của chị tôi sẽ nằm trong đống giấy má bình thường không ai biết đến, bị quẳng đi, bị mục nát, bị quên lãng. Họ nói với tôi rằng vì không còn hi vọng tìm được gia đình tôi, họ đã có ý định in hai cuốn nhật ký thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ cộng sản người Hà Nội đã sống và đã chết ra sao. Họ mong rằng từ cuốn sách đó sự nghiệp y tế của chị tôi sẽ còn được tiếp nối... Và trong nỗi tuyệt vọng như thế, họ đã trao tặng hai cuốn nhật ký cho Viện lưu trữ về VN Lubbock tại Trường đại học Tổng hợp Texas, để chúng có thể được gìn giữ và chăm chút hơn khả năng họ có thể làm được.

Dưới đây là bức thư đầu tiên của Fred gửi cho tôi:

Thứ sáu 29-4-2005

Tôi là Frederic Whitehurst. Tôi đã giữ ký ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, 35 năm nay. Tôi đã giữ cuốn nhật ký của chị ấy suốt 35 năm. Ted Engelmann - người tôi chỉ mới vừa biết - nói với tôi rằng anh ấy đã đến nhà cô và hiện nay cô đã nhận được bản copy của hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh. Có bao nhiêu điều tôi phải nói với cô, với gia đình cô và đặc biệt là với mẹ cô. Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một người mẹ phải được biết về những ngày tháng của con gái mình, một đất nước phải được biết về một người anh hùng như bác sĩ Đặng. Mọi việc dường như thật thích hợp, mẹ cô cần phải nhận được những dòng chữ của con gái mình đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng đất nước bà - 30-4-2005...”.

Frederic Whitehurst - thường gọi là Fred là một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1969-1971. Trong chiến tranh, nhiệm vụ của Fred là thu thập các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình hình, truy tìm dấu tích quân giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm vụ đó khiến Fred có thể nhìn cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận mắt những mất mát khủng khiếp - cả đối với phía VN lẫn phía Mỹ. Fred đã chứng kiến cảnh “cả một xóm nhỏ Nhơn Phước ở miền tây Đức Phổ bị bom giội tan hoang không còn một người sống” (thư ngày 4-6-2005). Fred đã nhìn thấy những em nhỏ ở Chu Lai bị thiêu cháy trong bom napalm. Fred đã chứng kiến viên trung úy chỉ huy trực tiếp của mình gần như mất trí vì không chịu nổi cảnh các nhân viên y tế Mỹ “đơn giản cứ nhặt bừa bất kỳ một cánh tay, cẳng chân nào đó lắp vào xác bạn mình cho vào quan tài gửi về Mỹ” (thư ngày 4-6-2005). Những cảnh chứng kiến đó đã ám ảnh Fred trong bao năm nay từ khi rời VN trở về.

Nhưng cũng từ những ngày khốc liệt đó, Fred đã nhìn thấy cuộc chiến tranh từ một ánh sáng hoàn toàn khác biệt.

Trong một trận tập kích vào một “căn cứ của Việt cộng”, sau khi tiếng súng đã im, đơn vị của Fred tiến vào và nhận thấy đây là một bệnh viện nhỏ. Có rất nhiều lán trại, nhiều phòng - rõ ràng là phòng bệnh, cả một phòng mổ dã chiến. Có vẻ mọi người trong bệnh viện đã vội vã đi khỏi ngay trước khi quân Mỹ ập tới và không kịp mang theo tài liệu.

Theo qui định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu của địch thu được trên chiến trường phải chuyển lại cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Hôm đó Fred thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Cùng với thông dịch viên người Việt, Fred chọn lọc các tài liệu có giá trị quân sự, số còn lại họ vứt vào đống lửa để thiêu hủy.

Fred đang đốt những tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu - thông dịch viên của đơn vị - cầm một cuốn sổ nhỏ đến cạnh anh và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Fred chưa hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu và việc Hiếu có thể kính trọng cả đối phương tác động rất mạnh đến anh, Fred bỏ cuốn sổ vào túi.

Nhiều đêm sau đó Fred và Hiếu cùng nhau đọc cuốn sổ. Đó là nhật ký của một Việt cộng, chính là nữ bác sĩ đứng đầu cái bệnh viện nhỏ mà đơn vị Fred càn vào. Nét chữ nghiêng nghiêng đầy nữ tính. Anh càng tò mò hơn khi Hiếu cho biết nữ bác sĩ đó còn rất trẻ, mới 26 tuổi và từ Hà Nội vào Đức Phổ công tác chưa được hai năm.

Rồi như một định mệnh, mấy tháng sau Fred nhận được cuốn nhật ký thứ hai của nữ bác sĩ, cũng do Nguyễn Trung Hiếu đem về. Những dòng chữ rực lửa khiến Fred vô cùng xúc động - mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội của Nguyễn Trung Hiếu và đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ. Những dòng đầy yêu thương, hi vọng khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần như luôn bám sát sau lưng.

Năm 1972, Fred được rời VN và trở về Mỹ. Trong hành lý của anh có những kỷ vật nặng trĩu của chiến tranh: hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, hơn 50 tấm ảnh chụp những người dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên xác một phóng viên Việt cộng, chiếc đục nhỏ rơi bên xác một người thợ mộc già bị giết hại. Cũng từ đó VN trở thành một nỗi ám ảnh trong anh.

Năm tháng trôi qua, với những ám ảnh về chiến tranh, về tội ác đã được chứng kiến ở Việt Nam đè nặng trong tim, Fred đã nhiều lần quay lưng lại với cái xấu, không chấp nhận cái xấu – dù chỉ là gián tiếp. Anh đã tìm được nhiều điều tốt đẹp, đã từng kiện cả Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI), cả giám đốc FBI, cả chính phủ Mỹ vì những việc làm sai trái và đã thắng tất cả những thế lực đó trong một vụ kiện nổi tiếng cả trong nước Mỹ lẫn trên thế giới. Một lúc khác tôi sẽ nói thêm nhiều về anh.

Mẹ của Fred là một nhà giáo và là họa sĩ. Khi Fred cho mẹ xem cuốn nhật ký, bà đã bảo con trai hãy cẩn thận, bởi vì hai cuốn sổ này có thể thiêu cháy cuộc đời anh.

Quả vậy, trái tim Fred luôn bị nung ngấu vì ngọn lửa toả ra từ hai cuốn sổ nhỏ ố vàng. Anh không thể nào ngủ yên mà cứ trăn trở muốn làm một cái gì vì người nữ bác sĩ ấy. Chị còn sống hay đã chết? Nếu đã chết có phải chị chết một cách tuyệt vời đúng như đã sống cuộc đời tuyệt vời mà anh đọc được qua nhật ký? Gia đình nữ bác sĩ ở đâu? Mẹ chị có biết rằng bà có một người con gái anh hùng đến thế nào không?

Fred đã nhiều lần thử tìm đến gia đình nữa bác sĩ. Qua những trang nhật ký, anh biết chị tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội, nên lục tìm khắp nơi mọi thông tin chi tiết về trường đó mong có manh mối gì chăng. Anh bắt gặp tên tuổi hai giáo sư nổi tiếng là Giáo sư Đặng Văn Chung và Giáo sư Đặng Văn Ngữ. Anh biết tên chị là Đặng Thuỳ Trâm - biết đâu họ đều là người trong dòng họ Đặng? Anh biết mẹ chị tên là Doãn Ngọc Trâm, nhưng địa chỉ của bà chỉ là một dãy số bí ẩn ghi ở cuối cuốn nhật ký. Anh biết bố chị là bác sĩ Đặng Ngọc Khuê, giám đốc một bệnh viện cách Hà Nội không xa. Anh đoán đó là bệnh viện tư của gia đình chị - rõ ràng chị xuất thân từ một gia đình trí thức. Anh biết nhà chị ở một phố nhỏ tên là Lò Đúc. Nhưng anh cũng biết trong chiến tranh Hà Nội đã bị ném bom. Biết đâu gia đình chị cũng đã chết hết trong một trận bom nào đó? Anh đã hỏi nhiều người, nhưng những năm sau chiến tranh tìm một người nào đó ở Việt Nam là điều hầu như không thể đối với anh. Mãi cách đây mấy năm mới có một người bạn liên hệ được với họ hàng ở Hà Nội và nói với anh rằng gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê vẫn còn sống. Nhưng không hiểu sao người đó không muốn tìm tiếp và bảo anh đừng nói thêm với cô về cuốn nhật ký nữa.
* * *
Robert Whitehurst cũng là một cựu chiến binh ở chiến trường VN nhưng chưa từng có mặt ở chiến trường Nam Trung bộ. Hai năm hoạt động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khiến Rob đem lòng yêu mến miền đất này cùng những con người VN hiền hòa, giàu tình cảm. VN đã trở thành một phần đời của Rob vì anh cưới một người con gái xứ Long Xuyên. Anh học tiếng Việt, thích ăn món ăn Việt, thích đem những cây cỏ VN về Mỹ để trồng, thậm chí có lần còn cố gửi về Mỹ một chiếc xuồng ba lá để vợ đỡ nhớ quê.

Rob được đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Thùy Trâm sau khi từ Mỹ trở về năm 1972. Ngay từ đầu cuốn nhật ký đã khiến anh sửng sốt. Cùng với sự giúp đỡ của vợ, anh đọc đi đọc lại cuốn nhật ký, càng đọc anh càng bị lay động trước những gì diễn ra trong tâm hồn người con gái ở bên kia chiến tuyến. Anh viết cho mẹ tôi: “Tất cả những ai từng được chúng tôi cho xem cuốn nhật ký đều xúc động trước những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai, nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá đối với cô cũng như đối với chúng tôi, nhưng sự nghiệp của chị còn rất có ý nghĩa với tất cả mọi người. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời.Mặc dù chị ở bên kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhưng ngay từ đầu những năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị vô cùng đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính và là một người tốt. Hi vọng sau khi đọc những dòng chữ viết từ quá khứ ấy, cô sẽ đồng ý với chúng tôi... rằng theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô, nhưng theo một nghĩa rất quan trọng chị là của tất cả chúng ta” (thư ngày 29-4-2005).

Rồi Rob tìm được trên mạng Internet một nơi gọi là Trung tâm VN (Vietnam Center) ở Trường đại học Tổng hợp Texas và biết rằng tại đây người ta vẫn tổ chức hội thảo thường niên về chiến tranh VN. Có rất nhiều người tới dự hội thảo này: các học giả, các vị đại sứ, các viên tướng, các cựu chiến binh VN của cả hai phía miền Nam và miền Bắc. Robert động viên Fred đến dự hội thảo và nói về cuốn nhật ký của nữ bác sĩ. Cuộc hội thảo diễn ra như tôi đã nói lúc đầu. Trong sự xúc động sâu sắc, Fred và Rob đưa cho nhiều người đĩa CD chứa bản sao cuốn nhật ký của chị tôi, mong rằng giống như trong câu chuyện cổ tích tốt đẹp nọ, cuốn nhật ký sẽ tìm được về với quê hương, về với gia đình người nữ bác sĩ mà họ ngưỡng mộ như một anh hùng.
ĐẶNG KIM TRÂ​
 
Những Ngày Rực Lửa

Những Ngày Rực Lửa
QUYỂN MỘT

1968
8.4.68
Một cas ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn. Thuốc giảm đau chỉ có vài ống Novocaine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng. Anh còn cười động viên mình - nhìn nụ cười gượng trên đôi môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng. Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ không thấy nguyên nhân, mình đành đóng lại, cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng. Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc + nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thề yên bụng. Vuốt nhẹ mái tóc anh, mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó là điều đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.

10 4.58
Vậy là chiều nay các anh lên đường để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại lại trên miền Bắc thân yêu…

Suốt một đêm một ngày lo lắng vì cas mổ của San, chiều nay lòng mình vui sướng xiết bao khi thấy San ngồi dậy, nét mặt anh còn in nỗi đau đớn mệt nhọc nhưng nụ cười ngượng nở trên môi. Bàn tay anh khẽ nắm bàn tay mình mến thương tin tưởng ơi người thương binh trẻ tuổi dũng cảm kia ơi, tôi thương anh bằng một tình thương rộng rãi nhưng rất sâu xa: tình thương cửa một người thầy thuốc trước bệnh nhân, tình thương của một người chị đối với đứa em đau ốm (thực ra San bằng tuổi mình) và tình thương ấy đặc biệt hơn đối với mọi người vì cộng thêm că lòng mến phục. Anh có thấy điều đó trong cái nhìn lo âu của tôi không? Có thấy bàn tay tôi dịu dàng đặt nhẹ trên vết thương, trên đôi tay xanh gầy của anh đó không .Chúc San mau bình phục để trở về với đội ngũ chiến đấu, trở về với bà mẹ già đang vò vo ngóng trông con từng giờ, từng phút.

12.4.68
Rừng chiều sau một cơn mưa, những lá cây xanh trong trước ánh nắng, mỏng mảnh xanh gầy như bàn tay một cô gái cấm cung.

Không khí trầm lặng và buồn lạ lùng. Cả khu nhà bệnh nhân im lặng, bên khu nhân viên cũng chỉ nghe thấy tiếng Hường rì rầm trò chuyện với ai. Một nỗi nhớ mênh mang bao trùm quanh mình. Nhớ ai? Nhớ ba, nhớ má, nhớ những người vừa ra đi… và nhớ cả một người bệnh nhân đang chờ mình đến với anh nữa. Bên trong nỗi nhớ hình như có một nỗi buồn sâu kín, thầm lặng nhưng rất nặng nề. Dù sao vết thương lòng vẫn đang rỉ máu, dù mình có muốn lấy công việc lấy mọi nỗi nhớ khác đè lên trên, nó vẫn trỗi dậy, xót xa vô cùng. Hãy quên đi Th. ơi! Hãy quên đi mà tìm lại niềm hy vọng mới mẻ xanh tốt trong lành hơn. Hãy lấy niềm tự hào mà quên đi thất vọng. Con người ấy đâu có xứng đáng với tình yêu trong trắng, chung thuỷ của Thuỳ.

Ơi những người thân yêu của tôi trên quê hương Đức Phổ này, có ai hiểu và cảm thông hết nỗi lòng tôi chăng? Nỗi lòng một cô gái đay ước mơ hy vọng mà không được đáp lại
một cách xứng đáng?

13. 4. 68
Thư từ từ khắp bốn phương gửi về. Cảm ơn tất cả mọi người đã dành cho tôi những tình thương mến thiết tha. Đọc thư niềm vui chen lẫn với nỗi buồn. Tại sao mọi người có thể dành cho mình những tình thương ấy mà một người - một người đã được hưởng một tình yêu trong trắng, chân thành lai không xứng đáng với mình? Buồn làm sao hở M.?

Mình nhũng muốn lấy tình thương của mọi người đền đáp cho chỗ trống của tâm hồn mà không sao làm được. Trái tim mình vẫn cứ bướng bỉnh đập theo nhịp độ của tuổi hai mươi tràn đây hy vọng, tràn đầy thương yêu. Thôi hãy bĩnh tỉnh lại với nhịp đập yên bình của mặt biển những buổi chiều lặng gió đi tim ơi!

14. 4. 68
Một bài thơ làm tặng cho mình, bài thơ của một thương binh đang nằm viện, xuất phát từ lòng mến thương cảm phục đối với một người bác sĩ đã chăm sóc anh và mọi bệnh nhân khác một cách tận tình. Anh ta tìm hiểu kỹ về mình và viết bài thơ tặng. Bài thơ tràn ngập niềm mến yêu chân thành và nỗi đau xót trước mối tình tan vỡ của mình. Anh ta nói lên những lời nói xót xa cay đắng của một cô gái bị người yêu phụ bạc.

Đọc bài thơ... mình buồn vô hạn, không thề kìm được mình ghi ngay dưới bài thơ đó một dòng chữ "Cảm ơn tình thương mến của anh, nhưng hình như anh chưa hiểu Trâm. Hứa với anh rằng sẽ có lúc nào đó để anh hiểu về một người con gái của XHCN", và mình đưa trả lại bài thơ.

Ôi! Đây mới là điều đáng buồn nhất trong quan hệ với M.. Mọi người đều trách M., đều thương mình, nhưng mình xót xa biết bao nhiêu khi thấy người ta thương mình bằng một tình thương có cả sự thương hại nữa! Dù anh Thiết, dù Hào, Nghinh... ai ai đi nữa đã cảm thương san sẻ với mình, mình vẫn không muốn. Một mình đã đủ giải quyết rồi, một mình đủ sức chôn sâu cả nhiều năm thương yêu yêu hy vọng ấy xuống tận đáy đất sâu rồi - mảnh đất tâm hồn mình vẫn màu mỡ, vẫn đủ sức để gieo lên đó một mùa hoa tươi đẹp được kia mà. Hỡi tất cả mọi người, không cần tưới lên mảnh đất ấy những giọt lệ xót thương đâu. Hoa thơm phải được tưới bằng nước mát trong lành.

Mỗi ngày tình cảm với M. càng lạt phai đi và nỗi trách móc càng lớn dần lên. Mình đã và sẽ xa dần người bạn ấy. Anh đâu có xứng đáng với mình?

…68
Không khí im lặng của buổi trưa trùm lấy khu rừng. Nghe San đau, mình lên thăm. Cả phòng cũng đang yên ngủ, kể cả người bệnh nhân mình tới thăm. Không muốn làm thức giấc San, mình rón rén trở ra nhưng tiếng San khẽ rên làm mình trở lại anh cười bẽn… (mờ không đọc được). Anh không đau nhưng có lẽ muốn gặp mình. Cả ngày hôm nay mình bận.
Câu chuyện không phải là chuyện thương tật mà anh lại hỏi: “Hôm nay đúng là ngày chị về Đức Phổ phải không?”
- Vừa tròn một năm San à!

Mình trả lởi mà không khỏi ngạc nhiên vì câu hỏi của San. Muốn ngồi với San nói chuyện về cả một năm qua, một năm chiến đấu gian lao vất vả nhưng rất đáng tự hào trên mảnh đất quê San. Nhưng mình lại thấy khó nói. Có nghĩa lý gì đâu nhưng việc mình làm so với San, với tất cả bà con Đức Phổ đã kiên cường chiến đấu suốt hai mươi năm ròng. Còn nói với San về nỗi nhớ thương với gia đình trong những ngày xa cách lại càng vô lý hơn. San chỉ còn một mẹ già. Cha San chết từ lúc mẹ anh mới hai hai tuổi đầu, người vợ trẻ ấy đã hy sinh cả tuổi xuân của mình ở vậy nuôi San cho đến khi anh được mười chín tuổi thì cho anh đi bộ đội. Năm năm qua vào sinh ra tử San vẫn còn sống, vừa mới cách đây một tháng địch tập kích vào vị trí, San đã thoát khỏi nanh vuốt của quân thù. Mười lăm đồng chí của anh hy sinh. Chỉ một xíu nữa thôi có khó khăn gì đâu, San cũng đã ngã xuống dưới chân hòn núi Cửa ấy rồi. Lúc đó mẹ San có khóc cạn nước mắt cũng không bao giờ có được một đứa con như San nữa. Vậy mà hôm nay San đến đây với mình, có lẽ nào mình lại để thần chết cướp đi người con yêu quý của một bà mẹ đang lo âu hy vọng tất cả vì đứa con duy nhất ấy. Không bao giờ đâu! Mình sẽ phải cố hết sức vì San cũng như vì tất cả những người bệnh nhân! Đó chẳng phải là niềm tự hào của một người thầy thuốc đó sao?

* * *

Nhận được thư và quà của Vân. Thương Vân làm sao. Cuộc đời Vân sao đủ mọi đắng cay, những đắng cay mà một người như Vân lẽ ra không bao giờ phải chịu. Vân sống giàu lòng vị tha, giàu niềm hy vọng, giàu tình cảm cách mạng. Phải đền đáp cho Vân những điều đó chứ. Cớ sao cuộc đời cứ dành cho Vân hnững sự rủi ro? Đã thấy được điều đó mình phải có trách nhiệm. Phải đem lại cho Vân niềm vui, tin tưởng bằng những hành động cụ thể.

17.4.68
Chia tay anh Kỳ và chị Phượng. Sống với nhau cả một năm tròn, hôm nay mình mới hiểu hết tình thương của những người thân thiết đó.

Đêm đã khuya sau buổi liên hoan, anh Kỳ sang phòng mình chơi. Hai anh em chẳng biết nới gì, quyển vở để trước mặt, cây bút cầm trong tay mà những dòng chữ dưới ngòi bút anh đều vô nghĩa. Thời gian còn rất ít, anh cần nói cần viết những chuyện quan trọng. Vậy mà sao anh làm thinh hở anh? Phải chăng anh muốn nói với em bằng đôi mắt đỏ vì thức khuya bao đêm ròng, bằng nụ cười buồn rười rượi trên khuôn mặt gầy ốm? Anh ôm mình trong đôi tay mảnh khảnh, hành động đó rất bình thường với anh nhưng hôm nay sao làm mình cảm động. Tiễn anh đi rồi. Tiễn anh ra đến suối mình bần thần trở về thấy mảnh giấy lưu niệm anh gửi cho Liên. Mấy dòng chữ ngắn ngủi trong đó anh có dặn: “Em và Trâm phải thương nhau chân thật. Trâm vào đây xa gia đình chỉ có bạn….”. Anh Kỳ ơi! Cảm ơn anh, em không bao giờ quên tấm tình của anh đối với em đâu!

Và buổi cuối cùng nằm trong cánh tay của chị Phượng, nghe những lời dặn lại mình lặng yên không nói, những giọt nước mắt âm ấm chảy trên mặt mình và rơi sang mặt chị. Chị ơi, đến hôm nay em vẫn chưa là Đảng viên, buồn đến vô cùng…

22.4.68
Hường ơi! Hường đã chết rồi sao? Mình nghe tin mà bàng hoàng như trong cơn ác mộng. Bao giờ cho hết những đau xót này - nay một người ngã xuống, mai lại một người ngã xuống. Xương máu đã chất cao như ngọn núi căm thù sừng sững trước mắt chúng ta. Bao giờ! Bao giờ và bao giờ hỡi các đồng chí. Bao giờ mới đuổi hết lũ quân uống máu người không tanh ấy khỏi đất nước chúng ta.

Vậy là hết, những đêm rì rầm tâm sự bên nhau không bao giờ có nữa. Bên tai mình còn nghe rõ giọng Hường trầm trầm tình cảm, Hường khen ngợi động viên mình, ca ngợi mối tình chung thủy cửa mình. Vậy là hết, những buổi cùng nhau tắm dưới suối nước, cùng nhau ăn một chén chè. Mình bỗng nhớ hôm nào gặp Hường bên bờ suối ở Nghĩa Hành, Hường ôm mình trong tay, hôn lên mái tóc, hôn lên má mình và cả hai cùng rưng rưng nước mắt.

Nhìn chú Công vẫn bình thản không hay biết gì về tin sét đánh ấy, mình thấy xót xa như ai xát muối vào trong ruột. Mất một đứa con như Hường còn đau hơn mất cả khúc ruột. Chú ơi, hãy nén đau thương lại đi chú, nếu biết tin này! Và anh Quang, người con trai đã thuỷ chung chờ đợi Hường trong bao nhiêu năm nay cũng không bao giờ thực hiện được mơ ước nửa. Hường của anh đã vĩnh viễn nằm yên dưới nắm đất quê hương anh rồi.

23.4.6S
Một ngày mệt nhọc vô cùng. Ba cas thương nặng vào một lúc. Suốt một ngày đứng bên bàn mổ đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột xé lòng của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập.

Hường đã bị bắt sống trên đường công tác. Cậu bé sôi nổi nhiệt tình ấy không hiểu có chịu nổi những đòn tra tấn của quân thù hay không. Thương Đường vô tận. Lá thư viết gửi Đường vậy là chưa đến nơi. Người cầm thư đã chết còn người nhận thư thì bị bắt!!! Một giọng hát buồn từ đâu văng vẳng bên tai mình "Lòng mẹ bao la như biển thái bình rạt rào. Lời ru êm ái như dòng suối hiền ngọt ngào". Lời hát của Đường trong buổi tối hôm xưa hay là lời than đau xót của Đường trong ngục tối lúc mà Đường nghĩ đến người mẹ già đã suốt đởi cặm cụi nuôi con, đặt tất cả niềm vui, hy vọng vào đứa con cưng ấy?

Biết bao nhiêu bà mẹ như mẹ Đường sẽ còn đau khổ khóc than đến cạn dòng nước mắt. Ôi nếu mình ngã xuống, mẹ mình cũng sẽ như bà mẹ ấy thôi, cũng sẽ là một bà mẹ suốt đời hi sinh vì con để rồi mãi mãi đau xót vì con mình đã ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Mẹ ơi! Con biết nói sao khi lòng con thương mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ ra đi. Quân thù đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu người chồng mất vợ. Đau xót vô cùng.

25.4.68
Cũng vẫn là những tin buồn, trên đường đi học ở tỉnh về, đoàn cán bộ của Đức Phổ bị địch tập kích nghe nói có hy sinh một số. Nghĩa cũng đi trong số đó, chẳng hiểu em mình có làm sao không. Em mình xông xáo, dũng cảm dễ có khả năng đi đầu bám đường lắm. Em ơi! Nếu em có làm sao thì chị biết nói gì nữa hở em? Chị sẽ khóc ròng bao đêm vắng hay là nước mắt khô lại thành ngọn lửa thù rực cháy trong tim chị? Mấy ngày này chị vẫn mong em về thăm, bây giờ!...

26.4.68
Nhận một lá thư từ H8 trở về, không phải thư của M. mà là của anh Tâm. Đọc thư chỉ thấy buồn vô hạn. Những ngày qua đã lùi vào dĩ vãng lâu rồi xa rồi, còn khơi lại làm gì nữa hở anh Tâm? Anh thương em nhưng vô tình đã làm em đau khổ. Anh báo tin rằng M. đang đau yếu, anh nói rằng anh hiểu em, thương em nhưng thực ra anh có hiểu gì em đâu. Anh chưa hiểu hết lòng tự ái của một cô gái xuất phát từ tầng lớp học sinh như em sao? Còn nếu đã hiểu thì… tốt hơn hết là hãy nói với em về những điều cần thiết trước mắt công tác tốt, cảnh giác tốt. Vậy thôi!

(Còn tiếp...)
 
Tập 2

Tập 2

30.4.68
Vẫn buồn ư Th? Mấy cas thương nặng tưởng không sống nổi hôm nay đã ổn định cả rồi, những nụ cười trên khuôn mặt còn xanh mướt vì mất máu chẳng làm Th. vui đó sao? Vậy mà vẫn cứ buồn. Nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình như những giọt mưa thấm sâu trong lòng đất của những ngày mưa dài rả rích này. Muốn tìm lấy những niềm vui vô tư nhưng không sao tìm được, bộ óc mình đã hằn những nếp nhăn suy nghĩ rồi, có cách nào xoá mờ được đâu. Có chăng chỉ làm được điều đó nếu bây giờ chỉ có một yêu cầu: điều trị cho thương binh, xây dựng bệnh xả cho tốt ôi sao mình lại sinh ra làm một đứa con gái giàu mơ ước yêu thương và đòi hỏi với cuộc đởi quá nhiều như vậy?

Hoàn cảnh của mình là sự ao ước của bao nhiêu người: gia đình êm ấm đầy đủ, bản thân đã và đang có điều kiện tiến bộ, được công tác hợp khả nàng, được chiếu chuộng… Nhưng vậy thì có phải tại mình quá đòi hỏi hay không? Hãy trả lời đi hỡi cô Thùy khó tính và bướng bỉnh.

1.5.68
Một lần nữa đón ngày Quốc tế Lao động giữa rừng - đó là một ngày im lặng, dài và chìm ngập trong nỗi nhớ thương. Nhớ Hà Nội, nhớ ba má và các em vô kể, vừa chóp mắt giữa trưa mình đã thấy mình về gặp má và em trong ngôi nhà ở trường Cán bộ Y tế, vẫn con đường nhỏ ấy, vẫn chiếc cổng nhà ông Nghiệp ấy, mình chui qua những song cửa gãy để lọt ra ngoài đường hồn nhiên như những ngày còn nhỏ. Xa nhà hơn một năm rồi, đây có phải là năm cuối cùng xa cách không? Bỗng dưng mình nhớ đến những ngay trước KN (không đọc rõ) vui và hy vọng tràn ngập… bây giờ (?)!... Thì hãy cứ như những hồi ấy đi, hãy nhóm lên niềm vui của kẻ chiến thắng đã cầm trong tay ấy đi, bài hành khúc khởi nghĩa còn vang bên tai đó “Xuống đường, xuống đường… dù phải hy sinh ta nào xá, giành lấy chính quyền về tay nhân dân”.

4.5.68
Mình cắt đứt câu chuyện bằng sự im lặng. Trong bóng tối mình vẫn nhận thấy sự băn khoăn của hai người bệnh nhân đang nói chuyện với mình. Hình như họ thấy được cái im lặng nặng nề đẫm nước mắt ấy của mình. Họ thương mình một cách chân thành thắm thiết, nhưng họ càng nói mình càng thấy khổ đau. Họ hỏi mình vì sao không đấu tranh cho quyền lợi chính trị, tại sao mình rất xứng đáng là một Đảng viên mà chi bộ không kết nạp. Vì sao, vì sao và vì sao ư? Ai mà trả lời được hở hai bạn mến thương. Quả tình tôi không thể trả lời được. Cái im lặng nặng nề của tôi cũng nói được với các bạn nhiều về sự bế tắc đó. Hầu như tất cả mọi người đều nói: “Trâm rất xứng đáng là một người Cộng sản” vậy mà vẫn không được đứng trong hàng ngũ ấy. Nào phải mình không thiết tha nhưng càng thiết tha chỉ càng thấy khổ đau mà thôi.
Mấy hôm nay rất buồn, ngày ngày những lá thư, những lời nói, những hành động tỏ lòng thương mến thiết tha vẫn đến với mình: Nhưng chính những tình thương ấy lại là những mồi lửa châm vào một đống củi đã khô từ lâu. Tại sao mọi người thương mến cảm phục mà Đảng lại khắt khe hẹp hòi đối với mình?

5.5.68
M. ơi, Th. biết nói gì với M. đây? Vẫn thương yêu M. vô hạn nhưng tình thương trộn lẫn sự giận hờn trách móc. M. nói Th không hiểu M. ư? Đâu có, Th. hiểu M. nhưng hiểu hết chưa thì quả thật là chưa. Cho nên không thể nào không đau xót khi tất cả mọi người xung quanh vẫn nhìn Th. bằng đôi mắt xót thương. Cái đó đã làm Th. tự ái rồi. Một vết thương không thể hàn gắn. Đành vậy suốt đời ta sẽ mang nặng vết thương trong lòng!

Nghe M. đau nặng, buồn thương M. quá đỗi. Giá có Th. ở bên, Th. sẽ chăm sóc M. như vai trò mà người ta đã định cho chúng ta (mặc dù sự thực không như vậy). M. ơi, anh không phải là của em, nhưng em muốn đem yêu thương xoa dịu đau đớn cho anh. Bằng cách nào bây giờ? Một cái gì giống như linh cảm bảo với Th. rằng rồi sẽ không được gặp M. nữa, lần chia tay ấy sẽ là lần cuối cùng. M. đứng nhìn theo, Th. đi không ngoảnh lại, mặc dù biết rằng một đôi mắt đen đang dõi theo Th. Những giây ở trong cánh tay người đồng chí thân yêu ấy chỉ còn là một hình ảnh dĩ vãng xa xưa mà thôi.

6.5.68
Rất nhiều chuyện đau đầu hàng ngày vẫn xảy ra quanh mình. Thì đã tự nhủ rằng không thể đòi hỏi ở đâu chỉ có toàn người tốt kia mà, đã khẳng định “đời phải qua giông tố nhưng chớ có cúi đầu trước giông tố” mà. Thực ra giông tố đến với mình vẫn là những cơn giông của ngày cuối hè, nhẹ nhàng âm ỉ mà thôi. Hãy vui lên đi, vui lên với những nụ cười trìu mến của những bệnh nhân đã dành cho mình. Vui lên với những tình thương chân thực mà đa số những cán bộ trong huyện, trong tỉnh, trong khu quen biết đã dành cho mình. Vậy là được rồi, Th. ơi, đừng đòi hỏi nữa. Đảng ư? Rồi Đảng sẽ phải thấy. Quanh mình nhiều người thương mến cảm phục hơn là số người thù ghét. Xét cho cùng, họ có ghét mình cũng chỉ vì lòng ghen ty mà thôi.

9.5.68
Sống ở đời phải biết khiêm tốn nhưng đồng thời phải có một lòng tự tin, một ý thức tự chủ. Nếu mình làm đúng hãy cứ tự hào với mình đi. Lương tâm trong sạch là liều thuốc quý nhất. Phải hiểu điều đó để lấy điều đó làm cơ sở tự tin cho mình. Tại sao Th. cứ suy nghĩ hoài khi mà Th. biết rằng chuyện đó Th. làm đúng? Cuộc sống đâu phải chỉ có tình cảm mà phải có lý trí, có hiểu thế hay không hở cô gái bướng bỉnh?

12.5.68
Hội nghị Pans! Đây là những ngày tháng năm của 1954 đấy chăng? Mình hồi hộp theo dõi tin tức, biết chắc chắn rằng thắng lợi có được trong hội nghị này phải do thắng lợi trên chiến trường quyết định. Vậy thì hãy chuẩn bị tinh thần bước vào một đợt chiến đấu quyết liệt cuối cùng rồi sau đó ai còn, ai mất hãy hay. Dù còn dù mất cũng là những ngày vui bất tận khi hoà bình chân chính trở lại trên đất nước chúng ta. Hơn hai mười năm rồi khói lửa đau thương vẫn trùm lên dải đất hiền lành. Nước mắt chúng ta chảy nhiều rồi, xương máu cũng đổ nhiều rồi. Chúng ta có tiếc gì đâu để đổi lấy độc lập tự do.

14.5.68
Một dòng chữ ghi trên bàn: "Chị Trâm thương nhớ của em…". Dòng chữ của San. Một chuyện giản đơn vậy mà mình cảm động. Tình thương với San ngày càng thắm thiết. Có lần ngồi nói chuyện với San, hai chị em (chị mà nhỏ tuổi hơn em) cãi nhau về chuyện nếu phải chết thì ai nên chết. Mình nhường cho San sống bởi vì đời San chưa hề được hưởng sung sướng và bởi vì San là đứa con duy nhất của một bà mẹ goá đã ở vậy nuôi con từ năm hai mốt tuổi đến giờ. Vậy mà San cứ khăng khăng rằng mình phải sống, phải trở về với mẹ, với em, với Miền Bắc thân yêu đang trông đợi mình. Rõ vớ vẩn, chuyện không đâu vào đâu cả nhưng sao hai chị em đều cảm thấy thương nhau hơn. Mình muốn đối với San bằng một tình thương chân thực, trong lành mà e rằng có ai hiểu lệch vấn đề đi không. San năm nay hơn mình ba tuổi, đã có vợ và con năm tuổi.

17.5.68
Chiến tranh còn tiếp diễn, chết chóc vẫn diễn ra hàng ngày, từng giờ từng phút, dễ như trở bàn tay vậy. Mới tối qua Thìn và anh Sơn còn cùng bọn mình trò chuyện. Thìn còn dặn Lệ mua vải may áo, đêm nay hai người ấy chỉ còn là hai cái xác nằm dưới nắm đất của đất Đức Phổ mà lần đầu họ đặt chân đến ấy rồi. Chết quá dễ dàng, không có cách nào đề phòng được những tổn thất ấy cả. Buồn làm sao!
Liên nói vậy mà đúng: Hãy sống với nhau bằng tình thương chân thành đi kẻo rồi hối hận khi bạn mình đã chết rồi mới nghĩ rằng hồi còn sống mình đã không thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Riêng mình đã làm như vậy. Mà thật ra xưa nay mình vẫn giàu tình thương với tất cả mọi người, một tình thương yêu rộng rãi nhưng rất đỗi chân thành. Tất cả bệnh nhân trong bệnh xá này trong những lúc đau ốm nặng mình đều đến với họ bằng tinh thần trách nhiệm, bằng tình thương thắm thiết đó cho nên dù xa lạ bao nhiêu rồi cũng thấy có một cái gì gắn bó với người thầy thuốc mà họ thấy rất gần với họ ấy. Họ gọi mình bằng hai tiếng "Chị Hai", họ xưng em mặc dù lớn tuổi hơn mình và họ vui đùa, làm nũng với mình nữa. Giữa những ngày gian khó ác liệt này, mình đã tìm lấy niềm vui, sự an ủi nơi họ. Còn riêng tư, không Thuỳ ơi, đừng nghĩ đến nữa, hãy gạt đi những áng mây đang nhóm lên ở cuối góc trời, đừng đề nó nổi cơn phong ba bão táp giữa tâm hồn Thuỳ nhé.

20.5.68
Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy đã gắn bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong tình cảm ấy có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi còn nhớ chăng những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ quan đi cõng gạo họ đã cùng mình xử trí một cas thương, họ làm như những nhân viên thực thụ, đêm đến trong ánh đèn dầu họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ… những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp lại nhau và có còn được gặp nhau không hở những người bạn mến thương?

25.5.68
Những ngày u uất của tâm hồn. Có gì đè nặng trên trái tim ta. Đâu phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim đó đâu? Mà còn có những gì nữa kia? Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội, vẫn diễn ra hàng ngày; vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự của Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu với Đảng. Rất buồn mình chưa được đứng trong hàng ngũ của Đảng để đấu tranh cho đến cùng. Có lẽ vì thế mà những người đó vẫn chần chừ không đám kết nạp mình mặc dù tất cả Đảng viên trong chi bộ và rất nhiều người có trách nhiệm trong huyện, trong tỉnh này đã đôn đốc, thúc giục việc giải quyết quyền lợi chính trị cho mình. Càng nghĩ càng buồn. Muốn tâm sự với những người thân về nỗi bực tức ấy nhưng rồi mình lại lặng thinh. Nói ra liệu có ai hiểu hết cho mình hay không? Có ai phải sống những ngày nặng nề, u uất như mình hay không? Sống giữa những yêu thương mà không hề cảm thấy hạnh phúc, bởi vì luôn luôn có người ghen ghét trước lòng yêu thương mà nhiều người đã dành cho mình. Đã đành rằng đời bao giờ cũng có hai mặt tốt và xấu, không bao giờ có toàm một mặt tốt, vậy mà sao Thùy cứ xót xa cay đắng mãi hở Thùy?

29.5.68
Ngày từng ngày vẫn trôi qua nặng nề. Công việc bận rộn làm mình quên đi những chuyện bực bội nhưng rồi nó vẫn lại đâm nhói vào suy nghĩ như những cây gai nhức nhối. Tại sao vậy hở tất cả mọi người? Tại sao trong tay ta đã có vũ khí phê và tự phê mà không sử dụng để cho những ung nhọt của tư tưởng cũ cứ mọc dần trong một số cái đầu óc? Tại sao khi ta là kẻ đúng, khi ta là số đông mà không đấu tranh được với một số nhỏ, để số người đó gây khó khăn trở ngại cho tập thể? Đành rằng ở đâu cũng có kẻ xấu người tốt, đành rằng sự mâu thuẫn là quy luật tất nhiên của xã hội nhưng không thể vì thế mà đầu hàng. Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ vàphải hy sinh quyền lợi cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng. Vậy đó Thùy ơi! Khi đã giác ngộ quyền lợi của giai cấp của Đảng thì suốt đời Thùy sẽ gắn bó với sự nghiệp ấy! Th. Sẽ đau xót khi sự nghiệp ấy bị tổn thương, TH sẽ sướng vui khi sự nghiệp ấy lớn mạnh – Có gì nữa đâu hở Th.?

31.5.68
Một cuộc chạy càn quy mộ nơi căn cứ, toàn bệnh xá di chuyển, vất vả vô cùng. Lòng mình nao nao thương xót khi nhìn thấy thương binh mồ hôi lấm tấm trên gương mặt còn xanh mướt, ráng sức bước từng bước một qua hết đèo lại dốc. Sau này nếu được sống trong hoa thơm nắng đẹp của Xã hội Chủ nghĩa hãy nhớ và nhớ mãi cảnh này, hãy nhớ sự hy sinh của những người đã đổ máu vì sự nghiệp chung, vì ai mà chúng ta vất vả thế này hở các đồng chí? Vì bọn quỷ cướp nước còn đang ở trên đất nước chúng ta cho nên… Ơi những người thương binh mà tôi thương yêu như những người ruột thịt, hãy cười lên trong gian khổ, hãy giữa mãi mối lạc quan vô bờ bến mà từ lâu nay các đồng chí đã giữ được dù trong hoàn cảnh khó khăn đến thế nào!

1.6.68
Một buổi sáng như sáng nay, rừng cây xanh tươi sau một trận mưa rào. Không gian trong lành mà sao lòng mình lại ngập tràn thương nhớ, nhớ miền Bắc vô vàn. Nhớ từ những hàng cây bên đường phố, những cây bàng, cây sấu lá xanh bóng sau những cơn mưa và con đường nhựa sạch sẽ vào những buổi sáng. Nhớ một căn phòng đơn sơ nhưng đầm ấm, buổi sáng râm ran tiếng cươic nói chen lẫn tiếng phát thanh từ chiếc radio để giữa nhà. Nhớ mẹ, nhớ ba, nhó Phương12 và tất cả những người thân yêu ngoài ấy. Bao giờ tiếng súng chiến tranh chấm dứt để ta trở về với miền Bắc yêu thương? Liệu còn có được những ngày đoàn tụ ấy không? Chiến tranh là mất mát. Trên mảnh đất miền Nam nóng bỏng lửa khói này, hầu như 100% các gia đình đều có tang tóc. Chết chóc đau thương đè nặng lên đầu mỗi người dân. Nhưng càng đau xót, họ càng căm thù, càng thêm sức chiến đấu. Cuộc đời và hoàn cảnh mỗi người ở đây là một bài học quý giá đối với mình. Đó chẳng phải là niềm vinh dự mình được hưởng hay sao?
Như trong lá thư cậu Thao đã nói: “Đừng buồn Th. Nhé. Tất cả ngoài này đều hướng về miền Nam thân yêu, ở đó ai ai cũng có ít nhất là một người thân đang chiến đấu”.
Th. ra đi bao nhiêu người ngoài đó đang dõi theo từng bước của Th. mong đợi và tin tưởng rằng Th. sẽ chiến thắng. Th. đã chiến thắng trong mùa khô ác liệt vừa qua nhưng còn cần cố gắng nữa để chiến thắng cùng với cả đất nước và … Th. ơi hãy vượt qua mọi đau buồn đang đè nặng lên trái tim. Hãy vui như nụ cười Th. vẫn ngụy trang trên nét mặt hàng ngày, đừng để có ai đó khẽ hỏi tại sao lại buồn, vì sao mà đã ngụy trang rồi vẫn không giấu được nỗi buồn sau nụ cười luôn mở ấy.

Chú Thích
12 Em gái Phương Trâm, kế liền Thùy Trâm

(Còn tiếp...)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top