small star
Moderator
- Xu
- 94
Nhà thơ Chế Lan Viên
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan (còn có bút danh khác Chàng Văn), sinh ngày 14 tháng 1 năm 1920, tại Đông Hà, Quảng Trị. Mất ngày 24 tháng 6 năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam 1957.
Trước cách mạng Chế Lan Viên sống ở Quy Nhơn (do đó ông coi Bình Định là quê hương thứ hai của mình). Năm 1937 khi học ở trường Trung học Quy Nhơn. Chế Lan Viên đã sáng tác thơ. Năm 1939, Chế Lan Viên ra học ở Hà Nội, sau đó vào làm báo ở Sài Gòn, rồi dạy học ở Thanh Hóa và Huế. Cách mạng tháng Tám (1945), Chế Lan Viên tham gia cách mạng tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên làm công tác báo chí ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng bị chiếm Bình Trị Thiên.
Năm 1954, hòa bình lập lại, Chế Lan Viên về sống và hoạt động ở Hà Nội. Ông đã đảm nhiệm nhiều công việc; ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu Quốc Hội các khóa 4, 5, 6 và 7, ủy viên Ban Thống nhất của Quốc Hội khóa 4 và 5, ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội các khóa 6 và 7, ủy viên Ban Thư ký Hội nhà văn Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất. Chế Lan Viên vào công tác và hoạt động văn học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm:
THƠ:
Điêu tàn (1937)
Gửi các anh (1954)
Ánh sáng và phù sa (1960)
Hoa ngày thường
Chim báo bão (1967)
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973)
Hoa trước lăng người (1976)
Hái theo mùa (1977)
Hoa trên đá (1985)
Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985)
Di Cảo I (1994)
Di Cảo II (1995)
VĂN XUÔI:
Có các tập ký: Vàng sao (1942)
Thăm Trung Quốc (1963)
Những ngày nổi giận (1966)
Giờ của số thành (1977)
Chế Lan Viên cũng là tác giả của những tập tiểu luận, phê bình trao đổi nghề nghiệp đặc sắc: Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981).
Chế Lan Viên đã được tặng Huân chương Độc Lập hạng hai (năm 1988). Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I-1996), Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985 (tập thơ Hoa trên đá) và giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II).
ST
Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan (còn có bút danh khác Chàng Văn), sinh ngày 14 tháng 1 năm 1920, tại Đông Hà, Quảng Trị. Mất ngày 24 tháng 6 năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam 1957.
Trước cách mạng Chế Lan Viên sống ở Quy Nhơn (do đó ông coi Bình Định là quê hương thứ hai của mình). Năm 1937 khi học ở trường Trung học Quy Nhơn. Chế Lan Viên đã sáng tác thơ. Năm 1939, Chế Lan Viên ra học ở Hà Nội, sau đó vào làm báo ở Sài Gòn, rồi dạy học ở Thanh Hóa và Huế. Cách mạng tháng Tám (1945), Chế Lan Viên tham gia cách mạng tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên làm công tác báo chí ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng bị chiếm Bình Trị Thiên.
Năm 1954, hòa bình lập lại, Chế Lan Viên về sống và hoạt động ở Hà Nội. Ông đã đảm nhiệm nhiều công việc; ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu Quốc Hội các khóa 4, 5, 6 và 7, ủy viên Ban Thống nhất của Quốc Hội khóa 4 và 5, ủy viên Ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội các khóa 6 và 7, ủy viên Ban Thư ký Hội nhà văn Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất. Chế Lan Viên vào công tác và hoạt động văn học tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm:
THƠ:
Điêu tàn (1937)
Gửi các anh (1954)
Ánh sáng và phù sa (1960)
Hoa ngày thường
Chim báo bão (1967)
Những bài thơ đánh giặc (1972)
Đối thoại mới (1973)
Hoa trước lăng người (1976)
Hái theo mùa (1977)
Hoa trên đá (1985)
Tuyển tập Chế Lan Viên (2 tập, 1985)
Di Cảo I (1994)
Di Cảo II (1995)
VĂN XUÔI:
Có các tập ký: Vàng sao (1942)
Thăm Trung Quốc (1963)
Những ngày nổi giận (1966)
Giờ của số thành (1977)
Chế Lan Viên cũng là tác giả của những tập tiểu luận, phê bình trao đổi nghề nghiệp đặc sắc: Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981).
Chế Lan Viên đã được tặng Huân chương Độc Lập hạng hai (năm 1988). Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I-1996), Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1985 (tập thơ Hoa trên đá) và giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo II).
ST