Ngoại giao Trần Nhân Tông

Hide Nguyễn

Du mục số
Năm 1289, trong bài thơ tặng sứ thần của đế quốc Nguyên Mông - Lý Tư Diễn; Trần Nhân Tông viết: “Tịch hiệp thiên hà tẩy chiến trần” Chưa dừng lại ở đó, ở câu thứ sáu ông viết tiếp: “Thắng như cầm điện ngũ huyền huân”.

Chỉ với hai câu thơ trên thôi, Trần Nhân Tông đã cho ta biết rõ sự uyên bác lỗi lạc của ông về tri thức; sự sâu sắc tuyệt vời của một vị vua anh minh trong công tác đối ngoại. GS Trần Quốc Vượng đã khẳng định rất xác đáng rằng, đặc tính Việt là cái NHU uyển diệu của nước - “Nước chảy đá mòn”; cái sắc ngọt đến kinh hoàng của” Lạt mềm buộc chặt”. Phải chăng những ý kiến đó đều bắt nguồn từ Trần Nhân Tông?

***

Trần Nhân Tông sinh ra (1258) trong thời thế ngặt nghèo của lịch sử: ông ra đời khi dân tộc ta vừa đánh bại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Thế nhưng, đế quốc Mông Cổ chưa từng thất bại trước bất kỳ ai và, trước bất kỳ một quốc gia nào. Chính vì vậy, những trận đánh để trả thù, trở thành một trong những nỗi đau lớn nhất của đế quốc này. Gần 30 năm sau, Hốt Tất Liệt phát động liên tiếp 2 cuộc chiếên tranh để thôn tính Đại Việt (1285 và 1288). Trong cả hai cuộc chiến tranh ấy, Trần Nhân Tông đều áp dụng nghệ thuật lui binh, chờ cho giặc mỏi mệt rồi mới phản công, giành chiến thắng. Thắng giặc đã khó, ngoại giao khôn khéo với một cường quốc đầy nguy hiểm như đế quốc phương Bắc còn khó hơn gấp bội phần...

1. Đọc lại những văn bản ngoại giao của Trần Nhân Tông ta thấy rõ rằng, từ năm 1278 đến 1285, Trần Nhân Tông đã làm hết sức mình để tránh chiến tranh. Hốt Tất Liệt lấy cớ Trần Nhân Tông lên ngôi không báo (không xin phép Thiên triều), để hạch sách, buộc ông phải sang Bắc Kinh chầu Thiên Tử. Trần Nhân Tông đã mềm mỏng đáp rằng: “Cô thần bẩm khí yếu đuối, mà đường sá thì khó khăn, chỉ luống phơi bộ xương trắng, đến nỗi bệ hạ phải xót thương mà không ích gì cho thiên triều trong muôn một”. Sự nhún nhường của Trần Nhân Tông trong các bức thư gửi Bắc Triều đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ngoại giao. Trần Nhân Tông luôn sử dụng những từ như “nép nghĩ”; “nép mong”; “phục tội khôn xiết”; “rất đỗi sợ hãi kính tâu”... để xoa dịu lòng tham và sự ngạo mạn của Hốt Tất Liệt. Phải nói rằng đây là chính sách duy nhất đúng để Việt Nam có thể tồn tại được trước “hòn đá tảng” khổng lồ là đế quốc Trung Hoa. Đọc Trần Nhân Tông chúng ta mới hiểu thêm vì sao qua hàng ngàn năm, dù “tảng đá” phương Bắc có đè xuống, cố tìm mọi cách để đồng hoá, nô dịch thì bản sắc Việt, hồn Việt vẫn gan góc chịu đựng, tồn tại và phát triển.

2. Chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai, Trần Nhân Tông cho thả 6.000 tù binh. Chiến thắng lần thứ ba, bắt sống thân vương Tích Lệ Cơ nhưng trong thư gửi Hốt Tất Liệt, ông viết rằng “Thấy trăm họ đưa đến một người là đại vương Tích Lệ Cơ”. Chính sách nhân đạo và cách dùng từ khôn ngoan đó là cái tuyệt vời của chữ Nhân được sinh ra từ cái phi thường của Trí. Trí hết mực và Nhân hết lòng là bản chất của con người lỗi lạc Trần Nhân Tông. Sự mẫn tiệp của Trần Nhân Tông còn bộc lộ rất rõ khi chỉ một tháng sau việc quét sạch giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi, ông đã cho đem cống vật cùng một lá thư với lời lẽ rất khiêm nhường sang Trung Quốc (tháng 3.1289): “Xin lòng thương cho đến hoang vu cùng được dự tắm lòng từ rộng lớn... Kính cẩn xin dâng hiến, cúi mong giám nạp. Thần rất sợ rất hãi, cúi đầu kính nói”.

Có lẽ trong lịch sử ngoại giao của nhân loại, chưa bao giờ và chưa ở đâu người chiến thắng (những 3 lần) lại viết cho kẻ chiến bại một lá thư kỳ lạ đến thế. Trần Nhân Tông đã hiểu thật rõ sự nhục nhã của quân Nguyên và còn biết rõ hơn cách thức tránh cuộc đao binh tàn khốc cho dân tộc. 2 cuộc chiến tranh trong 3 năm, dù chiến thắng vẻ vang, dân Việt cũng đã điêu linh lắm rồi. Để xoa dịu một kẻ như Hốt Tất Liệt là một việc không dễ dàng. Chính vì thế Trần Nhân Tông đã viết cho Hốt Tất Liệt rằng, “Năm chí Nguyên thứ 23 (1286), bình chương A Lý Hải Nha tham công ngoài biên giới, làm trái Thánh chỉ. Do thế tiểu quốc sinh linh một phen phải chịu lầm than”. Một cuộc chiến tranh lớn như thế mà Trần Nhân Tông làm như Hốt Tất Liệt không biết, đó là cái tuyệt kỹ của đường lối ngoại thuận, bởi “lửa càng nóng, nước càng lạnh”.

3. Nhu trong đối ngoại của Trần Nhân Tông là cái Nhu của trí lược, nhu - dũng song toàn. Cuộc chiến chống Nguyên vừa kết thúc, Trần Nhân Tông đã điều binh đi chinh phạt Ai Lao. Triều thần can gián vì “vết thương chiến tranh chưa khỏi”. Trần Nhân Tông đã trả lời rằng, “Chỉ có thể lúc này mới ra quân được vì (Ai Lao, Chiêm Thành, Chân Lạp) họ cho rằng quân ngựa và của cải của ta đã bị tan mất, sẽ có sự khinh nhờn... nên đem đại quân để thị uy”. Sự kiện này chứng tỏ tầm nhìn xuất chúng của Trần Nhân Tông trước thế sự. Cho dù khi xuất chinh, Trần Nhân Tông vẫn hiểu việc đem quân ra ngoài biên ải là “cùng binh độc vũ”; nhưng đó là cái việc chẳng đặng đừng. Cái nguy của xã tắc, sơn hà nó lớn hơn gấp bội phần sự mệt mỏi, khó nhọc.

4. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 và 3 đã cho Trần Nhân Tông nhìn thấy một sự thật: Vùng phên dậu phía Nam quan trọng biết chừng nào. Chính vì vậy, mặc dù đã nhường ngôi nhưng khi đi thuyết pháp ở Chăm pa, Trần Nhân Tông đã nhận lời gả con gái cho Chế Mân. Lịch sử sẽ còn phải nói nhiều tới bước chân Nam tiến của Trần Nhân Tông và bước chân định mệnh tuyệt vời của công chúa Huyền Trân năm 1306. Huế đã trở thành một phần xương thịt của Việt Nam bắt đầu từ ngày ấy. Hàng chục ngàn cây số vuông đất đai của Tổ quốc Việt mến yêu đã có được từ những giọt máu của chính Trái tim Trần Nhân Tông. Gả con gái cho man tộc bao giờ cũng là một quyết định đau lòng. Trái tim Trần Nhân Tông đã rỉ máu, chúng tôi tin chắc như vậy. Ông đã đau, đã day dứt rất nhiều, nhưng ông cũng đã quyết định thật chính xác, bởi đó là cần thiết. Trong suy nghĩ của chúng tôi, sự hy sinh của Trần Nhân Tông, của Công Chúa Huyền Trân là một trong những ám ảnh lớn nhất của lịch sử. Lịch sử của đất Việt mến yêu đã trả đủ những gì xứng đáng với trái tim của hai cha con ông? Trong suốt hàng ngàn năm qua, đã có vị vua nào làm được như Trần Nhân Tông : một người, để có chỗ đứng cho muôn người? Trần Nhân Tông đã đứng trên đỉnh Hải Vân để nhìn thấy Mũi Cà Mau.

710 năm đã trở thành lịch sử kể từ khi Trần Nhân Tông rời bỏ ngai vàng. Rất nhiều nhân vật, rất nhiều sự kiện nhanh chóng và đơn giản chìm khuất trong bụi mờ của quá khứ. Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông vẫn sẽ mãi lấp lánh và toả sáng. Ông là một trong những tinh hoa bất tử của Hồn Việt. Những người như ông đã làm nên cái phi thường tuyệt đỉnh của tài năng và tính cách Việt Nam, sức sống Việt Nam.


Kiến Thức Ngày Nay 562)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
T
rần Nhân Tông tên là Khẩm, con trưởng Thánh Tông, sinh năm 1258, đúng năm Thái Tông và Thánh Tông đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất.

Nói đến Trần Nhân Tông trước hết là nói đến người anh hùng cứu nước. Ông làm vua 14 năm (1279 - 1293). Trong thời gian ấy, đất nước Đại Việt đứng trước thử thách ghê gớm: hiểm họa xâm lược lần thứ 2 và thứ 3 của giặc Nguyên-Mông.

Trong 2 lần kháng chiến, Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ "kết chặt lòng dân", lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi huy hoàng. Qua 2 cuộc kháng chiến, Trần Nhân Tông đã tỏ rõ ông vừa là nhà chiến lược tài giỏi, vừa là vị tướng cầm quân dũng cảm ngoài chiến trường. Chính vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến năm 1285, khi quân ta đang còn ở thế không cân sức với đối phương, Trần Nhân Tông đã viết lên đuôi chiến thuyền 2 câu thơ đầy khí phách và niềm tin vào sức mạnh tiềm tàng của quân ta:
Cối kê cựu sự quân tu ký,
Hoan diễn do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn đang còn chục vạn quân).

Hai câu thơ này cùng với hai câu Nhân Tông viết bên lăng Trần Thái Tông tại Long Hưng (Thái Bình) lúc làm lễ dâng tù binh mừng chiến thắng lần thứ ba:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai lần lao ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.)


đã đi vào lịch sử như một ký ức bất diệt về chiến công bình Nguyên năm 1285 và 1288, trong đó Nhân Tông là vị chủ soái.

Khi nhìn nhận nguyên nhân thắng lợi nhà Trần đã giành được trong sự nghiệp cứu nước. Trần Nhân Tông đã đánh giá cao vai trò của nhân dân lao động (thời đó sử cũ chép là gia nô, gia đồng). Ông cho rằng chính họ mới là những người trung thành với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua (Nhân Tông) ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu tất gọi rõ tên mà hỏi: "Chủ mày đâu?" và dặn dò các vệ sĩ không được thét đuổi. Khi về cung, vua bảo các quan hầu cận rằng: "Ngày thường có kẻ hầu cận hai bên, lúc Nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi".

Sau 14 năm làm vua, theo truyền thống của nhà Trần, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành Tổ thứ nhất phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Xét trên bình diện triết học, Trần Nhân Tông có một vị trí quan trọng. Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt Nam. Với phái Thiền Trúc Lâm mà Trần Nhân Tông là người đứng đầu, triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần đã phát triển rực rỡ và thể hiện được đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Nét đặc trưng nổi bật của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu, táo bạo. Sách Tam Tổ thực lục viết: "Một học trò hỏi Điều ngự Nhân Tông: "Như thế nào là Phật?" Nhân Tông đáp: "Như cám ở dưới cối". Hoặc, một lần học trò hỏi Nhân Tông: "Lúc giết người không để mắt thì như thế nào?" Đáp: "Khắp toàn thân là can đảm"...

Anh hùng cứu nước, triết nhân và thi sĩ, ba phẩm chất ấy kết hợp hài hòa với nhau trong con người Trần Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ, ông là người có một tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã, nhất là đối với cảnh vật thiên nhiên:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch đương biên,
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiền man mác có dường không,
Theo lời kèn mục trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
(Thiên trường vãn vọng - Bản dịch của Ngô Tất Tố)


Thơ Trần Nhân Tông, ngoài vẻ đẹp của một âm điệu hồn hậu, còn bao hàm một ý vị Thiền, gợi mở một thế giới tinh thần thanh khiết. Trong lịch sử thi ca Việt Nam, cây sáo thơ Trần Nhân Tông để lại một tiếng ngân trong đến thẳm sâu.

Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top