Nghìn lẻ một đêm (truyện dài)

  • Thread starter Thread starter ButBi
  • Ngày gửi Ngày gửi
Chương 19

HOÀNG TỬ CAMARALZAMAN

- Tâu bệ hạ - ScheherazaDe nói - Sáng hôm sau, hoàng tử Camaralzaman thức dậy, l1ếc nhìn sang bên cạnh mình xem cô nàng xinh đẹp thấy đêm hôm qua có còn đấy không. Khi không thấy ai cả, chàng nghĩ thầm: Ta đã biết mà, đúng là quốc vương cha ta muốn làm ta bị bất ngờ, may mà ta đã đề phòng .
Chàng định đánh thức tên hầu hãy còn đang ngủ, giục nó đi làm những việc thường ngày và chẳng nói gì vớI nó cả. Tên hầu mang chậu và nước tới. Chàng rửa mặt, lau người và sau khi cầu kinh, chàng cầm lấy một quyển sách và đọc một lúc.

Sau những việc làm thường ngày đó, Camaralzaman gọi tên nô lệ tới:
- Lại đây - Chàng bảo nó - Và cấm không được nói dối. Mày hãy nói cô nương ngủ cùng ta đêm qua đã tới đây bằng cách nào và ai đưa cô ấy tới?
- Thưa hoàng tử - Tên nô lệ hết sức ngạc nhiên đáp - Ngài muốn nói tới cô nương nào vậy?
- Người mà ta đã bảo mày rồi - Hoàng tử nói - Đã đến đây hoặc ai đó đưa tới đây đêm qua và đã nằm bên cạnh ta.
- Thưa hoàng tử - Tên hầu vẻ khổ sở - Con xin thề là chẳng biết một tí gì cả. Cô nương ấy có thể tới đây như thế nào? Con nằm ngay giữa cửa kia mà?
- Mày nói dối, tên vô lại kial - Hoàng tử la lên – Mày âm mưu để làm cho ta phiền não hơn và làm ta phát điên lên.
Nói xong, chàng cho nó một cái tát làm nó ngã ngửa, chàng đạp lên người nó và lấy sợi dây thừng cạnh giếng trói ghì cánh khuỷu nó lại, dòng nó xuống giếng, thả cho ngập đầu nhiều lần và bảo:
- Tao sẽ dìm mày chết đuối nếu mày không nói mau cô nương đó là ai và người nào đưa nàng đến.
Tên nô lệ lúng túng giận dữ, bị ngập nửa người dưới giếng tự nhủ thầm: Đúng là hoàng tử bị mất trí vì quá đau khổ, ta chỉ có thể thoát được bằng cách nói dối thôi .
- Thưa hoàng tử - Vừa khóc mếu hắn vừa nói – Xin hãy để cho con sống, con xin ngài. Con hứa sẽ nói thật.
Hoàng tử kéo nó lên. Vừa khỏi miệng giếng, hắn vừa run vừa nói:
- Thưa hoàng tử, ngài chắc thấy rõ là con làm sao mà bẩm rõ sự việc với ngài trong tình trạng như thế này. Xin hãy cho con đi thay quần áo đã.
- Được, ta cho phép. Đi thay quần áo mau lên mà nhớ là không được giấu ta một điều gì.

Tên nô lệ đi ra sau khi khép cánh cửa buồng hoàng tử. Cứ thế nó chạy thẳng vào hoàng cung. Quốc vương đang trò chuyện với tể tướng phàn nàn không sao ngủ được cả đêm qua vì sự bất tuân và thái độ điên khùng đáng lên án của hoàng tử con ông đã dám chống lại ý chỉ.
Viên quan đại thần này cố gắng an ủi và nói để quốc vương rõ là chính hoàng tử đã buộc Người phải làm như vậy.
- Tâu bệ hạ - Ông nói - Người chẳng nên hối tiếc là đã cho bắt giữ chàng. Cứ kiên nhẫn để chàng bị giam trong một thời gian, tin chắc là rồi đây chàng sẽ từ bỏ cái tính bồng bột của tuổi trẻ và sẽ trở lại ngoan ngoãn nghe theo tất cả những gì quốc vương đòi hỏi ở chàng.
Tể tướng vừa nói tới đó thì tên nô lệ chạy vào:
- Tâu bệ hạ - Hắn nói - Con lấy làm tiếc là phải tới tâu trình hoàng thượng một tin có thể làm Người rất không được vui. Hoàng tử nói là có một cô nương đêm qua đã nằm ngủ với chàng. Rồi hoàng tử làm con như thế này đây. Cái đó rõ ràng chứng tỏ là chàng thực sự mất trí rồi.
Rồi hắn kể lại - chi tiết tất cả những gì hoàng tử Camaralzaman đã nói và đã đối xử quá đáng với hắn như thế nào. Lời lẽ của hắn nghe chắc nịch.

Nhà vua không chờ đợi cái điều phiền muộn mới này, bảo tể tướng:
- Đó, lại thêm một sự kiện đáng buồn nhất, khác hẳn với niềm hy vọng mà nhà ngươi nói với ta vừa rồi. Đi đi, chớ để mất thì giờ nữa, nhà ngươi hãy đi xem sự thể ra sao rồi về báo ta rõ.
Tể tướng tuân lệnh ngay và khi đi vào buồng hoàng tử, ông thấy chàng ngồi rất yên lặng, sách cầm tay đang đọc. Ông chào chàng, ngồi xuống cạnh và bảo:
- Tôi muốn phạt nặng tên hầu của hoàng tử đã tới làm cho hoàng đế cha hoàng tử hoảng sợ vì một tin nó mang về.
- Đó là tin gì vậy - Hoàng tử hỏi- mà làm cho hoàng thượng sợ hãi. Tôi còn có chuyện quan trọng hơn nhiều để hỏi tội tên nô lệ của tôi kia.
- Hoàng tử ạ - Tể tướng nói - Cầu Thượng đế chứng giám cho điều nó nói mong được là sự thật! Trạng thái của hoàng tử mà tôi thấy đây thật chẳng có gì đáng phàn nàn và cầu mong là được như thế mãi. Và điều đó nói lên là không có gì nghiêm trọng cả.
- Có thể là - Hoàng tử nói - nó nói lại chưa đầy đủ những gì xảy ra đâu. Nhân tiện ông tới đây, tôi thấy thật dễ chịu được hỏi một người như ông có thể biết được ngọn ngành. Cái cô nàng đêm qụa đã ngủ cùng tôi, bây giờ ở đâu rồi?
Nghe hỏi thế tể tướng sững sờ, ngơ ngác:
- Thưa hoàng tử - Ông đáp - Xin ngài chớ ngạc nhiên thấy tôi sửng sốt vì câu hỏi của ngài. Liệu có thể thế được không, tôi chưa nói đến một người phụ nữ, mà ngay đến bất cứ một người đàn ông nào trên thế gian này cũng không thể trong ban đêm mà lọt được vào tới chốn này. Phòng chỉ duy nhất một cái cửa, muốn vào thì bắt buộc phải giẫm lên bụng tên nô lệ của ngài. Xin hoàng tử hãy tĩnh trí lại và ngài sẽ thấy là mình đã nằm mơ và giấc mơ đó đã để lại dấu ấn sắc nét trong đầu óc ngài.

- Tôi không muốn nghe ông nói linh tinh nữa – Hoàng tử cao giọng - Tôi muốn biết rõ cái cô nàng đó hiện nay ra sao và ta ở đây, trong một nơi mà ta biết làm mọi ngườI phải tuân lệnh ta.
Nghe lời lẽ cứng rắn này, tể tướng vô cùng bối rối không sao tả được. Ông nghĩ cách thoát ra thế nào cho thật êm. Bằng thái độ thật mềm mỏng, ông khúm núm hỏi hoàng tử xem chính chàng có trông thấy cô nương đó không.
- Có, có chứ - Hoàng tử vội đáp- Chính mắt ta đã nhìn thấy nàng và ta nhận rõ là chính ông đã bố trí để giương bẫy ta. Nàng cũng đã ,khéo léo đóng vai trò mà ông đã cắt đặt là không nói với ta một lời, là giả vờ ngủ say và rút ra ngay sau khi ta ngủ lại. Chắc là ông đã rõ rồi và chắc là nàng cũng chẳng quên kể lại tỉ mỉ với ông.
- Thưa hoàng tử - Tể tướng cãi - Tôi xin thề là tất cả những điều ngài vừa nói đều hoàn toàn không có. Quốc vương cha ngài và tôi không hề đưa cái cô nương mà ngài nói đó tới đây. Xin cho phép tôi được nói một lần nữa là ngài chỉ thấy cô nương đó trong giấc mơ mà thôi.
- Thì ra ông tới đây để giễu cợt ta phải không – Hoàng tử nổi giận nói to - Và lại còn dám nói thẳng vào mặt ta là những điều nói với ông là trong giấc mơ?
Chàng nắm ngay lấy râu tể tướng và giơ tay giơ chân đấm đá mãi cho đến khi mệt lử.

Vị tể tướng khốn khổ đành kiên nhẫn chịu cơn lôi đình của hoàng tử Camaralzaman. Thế là - Ông tự nhủ -ta cũng lại rơi vào hoàn cảnh như tên nô lệ. Thật rất may nếu ta cũng như nó được thoát khỏi cái tai vạ này . Giữa , trận đòn túi bụi, ông kêu lên:
- Hoàng tử ơi, hãy dừng tay một chút, tôi có điều muốn trình bày.
Hoàng tử đấm đá cũng đã mệt, dừng lại cho nói.
- Tôi xin thú thục - Tể tướng giả vờ nói - là cũng có cái gì đó trong những điều ngài nói. Nhưng chắc ngài cũng rõ là nhiệm vụ của một thượng thư là phải thi hành lệnh của hoàng đế, đó là điều tối cần thiết. Nếu được ngài rộng lòng cho phép, tôi sẵn sàng xin đi tâu trình lại với hoàng đế tất cả những gì ngài ra lệnh.
- Ta cho phép ông - Hoàng tử bảo - Đi đi, và tâu với Người là ta muốn cưới cô nương mà Người đã gửi đến hoặc dẫn đến cho ta và ta đã cùng nàng ngủ với nhau đêm qua làm vợ. Mau lên, đi đi và mang về ngay cho ta lời phúc đáp.
Tể tướng cúi đầu xuống thật thấp từ giã chàng và chỉ thấy thực sự thoát nạn khi đã ra bên ngoài tháp cổ và khép lại cánh cửa buồng của hoàng tử.
Tể tướng về bệ kiến Schahzaman với bộ mặt thiểu não làm cho nhà vua cũng thật phiền lòng.
- Thế nào - Quốc vương hỏi - Ngươi thấy tình trạng con ta ra sao?
- Tâu bệ hạ - Tể tướng đáp - Điều mà tên nô lệ tâu trình là hoàn toàn đúng.

Ông kể lại cuộc đối thoại của ông vôi hoàn tử Camaralzaman, sự nổi xung của hoàng tử khi ông bảo là không sao có thể có một cô nương nào đó đến ngủ vớI chàng được, sự đối xử tồi tệ của chàng với ông và sự khôn khéo của ông để thoát khỏi tay chàng.
Hoàng đế Schahzaman càng buồn nẫu ruột vì chuyện tể tướng kể vì ông rất mực yêu thương hoàng tử. Ông muốn tự mình làm rõ sự thật, nên kéo tể tướng đi theo cùng tới ngôi tháp cổ .
- Nhưng, tâu bệ hạ - Đến đây hoàng hậu Scheherazade ngừng lại - Trời đã bắt đầu sáng rõ.
Đêm sau kể tiếp, nàng nói với hoàng Đế Ân Độ:

***​


- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman nghênh đón vua cha trong ngôi tháp cổ mà chàng đang bị giam cầm đầy vẻ kính trọng. Nhà vua ngồi và sau khi bảo hoàng tử ngồi xuống cạnh mình, ông hỏi con hết câu nọ đến câu kia được hoàng tử trả lời rất cung kính và khôn ngoan. Thỉnh thoảng ông lại nhìn sang tể tướng như ý muốn nói là mình chẳng thấy có gì là loạn trí ở hoàng tử như tể tướng trình bày cả mà chính tể tướng bị loạn trí thì đúng hơn.
Cuối cùng nhà vua nói với hoàng tử về cái cô nương đó:
- Con trai của ta, con hãy nói cho cha rõ cái cô nàng đã ngủ với con đêm hôm đó như người ta nói là ai vậy?
- Tâu phụ hoàng - Camaralzaman đáp - Con khẩn khoản xin Người đừng làm con buồn rầu thêm nữa về vấn đề mà người ta đã làm cho con khổ quá rồi. Xin Người hãy cho con cưới nàng làm vợ. Sự chán ghét đàn bà mà con đã tỏ với cha từ trước tới nay đã tiêu tan trước cái sắc đẹp trẻ trung đã làm con say đắm. Không khó khăn gì mà con xin thú thực với cha sự yếu đuối của mình. Con sẵn sàng đón nhận nàng từ tay cha với lòng biết ơn vô hạn.

Vua Schahzaman sửng sốt vì câu trả lời của hoàng tử mà ông thấy không còn tỉnh táo khôn ngoan như những lờI chàng nói trước đó.
- Con ơi! - Ông nói - Những lời con nói đã làm cha hết sức ngạc nhiên. Cha xin thề nhân danh ngôi báu mà cha sẽ truyền cho con là cha không biết một chút gì về cái cô nương mà con nói. Cha không tham dự vào việc này nếu quả thật là có người đã tới. Mà làm sao cô ta có thể vào đây được nếu không được sự đồng ý của cha. Dù là tể tướng có nói gì về chuyện đó thì chẳng qua cũng chỉ để làm cho con dịu cơn giận dữ đi thôi. Có thể đó chỉ là một giấc chiêm bao, con nên cẩn thận và tĩnh trí lại đi.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử nói - Con sẽ mãi mãi không xứng đáng với biết bao từ tâm của cha nếu không tin vào những gì cha vừa nói. Nhưng xin Người hãy kiên nhẫn nghe và xét xem những gì con được bầy tỏ với Người sau đây có phải là một giấc chiêm bao không.

Thế rồi hoàng tử Camaralzaman kể lại cho vua cha nghe chàng đã thức dậy như thế nào. Chàng cũng có nới thêm lên một chút về vẻ yêu kiều quyến rũ của cô gái chàng thấy nằm bên cạnh, tình yêu chàng thấy bột khỏi lúc đó và tất cả sự cố gắng vô ích của chàng để đánh thức nàng dậy. Chàng cũng không giấu vua cha điều gì đã khiến chàng thức dậy và ngủ lại sau khi đã trao đổi nhẫn cho nhau. Và khi kết thúc câu chuyện, chàng rút chiếc nhẫn từ ngón tay và đưa cho vua cha.
- Tâu phụ vương - Chàng nói - Nhẫn của con chắc cha chẳng lạ gì vì Người đã nhìn thấy nhiều lần. Sau tất cả những cái đó, con hy vọng là Người sẽ không cho con là mất trí như người ta đã làm cho Người tin như vậy.

Vua Schahzaman thấy những điều mà hoàng tử con ông vừa trình bày là sự thật nên ông chẳng biết nói sao cả. Sự kinh ngạc của ông quá lớn làm ông lặn người đi hồi lâu.
Hoàng tử lợi dụng giây phút đó, tâu thêm:
- Tâu phụ hoàng, tình yêu say đắm mà con cảm thấy với cô nương kiều diễm đó mà con còn lưu giữ hình ảnh quí báu trong tim, đã mãnh liệt tới mức con không sao mà cưỡng lại được nữa. Xin Người rủ lòng thương ban cho con cái hạnh phúc được có nàng.

- Con ạ. Sau khi nghe con trình bày, và sau lúc cha được thấy chiếc nhẫn đó - Vua Schahzaman nói - thì cha không còn nghi ngờ gì về mối tình say đắm của con là không có thật và mối tình đó đã được nảy nở do cô gái mà con thấy. Cầu mong Thượng đế cho tôi được biết nàng, cái cô nương đó. Con sẽ được thoả lòng từ lúc này, và ta sẽ là người cha hạnh phúc nhất thế gian. Nhưng tìm nàng ta ở đâu bây giờ? Làm sao và bằng lối nào mà nàng ta vào được đây mà ta không biết gì, mà không có sự đồng ý của ta? Vì sao nàng ta lại vào đây chỉ để nằm cạnh con, để cho con nhìn sắc đẹp và vẻ mĩ miều của nàng ta và khêu gợi tình yêu của con trong khi nàng ngủ và khi con ngủ thì nàng lại biến đi? Cha không làm sao mà hiểu được cái chuyện rắc rối này. Con ạ, nếu trời đất mà không phù hộ thì nàng đã đẩy chúng ta, cả con và cha xuơng mồ rồi.

Nói xong, ông cầm lấy tay hoàng tử bảo:
- Lại đây, để hai cha con ta cùng buồn khổ với nhau, con thì trong một tình yêu vô vọng còn cha thì vì nhìn thấy con sầu khổ mà vô kế khả thi.
Vua Schahzaman kéo hoàng tử ra khỏi toà tháp cổ đưa về hoàng cung mà ở đây với mối tình tuyệt vọng vì yêu tha thiết một cô nương xa lạ vô danh, chàng phát ốm liệt giường. Nhà vua đóng chặt ngự phòng cùng với con than thở nhiều ngày chẳng ngó ngàng gì đến việc nước.
Tể tướng là người duy nhất được ra vào tự do, một hôm tới bệ kiến để tâu với nhà vua là tất cả triều thần cũng như dân chúng bắt đầu xì xào về việc không thấy vua xuất hiện hàng ngày để xử lý việc quốc gia như thường lệ, ông nói sẽ không chịu trách nhiệm về những lộn xộn có thể xảy ra.

- Xin bệ hạ hãy lưu tâm - Ông nói- Tôi biết rõ ràng là sự có mặt của bệ hạ làm cho hoàng tử đỡ đau khổ và ngược lại sự có mặt của hoàng tử cũng làm cho bệ hạ đỡ buồn phiền, nhưng xin bệ hạ cần phải nghĩ đến việc làm sao cho tất cả không bị đổ vỡ. Xin bệ hạ hãy nghe theo lời tôi cùng hoàng tử chuyển sang lâu đài tại hòn đảo nhỏ, chẳng xa cung điện là bao và chỉ cần thiết triều mỗi tuần hai buổi. Trong khi vì công việc mà Người phải xa hoàng tử thì phong cảnh đẹp, không khí tốt lành và cảnh quan kỳ diệu của hòn đảo sẽ làm cho hoàng tử khuây khoả và dễ dàng chịu đựng được sự vắng mặt ngắn ngủi của Người.
Vua Schahzaman tán thành lời khuyên đó và khi cung điện trên đảo, mà đã lâu ông không lui tới, được bài trí chu đáo, ông cùng hoàng tử chuyển tới đó và chỉ xa chàng mỗi tuần hai lần để thiết triều thôi. Còn hàng ngày thường thường ông qua thời gian bên cạnh chàng để, lúc thì dùng lời nhẹ nhàng an ủi, lúc thì cùng chia nỗi u buồn với chàng.
(Còn tiếp...)
 
Chương 20

NÀNG CÔNG CHÚA TRUNG HOA

Trong khi những chuyện trên xảy ra tại kinh đô của Vua Schahzaman, thì hai vị thần Danhasch và Caschcasch mang công chúa Trung Hoa đặt lại vào giường trong lâu đài mà nhà vua Trung Hoa đã giam nàng.
Sáng hôm sau thức dậy, công chúa Trung Hoa quay sang phải, quay sang trái và khi không nhìn thấy hoàng tử Camaraìzaman bên cạnh, nàng cất tiếng thất thanh gọI các nô tì làm cho chúng vội vàng chạy lại xúm quanh giường nàng. Bà vú nuôi đứng phía đầu giường hỏi nàng cần gì và có gì xảy ra với nàng.
- Hãy nói cho ta biết - Công chúa bảo - Chàng trai mà ta hết lòng yêu thương, đã nằm cạnh ta đêm qua, bây giờ ra sao rồi?
- Thưa công chúa - Bà vú đáp - Chúng tôi chẳng hiểu công chúa nói gì cả. Nàng nói rõ ra xem sao.
- Đó là - Công chúa nói - Một chàng trai khôi ngô tuấn tú và vô cùng đáng yêu, nằm ngủ bên cạnh ta đêm qua mà ta đã vuốt ve chàng đã lâu và làm mọi cách để cho chàng tỉnh dậy, nhưng không kết quả - Ta muốn hỏi các người là chàng đâu rồi.
- Thưa công chúa - Bà vú lại nói - Chắc là nàng muốn đùa cợt với chúng tôi chăng. Mời công chúa dậy đi thôi.
- Ta nói rất nghiêm chỉnh đấy - Công chúa cãi - Và ta muốn biết lúc này chàng ở đâu.
- Nhưng mà, thưa công chúa - Bà vú nhấn mạnh - Công chúa chỉ có một mình khi chúng tôi đưa nàng đi ngủ tối hôm qua và chẳng có ai vào ngủ cùng với công chúa cả. Chúng tôi biết rõ như thế mà.

Công chúa Trung Hoa không dằn mình được nữa. Nàng túm lấy tóc bà vú, vừa tát vừa đấm:
- Mi sẽ phải nói, đồ phù thuỷ già, nếu không ta sẽ đánh chết mi.
Bà vú nuôi cố sức giằng co để thoát khỏi bàn tay của công chúa và một mạch chạy về cung hoàng hậu, mẹ đẻ ra công chúa. Bà mang bộ mặt sưng vù đầm đìa nước mắt bệ kiến hoàng hậu: Hoàng hậu vô cùng kinh ngạc hỏi ai đã đã làm cho vú trong tình trạng tả tơi như vậy.
- Bẩm hoàng hậu. Bà vú tâu - Xin lệnh bà hãy xem công chúa đối xử với tôi như thế này đây. Nàng có lẽ đánh tôi chết nếu tôi không giằng ra trốn thoát.
Rồi bà kể hết đầu đuôi chuyện vì sao mà công chúa nổi trận lôi đình. Hoàng hậu nghe mà thấy vừa ngạc nhiên vừa buồn bã:
- Lệnh bà thấy đó - Bà vú nuôi nói thêm - Công chúa đúng là đã hoàn toàn mất trí rồi. Lệnh bà có thể thấy rõ nếu người bớt chút thời giờ tới thăm nàng.
Hoàng hậu Trung Hoa rất quan tâm tới câu chuyện vừa nghe vì bà rất yêu thương con gái. Bà bắt người vú nuôi phải dẫn bà tới ngay chỗ công chúa.
Hoàng hậu Scheherazade muốn kể tiếp nhưng thấy trời đã bắt đầu sáng. Nàng im tiếng và đêm sau nàng nói với hoàng Đế Ấn Độ:

***​


“- Tâu bệ hạ, hoàng hậu Trung Hoa tới cung điện nơi công chúa đang bị cấm cung, ngồi xuống bên cạnh con gái và sau khi hỏi thăm sức khoẻ, bà hỏi nàng nguyên nhân vì sao mà giận dữ đánh đập bà vú nuôi:
- Con gái ạ - Bà bảo - Như thế là không tốt đâu. Công chúa của một quốc gia lớn như con thì không được để cho những gì là thái quá lôi cuốn.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa nói- Con thấy rõ là Người cũng tới đây để trêu cợt con. Nhưng con xin nói để cho mẫu hậu rõ là con sẽ chẳng thấy thanh thản chừng nào mà con không được kết hôn cùng chàng hiệp sĩ đáng yêu đã cùng nằm với con đêm qua. Chắc mẫu hậu phải biết rõ là chàng ở đâu. Con xin người cho chàng trở lại đây.
- Con gái ới - Hoàng hậu nói - Con làm ta ngạc nhiên. Ta chẳng hiểu là con nói gì cả.
Công chúa chẳng còn giữ lễ độ gì nữa.
- Thưa lệnh bà - Nàng nói - Đức vua cha con và lệnh bà mẹ của con, đã hành tội con để con lấy chồng khi con không muốn. Bây giờ ý muốn đó đã đến, và con nhất định người chồng của con phải là chàng hiệp sĩ mà con đã nói với mẹ, nếu không con sẽ tự sát.
Hoàng hậu nhẹ nhàng bảo con:
- Con gái của mẹ, con cũng biết rất rõ là chỉ có một mình con ở đây và không có bất cứ một người nam giới nào vào đây được
Nhưng, đáng lẽ lắng nghe thì công chúa lại ngắt lời bà và vùng vằng làm những cử chỉ giận dỗi khiến hoàng hậu phải buồn rầu rút lui trở về nói hết mọi chuyện với quốc vương.
Vua Trung Quốc muốn tự mình nắm rõ sự thật nên tới ngay nơi ở của công chúa hỏi nàng phải chăng những chuyện ông vừa được biết là đúng sự thật.
- Tâu bệ hạ - Công chúa nói - Chỉ xin Người gia ân trả lại cho con người chồng đã nằm cạnh con đêm hôm trước.
- Sao? Con gái của cha - Nhà vua sửng sốt - Có người nào đó đã ngủ cùng với con đêm qua ư?
- Thế là thế nào, tâu bệ hạ - Công chúa không để cho nhà vua nói tiếp - Người hỏi phải chăng có người nào đó đã nằm ngủ với con ư! Chính Người đã biết rõ mà. Đó là chàng hiệp sĩ điển trai nhất dưới bầu trời này. Xin cha hãy trả chàng lại cho con, xin cha đừng từ chối. Để phụ hoàng tin - Nàng tiếp - Là con đã thấy chàng hiệp sĩ đó, là chàng đã cùng nằm với con, là con đã vuốt ve âu yếm chàng, là con đã cố gắng làm cho chàng thức dậy mà không được, thì xin cha hãy nhìn chiếc nhẫn này.

Công chúa giơ bàn tay ra và hoàng đế Trung Quốc không biết nói sao khi nhìn chiếc nhẫn và nhận ra đó là nhẫn đàn ông. Nhưng vì ông không sao hiểu được tất cả những gì nàng trình bày và ông đã nhốt nàng lại vì cho là nàng bị điên thì lúc này ông lại càng tin là nàng điên rồ.Vì vậy, không nói gì thêm nữa sợ nàng làm chuyện gì hung hăng với mình và với tất cả những ai tới gần, ông cho trói nàng thật chặt và chỉ cho bà vú nuôi được tới gần chăm sóc và cửa buồng được canh gác nghiêm ngặt.

Hoàng đế Trung Quốc hết sức đau buồn về nỗi bất hạnh của công chúa mà ông tưởng bị loạn trí nặng nề. Ông nghĩ mọi cách để chữa trị cho nàng. Ông cho triệu tập các triều thần và sau không nói rõ tình trạng bệnh tật của công chúa, ông tuyên bố.
- Nếu có người nào dó trong các khanh thành thạo nhận chữa bệnh cho công chúa và làm cho nàng khỏi bệnh, ta sẽ gả cho làm vợ và sẽ là người thừa kế ngôi báu, nốI ngôi sau khi ta chết.
Khát khao được lấy một công chúa xinh đẹp và hi vọng được trị vì một quốc gia hùng mạnh như đất nước Trung Hoa đã tác động lớn đến đầu óc một viên quan đã luống tuổi có mặt lúc đó. Vì ông ta là một pháp sư có bản lĩnh cao cường, ông ta cho mình là có thể thành công nên liền tới nhà vua xin chữa.

- Ta chấp nhận - Nhà vua nói - Nhưng ta muốn cảnh báo trước là ta sẽ cho chặt đầu nếu nhà ngươi thất bại trong việc chạy chữa. Thật là không công bằng nếu nhà ngươi được một phần thưởng lớn như vậy nếu thành công mà không phải chỉu sự rủi ro mất mát gì về phía nhà người khi thất bại. Điều ta nói với nhà ngươi cũng là điều ta muốn nói với tất cả những ai tự nguyện sau nhà ngươi, trong trường hợp ngươi không nhận điều kiện như vậy tức là nhà ngươi không thành công.
Viên quan chấp nhận điều kiện và nhà vua tự dẫn y đến nơi công chúa. Công chún che mặt khi nhìn thấy tên quan.
Tâu phụ vương - Nàng bảo cha- Sao Người lại bất ngờ đưa tới đây một người đàn ông mà con không quen biết và đạo giáo cấm con không được nhìn.
- Con gái ơi? - Nhà vua nói - Con chớ nên bất bình về sự có mặt của người này. Đó là một trong các đại thần trong triều muốn cầu hôn con.
Tâu phụ vương - Công chúa nói- Đó không phải là người mà cha đã gả cho con mà con đã nhận làm của tin chiếc nhẫn con đang mang đây: Mong cha sẽ cho là không tốt khi con lại nhận lời một người khác.
Viên quan chờ đợi là công chúa sẽ nói và làm những chuyện điên rồ. Y rất ngạc nhiên thấy nàng bình thản và nói năng đúng mực như vậy và y biết rất rõ là nàng chẳng điên rồ một chút nào ngoài một tình yêu mãnh liệt đã được hình thành rất có căn cứ. Y không dám tự tiện trình bày với nhà vua. Hẳn là quốc vương không sao chịu được việc công chúa yêu một người không phải là người ông muốn cho con làm chồng. Y phủ phục xuống chân vua:

Tâu bệ hạ - Y nói - Sau những gì thần đã nghe được thì việc chữa chạy cho công chúa hoàn toàn vô ích. Thần chẳng có thứ thuốc nào trị được bệnh đó và tính mệnh của thần xin tuỳ theo ý bệ hạ.
Nhà vua bực mình về sự bất lực của viên đại thần và viên quan này đã gây phiền muộn cho mình nên đã cho chặt đầu y.

Ít ngày sau đó, để khỏi bị trách cứ là không quan tâm đầy đủ tìm mọi cách trị bệnh cho công chúa, nhà vua cho ban bố khắp thành là nếu có một thầy lang, một nhà chiêm tính, một pháp sư nào đó có nhiều kinh nghiệm chữa được bệnh mất trí cho công chúa thì cứ tới xin bệ kiến, với điều kiện là mất đầu nếu không chữa khỏi. Ông còn cho ban bố cũng vấn đề này trong tất cả các thành phố chính trong nước và ở tất cả các triều đình các quốc gia lân cận Người tới đầu tiên là một nhà chiêm tinh kiêm pháp sư. Vua cho một hoạn nô dẫn tới nơi công chúa bị cấm cung. Nhà chiêm tinh rút ra từ trong túi mang theo một cái ống dùng để xem sao, một quả cầu nhỏ, một bếp lò, nhiều loại thuốc xông, một cái lọ đồng và nhiều vật dụng khác. Ông ta đòi mang lửa đến.
Công chúa Trung Hoa hỏi tất cả những dụng cụ ấy có nghĩa gì?
- Thưa công chúa - Pháp sư đáp - Đó là để bắt ma quái nó đang ám công chúa, đem nó mang nhất vào cái lọ này và ném nó xuống đáy biển.
- Cái tên chiêm tinh chết tiệt này! - Công chúa kêu lên -Mi nên biết rằng ta chẳng cần gì đến những thứ đó, rằng ta rất tỉnh táo minh mẫn và chính mi mới là tên loạn trí.
Nếu mi thực sự có bản lĩnh thì hãy dẫn người ta yêu đến đây với ta, đó là điều tốt nhất mà mi có thể phục vụ ta đấy.
- Thưa công chúa - Nhà chiêm tinh nói - Nếu là như vậy, thì không phải ở tôi mà là nàng phải chờ đợi ở hoàng đế cha nàng.
Y cho lại vào túi tất cả những gì vừa lôi ra, bực mình vì đã nhẹ dạ nhận đi chữa một căn bệnh tưởng tượng.

Khi hoạn nô dẫn nhà chiêm tinh trở lại trước hoàng đế Trung Hoa, nhà chiêm tinh không đợi hoạn nô tâu trình, tự mình mạnh dạn phát biểu:
Tâu bệ hạ, theo như lời bệ hạ bố cáo và tự Người khẳng định, tôi đinh ninh là công chúa điên rồ do đó chắc chắn là với những bí quyết trong tay, tôi có thể đưa được nàng trở lại người có thần kinh lành mạnh. Nhưng chẳng lâu la gì mà tôi phát hiện ra ngoài bệnh si tình ra thì nàng không mắc bệnh gì khác, và nghệ thuật của tôi chưa đạt tới lĩnh vực điều trị được bệnh tương tư. Chính hoàng thượng có ưu thế hơn cả mọi người có thể chữa ngay bệnh cho công chúa bằng cách hãy cho nàng kết hôn với ngườI chồng mà nàng đòi hỏi.

Nhà vua cho nhà chiêm tinh này là hỗn xược và xử tội chết. Để không làm cho bệ hạ nhàm chán vì những sự việc trùng lặp thiếp xin nói ngay là sau đó còn có tới năm chục chiêm tinh gia, thầy thuốc và pháp sư cùng bị chung số phận. Đầu của họ được treo trước cổng thành.
(Còn tiếp...)
 
Ui, thật thank bạn rất nhiều. Còn nhiều không bạn, chừng này mà đọc thì mấy tuần mới hết được!

Có tất cả 44 chương bạn à, nếu bạn muốn đọc offline thì khi nào post xong tất cả các chương mình sẽ up lên cho bạn tải về máy mà đọc.
 
Chương 21

CHÀNG MARZAVAN VÀ HOÀNG TỬ GAMARALZAMAN

Bà vú nuôi của công chúa Trung Hoa có một người con trai tên là Marzavan, anh em cùng dòng sữa với công chúa, bà nuôi dạy cùng với công chúa. Tình thân của họ rất sâu sắc trong thời thơ ấu, suốt thời gian họ sống gần nhau, họ coi nhau như anh em, ngay khi tuổi đã hơi lớn và buộc phải sống xa nhau.

Giữa nhiều các môn học mà Marzavan học tập rèn luyện từ thuở niên thiếu, Chàng có xu hướng đi sâu vào khoa chiêm tinh tư pháp, khoa bói toán và nhiều môn khoa học huyền bí khác mà chàng tỏ ra rất có năng khiếu. Chưa vừa lòng với tất cả những gì đã học được ở các thầy, khi thấy đã có tương đối đủ sức để chịu đựng mệt mỏI đường trường, chàng bèn tổ chức những chuyến đi chu du khắp nơi để học hỏi. Không có một danh nhân nào ở bất cứ lĩnh vực khoa học nào, lĩnh vực nghệ thuật nào mà chàng không tìm đến để thụ giáo dù phải đi tới những tỉnh thành rất xa xôi hẻo lánh.

Sau rất nhiều năm vắng mặt, Marzavan cuối cùng trở về kinh đô Trung Quốc và những thủ cấp sắp hàng mà chàng nhìn thấy trên cổng thành làm chàng cực kỳ kinh ngạc. Khi về tới nhà chàng hỏi vì sao mà trên cổng thành lại treo nhiều thủ cấp và trên tất cả, chàng hỏi tin tức về công chúa, cô em cùng dòng sữa mà chàng không bao giờ quên. Vì người ta sẽ không làm cho chàng thoả mãn được nếu không gộp cả hai câu hỏi của chàng lại. Chàng chỉ biết được về đại thể những điều muốn biết trong khi chờ mẹ, bà vú nuôi của công chúa nói cho biết rõ ràng hơn.

Scheherazade ngừng lại ở đoạn này. Nàng kể tiếp câu chuyện vào đêm sau theo yêu cầu của hoàng Đế Ấn Độ.

***​


“- Tâu bệ hạ - Nàng nói - Tuy là bà vú nuôi, mẹ chàng Marzavan rất bận về việc chăm nom công chúa Trung Quốc nhưng cũng hay tin con trai thân yêu đã trở về. Bà cũng thu xếp được thời gian để về ôm hôn và chuyện trò với con một lát. Sau khi bà, nước mắt lưng tròng, kể cho con nghe tình trạng thảm thương của công chúa và nguyên nhận vì sao mà hoàng đế Trung Hoa trừng phạt nàng, Marzavan xin mẹ tạo cho chàng điều kiện bí mật đến thăm nàng không để nhà vua biết. Bà vú nuôi suy nghĩ một lát rồi bảo chàng:
- Mẹ chưa biết nói sao với con bây giờ. Nhưng chờ đến mai, cũng giờ này, có thế nào mẹ sẽ cho con biết.

Vì ngoài bà vú nuôi ra, không ai được tới gần công chúa nếu chưa được người chỉ huy hoạn nô canh gác cửa cho phép. Bà vú nuôi biết người này mới chỉ được phục vụ thời gian gần đây nên những việc xảy ra trong triều trước đây hắn ta không rõ. Vì vậy bà bảo hắn:
- Anh biết tôi là người đã nuôi nấng công chúa, nhưng chắc là chưa biết tôi đã cùng nuôi đứa con gái của tôi cũng cùng một tuổi chung với nàng. Tôi đã gả chồng cho nó cách đây chưa lâu. Công chúa vốn rất yêu thương em nó, rất muốn gặp em nhưng không muốn để cho ai biết lúc vào cũng như lúc ra.
Bà vú nuôi trình bày thêm nữa, nhưng người chỉ huy hoạn nô gạt đi:
- Thế là đủ rồi - Hắn bảo - Tôi sẽ làm tất cả những gì thuộc phạm vi quyền hạn của tôi có thể làm công chúa vui lòng. Hãy bảo con gái bà đến đi hoặc bà tự mình đem cô ấy tới đây vào chập tối nay và cho vào buồng công chúa lúc nhà vua đã trở lại hậu cung. Cửa sẽ để mở sẵn đấy.

Tối hôm đó, bà vú nuôi tìm con trai, cải trang cho Marzavan thành một phụ nữ thật khéo khiến không ai nhận ra đó là một người đàn ông. Bà cùng con đi tới toà tháp cổ. Viên hoạn nô không nghi ngờ gì cho đó là con gái bà, mở cửa và để cho hai người cùng vào.
Trước khi giới thiệu Marzavan, bà tới gần công chúa:
- Thưa công chúa - Bà bảo nàng- Đây không phải là một người phụ nữ mà là Marzavan con trai vú vừa đi chu du trở về mà vú tìm cách cho nó vào thăm công chúa dướI bộ quần áo này. Vú hy vọng là công chúa cho nó vinh dự được tỏ lòng kính trọng nàng.
Nghe tên Marzavan, công chúa vui mừng khôn xiết.

- Hãy lại gần đây, anh trai! Và hãy cất cái mạng che mặt đi! Không có luật nào cấm anh trai và em gái không được nhìn thẳng mặt nhau.
Marzavan cung kính chào, nàng không để chàng kịp nói, đã vội bảo:
- Tôi rất vui mừng thấy anh được hoàn toàn khoẻ mạnh sau bao năm vắng mặt chẳng có một lời báo tin về, ngay cả đối với mẹ hiền của anh.
- Thưa công chúa- Marzavan nói- Tôi vô cùng cảm ơn tấm lòng tốt của công chúa. Tôi chờ đợi ở công chúa khi về đây, những tin tức tốt lành hơn là những điều tôi đã được biết và chứng kiến với tất cả sự đau buồn có thể tưởng tượng được. Tôi cũng rất vui mừng đã về được sớm để đem lại cho nàng sự lành bệnh cần thiết, sau thất bại của bao nhiêu người khác. Nếu tôi không đạt được kết quả trong việc này, sau bao nhiều công phu nghiên cứu và đi đây đi đó học hỏi thì tôi không tự cho mình là được thưởng công xứng đáng.
Nói xong Marzavan lấy ra quyển sách và các vật dụng khác tưởng cần phải mang theo đựa vào những lời mẹ chàng nói về bệnh tình công chúa.
- Sao? Anh trai? - Nàng kêu lên khi thấy chàng lôi ra các thứ lỉnh kỉnh - Anh cũng tin như mọi người là tôi điên rồ ư? Chớ có nhầm và hãy nghe tôi nói đây.
Công chúa kể với Marzavan tất cả câu chuyện của nàng, không quên một chi tiết nào kể cả chuyện trao đổI nhẫn mà nàng chìa ra cho chàng thấy.

- Tôi không giấu anh một tí gì - Nàng nói thêm - về tất cả những chi tiết tôi vừa kể. Đúng là có một cái gì đó không sao hiểu nổi làm cho mọi người cứ tưởng là tôi mất trí, nhưng người ta lại không chú ý những điều còn lại như tôi đã kể.
Khi công chúa nói xong, Marzavan lòng đầy thán phục và ngạc nhiên, cúi đầu hồi lâu không nói gì. Cuối cùng chàng ngửng đầu lên cương quyết:
- Thưa công chúa - Chàng nói - Nếu tất cả những gì công chúa vừa kể là thật, mà tôi cũng tin như thế, nên tôi không thất vọng mà sẽ làm cho nàng được thoả nguyện. Chỉ xin nàng hãy cố gắng kiên nhẫn thêm một thời gian nữa, cho tới khi tôi đảo qua tất cả các quốc gia mà tôi chưa qua, và tới khi nàng được tin tôi trở về thì hãy tin chắc người mà nàng đang yêu say đắm không còn ở xa nàng nữa đâu.
Sau những lời này, Marzavan xin cáo biệt công chúa và lên đường ngay ngày hôm sau.

Marzavan đi từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, từ thành phố này sang thành phố khác, từ hải đảo gần đến hải đảo xa, ở đâu chàng cũng nghe người ta nói về nàng công chúa Badoure (đó là tên công chúa Trung Quốc) và chuyện của nàng.

Sau bốn tháng, chàng du khách của chúng ta tới Tarf, một thành phố ven biển, to rộng và rất đông dân mà ở đây họ không nói tới công chúa Badoure mà lại nói về hoàng tử Camaralzaman. Họ nói chàng đang ốm và kể chuyện của chàng nghe từa tựa như ehuyện của công chúa Badoure. Marzavan mừng rỡ không sao tả xiết. Chàng hỏi chàng hoàng tử đó ở chỗ nào trên trái đất này và được biết: tới chỗ chàng có hai đường thuỷ bộ và đường thuỷ là đường gần hơn nhiều.

Marzavan chọn con đường sau và đáp một thuyền buôn được xuôi chèo mát mái tới tận gần kinh đô đất nước của honng đế Schah zaman. Nhưng trước khi cập bến cảng, do sự vụng về của hoa tiêu, thuyền đụng vào đá ngầm chìm nghỉm. Lâu đài trong đó có hoàng tử Camaralzaman và quốc vương Schahzaman lúc đó đang chuyện trò cùng tể từớng của mình chẳng cách xa chỗ đắm thuyền là mấy.

Marzavan vốn rất giỏi bơi lội. Chẳng một phút luỡng lự chàng lao xuống nước và bơi xuống tận chân toà lâu đài của quốc vương Schahzaman, ở đây chàng được cứu hộ theo lệnh của tể tướng và ý của quốc vương. Chàng được thay quần áo ướt, được đối xử tử tế và khi đã thấy chàng hồi sức, chàng được dẫn tới trước tể tướng theo lệnh của ông.

Vì Marzavan là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, dáng điệu lễ độ nên được tể tướng tiếp đãi rất thịnh tình nhất là sau những câu hỏi han, chàng đáp lại thật thông minh chính xác. Tể tướng cảm nhận thấy kiến thức của chàng thật sâu rộng. Vì vậy ông nói:
- Nghe chàng nói, ta thấy chẳng phải là người thường. Cầu thượng đế ban ơn, trong những chuyến chu du thiên hạ, chàng có học được bí quyết gì để chữa cho một con bệnh đã làm cho cả triều đình này lo phiền rất lâu rồi không?
Marzavan đáp là nếu chàng biết căn bệnh của người bị ốm thì có thể tìm ra thuốc chữa.

Tể tướng bèn kể cho Marzavan bệnh trạng của hoàng tử Camaralzaman suốt từ đầu chí cuối. Ông cũng không giấu chút gì về xuất thân đáng được mong ước của hoàng tử, sự giáo dục của chàng và ý muốn của hoàng đế Schahzaman muốn chàng sớm kết thành gia thất, về sự bất kính của chàng giữa triều đình, về sự tống giam chàng và cả những việc làm rồ đại của chàng trong lúc bị giam cầm. Tất cả những cái đó đã biến chàng thành một kẻ si tình mê say mãnh liệt một cô nương vô danh có thể chẳng có ở trên đời này, ngoài căn cứ là một chiếc nhẫn mà hoàng tử khăng khăng cho là nhẫn của cô nương đó.
Nghe lời kể của tể tướng, Marzavan thấy vô cùng thích thú là trong cái rủi bị đắm thuyền lại gặp cái may là tới đúng cái nơi đang tìm. Không còn nghi ngờ gì nữa, chàng thấy hoàng tử Camaralzaman đúng là người mà công chúa Trung Hoa yêu mê mệt và chính công chúa lại chính là đối tượng mối tình nồng nhiệt của hoàng tử. Chàng không trình bày gì với tể tướng mà chỉ nói nếu được nhìn thấy hoàng tử thì sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn phương pháp để giúp chàng trị bệnh.
- Vậy thì hãy theo ta - Tể tướng bảo - Anh sẽ thấy nhà vua đang ở chỗ hoàng tử, Người cũng đang muấn gặp anh đó.

Đầu tiên đập vào mắt Marzavan lúc bước vào phòng hoàng tử là thấy chàng nằm thượt trên giường, đôi mắt nhắm nghiền. Marzavan quên cả việc có thể làm phiền hoàng đế Schahzaman đang ngồi cạnh con cũng như hoàng tử ốm yếu đã thảng thốt kêu lên:
- Trời đất ơi! Không có gì trên thế gian này lại có thể giống nhau hơn.
Ý chàng muốn nói là trông hoàng tử lúc này thật chẳng khác gì công chúa Trung Hoa. Đúng là hai người có những nét đặc biệt như đúc của nhau vậy.

Câu thốt ra trên đây của Marzavan làm cho hoàng tử Camaralzaman nảy trí tò mò, mở mắt ra nhìn chàng. Marzavan, đặc biệt thông minh, lợi dụng lúc đó đọc luôn mấy câu thơ chào mừng. Dù lời lẽ kín đáo, cả hoàng đế và tể tướng đều không hiểu, nhưng chàng tả rất khéo điều gì đã xảy ra cho công chúa Trung Hoa, là hoàng tử chẳng nên nghi ngờ việc chàng có biết công chúa và có thể cho hoàng tử biết tin tức về nàng. Thoạt nghe, hoàng tử đã lộ vẻ vui mừng trên nét mặt và nhất là trong đôi mắt của chàng.
Hoàng hậu Schehrazade không còn thời gian để kể thêm nữa đêm đó. Hoàng đế cho phép nàng được kể tiếp đêm sau.

***​


“- Tâu bệ hạ, khi Marzavan đọc xong những câu thơ khen tụng làm cho Calnaralzaman ngạc nhiên thích thú, hoàng tử liền lễ phép đưa tay ra hiệu cho nhà vua nhường chỗ ngồi cho Marzavan.
Nhà vua hân hoan thấy hoàng tử con trai mình có sự đổi thay đầy triển vọng, đứng lên, cầm lấy tay Marzavan và bắt chàng ngồi xuống chỗ mình vừa ngồi. Ông hỏi chàhg là ai, từ đâu đến và sau khi chàng cho nhà vua biết chàng là thần dân của hoàng đế Trung Quốc và từ đất nước của Người mà tới đây.

- Cầu xin Thượng đế - Ông bảo chàng - Phù hộ cho ngài cứu con trai ta ra khỏi cảnh sầu muộn sâu sắc này, ta sẽ vô cùng biết ơn ngài và sự đền ơn của ta sẽ hết sức huy hoàng, cả trái đất này sẽ phải thừa nhận là xưa nay chưa hề có một sự hậu thưởng nào như thế.
Marzavan rỉ tai hoàng tử Camaralzaman:
- Thưa hoàng tử, từ nay trở đi ngài sẽ không còn phảo bi lụy một cách thật thương tâm như vậy nữa. Cô nương đã làm ngài đau khổ đó là người tôi quen biết. Đó là công chúa Badoure, con gái hoàng đế Trung Quốc danh hiệu là Gaiour. Tôi có thể nói chắc chắn với ngài là chính nàng đã kể chuyện của nàng cho tôi nghe cũng như tôi vừa được nghe chuyện của ngài. Công chúa cũng ốm tương tư vì ngài cũng như ngài đang ốm tương tư vì công chúa.

Rồi Marzavan kể tất cả những gì chàng biết về công chúa cho hoàng tử nghe từ cái đêm định mệnh hai người gặp nhau một cách rất kỳ lạ. Chàng cũng không quên cung cách đối xử của hoàng đế Trung Quốc đối với những người bị thất bại trong mưu toan chữa bệnh cho nàng, cái bệnh được gọi là điên cuồng mất trí đó.
- Chỉ có duy nhất ngài - Chàng nói thêm - Là người có thể chữa cho nàng khỏi bệnh hoàn toàn và ngài chẳng sợ gì mà không ra mắt. Nhưng trước khi làm một chuyến đi dài ngày, ngài cần phải khoẻ mạnh đã rồi chúng ta sẽ ehuẩn bị những gì cần. Ngài phải luôn nghĩ tới việc phục hồi sức lực.
Lời Marzavan có một hiệu quả mãnh liệt. Hoàng tử Camaralzaman thấy được an ủi bội phần vì hy vọng vừa thâu nhận. Chàng thấy như đủ sức để ngồi dậy và đứng lên, Chàng xin nhà vua được mặc áo quần tề chỉnh với đáng vẻ tươi tỉnh làm vua mừng vui khôn xiết.

Nhà vua chỉ còn biết ôm lấy Marzavan mà cảm ơn, cũng không hỏi chàng làm cách nào để có được một hiệu quả đáng ngạc nhiên như vậy. Ông cùng với tể tửớng ra khỏi toà tháp cổ để bố cáo tin vui đó với toàn dân. Ông hạ lệnh cho tổ chức vui chơi trong nhiều ngày, ban thưởng cho quần thần và dân chúng, bố thí cho người nghèo và ân giảm cho các tù nhân. Trong kinh thành và tất cả các vùng đất đai vương quốc Schahzaman đều tưng bừng niềm vui và phấn khởi.
Hoàng tử Camaralzaman suy nhược vì bao đêm không ngủ và ăn uống thất thường đã phục hồi nhanh chóng. Khi chàng cảm thấy mình khá khoẻ có thể chịu đựng được nỗi mệt nhọc đường trường liền gọi riêng Marzavan ra bảo:
Bạn Marzavan thân mến? - Hoàng tử nói - Đã đến lúc thực hiện lời bạn đã hứa. Trong niềm mong được thấy lại nàng công chúa yêu kiều và để chấm dứt nỗl dằn vặt của nàng vì tôi, nếu chúng ta không lên đường ngay thì tôi cảm thấy nhất định lại rơi vào tình trạng mà bạn thấy trước đây. Có một điều làm tôi khổ tâm và có thể làm chuyến đi chậm trễ đó là lòng thương yêu thái quá của phụ vương tôi. Người chẳng bao giờ muốn cho phép tôi rời xa Người. Đó sẽ là một điều thật đau lòng cho tôi nếu bạn không tìm được cách nào khắc phục giúp. Bạn thấy đấy, Người chẳng rời mắt tôi phút nào.

Hoàng tử không ngăn nổi nước mắt khi dứt lời.
- Thưa hoàng tử - Marzavan nói- Tôi đã lường trước trở ngại to lớn đó, ngài cứ để tôi lo liệu. Ý đồ của tôi trong chuyến đi này là giúp công chúa khỏi hết bệnh tương tư, đó là vì tình bạn thân thiết của chúng tôi từ nhỏ, vì nhiệt tình và lòng thương yêu của tôi đối với công chúa hiện nay. Tôi sẽ chẳng làm tròn bổn phận nếu không đem hết khả năng của mình ra thi thố để nàng được an ủi đồng thời cũng là niềm an ủl của hoàng tử. Vậy đây là điều tôi dự định để vượt qua khó khăn được hoàng thượng cho phép như chúng ta mong mỏi. Từ ngày tôi tới đây, ngài như bị cấm cung. Hãy thưa với hoàng thượng là ngài muốn được ra bên ngoài cho thoáng khí và xin với Người được cùng với tôi làm một cuộc đi săn độ hai hoặc ba ngày, chắc hoàng thượng chẳng nỡ từ chối. Khi đã được người ưng thuận rồI thì ngài sẽ ra lệnh chuẩn bị cho mỗi người chúng ta hai con ngựa, một để cưỡi, một để thay đổi. Những việc còn lại, cứ để mặc tôi.

Ngày hôm sau, hoàng tử Camaralzaman lựa thời cơ thưa với vua cha ý muốn ra bên ngoài hóng gió mát và nếu Người thấy có thể được thì xin cho đi săn vài ba ngày cùng với Marzavan.
- Cha rất muốn - quốc vương bảo - nhưng với điều kiện là con không được ngủ ở ngoài quá một đêm. Mới ốm dậy mà hoạt động nhiều sẽ rất có hại cho sức khoẻ và sự vắng mặt lâu của con sẽ làm cho cha buồn đấy.
Nhà vua ra lệnh chọn cho chàng những con ngựa tốt nhất và tự mình chăm nom việc chuẩn bị để chàng không thiếu thứ gì. Khi mọi việc đã xong xuôi ông ôm hôn con, và dặn dò Marzavan phải chú ý chăm sóc hoàng tử rồi ông để cho chàng đi.

Hoàng tử Camaralzaman và Marzavan phóng về nông thôn và để đánh lừa hai tên giám mã dắt những con ngựa thay thế, họ làm như đi săn thật, càng đi xa thành phố càng tốt. Chập tối, họ dừng lại ở một quán trọ của khách lữ hành, ăn tối và ngủ cho đến nửa đêm. Marzavan thức giấc trước, đánh thức hoàng tử Camaralzaman dậy và không làm gì động đến hai tên giám mã. Chàng yêu cầu hoàng tử đưa cho mình bộ quần áo đang mặc và lấy bộ quần áo mà tên giám mã mang theo mặc thay vào. Họ lên ngưa và mỗi người dắt theo một con ngựa thay cùng với một ngựa của tên giám mã rồi cùng phóng nhanh.

Tang tảng sáng, hai kỵ sĩ tới một khu rừng và đến một ngã tư. Tới chỗ này, Marzavan bảo hoàng tử đợi chàng một lát và đi sâu vào trong rừng. Chàng chọc tiết con ngựa của tên giám mã, xé tan bộ áo quần của hoàng tử vừa cởi ra thấm vào máu ngựa rồi quay trở lại chỗ hoàng tử đang đợi, ném bộ quần áo bị xé rách và nhuốm đầy máu ra giữa ngã tư đường.
Hoàng tử Camaralzaman hỏi Marzavan thế là có ý gì, Marzavan đáp:
- Thưa hoàng tử, khi đức vua cha ngài chiều nay không thấy ngài trở về hoặc Người được bọn giám mã cho biết chúng ta đi trong lúc chúng còn đang ngủ thì nhất định là Người sẽ cho đuổi theo chúng ta. Bọn người nào đuổi theo hướng này sẽ thấy bộ quần áo của hoàng tử đầy máu, sẽ cho là hoàng tử đã bị thú dữ sát hại, còn tôi đã vì sợ tội mà trốn đi rồi. Nhà vua, theo lời tâu trình của họ, nghĩ là ngài không còn ở trên đời này nữa nên ngừng các cuộc tìm kiếm, thế là chúng ta có thể yên tâm tiếp tục cuộc hành trình không còn sợ rượt theo nữa. Việc đề phòng như thế quả là có phần quá mạnh mẽ, như một đòn trời giáng xuống người cha vốn thương yêu con rất mực sẽ tưởng là con mình đã bị chết thảm thương. Nhưng niềm vui của quốc vương cha ngài sẽ được nhân lên gấp bội khi được biết ngài vẫn sống mạnh khoẻ và được mãn nguyện.

- Bạn Marzavan? - Hoàng tử Camaralzaman nói - Bạn thật dũng cảm và mưu trí. Tôi chỉ còn biết hoan nghênh cái kế sách tài tình của bạn thôi. Thêm một lần nữa xin cảm ơn bạn.
Hoàng tử và Marzavan đã mang theo đi nhiều châu ngọc đủ chi tiêu dọc đường, tiếp tục chuyến đi qua sông qua núi, chỉ thấy có mỗi một trở ngại là mất rất nhiều thời gian vì non sông cách trở. Cuối cùng họ đã tới kinh đô Trung Quốc ở đó đáng lẽ Marzavan đưa hoàng tử về nhà mình thì lại dừng chân ở một nơi công cộng của những người ngoại quốc. Họ ở đấy ba ngày để xua tan mệt nhọc của những ngày đi đường và trong khoảng thời gian này, Marzavan cho may một chiếc áo của các nhà chiêm tinh để cải trang cho hoàng tử. Hết ba ngày nghỉ ngơi, họ cùng nhau đi tắm rửa và sau đó hoàng tử mặc áo nhà chiêm tinh vào rồi Marzavan dẫn hoàng tử đi thẳng tới hoàng cung còn chàng thì về báo cho mẹ mình, vú nuôi của công chúa Badoure, biết là chàng đã về để mẹ báo cho công chúa.

Đến đây hoàng hậu Scheherazađe ngừng lời vì thấy trời đã rạng. Đêm sau kể tiếp, nàng nói với hoàng đế Ấn Độ:

***​


“- Tâu hoàng thượng, hoàng tử Camaralzaman đã được Marzavan bảo cho biết phải làm gì rồi, và đã được trang bị các thứ phù hợp với một nhà chiêm tinh, với bộ quần áo như thế chàng tiến đến tận cổng hoàng cung của hoàng đế Trung Hoa, đứng lại và hô to trước mặt lính cấm vệ và lính canh cổng:
- Tôi là nhà chiêm tinh, đến đây để chữa bệnh cho công chúa Badoure đáng kính lệnh ái của đức vua Gaiour cao cả và hùng mạnh, quốc vương Trung Hoa, theo đúng điều kiện mà Người đã đề ra, tức là được lấy nàng nếu thành công hoặc mất đầu nếu thất bại.
Ngoài lính cấm vệ và lính gác cổng ra, tin mới lạ này trong phút chốc đã làm cho đám đông dân chúng tới quây quanh lấy hoàng tử Camaralzaman. Sở dĩ như vậy là vì đã rất lâu rồi chẳng có một thầy lang, một nhà chiêm tinh, một pháp sư nào dám trình diện từ sau bao nhiêu tấm gương bi thảm của những người đã thất bại trong việc chữa trị. Người ta tưởng chẳng còn ai ngu ngốc như họ nữa.

- Nhìn vào khuôn mặt khôi ngô của hoàng tử, dáng điệu cao quý, vẻ trẻ trung của chàng, nhiều người tỏ ra ái ngại:
- Ngài nghĩ gì vậy, thưa ngài - Những người đứng gần nhất hỏi chàng - Vì sao lại điên rồ, dấn thân vào một cái chết chắc chắn trong khi cuộc đời tràn đầy hi vọng tất đẹp? Những cái thủ cấp mà ngài nhìn thấy bầy trên các cổng thành không làm ngài kinh sợ sao? Nhân danh Thượng đế, xin ngài hãy từ bỏ cái ý đồ tuyệt vọng ấy và hãy rút lui đi.
Trước những lời can ngăn đó, hoàng tử Camaralzaman vẫn giữ vững, không hề, nao núng và khi thấy không có ai ra dẫn mình vào, chàng lại hô lên một lần nữa với giọng cả quyết làm tất cả mọi người run lên. Và họ kêu la: Hắn đã quyết chết, cầu xin Thượng đế rủ lòng thương cho sự trai trẻ và linh hồn hắn? Chàng trai hô lên lần thứ ba và cuối cùng thì tể tướng theo lệnh của hoàng đế Trung Quốc tới nắm lấy tay chàng.

Viên tể tướng dẫn chàng đến trước hoàng đế. Hoàng tử vừa thấy ông ngồi trên ngai đã vội quỳ xuông hôn mặt đất trước mặt ông. Trong tất cả những người bạo gan dám đem đầu mình tới đặt cược dưới chân mình, nhà vua chưa từng thấy một ai xứng đáng đế mình để mắt tới, lúc này cảm thấy thực sự thương hại đối với Camaralzaman đang dấn thân mình vào hiểm hoạ. Ông cho chàng được có vinh dự hơn mọi người, muốn chàng tới gần và ngồi xuống cạnh mình:
- Hỡi chàng trai trẻ? - Ông bảo chàng - Ta thật khó tin, ở cái tuổi của chàng mà đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm để dám nhận chữa trị cho con gái ta. Ta rất muốn chàng thành công. Ta sẽ gả công chúa cho chàng không những là không bực bội mà còn hết sức vui mừng, khác vớI sự miễn cưỡng bất đắc dĩ phải gả cho những người đến trước chàng nếu họ thành công. Nhưng ta đau lòng tuyên bố là nếu chàng thất bại thì mặc dù còn rất trẻ, mặc dù cái dáng dấp cao sang của chàng, các cái đó cũng không thể ngăn ta cho chặt đầu chàng.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử Camaralzaman nói - Tôi vô cùng biết ơn về những ân huệ mà Người ban cho và tấm lòng nhân hậu của Người đối với một người không quen biết. Tôi không phải đến từ một đất nước quá xa để dành tính của tôi có thể đất nước của Người không biết tôi, để không thực hiện ý định đã dẫn đắt tôi đến đây. Chẳng lẽ người ta lại không bàn tán về sự nông nổi của tôi nếu tôi từ bỏ cái ý đồ thật hào hiệp đó sau bao nhiêu mệt nhọc và hiểm nguy đã phải trải qua. Phải chăng chính bệ hạ cũng mất đi lòng yêu mến mà Người đã cảm nhận được từ con người tôi? Nếu phải chết, tâu bệ hạ, tôi sẽ chết với tấm lòng thanh thản không hối tiếc vì đã không làm mất đi lòng yêu mến đã từng được cho là xứng đáng. Vậy nên tôi cầu xin bệ hạ đừng bắt tôi phải nóng lòng chờ lâu hơn nữa trong việc chứng thực sự chính xác tài năng của mình bằng cuộc thử nghiệm mà tôi đã sẵn sàng tiến hành.
Hoàng đế Trung Hoa lệnh cho viên hoạn nô canh giữ công chúa Badoure, lúc đó có mặt, đưa hoàng tử Camaralzaman tới chỗ công chúa, con gái Người. Trước khi để chàng đi, nhà vua nói là chàng hãy còn được tự do để rút lui ý định của mình. Nhưng hoàng tử im lặng đi theo viên hoạn nô một cách cả quyết hay đúng hơn là bằng một sự hăng hái đáng ngạc nhiên.

Hoạn nô dẫn đường cho hoàng tử Camaralzaman đi, và khi tới một hành lang dài mà cuối hành lang là buồng công chúa, hoàng tử lúc đó thấy mình đang rất gần con người đã làm chàng chảy bao nhiêu nước mắt và không ngừng thở ngắn than dài từ bao lâu nay chàng bỗng rảo bước vượt lên trên viên hoạn nô. .
Viên hoạn nô cũng rảo bước theo nhưng khó mà đuổi kịp.
- Ngài đi đâu mà hấp tấp vậy? - Y nói và nắm cánh tay chàng giữ lại- Không có tôi thì ngài không vào được đâu. Chắc là ngài rất muốn chết nên mới chạy nhanh đến cái chết như vậy. Không một ai trong số bao nhiêu nhà chiêm tinh mà tôi thấy và dẫn tới đây trước ngài, lại tỏ ra vội vàng như thế.
- Anh bạn ạ - Hoàng tử Camaralzaman nhìn viên hoạn nô và vừa nói vừa bước chậm lại - Đó là vì tất cả những nhà chiêm tinh mà bạn nói đề đều không vững tin vảo tài năng của họ như tôi tuyệt đối tin tưởng ở mình. Họ biết chắc là họ sẽ mất mạng nếu không đạt được kết quả mà cơ hội thành công họ lại không có. Cũng vì vậy nên họ run sợ khi tới gần nơi mà tôi đang đi đến đây, nơi mà tôi chắc chắn là tìm lại được hạnh phúc.

Nói đến đây thì họ vừa tới cửa. Viên hoạn nô mở cửa và đưa hoàng tử vào một phòng rộng, ở đó đi vào phòng công chúa chỉ phải qua một bức mành che.
Trước khi vào phòng, hoàng tử Camaralzaman dừng lại và khẽ rỉ tai viên hoạn nô sợ công chúa ở bên trong có thể nghe được.
Để cho anh bạn thấy rõ - Chàng nói - Không có một chút gì là tự phụ kiêu căng, cũng không vì sự hăng hái nông nổi của tuổi trẻ mà ta cho anh chọn một trong hai cách: Anh muốn ta chữa bệnh cho công chúa trước mặt nàng, hay là ngay tại đây không cần đi thêm nữa và cũng chẳng cần nhìn thấy mặt nàng.
Viên hoạn nô cực kỳ ngạc nhiên về niềm tin chắc nịch của hoàng tử qua lời chàng nói vừa rồi. Y thôi không dám có thái độ coi thường chàng nữa mà nghiêm chỉnh bảo chàng:
- Ở trong đó hay là ngay đây thì có gì là quan trọng. Bằng cách nào thì có nghĩa gì đâu. Miễn là công chúa khỏi bệnh. Vinh quang của ngài sẽ bất tử không những ở triều đình này mà còn ở cả khắp mọi nơí có con người trên mặt đất này.

- Vậy thì tốt hơn hết - Hoàng tử tiếp .- Là ta sẽ chữa bệnh cho nàng mà chẳng cần nhìn thấy nàng để anh bạn được chứng kiến tài năng của ta. Cho là dù ta có nôn nóng tới đâu để được diện kiến một công chúa cao sang sẽ là vợ của ta chăng nữa thì cũng vì sự trọng thị một phần nào đối vớí anh mà ta cũng vui lòng gác lại niềm vui đó ít lâu.
Vì đã mang theo tất cả các thứ đã cần cho một nhà chiêm tinh, chàng lấy giấy bút ra và viết một lá thư nhỏ sau đây gửi công chúa Trung Hoa.
Thư của hoàng tử Camaralzaman gửi công chúa Trung Quôc
“Công chúa quý mến, hoàng tử Camaralzaman si tình chẳng muốn kể với nàng nỗi đau buồn khôn tả mà chàng phải chịu đựug từ cái đêm đinh mệnh mà vẻ yêu kiều của nàng đã làm cho chàng mất đi sự tự do mà chàng đã nguyện giữ suốt đời. Chàng chỉ muốn lưu ý nàng là kể từ đêm đó chàng đã dâng hiến trái tim của chàng cho giấc ngủ vô cùng quyến rũ của nàng, giấc ngủ không đúng lúc khỉến chàng chẳng được nhìn thấy vẻ long lanh của đôi mắt đẹp của nàng mặc dầu chàng đã gắng sức bắt chúng hé mở. Chàng lại còn dám cả gan trao nhẫn cho nàng làm bằng chứng của tình yêu và đổi lâý chiếc nhẫn của nàng mà chàng gõư lại kèm theo với thư này. Nêú nàng vui lòng cũng trả lại nhẫn cho chàng, coi đó là kỷ vật của tình yêu về phía nàng thì chàng sẽ cho mình là người hạnh phúc nhất trong tất cả các người đang yêu. Nêú không thì sự khước từ của nàng cũng không ngăn nổi chàng đón nhận một cái chết tức tưởi hơn là cái chết vì tình yêu đối với nàng. Chàng đang chờ câu trả lời của nàng ở phòng đợi.

Khi hoàng tử Camaralzaman viết xong những dòng trên, chàng làm thành một gói cùng với chiếc nhẫn của công chúa để bên trong không để cho viên hoạn nô thấy khi trao cái gói cho y, chàng bảo:
- Anh bạn? Anh hãy cầm cái gói này trao cho cô chủ của anh. Nếu nàng không khỏi bệnh ngay khi đọc xong lá thư này và không chạy ra tìm người chủ lá thư thì ta cho phép anh công bố ta là người tồi tệ nhất và trơ trẽn nhất trong tất cả các nhà chiêm tinh trước đây, hiện nay và cả sau này nữa.
Ánh sáng ban ngày mà Scheherazade nhìn rõ khi kể tới đây khiến nàng đứng lại. Nàng kể tiếp câu chuyện vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ:

***​


“- Tâu bệ hạ, viên hoạn nô đi vào buồng công chúa Trung Quốc và đưa cho nàng cái gói của hoàng tử Camaralzaman gửi.
- Thưa công chúa - Y nói - Một nhà chiêm tính táo bạo hơn tất cả các người trước vừa tới đây và cho rằng công chúa sẽ khỏi bệnh ngay sau khi đọc lá thư này và nhìn xem cái gì đó trong gói ấy. Mong rằng anh ta không phải kẻ đối trá hoặc lừa bịp.
Công chúa Badoure cầm lấy cái gói, mở lá thư một cách thờ ơ, nhưng khi nhìn thấy chiếc nhẫn của mình thì chẳng sao mà đọc cho hết được nữa. Nàng vội vàng đứng lên, làm đứt cả sợi dây xích trói chân, chạy đến bức mành gạt ra một bên, công chúa nhận ra ngay hoàng tử, hoàng tử cũng nhận ngay ra nàng. Họ chạy lại ôm chầm lấy nhau và không nói được lời nào vì vui mừng quá đỗi, họ nhìn vào mắt nhau rất lâu, thán phục ngỡ ngàng vì đã gặp lại sau cuộc gặp gỡ đầu tiên mà họ không sao hiểu nổi. Bà vú nuôi, cùng chạy ra với công chúa, đưa cả hai vào buồng, ở đó công chúa trả lại nhẫn cho hoàng tử:
- Chàng hãy cầm lại di - Nàng bảo - Em chẳng thể giữ nó lại mà không trả nó về cho chàng mà thực ra thì em muốn giữ nó suốt đời. Những chiếc nhẫn này không sao có thể tìm được những bàn tay nào thích hợp hơn.

Viên hoạn quan lúc đó chạy cấp tốc về tâu trình với hoàng đế Trung Quốc tất cả những gì vừa xảy ra.
- Tâu bệ hạ - Y nói - Tất cả những nhà chiêm tinh, những thầy lang và những người khác từ trước tới nay dám liều lĩnh xông vào chữa trị cho cững chúa đều là những kẻ ngu đần dốt nát. Người tới sau cùng này chẳng cần đến bùa chú, phù phép để tiêu trừ yêu ma, cũng chẳng cần phải đụng tới hương thơm hay các thứ khác. Ông ta đã chữa khỏi bệnh cho công chúa mà chẳng cần nhìn tớI người bệnh.
Viên hoạn nô kể lại tất cả cách thức đã làm của nhà chiêm tinh mới tới này, và nhà vua ngạc nhiên một cách thích thú, lập tức tới nơi ở của công chúa. Ông ôm hôn con gái, ôm hôn cả hoàng tử và cầm bàn tay chàng đặt vào bàn tay công chúa, ông nói với chàng:
- Hỡi người khách phương xa may mắn? Dù chàng là ai, ta cũng giữ lời hứa gả con gái ta cho chàng. Cứ nhìn chàng ta không sao có thể tin là một nhà chiêm tinh mà chàng cũng đang muốn cho ta tin như vậy.
Hoàng tử Camaralzaman cảm tạ nhà vua bằng những lời lẽ thật nhũn nhặn để tỏ rõ sự blết ơn của mình:
- Tâu hoàng thượng, về con người đúng là tôi không phải là nhà chiêm tinh như Người đã xét đoán. Tôi chỉ mang bộ quần áo này để thành công hơn trong việc đáng được nhận làm phò mã của một vị hoàng đế hùng mạnh nhất thiên hạ. Tôi vốn là hoàng tử, con của quốc vương và hoàng hậu, có tên là Camaralzaman. Cha tôi là Schahzaman trị vì đảo quốc khá nổi tiếng có tên là Nhũng Đứa Con Của Khaledan .
Rồi chàng kể chuyện của mình và cho hoàng đế biết xuất phát mối tình của chàng thật vô cùng kỳ lạ cũng như mối tình của công chúa vậy là điều này đã được chứng minh sự xác thực bằng hai chiếc nhẫn trao đổi giữa hai người.

Khi hoàng tử Camaralzaman dứt lời, nhà vua kêu lên thán phục:
Một câu chuyện thật kỳ lạ đáng lưu lại cho hậu thế. Ta sẽ ghi lại và sau khi đã lưu trữ bản chính vào văn khố quốc gia, ta sẽ cho công bố rộng rãi dể từ đất nước ta có thể lan truyền ra những quốc gia khác.
Hôn lễ được cử hành ngay trong ngày hôm đó, và những cuộc vui chơi long trọng được tổ chức trong toàn vương quốc Trung Hoa rộng lớn. Marzavan không bị quên. Hoàng đế Trung Hoa phong tước vị, đưa chàng vào triều và hứa hẹn sau này sẽ cân nhắc đưa lên những cương vị cao hơn.

Hoàng tử Camaralzaman và công chúa Badoure cực kỳ mãn nguyện, vui hưởng tuần trăng mật êm đềm và trong nhiều tháng, hoàng đế Trung Quốc không ngừng thể hiện niềm vui bằng lễ hội liên miên.
Giữa những ngày vui ấy, một đêm hoàng tử Camaralzaman chiêm bao thấy vua Schahzaman cha chàng nằm hấp hối trên giường thều thào nói: Người con trai ta đã sinh ra mà ta hết lòng yêu quý đã bỏ ta rồi và nó cũng chính là nguyên nhân cái chết của ta. Chàng tỉnh dậy và thốt tiếng thở dài làm công chúa cũng thức giấc. Công chúa Badoure hỏi vì sao chàng thở dài. Hoàng tử nói:
- Chao ôi! Có lẽ trong lúc ta nói đây thì quốc vương cha ta đã từ trần rồi.
Và chàng kể cho công chúa nghe nguyên nhân làm cho chàng băn khoăn sầu muộn. Nghe chàng nói, công chúa nảy ra một ý nhưng không cho chàng hay vì nàng luôn luôn muốn làm cho chàng vừa lòng. Biết được ý muốn của chàng là muốn về thăm cha và cũng vì nung nấu ý muốn đó nên cuộc sống với nàng ở chốn xa xôi này cũng bớt đi đôi phần vui thú. Cũng ngày hôm đó, lợi dụng thời cơ, công chúa đã tâu riêng với vua cha:
- Tâu phụ hoàng - Nàng hôn tay cha và nói – Con muốn xin Người ban ơn cho con một điều và cầu mong là không bị từ chối. Nhưng xin Người đừng cho rằng con xin điều này là do hoàng tử, chồng con khẩn khoản. Chàng không can dự gì vào đây cả, thưa cha. Điều con muốn Người ban cho đó là được phép cùng chồng con đi thăm quốc vương Schahzaman, cha chàng và là bố chồng của con.

- Con gái của cha - Nhà vua nói- Dù có buồn vì phải xa con, cha cũng không thể không tán thành quyết định đó. Con xử sự như thế là đúng, cho dù chuyến đi xa như vậy mệt mỏi nhiều. Con đi đi, cha đồng ý nhưng với điều kiện là con ở lại triều đình quốc vương không quá một năm. Chắc lậ nhà vua Schahzaman cũng muốn, như cha làm theo cách ấy nghĩa là lần lượt con trai và con dâu về thăm bố mẹ chồng rồi sau một năm con gái và con rể về thăm bố mẹ vợ.
Công chúa báo cho chồng biết là quốc vương Trung Quốc đã cho phép về thăm cha chàng. Hoàng tử vui mừng vô hạn và cảm ơn nàng về biểu hiện mới của tình yêu đối với chàng.
Hoàng đế Trung Quốc ra lệnh chuẩn bị cho chuyến đi của hai con và khi đã hoàn tất, ông lên đường cùng với họ, đi theo họ vài ba ngày. Cuộc tạm chia tay làm mất nhiều nước mắt ở cả hai phía. Nhà vua âu yếm hôn hai vợ chồng trẻ và sau khi khuyên hoàng tử hãy yêu thương mãi mãi công chúa, con ông cũng như ông yêu thương con gái rồi ông để cho họ tiếp tục cuộc hành trình còn ông thì vừa đi trở về kinh đô vừa lấy săn bắn làm vui.

Hoàng tử Camaralzaman và công chúa Badoure chỉ vừa lau khô nước mắt thì đã nghĩ đến niềm vui mà họ sẽ mang đến cho quốc vương Schahzaman. Trông thấy họ hẳn là nhà vua sẽ ôm hôn họ thật thắm thiết và hai người hẳn cũng sẽ vui mừng rộn rã.
Đi đường được khoảng một tháng, họ tới một bãi cỏ rộng, từng quãng từng quãng lại có những gốc cây lớn toả bóng mát thật dễ chịu. Ngày hôm đó lại oi bức nên hoàng tử Camaralzaman cho là rất đúng lúc nên hạ trại tạm nghỉ tại đây. Hỏi ý kiến công chúa Badoure, nàng đồng ý ngay vì chính nàng cũng đang muốn nói với chàng như thế. Mọi người xuống ngựa chon một nơi đẹp dựng lều. Công chúa đang ngồi nghỉ dưới bóng râm thấy lều đã dựng xong bèn đi vào, trong khi hoàng tử Camaralzaman còn đang bận ra lệnh cho bọn người hầu hoàn tất việc cắm tại. Trong lều, để cho thoải mái, công chúa cởi bỏ thắt lưng mà những cô người hầu cầm láy đặt bên cạnh nàng. Sau đó vì mỏi mệt nàng nằm xuống nghỉ, những người hầu để nàng một mình trong lều và đi ra ngoài.

Khi việc hạ trại được sắp xếp ổn định, hoàng tử Camaralzaman đi vào lều, thấy công chúa đang ngủ chàng lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh. Thấy chiếc thắt lưng của công chúa, chàng cầm lấy xem lần lượt ngắm nghía những viên kim cương, những viên hồng ngọc mà công chúa đính vào đấy, chàng lại thấy một cái,túi nhỏ bằng vải rất sạch, miệng túi buộc lại bằng một sợi dây. Chàng nắn nắn cái túi cảm thấy có vật gì đó răn rắn bên trong. Tò mò muốn biết đó là vật gì, chàng mở túi và lấy ra một mảnh mã não trên đó có khắc nhũng hình tượng và chữ viết chàng không đọc được Chàng nghĩ thầm: Tấm mã não này hẳn là quý lắm đây, nếu không thì sao mà công chúa của ta lại phải đeo luôn bên mình sợ mất.
Quả vậy, đó là một tấm bùa mà hoàng hậu tặng cho công chúa con gái để bà cho nàng được hạnh phúc, theo bà, chừng nào nàng luôn mang theo nó trong người.
Để xem cho rõ tấm bùa đó, hoàng tử Camaralzaman đi ra ngoài lều, vì bên trong rất tối. Chàng để tấm bùa vào giữa bàn tay giơ ra ánh sáng, bất ngờ một com chim ở đâu bay xà tới, cắp tấm bùa bay đi.
Trời đã hửng sáng khi Scheherzade kể tới đây. Nàng ngừng lại và đêm sau kể tiếp vẫn chuyện này. Nàng nói với hoàng đế Schahriar:

***​


- Tâu bệ hạ, Người có thể thấy được sự kinh ngạc và đau khổ của Camaralzaman mà thiếp cũng khó mà diễn tả được khi bị con chim cướp mất cái bùa trong tay. Trước chuyện xảy ra rất đáng buồn không thể tưởng tượng được chỉ vì cái tính tò mò không phải chỗ làm cho công chúa mất đi một vật báu, chàng lặng người đi mất một lúc.
(Còn tiếp...)
 
Chương 22

SỰ CHIA LY GIỮA HOÀNG TỬ CAMARALZAMAN VỚI CÔNG CHÚA BADOURE

Con chim, sau hành động ăn cướp đó, đậu xuống một mô đất cách đấy không xa, mỏ vẫn ngậm cái bùa. Hoàng tử bước tới hy vọng là nó sẽ nhả cái bùa ra, nhưng khi chàng đến gần, con chim lại cất cánh bay một quãng ngắn rồi lại đậu xuống đất lần hai. Chàng tiếp tục đuổi theo. Con chim sau khi nuốt chửng tấm bùa, bay đi xa hơn.

Hoàng tử vốn rất khéo tay, hy vọng là sẽ ném đá giết chết nó nên vẫn cứ đuổi theo. Con chim càng bay xa, chàng càng cố sức ra công đuổi không để hút tầm mắt. Từ thung lũng lên đồi rồi lại từ đồi xuống thung lũng, con chim lôi hoàng tử Camaralzaman đi suốt ngày, mỗi lúc một xa bãi cỏ dựng lều và công Chúa Badoure. Đến chiều tối đáng lẽ nó chui vào một bụi rậm thì Camaralzaman có thể nhờ bóng tối có thể tóm được thì nó lại đậu tít trên một cành cây cao, ở đó nó thật an toàn. Hoàng tử thất vọng vì đã bỏ ra biết bao công sức hoàn toàn vô ích nghĩ có nên quay lại chỗ hạ trại không. Nhưng - Chàng thầm nghĩ - Quay về lối nào đây? Trèo lên, tụt xuống hết thung lũng này rồi lại đồi cao nọ, trong bóng đêm này liệu có khỏi đi lạc và sức khoẻ ta có cho phép không? Và nếu tìm được đường về thì liệu ta có dám chường mặt ra trước công chúa mà không mang được về cho nàng chiếc bùa đó không? Chìm đắm trong những ý nghĩ nặng nề đó, và rã rời vì mệt mỏi, vì đói, vì khát, vì buồn ngủ, chàng nằm xuống và ngủ qua đêm dưới gốc cây.

Sáng hôm sau, Camaralzaman thức dậy trước lúc con chim rời cái cây. Vừa trông thấy nó cất cánh, chàng quan sát và rượt theo nó suốt cả ngày và cũng chẳng có kết quả gì hơn ngày hôm trước. Sống bằng quả cây và cỏ dại hái bên đường và cứ đuổi theo con chim như thế từ sáng đến tối và đêm thì ngủ bên gốc cây trên đó con chim đậu, cho đến ngày thứ mười.
Đến ngày thứ mười một con chim vẫn bay. Camaralzaman không ngừng quan sát và bám theo cho đến lúc tới một thành phố lớn. Khi con chim đến gần một bức tường, nó bay lên cao và vụt qua tường sang phía bên kia mất hút. Camaralzaman hết hy vọng tìm được lại nó và chẳng còn bao giờ mong lấy lại được tấm bùa mã não về cho công chúa Badoure.

Buồn nản vì bao nhiêu điều không sao tả xiết, hoàng tử Camaralzaman đi vào thành phố. Thành phố này được xây dựng trên bờ biển và có một bến cảng rất đẹp. Chàng lang thang trên các đường phố chẳng biết đi đâu, đừng lại đâu thì chợt đã tới bến cảng. Hãy còn đang không biết làm , gì bây giờ, chàng đi dọc theo bờ biển tới cổng một khu vườn để ngỏ. Chàng bước vào cất tiếng chào một ông già đang mải cuốc xới, ngẩng đầu lên, thoạt nhìn, ông đã thấy đó là một người khách lạ, theo đạo Hồi nên vội mời chàng vào trong và đóng cửa vườn lại.
Camaralzaman hỏi ông vì sao lại phải cẩn thận như vậỳ, ông già đáp:
- Vì tôi thấy anh là một người lạ mới tới đây lại là người Hồi giáo mà ở thành phố này đại đa số dân cư thờ cúng tà thần. Họ ghét cay ghét đắng những tín đồ Hồi giáo và đối xử rất tồi tệ với số ít chúng tôi theo đạo của đấng tiên tri của chúng ta. Chắc là anh không biết điều đó, nên thật là hết sức may mắn mà anh đã tới được tận đây mà không có một sự đụng độ xấu nào. Quả vậy, chúng theo dõì sát những người theo đạo Hồi ở xa tới, chưa thể biết hết những hành vi độc ác của chúng, để đưa họ vào một cái bẫy nào đó. Ca ngợi Thượng đế là đã đưa arth tới một nơi đảm bảo.

Camaralzaman cám ơn rất nhiều ông già tốt bụng đã hào hiệp cho chàng một chỗ ẩn náu để tránh mọi sự nhục mạ. Anh muốn nói thêm nữa nhưng ông già làm vườn vội bảo:
- Hãy để những lời khen tặng đó lại? anh còn đói mệt, cần phải ăn uống nghỉ ngơi đã.
Ông đưa anh vào ngôi nhà nhỏ của ông và sau khi đã ăn uống đầy đủ các món ăn mà ông già đưa cho anh một cách thân tình làm anh cảm động, ông già mới yêu cầu anh cho biết lý do việc anh đến đây.
Camaralzaman thoả mãn ý muốn của ông và khi đã kể hết chuyện của mình không hề giấu giếm một tí gì, anh hỏi ông đường trở về vương quốc của cha. anh vì, anh nói thêm:
- Nếu tính đến chuyện gặp lại công chúa thì biết tin nàng ở đâu sau mười một ngày xa cách nhau vì một sự cố thật lạ lùng? Không biết là nàng có sống hay không nữa?
Nói tới đây, chàng không sao cầm được nước mắt.

Để trả lời cho câu hỏi của Camaralzaman, ông già làm vườn bảo chàng là từ thành phố này ra đi thì phải mất tròn một năm trời mới tới được những xứ sở mà ở đó chỉ có toàn những tín đồ Hồi giáo được chăn dắt bởi những quốc vương đồng đạo. Nhưng nếu theo đường thuỷ đi tới đảo Gỗ Mun thì mất ít thời gian hơn rất nhiều và từ đó đi sang đảo Những Đứa Con Của Khalédan thì lại vô cùng dễ dàng. Hàng năm đều có một tàu buôn nhổ neo đi tới đảo Gỗ Mun và chàng có thể đáp tàu này để từ đó mà về đảo Những Đứa Con Của Khalédan. Ông nói thêm:
Nếu anh tới đây sớm hơn vài ba ngày thì đã có thể lên tàu hằng năm đi đảo Gỗ Mun rồi. Trong thời gian chờ đợi lên chuyến tàu sau, nếu anh đồng ý ở lại thì tôi rất vui lòng nhường căn nhà nhỏ này cho anh ở tạm.

Hoàng tử Camaralzaman thấy rất hài lòng tìm được chỗ ẩn trú ở một nơi không một người quen biết, trong tay không có một chút gì. Chàng nhận lời ở cùng với ông già làm vườn. Trong thời gian chờ đợi chuyến tàu buôn sau đi tới đảo Gỗ Mun, ban ngày chàng làm vườn, còn ban đêm, không có gì ngăn chàng không được nghĩ tới công chúa Badoure thương yêu của mình. Chàng qua đêm bằng những tiếng thở dài, bằng sự tiếc nuối và bằng nước mắt.

Nhưng chúng ta hãy để hoàng tử Camaralzaman tại đây để quay về với công chúa Badoure mà chúng ta đã để nàng nằm ngủ trong lều.
(Còn tiếp...)
 
Chương 23

CÔNG CHÚA BADOURE SAU KHI XA CÁCH VỚI HOÀNG TỬ CAMARALZAMAN

Công chúa nằm ngủ khá lâu và khi thức dậy, nàng rất ngạc nhiên vì không thấy hoàng tử ở bên mình. Nàng gọi người hầu và hỏi họ xem chàng ở đâu. Trong khi bọn chúng nói với nàng là có thấy chàng vào trong lều nhưng đi ra lúc nào thì không biết, nàng với tay cầm lấy chiếc thắt lưng của mình, thì thấy cái túi vải nhỏ bị mở ra và tấm bùa thì không còn ở trong đó. Nàng không tin là Camaralzaman lấy ra xem mà lại không mang trả lại nàng. Nàng chờ mãi tới buổi chiều lòng nóng như lửa đốt và không hiểu cái gì đã buộc chàng phải xa nàng lâu như vậy. Mãi tới tối mịt cũng không thấy chàng về, nàng lo buồn không sao tả xiết. Nàng nguyền rủa không biết bao nhiêu lần tấm bùa và kẻ làm ra nó. Nếu không vì lòng kính trọng ngăn giữ thì nàng còn lầm bầm trách oán cả hoàng hậu mẹ nàng đã cho nàng một tặng vật tai hại. Tuy hết sức buồn bực vì chuyện xảy ra và nhất là không hiểu do đâu mà tấm bùa lại có thể là nguyên nhân làm cho hoàng tử xa cách nàng. Nhưng vẫn tỉnh táo trong nhận định, nàng đi đến một quyết định dũng cảm, ít có đối với những người cùng giới.

Chỉ có công chúa và những người hẩu trong trại biết chuyện Camaralzaman mất tích vì lúc đó tất cả những người khác đều đã vào trong các lều để ngủ hoặc nghỉ ngơi. Vì nàng sợ chúng có thể đem lòng phản bội khi biết rõ chuyện xảy ra, trước hết nàng kiềm chế bớt nỗi đau của mình và cấm tất cả các nữ tì là không được nói hoặc làm gì để gây sự nghi ngờ cho mọi người khác. Rồi nàng cởi bỏ y phục của mình, mặc vào bộ của Camaralzaman. Nàng giống chàng kỳ lạ nên sáng hôm sau, khi bọn tuỳ tùng thấy chàng xuất hiện ra lệnh cho chúng hạ lều gấp gọn hành lý để lên đường thì chúng tưởng chính là hoàng tử Camaralzaman. Khi tất cả đã sẵn sàng, nàng cho một trong các cô hầu nằm vào giường cáng, còn nàng thì lên ngựa và cuộc hành trình bắt đầu.

Sau nhiều tháng rong ruổi trên bộ, trên biển, công chúa điều hành chuyến đi dưới cái tên hoàng tử Camaralzaman. Để đến đảo Những Đứa Con Của Khalédan nàng đã phải tạt vào kinh đô của đảo Gỗ Mun mà quốc vương trị vì lúc đó là Armanos. Những người tuỳ tùng đầu tiên lên bộ để kiếm nhà trọ đã nói cho nhiều người biết là tàu chở hoàng tử Camaral-zaman từ một chuyến du lịch dài ngày trở về, vì thời tiết xấu buộc phải lưu lại. Tiếng đồn chẳng mấy chốc đã lan tới tận hoàng cung.
Nhà vua Armanos với phần lớn các triều thần bèn tới trước công chúa và gặp nàng vừa lên bờ để tới nơi nghỉ trọ đã được giữ lại cho nàng. Nhà vua đón tiếp nàng như một quốc vương nước bạn mà từ xưa tới nay vẫn sống hữu hảo. Ông đưa nàng về hoàng cung, sắp xếp chỗ ở cho nàng và cho cả đoàn người tuỳ tùng, nhất định không chịu nghe những lời nàng khẩn khoản cho được ở nơi quán trọ. Nhà vua lại chiêu đãi nàng rất linh đình suốt ba ngày, trong những bữa tiệc thật huy hoàng thịnh soạn.

Khi ba ngày đã trôi qua, vì nhà vua Armanos vẫn tưởng công chúa là hoàng tử Camaralzaman, ông thật thán phục thấy một hoàng tử khôi ngô tuấn tú, dáng điệu hoà nhã và rất thông minh nên khi nàng nói đến chuyện trở lại tàu tiếp tục cuộc hành trình thì ông gọi riêng ra nói:
- Hoàng tử ạ - Ông bảo công chúa - Ta thì tuổi đã cao như chàng thấy đó, ít có hi vọng là có thể sống lâu hơn nữa. Ta có một nỗi buồn là không có con trai để nối ngôi báu. Ông trời chỉ cho ta duy nhất một mụn con gái cũng có chút nhan sắc có thể xứng đôi vừa lứa được với chàng, một hoàng tử xuất thân quyền quý và hoàn hảo về mọi mặt. Thay vì cho việc trở lạl quê hương, chàng hãy nhận lấy con gái ta từ tay ta trao cho chàng cùng với ngôi báu mà ta sẵn sàng thoái vị ngay lúc này nhường cho chàng. Hãy ở lại đây với chúng ta. Đã đến lúc ta cần tìm đến sự nghỉ ngơi yên tĩnh sau bao nhiêu năm gánh vác công việc quốc gia và ta có thể yên tâm khi thấy đất nước mình được một người kế vị xứng đáng trị vì.
Hoàng hậu Scheherazade muốn kể tiếp nhưng ánh sáng ban ngày chiếu rọi đã ngăn nàng lại. Đêm sau, nàng kể tiếp cũng chuyện đó và nói với hoàng Đế Ấn Độ:

***​


- Tâu bệ hạ, lòng hào hiệp của quốc vương đảo Gỗ Mun muốn gả cô con gái độc nhất của mình cho công chúa Badoure thì làm sao mà nàng nhận được vì mình cũng là gái, và lại còn muốn nhường ngôi cho nàng đưa nàng vào một tình thế thật khó xử mà nàng không chờ đợi. Nói thật là nàng không phải là hoàng tử Camaralzaman mà là vợ của chàng thì thật đáng xấu hổ cho một công chúa đã làm cái trò lừa bịp tự nhận mình là hoàng tử và đã đóng vai này rất đạt cho tới lúc này. Nếu từ chối thì lại lại lo sợ là, nhà vua quá thiết tha cho cuộc hôn nhân của con gái, sẽ khiến cho nàng có thể nguy hiểm tới tính mạng. Hơn nữa, không biết là nàng có gặp lại được hoàng tử Camaralzaman nơi quốc vương Schahzaman cha chàng hay không.

Cân nhắc như vậy cộng với ý muốn tạo lập cho hoàng tử chồng mình một giang sơn riêng trong trường hợp tìm lại được nhau đã khiến công chúa quyết định nhận lời đề nghị của quốc vương Armanos. Vì vậy sau một hồi im lặng, với một sắc hồng hồng trên vẻ mặt mà nhà vua cho là đức tính khiêm nhường, nàng thưa:
- Tâu bệ hạ, tôi vô cùng biết ơn Người đã có những lời nói tết đẹp về bản thân tôi, đã ban cho vinh dự và sự ưu ái lớn, quá với sự xứng đáng mà tôi chẳng dám chối từ. Nhưng tâu bệ hạ nàng thêm tôi sẽ chỉ nhận sự liên kết vĩ đại này với điều kiện là được Người khuyên bảo trong tất cả mọi việc và tôi sẽ không làm bất cứ một điều gì mà không được Người chấp thuận trước.
Cuộc hôn nhân được sắp xếp và thoả thuận như vậy, hôn lễ được lui vào hôm sau và công Chúa Badoure tranh thủ thời gian đó để thông báo với những quan chức tuỳ tùng của mình, vẫn tưởng nàng là hoàng tử Camaralzaman, biết rõ sự tình để họ khỏi có sự ngỡ ngàng và đồng thời nàng cũng bảo với họ là việc này cũng đã được sự đồng ý của công chúa Badoure. Nàng cũng nói như thế với các nữ tì của mình và bảo chúng vẫn phải tiếp tục giữ kín.

Quốc vương đảo Gỗ Mun, vui mừng vì có đưởc một phò mã ưng ý, đã cho thiết triều ngay hôm sau để tuyên bố công chúa con gái ông kết hôn với hoàng tử Camarạlzaman mà ông đã dẫn theo và cho ngồi bên cạnh mình. Rồi ông tuyên bố truyền ngôi báu cho chàng, phủ dụ triều thần tuân phục vua mới và dâng lời chúc tụng. Nói xong ông bước xuống, dắt công chúa Badoure ngồi lên ngai vàng thay ông. Công chúa an toạ và nhận lời thề trung thành cùng những lời chúc tụng của các đại thần có thế lực nhất của quốc đảo Gỗ Mun có mặt tại triều đình lúc đó.
Sau buổi thiết triều, tin vua mới đăng quang được long trọng bố cáo toàn thành phố. Những cuộc vui chơi được tổ chức nhiều ngày trong toàn vương quốc để khắp nơi cùng mở hội hè biểu thị sự mừng vui cùng một lúc với kinh thành.
Buổi chiều, tất cả hoàng cung tưng bừng dạ hội, công chúa Haiatalnefous (đó là tên công chúa quốc đảo Gỗ Mun) được dẫn đến với công chúa Badoure mà tất cả mọi ngườI đều vẫn tưởng là một đấng nam nhi trong một đám rước thực sự là vương giả. Nghi lễ kết thúc, họ để lại hai người với nhau và hai nàng đi ngủ.
Sáng hôm sau, trong lúc công chúa Badoure đang nhận lời chúc tụng tại triều đình của tất cả triều thần về cuộc hôn nhân và về việc đăng quang của mình thì quốc vương Armanos và hoàng hậu tới hậu cung thăm tân hoàng hậu, con gái của họ và hỏi xem đêm tân hôn của nàng có vui vẻ không. Thay vì đáp lại câu hỏi của phụ hoàng và mẫu hậu, nàng cứ nhìn xuống và nét buồn hiện trên vẻ mặt cho biết khá rõ là nàng chẳng được hài lòng.

Để an ủi công chúa Haiatalnefous, vua Armanos bảo nàng:
- Con chẳng nên buồn vì điều đó. Hoàng tử Camaralzaman khi ghé đây chỉ nghĩ tới về càng sớm càng hay với phụ hoàng của chàng là Schahzaman. Dù rằng chúng ta giữ chàng lại một điểm có thể làm cho chàng thoả lòng mãn ý đấy, nhưng ít ra chúng ta phải thấy là chàng có một tiếc nuối lớn lao là bỗng chốc mất đi hi vọng được thấy lại cả cha chàng, cả những người thân trong gia đình. Con hãy an lòng chờ cho đến lúc những tình cảm yêu thương của tình phụ tử dần dần lắng bớt đi thì chắc là chàng sẽ đối xử với con đúng như một người chồng tốt.
Công chúa Badoure, dưới cái tên Camaralzaman và quốc vương đảo quốc Gỗ Mun không những cả ngày bận rộn với những lời chúc tụng của triều thần mà còn phải đi duyệt quân đội và các quan chức khác của hoàng tử với vẻ đàng hoàng chững chạc đầy tài năng khiến cho tất cả những ai được chứng kiến đều phải ngưỡng mộ và hoan nghênh.
Đến tối nàng mới trở về cung thất của hoàng hậu Haiatalnefous, thấy vẻ miễn cưỡng tiếp đón của công chúa, nàng nhớ lại đêm hôm trước. Nàng cố gắng xua tan nỗI buồn đó của công chúa bằng một cuộc chuyện trò kéo dài với nàng, trong đó, nàng vận dụng hết trí thông minh mà nàng có thừa để khẳng định là rất yêu nàng. Rồi cuối cùng nàng nói cho công chúa đi ngủ, và trong lúc đó thì nàng cầu nguyện, nhưng cầu nguyện lâu đến nỗi công chúa Haiatalnefous chờ không được, ngủ trước mất. Lúc đó nàng mới ngừng cầu nguyện và khẽ nằm xuống cạnh không để nàng bị thức giấc, buồn rầu vì phải đóng một vai trò không thích hợp chẳng kém nỗi buồn đã để mất chàng Camaralzaman vô vàn yêu thương đến mức không ngừng thở vắn than dài. Nàng trở dậy từ tờ mờ sáng, trước khi Haiatalnefous thức giấc, mặc triều phục bước ra điện thiết triều.

Quốc vương không quên lại đến thăm hoàng hậu con gái mình ngày hôm đó. Ông thấy nàng đầm đìa nước mắt. Nhà vua nhanh chóng hiểu nguyên nhân của nỗi buồn khổ đó. Bất bình về sự khinh khi đối với con gái mình, ông cho là như vậy, mà ông cũng không rõ nguyên nhân, ông bảo nàng:
- Con gái của cha, hãy kiên nhẫn cho đến đêm sau nữa, cha biết đưa chồng con lên ngôi báu thì cha cũng biết hạ bệ và tống cổ nó đi nếu nó không làm tròn bổn phận của một người chồng. Trong cơn bực bội thấy con bị đốl xê không xứng đáng như vậy cha cũng không biết là mình đã bằng lòng với một sự trừng phạt nhẹ nhàng như thế chưa. Không phải là với con, mà chính là với bản thân cha đây, nó đã làm một sự mạo phạm ghê gớm.
Cũng ngày hôm đó, công chúa Badoure về với nàng Haiatalnefous rất muộn. Cũng như đêm trước, Badoure chuyện trò một lát với Haiatalnefous và lại muốn đi cầu nguyện trong khi Haiatalnefous nằm ngủ. Nhưng Haiatalnefous giữ lại và bắt nàng ngồi xuống.
- Sao! - Nàng bảo Badoure - Theo như em thấy thì chàng định lại xử sự với em như hai đêm trước phảI không? Chàng hãy nói đi, em van chàng, em đã làm gì để chàng không được hài lòng, một công chúa như em chắng những yêu mà còn tôn thờ chàng. Em tự cho mình là một công chúa hạnh phúc nhất trong các công chúa ngang hàng, được có một chàng hoàng tử đáng yêu như chàng làm chồng. Một người khác, em không nói là bị xúc phạm, mà ìà bị nhục mạ ở cái điểm rất nhạy cảm đó, hẳn là đã tìm cơ hội tất để trả thù, cho chàng phải chịu đựng số phận hẩm hiu. Nhưng dù em có không yêu chàng tới mức như hiện nay em yêu, thì bản tính tốt và dễ xúc động trước bất hạnh của những người chẳng liên quan gì tới mình cũng không cho phép em không báo trước cho chàng hay là phụ vương em vô cùng giận dữ về cách thức xử sự của chàng. Người chỉ chờ đến ngày mai là trút lên đầu chàng cơn thịnh nộ cần phảỉ có nếu chàng cứ tiếp tục như thế. Xin chàng hãy suy nghĩ để đừng đưa một công chúa như em đây phải lâm vào tình trạng tuyệt vọng, một công chúa không sao có thể tự ngăn mình lại là không yêu chàng.

Những lời trên đây làm công chúa Badoure vô cùng bối rối. Nàng không một chút nghi ngờ sự thành thực của Haiatalnefous. Thái độ lạnh nhạt của quốc vương Armanos hôm đó đối với nàng đã nói lên rất rõ sự bất như ý của Người. Cách duy nhất để biện minh tư cách của nàng là tâm sự cùng Halatalnefous nói rõ giới tính của mình. Mặc dù đã dự kiến sớm hay muộn cũng bắt buộc phải nói ra điều này, nhưng rồi đây công chúa sẽ đánh giá ra sao, tốt hay xấu, nàng lại thấy run sợ. Khi nàng đã cân nhắc kỹ, trường hợp mà hoàng tử Camaralzaman còn sống thì thể nào cũng phải tới đảo Gỗ Mun trước khi về vương quốc của nhà vua Schahzaman, nàng phải tụ giữ mình nguyên vẹn cho chàng. Nàng chỉ có thể làm được việc đó bằng cách nói thật tất cả sự tình với công chúa Haiatalnefous mà thôi. Và nàng đánh liều đi theo con đường đó.
Vì công chúa còn đang mải suy nghĩ chưa nói gì cả, Haiatalnefous sốt ruột vừa định nói nữa thì Badouré ngăn lại:
- Thưa công chúa đáng yêu và vô cùng xinh đẹp - nàng nói - Xin thú thực là tôi đã sai và tôi phải tự lên án mình, nhưng hi vọng là nàng sẽ tha thứ và hãy giữ kín cho về chuyện tôi sẽ tiết lộ với nàng để thanh minh về thái độ của mình.
Cùng lúc, công chúa Badoure mở ngực áo:
Công chúa hãy trông đây - Nàng nói tiếp - Nếu một công chúa, cũng là đàn bà như nàng mà không xứng đáng được nàng tha thứ thì sẽ ra sao đây? Tôi chắc chắn là nàng sẽ vui lòng làm việc đó sau khi nghe hết câu chuyện của tôi và nhất là thấy được sự rủi ro hết sức phiền não đã bắt buộc tôi phải sắm vai mà nàng thấy đó.

Khi công chúa Badoure đã kể cho công chúa quốc đảo Gỗ Mun nghe hết cả tình tiết câu chuyện của mình và một lần nữa xin nàng giữ kín và làm như Badoure đích thực là một người chồng biết giữ và làm tròn bổn phận của mình cho đến ngày trở về của hoàng tử Camaralzaman mà nàng hi vọng là sớm được gặp lại.
- Công chúa ạ - Công chúa quốc đảo Gỗ Mun nói - Đúng là số mệnh thật kỳ lạ. Một cuộc hôn nhân tuyệt vời như thế mà sao lại ngắn ngủi, sau một cuộc tình đầy chuyện thần kỳ! Tôi chúc chị là ông trời sẽ sớm cho hai người sum họp. Chị hãy tin là tôi sẽ giữ kín một cách cẩn trọng điều bí mật chị trao. Tôi sẽ có một niềm vui lớn nhất thế gian vì là người duy nhất được biết chị là ai trong một vương quốc rộng lớn của đảo Gỗ Mun này, trong khi chị trị vì cũng xuất sắc như lúc khởi đầu. Tôi đã đòi ở chị tình yêu, và lúc này thì tôi có thể tuyên bố mình là người hài lòng nhất thế gian nếu được chị hạ cố ban cho tình bạn của chị.
Sau những câu nói đó, hai nàng công chúa ôm lấy nhau vô cùng âu yếm và sau hàng nghìn biểu hiện tình cảm bạn bè qua lại, họ cùng nhau đi ngủ. Theo phong tục của xứ sở thì dấu hiệu của một cuộc hôn nhân vui vẻ phải được bày tỏ công khai. Hai nàng công chúa đã tìm cách vượt qua được thử thách đó. Vì vậy những nữ tì hầu cận của công chúa Haiatalnefous cũng bị lừa vào sáng hôm sau, kể cả vua Armanos, hoàng hậu và toàn thể triều thần. Cứ như thế, công chúa Badoure tiếp tục trị vì yên ổn với sự hài lòng của nhà vua và toàn vương quốc

Hoàng hậu scheherazade đêm nay không kể thêm nữa vì mặt trời đã nhô lên. Nàng kể tiếp vào đêm sau và nói với hoàng Đế Ấn Độ thế này:
(Còn tiếp...)
 
Chương 24

HOÀNG TỬ CAMARALZAMAN TỪ NGÀY XA CÁCH CÔNG CHÚA BADOURE

“- Tâu bệ hạ, trong lúc ở quốc đảo Gỗ Mun, sự thể giữa công chúa Badoure, công chúa Haiatalnefous và quốc vương Armanos cùng với hoàng hậu, triều đình và các thần dân của vương quốc trong tình trạng như thế thì hoàng tử Camaralzaman vẫn sống ở thành phố của những người theo tà đạo, tại nhà ông già làm vườn đã cho chàng trú ngụ. Một hôm vào buổi sáng sớm, hoàng tử sắp sửa đi ra vườn làm việc theo thói quen thì ông già làm vườn tốt bụng ngăn chàng lại bảo:
- Những người theo tà giáo hôm nay có lễ hội lớn và tất cả đều nghỉ việc để họp hội và vui chơi nơi công cộng. Họ cũng không muốn những người Hồi giáo làm việc trong ngày này. Để giữ hoà khí với họ, những người theo đạo HồI cũng nên tham gia trong những cuộc vui chơi với họ, kể cũng đáng xem đấy. Vậy anh cũng nên nghỉ ngày hôm nay. Còn tôi, tôi sẽ đến thăm một vài người bạn và hỏi tin tức cho anh xem ngày nào thì chuyến tàu buôn đi đảo Gỗ Mun giương buồm vì cũng đã gần tới hạn rồi đấy. Và đồng thời tôi cũng sửa soạn cho anh đáp tàu cho kịp.
Ông gìa làm vườn thay y phục mặc vào bộ thật đẹp rồi đi ra.

Khi hoàng tử Camaralzaman còn lại một mình. Chàng cũng chẳng buồn đÌ ra ngoài tham gia vào các cuộc vui chơi công cộng đang vang dội khắp thành phố. Sự nhàn nhã lúc này làm chàng càng nhớ một cách mãnh liệt hơn bao giờ hết tới kỷ niệm buồn về nàng công chúa thân yêu của mình. Tĩnh tâm lại, chàng thở dài rên rỉ và đứng lên đi dạo trong vườn, bỗng trên cây có tiếng động khá bất thường do hai con chim gây ra làm chàng dừng bước, ngẩng đầu lên quan sát.
Camaralzaman ngạc nhiên thấy chúng hung hăng mổ nhau rất dữ và chỉ một lát sau một trong hai con chim lăn xuống chết bên gốc cây. Con kia thắng trận bay vù đi mất.

Ngay lúc đó, hai con chim khác lớn hơn, nhìn thấy trận chiến từ xa, đã từ một ngả khác bay lại, đỗ xuống, một con phía đầu, một con phía chân của con chim bị chết, nhìn nó một lát lắc lắc đầu tỏ vẻ đau xót. Rồi chúng dùng chân có móng bới đất làm thành một cái hố, đẩy xác con chim xuống và lấp đất lên.
Xong việc chúng bay vù đi và chỉ một thoáng sau chúng quay về cặp ở mỏ, con này cái cánh, con kia cái chân con chim hung thủ đang kêu lên những tiếng thảm thiết và cố sức vùng vẫy mong cố thoát. Hai con chim lớn mổ toạc bụng, lôi gan ruột ra, rồi để xác nó tại chỗ và bay đi.
Camaralzaman đứng lặng người xem, đầy vẻ thán phục cái cảnh tượng lạ lùng đó. Chàng tới gần gốc cây mà cảnh vừa rồi diễn ra, nhìn đống gan ruột chim bầy ra bừa bãi, chàng nhận thấy có một vật gì đo đỏ trồi ra từ cái mề con chim bị hai con chim báo thù kia mổ rách. Chàng lượm cái mề đó lên, đưa tay kéo cái vật màu đo đỏ ấy ra và nhận thấy đó là tấm bùa của công chúa Badoure người yêu dấu của chàng mà chàng đã phải trả giá bằng bao nhiêu niềm tiếc nuối, bao nhiêu sầu tủi, bao nhiêu tiếng thở dài não một từ ngày con chim đó cướp đi của chàng.

- Quân độc ác? - Chàng nhìn con chim thốt kêu lên - Mày thích làm điều ác thì phải gặp điều ác. Cái chết của mày cũng làm dịu đi phần nào nỗi tức bực về tai hoạ mày đã gây cho ta. Ta chúc điều tốt lành cho những kẻ đã báo thù cho cái chết của đồng loại đồng thời cũng trả thù cả cho ta nữa.
Không sao có thể tả được nỗi vui mừng của hoàng tử Camaralzaman:
Công chúa thương yêu - Chàng kêu lên - Cái thời điểm may mắn này đã trả lại cho ta vật quý của em phải chăng đó cũng là điềm báo trước ta sẽ gặp lại em sớm hơn là ta tưởng. Tạ ơn trời đã ban cho tôi cái may mắn này đồng thời cũng cho tôi niềm hi vọng lớn hơn cả điều tôi mong đợi.

Nói đoạn, Camaralzaman hôn tấm bùa, bọc nó lại và buộc chặt vào cánh tay mình. Trong nỗi buồn chán cùng cực, hầu hết các đêm, bị đằn vặt khổ sở, chàng không hề nhắm mắt. Sau cái sự cố vui vẻ bất ngờ này, chàng ngủ một giấc ngon lành và hôm sau, chàng mặc quần áo lao động vào rồi, từ tờ mờ sáng, đến gặp ông già làm vườn để nhận việc. Ông trao cho chàng việc đốn hạ và đánh bật rễ một cây cổ thụ không còn ra hoa quả nữa.

Camaralzaman cầm theo một lưỡi rìu và bắt đầu vào việc. Lúc chặt một khúc rễ cây, chàng cảm thấy đụng vào một vật gì cứng rắn và kêu xoang xoảng, gạt đất vụn sang một bên chàng phát hiện thấy một tấm đồng to. Lật lên thì thấy một cầu thang có tất cả mười bậc. Chàng bèn bước xuống và khi đã ở dưới cùng chàng thấy một cái hầm vuông rộng khoảng hai, ba thước, ở đó chàng đếm thấy năm chục chiếc vại bằng đồng xếp xung quanh hầm, vại nào cũng có nắp đậy kín. Chàng lần lượt mở nắp từng cái một và thấy cái nào cũng đầy bột vàng. Chàng lên khỏi hầm, cực kỳ sung sướng đã phát hiện ra một kho vàng giàu có. Chàng đặt cái tấm đồng vào chỗ cũ, đào nốt rễ cây và chờ ông già làm vườn trở về. Ông già làm vườn hôm trước được biết là con tàu hằng năm, đi tới đảo Gỗ Mun sẽ nhổ neo vào vài ngày tới nhưng chưa biết chính xác ngày nào và họ bảo sẽ trả lời ông vào ngày hôm sau. Ông trở về và vui mừng báo cho Camaralzaman:
- Con trai ạ - Ông thân mật bảo chàng - Hãy vui đi và chuẩn bị sẵn sàng ba ngày nữa tàu sẽ giương buồm, ta đã thoả thuận với thuyền trưởng cho con lên tàu và quá giang rôi.
- Với tình cảnh của con hiện nay - Camaralzaman nói - Không có gì dễ chịu hơn là tin bác vừa cho biết đấy. Và đổi lại, con cũng có một tin chắc sẽ làm bác vui. Bác hãy chịu khó đi ra đây với con và bác sẽ thấy ông trời vừa ban cho bác một tài sản khổng lồ.

Camaralzaman dẫn ông già làm vườn tới chỗ chàng đào rễ cây, đưa ông xuống hầm và chỉ cho ông thấy năm chục cái vại chứa đầy bột vàng và vui vẻ bảo đó là Thượng đế đã thưởng công cho đức hạnh và bao năm khó nhọc của ông chăm sóc khu vườn.
- Anh bảo sao? - Ông già nói - Vậy là anh tưởng là ta tự cho mình được sở hữu cái kho báu này ư? Tất cả là của anh, ta chẳng có chút gì ở đó cả. Tám chục năm rồi, từ ngày cha ta mất, hàng ngày ta đào xới khu vườn này mà nào có thấy gì đâu. Đúng là số phận đã định trước cho anh bởi vì Thượng đế đã cho phép anh tìm thấy kho báu đó. Nó thích hợp với một hoàng tử như anh hơn là cho ta đã gần kề miệng lỗ, chẳng còn nhu cầu gì nữa. Thượng đế đã ban cho anh đúng lúc anh trở về cố quốc. Nó phải thuộc về anh và anh sẽ sử dụng nó thật hữu ích.

Hoàng tử Camaralzaman không nhượng bộ trước một ông già vô tư và hào hiệp nên tranh cãi quyết liệt. CuốI cùng chàng bảo sẽ không lấy một tí gì nếu ông già không nhận cho phần mình một nửa kho báu. Ông già làm vườn dành chịu nghe và họ chia nhau: Mỗi người hai mươi lăm vại. Chia xong, ông già bảo Camaralzaman:
- Con trai ạ, thế cũng chưa xong đâu. Bây giờ phải mang tất cả xuống tàu và phải chuyển đi bí,mật để không ai biết, nếu không sẽ bị mất như chơi đấy. Ở đảo Gỗ Mun không có quả ô liu, nếu mang từ đây về đấy thì rất có giá. Anh biết đấy, tôi có một kho dự trữ những quả ô liu hái ngay trong vườn nhà. Bây giờ anh phải kiếm năm chục chiếc bình, chứa một nửa bình bột vàng, còn lại nửa trên thì chứa quả ô liu. Cả năm chục bình đều làm như thế và tôi sẽ cho chuyển lên tàu, hôm nào anh đi.

Camaralzaman làm theo lời khuyên đó và đùng nửa ngày còn lại để thu xếp năm chục chiếc bình và anh sợ là tấm bùa đeo ở cánh tay mình có thể vô tình đánh rơi nên đã cẩn thận nhét nó vào một chiếc bình mà anh đánh đấu để cho dễ nhận thấy. Khi đã chuẩn bị xong xuôi cho tất cả các bình rồi, vì trời cũng đã tối nên anh cùng ông già làm vườn trở về, anh kể cho ông già nghe chuyện hai con chim đánh nhau vì thế anh tìm lại được tấm bùa của công chúa Bađoure. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên và cũng rất mừng cho anh.

Có thể vì tuổi cao, cũng có thể vì ông đã hoạt động quá sức ngày hôm đó nên ông già làm vườn đêm ấy thấy khó thở và không ngủ được. Khó chịu trong người kéo dài đến cả ngày hôm sau và sang đến ngày thứ ba thì bệnh càng nặng thêm. Trời vừa sáng thì tự thân người thuyền trưởng và nhiều thuỷ thủ tới gõ cửa khu vườn. Camaralzaman ra mở cửa, họ hỏi ai là người khách sẽ đáp tàu của họ. Chàng đáp:
- Chính là tôi đây. Ông già làm vườn, người đã xin cho tôi quá giang, lúc này đang bị ốm không gặp ngài được. Dù vậy xin mời cứ vào nhà và nhờ các vị mang hộ tôi những bình chứa ô liu kia và cả áo quần của tôi nữa. Tôi sẽ theo chân các vị ngay sau khi đã cáo biệt ông già làm vườn.
Các thuỷ thủ bê các bình ô liu và mang quần áo đi. Chia tay Camaralzaman, viên thuyền trưởng bảo:
- Xin ông ra bến ngay cho, trời đã thuận gió và tôi chỉ chờ có ông thôi là giương buồm đó.

Ngay khi người thuyền trưởng và các thuỷ thủ vừa đi khuất, Camaralzaman trở vào nhà để cáo biệt và cảm tạ sự giúp đỡ tận tình của ông. Nhưng thấy ông đang hấp hối, chẳng kịp xưng tội, theo tập quán của những tín đồ Hồi giáo trung thành, ông đã thở hơi thồ cuối cùng.
Trong hoàn cảnh phải xuống tàu gấp, hoàng tử Camaralzaman khẩn trương làm đầy đủ bổn phận đối với người quá cố. Chàng lau rửa thân thể, khâm liệm cho ông và sau khi đào một hố sâu trong vườn (vì những người theo đạo Hồi chỉ là số ít trong thành phố của những người theo tà giáo nên không có nghĩa địa chung) Chàng một mình chôn cất ông và chỉ hoàn tất khi trời đã ngả về chiều. Chàng không để mất thì giờ, vội vàng đi ngay để xuống tàu. Nhưng tới bến cảng, chàng được biết là tàu đã nhổ neo từ lâu và lúc này cũng đã mết hút rồi. Người ta còn cho hay là tàu chỉ giương buồm đi sau khi chờ anh tròn ba tiếng đồng hồ.
Scheherazade muốn kể tiếp nhưng nhìn thấy mặt trời đã nhô lên nên nàng ngừng lại. Nàng kể tiếp chuyện của Camaralzaman vào đêm sau và nói với hoàng đế đất nước Ấn Độ:
***
- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman, cũng dễ hiểu thôi, cực kỳ buồn nản thấy buộc phải nán ở lại trong một xứ sở không quen ai và cũng chẳng muốn làm quen với một ai suốt một năm trường nữa chỉ vì đê lỡ cơ hội vừa qua. Điều làm cho chàng lo âu hơn nữa là đã tuột khỏi tay mình tấm bùa của công chúa Badoure và ehàng cho thế là đã mất hẳn. Không còn cách nào hơn là quay trở lại khu vườn cũ, tiếp tục trồng trọt và than thở cho số phận hẩm hiu. Để đỡ nhọc mệt trong công việc, chàng mướn thêm một thanh niên để đỡ chân tay. Và để khỏi mất hết nửa phần kia của kho báu lúc này cũng thuộc về chàng vì ông già làm vườn mất đi không có người thừa tự. Chàng cho bột vàng vào năm chục chiếc bình khác, đặt lên trên đầy những quả ô liu mỗi bình như lần trước và sẽ cho chuyển lên tàu cùng với mình khi có chuyến đi tới đảo Gỗ Mun.
Trong khi hoàng tử Camaralzaman bắt đầu lại một năm khác đầy vất vả, đau thương và sốt ruột thì con tàu tlếp tục cuộc hành trình với làn gió rất thuận và cặp bến an toàn ở Kinh đô đảo quốc Gỗ Mun.
Vì hoàng cung được xây dựng ngay trên bờ biển và tân vương, rõ hơn là công chúa Badoure nhìn thấy con tàu giữa lúc nó đi vào bến với tất cả các cờ xí gió thổi phần phật, bèn hỏi là tàu gì và được trả lời đó là một chiếc tàu buôn chở nhiều hàng hoá quý cứ đến cữ này là từ thành phố của những người theo tà giáo tới.

Công chúa, dù được sống giữa những cảnh tráng lệ huy hoàng nhưng không lúc nào không nhớ tới Camaralzaman vì vậy cho rằng chàng có thể có mặt trên tàu này nên nảy ra ý muốn là đi ra đón không phải muốn cho chàng nhận ra mình (vì nàng tin là chàng chẳng thể nhận ra) mà để xem đúng là có chàng không ngõ hầu có những blện pháp đúng lúc để cùng nhận ra nhau. Dưới cái cớ là tự mình muốn tìm hiểu về hàng hoá, được thấy trước mọi người để chọn được những thứ hàng quý thích hợp, nàng sai mang ngựa đến. Nàng đi ra bến, có nhiều quan chức đứng cạnh nàng lúc đó tháp tùng. Ra tới bến cảng giữa lúc người thuyền trưởng bước lên bờ, nàng gọi y đến, và hỏi y từ đâu tới, hết bao nhiêu thời gian thì đến đây, trong cuộc hành trình gặp những điều gì tốt xấu, có đưa theo người khách nào sang trọng và nhất là tàu chở hàng gì. Người thuyền trưởng trả lời tất cả câu hỏi của nàng, còn về những khách quá giang, y quả quyết chỉ có những nhà buôn vẫn quen tới đây và họ mang theo rất nhiều loại vải quý của nhiều nước khác nhau, những tấm vải đẹp nhất, có nhuộm màu hoặc để mộc, rồi ngọc ngà xạ hương, long não, hàng tạp hoá, thuốc chữa bệnh, quả ô liu và nhiều thứ khác.

Công chúa Badoure rất thích quả ô liu. Nghe nói có quả đó, lập tức nàng bảo thuyền trưởng:
- Hãy cho rỡ tất cả quả ô liu lên đây ngay, ta sẽ mua hết. Còn những thứ hàng hoá khác, ngươi báo cho các thương nhân mang lên cho ta những hàng đẹp nhất trước khi để cho những người khác xem.
Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng cho nàng là vua quốc đảo Gỗ Mun vì quả thật là nàng đang mặc hoàng bào – Có tất cả năm chục bình lớn chứa quả ô liu nhưng lại thuộc về một nhà buôn còn lại ở trên đất liền. Chính tôi đã đến báo cho ông ta giờ nhổ neo và đã chờ rất lâu. Thấy ông ta không tới và nếu chậm trễ thì không lợi dụng được cơn gió thuận, không kiên nhẫn được nữa, tôi đành phải cho giương buồm.
- Mặc dù vậy, ngươi cũng cứ cho bốc lên - Công chúa bảo - Cái đó cũng chẳng trở ngại gì cho việc múa bán cả.
Viên thuyền trưởng cho xuồng bơi ra con tàu và chẳng mấy chốc đã quay về chở đầy xuồng các bình chứa quả ô liu. Công chúa hỏi năm chục bình đó đáng giá bao nhiêu ở đảo Gỗ Mun này.
Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng đáp- Thương nhân đó nhà rất nghèo. Người sẽ ban ơn lớn cho ông ta, nếu trả cho ông ta một nghìn đồng tiền bạc.
Để cho ông ta hài lòng và theo nhà ngươi nói thì nhà ông ta nghèo vậy ta sẽ cho chi ra một nghìn đồng tiền vàng, nhà ngươi có trách nhiệm trao lại cho ông ta.

Nàng ra lệnh trả tiền rồi cho mang đi tất cả những chiếc bình về cung, và nàng cũng quay gót.
Đêm tới gần, công chúa Badoure trước hết lui về hậu cung đến thẳng phòng của công chúa Haiatalnefous và sai mang tới năm chục chiếc bình ô liu vừa mua. Mở ra một bình để nếm thử, nàng đổ một ít ra đia và rất ngạc nhiên thấy các quả ô liu đều dính bụi vàng.
- Sao lạ thế này! Thật là kỳ diệu! - Nàng kêu lên.
Nàng cho: các thị nữ của Haiatalnefous mở hết các bình và dốc tất cả ra trước mặt mình và sự thán phục của nàng càng tăng khi thấy dưới đáy mỗi bình chứa toàn bột vàng. Nhưng khi mở tới chiếc bình mà Camaralzaman giấu tấm bùa vào đó, khi dốc ra, nàng nhìn thấy thì vô cùng sửng sốt và lăn ra bất tỉnh.
Công chúa Haiatalnefous cùng các thị nữ vội vàng ra sức cấp cứu, vỗ nước lạnh vào mặt. Nàng từ từ tỉnh dậy, cầm lấy tấm bùa và hôn lấy hôn để. Nhưng vì nàng không muốn nói gì cả trước mặt các thị nữ của công chúa Haiatalnefòus vẫn chưa biết nàng cải trang vả lại cũng đã đến giờ đi ngủ, nàng liền cho họ lui.
- Công chúa ạ - Nàng bảo Haiatalnefous khi thấy chỉ còn hai người - Sau khi đã được nghe chuyện của chị rồi, chắc là em cũng thấy sở dĩ chị quá xúc động ngất đi là vì tấm bùa này đây. Nó là nguyên nhân của sự chia ly đau khổ giữa chị và chàng, hoàng tử Camaralzaman. Nó sẽ là, chị chắc thế, điềm báo cuộc sum họp của chúng mình sắp tới.

Hôm sau mới tang tảng sáng, công chúa Badoure đã đòi viên thuyền trưởng tới. Khi ông đến, công chúa bảo:
- Nhà ngươi hãy nói thêm về người thương nhân chủ những bình quả ô liu mà ta mua hôm qua. Ngươi đã nói, hình như thế, là nhà ngươi đã để ông ta ở lại trên đất liền trong thành phố của những người theo tà giáo. Nhà ngươi có thể cho biết ông ta làm gì ở đó không?
- Tâu bệ hạ - Thuyền trưởng đáp- Tôi có thể khẳng định với bệ hạ một điều mà tôi biết rõ. Tôi đã thoả thuận về việc quá giang của ông ta với một người làm vườn rất già. Ông cụ già bảo là tôi đến tìm ông ta tại vườn của cụ mà cụ cho tôi địa điểm cũng là nơi ông ta làm thuê cho ông cụ. Cũng biết như vậy nên tôi đã nói với Người là ông ta rất aghèo. Tôi đã tự mình đến tìm ông ta tại khu vườn đỡ nói chuyện với ông ta và bảo ông xuống tàu ngay.
- Nếu đúng như vậy - Công chúa Badoure nói – Thì nhà ngươi ngay ngày hôm nay phải giương buồm quay về thành phố của những người theo tà giáo, dẫn tới đây cho ta chàng trai làm vườn đó. Y là người mắc nợ ta. Nếu không thì ta tuyên bố tịch thu không những hàng hoá thuộc về ngươi và những nhà buôn trên tàu của ngươi mà cả tính mạng của ngươi và cả những nhà buôn trên tàu nhà ngươi nữa cũng do ta định đoạt. Ngay từ bây giờ, theo lệnh ta, tất cả các kho chứa hàng sẽ bị niêm phong và chỉ bỏ dấu niêm khi nào nhà ngươi trao cho ta người mà ta đòi hỏi. Đó là những gì ta muốn nói với ngươi. Đi đi, hãy làm những gì ta ra lệnh.

Viên thuyền trưởng không còn biết nói sao được nữa. Nếu không thực hiện thì sẽ rước tai hoạ lớn cho công việc làm ăn của mình và của các thương gia. Ông nói cho họ biết điều đó và cũng như ông, họ vội vàng lấy thêm thức ăn nước uống cần thiết cho chuyến đi đưa ngay xuống tàu. Tất cả được làm khẩn trương nên tàu đã nhổ neo ngay ngày hôm đó.
Cuộc hành trình có nhiều thuận lợi, viên thuyền trưởng tính toán lộ trình rất sát nên ngay trong đẽm đã tới thành phố của những người theo tà giáo. Khi lái vào bờ xét thấy là thuận tiện, ông không cho thả neo, nhưng trong khi con tàu đứng yên tại chỗ không xa bến mấy, từ chỗ đó ông đi thẳng tới khu vườn của Camaralzaman cùng vớI sáu thuỷ thủ lực lưỡng nhất.
Lúc đó Camaralzaman vẫn chưa ngủ. Cuộc chia ly với công chúa Trung Quốc xinh đẹp vợ của chàng, vẫn làm chàng buồn rầu như mọi ngày, chàng căm ghét cái lúc để cho tính tò mò thúc đẩy mà đụng đến cái thắt lưng của nàng. Chàng đang thao thức tư lư trong những lúc đáng lẽ để nghỉ ngơi thư giãn như thế thì nghe thấy tiếng gõ cửa ngoài vườn. Chàng vội chạy ra, chưa kịp mặc áo, vừa mở hé cửa thì không nói một tiếng nào, thuyền trưởng và sáu thuỷ thủ túm ngay lấy chàng, dùng sức mạnh đẩy chàng xuống xuồng, đưa lên tàu và giương buồm ngay tức khắc.

Camaralzaman im tlếng tới tận lúc đó cũng như thuyền trưởng và các thuỷ thủ, bấy giờ mới hỏi thuyền trưởng mà chàng đã nhận ra, vì sao mà lại dùng bạo lực như vậy để bắt cóc chàng.
- Ông chẳng phải là con nợ của quốc vương đảo Gỗ Mun sao? - Thuyền trưởng hỏi lại chàng.
- Tôi, con nợ của quốc vương đảo Gỗ Mun? - Camaralzaman kinh ngạc nói - Tôi đâu có biết nhà vua này, chưa bao giờ tôi giao thiệp và chưa bao giờ tôi đặt chân lên đất nước ông ấy.
- Đó là điều ông phải biết hơn tôi - Thuyền trưởng nói - Ông sẽ tự nói với Người. Tuy vậy lúc này ông hãy cứ kiên nhẫn ở yên đây đã.
Scheherazade ngừng lại ở chỗ này để cho hoàng đế Ấn Độ đi thiết triều. Nàng kể tiếp vào đêm sau và nói với ông:

***​


“- Tâu bệ hạ, hoàng tử Camaralzaman thế là bị bắt đi từ khu vườn của chàng như thiếp đã kể cho Người nghe hôm qua. Con tàu đi cũng chẳng kém thuận buồm xuôi gió như chuyến về để bắt cóc chàng trong thành phố tà đạo. Dù tới bến đã là ban đêm, nhưng viên thuyền trưởng cững lên ngay trên bờ đưa hoàng tử Camalalzaman tới hoàng cung và xin được bệ kiến.
Công chúa Badoure, đã rút về hậu cung, vừa nghe thấy báo là viên thuyền trưởng đã về và có cả Camaralzaman tới, vội ra gặp y ngay. Trước hết, nàng liếc nhìn sang hoàng tử Camaralzaman, người mà nàng đã rỏ biết bao nhiêu nước mắt từ ngày xa cách, và nàng nhận ra ngay dù chàng đang ăn mặc thật tồi tàn. Còn về hoàng tử, chàng run sợ trước một quốc vương, chàng tưởng vậy, và với ông -này chàng là một con nợ theo ông ta tưởng tượng. Chàng không có một chút ý nghĩ nào đó là người mà chàng thiết tha mong được thấy lại. Nếu công chúa buông theo tình cảm của mình thì nàng đã chạy bổ tới chàng, để lộ hình tích của mình và ôm hôn ehàng. Nhưng nàng tự kiềm chế và thấy rằng cần phải giữ vai trò quốc vương một thời glan nữa trước khi tự mình lộ diện vì lợi ích của cả hai người. Nàng phải tạm bằng lòng trao phó chàng cho một viên quan lúc đó có mặt bắt phải chăm sóc và đối xử tốt với chàng cho đến hôm sau.

Khi công chúa Badoure đã thấy được nghiêm chỉnh tuân lệnh và đã có hoàng tử Camaralzaman rồi, nàng quay về phía viên thuyền trưởng xác nhận công lao của ông ta và phái một viên quan khác lập tức đi rỡ hết dấu niêm đóng trên các hàng hoá của ông ta và của cả các nhà buôn khác. Rồi nàng cho ông ta về với một viên kim cương làm tặng phẩm. Phần thưởng này đã vượt quá cả chi phí cho chuyến đi của ông vừa rồi. Nàng còn bảo thêm là ông cứ giữ lại cả một nghìn đồng tiền vàng đã trả cho khoản mua các bình ô liu và nàng đã có cách thoả thuận với nhà buôn mà ông vừa đưa tới.
Cuối cùng nàng trở về hậu cung nơi ở của công chúa đảo quốc Gỗ Mun chia sẻ với công chúa niềm vui của mình và yêu cầu nàng vẫn phải giữ kín - Nàng cũng trao đổI tâm sự với công chúa những biện pháp cần thiết phải thực hiện trước khi tự để lộ mình ( ra với hoàng tử Camaralzaman và để cho hoàng tử tự nói cho mọi ngườI biết mình là ai.
- Có một sự cách biệt lớn giữa một người làm vườn và một hoàng tử - Nàng nói thêm . Nên sẽ có thể nguy hiểm vì chỉ trong chốc lát mà đưa một người đang ở địa vị quá thấp kém lên một địa vị quá cao sang, dù có công bằng tới đâu đi nữa.

Công chúa đảo quốc Gỗ Mun dễ dàng có sự đồng tình ngay vì nàng rất yêu mến và khâm phục nàng Badoure. Công chúa còn cho biết nàng sẽ rất vui sướng được tham gia vào việc này, công chúa Badoure chỉ cần cho biết nàng cần phải làm gì.
Ngày hôm sau, công chúa Trung Hoa, trong bộ long cổn và uy quyền quốc vương đảo Gỗ Mun, sau khi đã chú ý cho đưa Camaralzaman đi tắm rửa từ sáng sớm, mặc cho chàng bộ phẩm phục quan đại thần và đứa chàng vào triều. Vẻ mặt khôi ngô tuấn tú và dáng diệu đường bệ của chàng khiến tất cả triều thần chú ý.
Công chúa Badoure cũng thấy hoan hỉ trông thấy chàng cũng vẫn đáng yêu như thấy bao lần trước kia và điều này càng làm nàng thêm phấn hứng khi ca ngợI chàng trước triều đình. Sau khi chàng ngồi xuống ở hàng các đại thần theo lệnh nàng, nàng nói với cả triều thần:

- Thưa các ngài, ngài Camaralzalnan mà tôi đưa hôm nay vào hàng ngũ đồng liêu của các ngài, không phải là không xứng đáng với cương vị ấy. Trong các chuyến du hành tôi biết khá rõ về ông ta và có thể chịu phần trách nhiệm. Tôi có thể đoan chắc vôi các vị là rồi đây ông ta sẽ tự bộc lộ cho các ngài rõ khả năng, đức hạnh yà thiên tài, của ông ta. Camaralzaman cực kỳ ngạc nhiên khi thấy vua đảo Gỗ Mun mà chàng không sao có thể ngờ được đó là một phụ nũ, càng không ngờ được đó lại là nàng công chúa thương yêu của mình, gọi đích danh mình và quả quyết là biết rõ mình. Còn chàng thì chắc chắn là chưa từng gặp ông ta ở bất cứ đâu. Chàng càng ngạc nhiên hơn nữa khi phải tiếp nhận biết bao lời khen tụng quá đáng. Tuy nhiên những lời khen đó thốt ra từ miệng một người đầy vẻ oai vệ không làm cho chàng sửng sốt. Chàng đón nhận với vẻ khiêm nhường tỏ ra là mình xứng đáng nhưng không do đó mà kiêu ngạo chàng quỳ xuống bên ngai vua và khi đứng lên, chàng nói:

- Tâu bệ hạ, tôi không đủ lời để nói lên tấm lòng biết ơn Người đã ban cho vinh dự lớn như Người đã làm với bao mối từ tâm. Tôi nguyện sẽ làm tất cả những gì trong quyền hạn và khả năng của mình để xứng đáng với ân huệ đó
Ra khỏi triều đình, hoàng tử được một viên quan dẫn tới một toà dinh thự mà công chúa Badoure đã sắm sửa đủ thứ dành riêng cho chàng. Chàng thấy ở đó nhiều quan hầu và đầy tô sẵn sàng tuân lệnh chàng và một chuồng ngựa có rất nhiều con ngựa tuyệt đẹp, tất cả những cái đó đều xứng đáng với tước vị đại thần chàng vừa được phong. Khi bước vào căn phòng, người quản gia đưa tới cho chàng một rương chứa đầy vàng để dùng vào việc chi tiêu. Càng không rõ từ đâu mà hạnh phúc lớn lao này đến với mình, chàng càng ngất ngây thán phục, nhưng không một chút nào chàng nghĩ chính là công chúa Trung Quốc đã bày ra tất cả.
Sau hai hoặc ba hôm, công chúa Badoure, muốn tạo cho hoàng tử Camaralzaman có điều kiện gần gũi mình hơn và đồng thời cũng để cho chàng được trọng thị hơn, đã cử chàng làm tổng quản ngân khố quốc gia vừa khuyết. Chàng đảm đương công việc này một cách thật thông minh chính trực khiến tất cả mọi người đều hàm ơn, tranh thủ được tình cảm không những của các triều thần mà được lòng tất cả toàn dân vì đức tính cương trực và rộng rãi của mình.

Camaralzaman lẽ ra là người hạnh phúc nhất trong tất cả mọi người với sự ưu ái hiếm có cạnh một ông vua xa lạ như chàng tưởng thế, và trong sự kính nể mỗi ngày mỗi ngày một tăng của mọi người, nếu chàng có công chúa thân thương của mình bên cạnh. Giữa cảnh vàng son đó, chàng không lúc nào thôi buồn rầu về việc không có một tin tức gì của nàng ở một xứ sở mà đáng ra nàng đã phảI đi qua từ ngày xa cách nhau một cách nẫu ruột với cả hai người. Chàng có thể đặt vấn đề nghi ngờ đôi chút nếu công chúa Bàdoure còn giữ cái tên Camaralzaman cùng với bộ quần áo của chàng mà nàng lấy mặc. Nhưng nàng đã đổi tất cả khi lên ngôi, cả áo quần và tên họ. Tên của nàng lúc này là Ármanos để nhô ơn cựu vương, bố vợ nàng. Vì vậy, mọi người chỉ biết nàng dưới cái tên là Armanos trẻ, chỉ có một vài đại thần là còn nhớ đến cái tên Camaralzaman mà nàng tự đặt cho mình khi bước chân tới triều đinh quốc đảo Gỗ Mun mà thôi. Camaralzaman chưa thân mật nhiều với những vị đại thần này để dò hỏì, nhưng rồi chàng cũng sẽ hiểu thôi.

Vì công chúa Badoure cũng e ngại là việc này có thể xảy rà và nàng thấy là sẽ vui thích hơn nếu chỉ nhờ riêng có mình thôi mà làm cho Camaralzaman nhận ra người vợ thương yêu của mình. Nàng quyết định chấm dứt những dằn vặt của chính mình và cả của chàng mà nàng biết cũng đang đau khổ. Quả vậy, nàng nhận thấy là trong tất cả những lần mà nàng trao đổi về công việc chàng đang phụ trách, chàng thường có những cái thở đài não nuột chắc , chỉ là hướng về nàng. Chính nàng cũng đang sống trong một tình trạng ép buộc mà quyết định phải tự thoát ra không thể chần chừ được nữa. Vả lại tình thân mật của các đại thần, nhiệt tình và lòng yêu mến của dân chúng, tất cả đều dọn đường cho việc đặt vương miện của đảo quốc Gỗ Mun lên đầu chàng không còn trở ngại.

Công chúa Badoure vừa cùng với công chứa Haiatalnefous đồng tình với quyết định đó thì cũng cùng ngày hôm đó nàng gặp riêng hoàng tử Camaralzaman:
- Camaralzaman - Nàng bảo chàng - Ta cần trao đổi với ông một công việc cần phải bàn bạc lâu, rất cần ý kiến của ông. Vì ta thấy chỉ có thể làm việc đó thuận tiện vào ban đêm, -vậy chiều này ông tới đây, báo cho người nhà không phải chờ, ta sẽ kiếm cho ông một chỗ để nghỉ lại.
Camaralzaman.không quên có mặt ở hoàng cung vào giờ đã hẹn. Nàng đưa chàng cùng vớI mình vào hậu cung. Sau khi bảo cho người tổng quản các hoạn nô đang chuẩn bị đi theo là không cần tới sự trực hầu của y đêm nay mà chỉ cần y đóng chặt cửa lại, nàng đưa chàng tới một phòng khác chứ không phải phòng của Haiatalnefous mà nàng thường quen ngủ tại đó.
Khi hai người đã vào trong phòng, ở đây có kê một cái giường và khi cửa đã đóng chặt lại, công chùa lấy tấm bùa từ trong một cái hộp nhở ra và giơ cho Camaralzaman:
- Cách đây chưa lâu.- Nàng nói- Một nhà chlêm tinh tặng cho ta tấm bùa này. Vì thấy ông là người hiểu biết nhiều, ông có thể nói cho ta biết tác dụng của nó như thế nào không.

Camaralzaman cầm lấy tấm bùa đưa gần tới một ngọn nến ngắm kỹ. Khi nhận ra, chàng sửng sốt kinh ngạc làm công chúa cố che cái mỉm cười.
- Tâu bệ hạ - Chàng kêu lên - Người có hỏi tôi tác dụng của tấm bùa này. Chao ôi! Tác dụng của nó là làm cho tôi chết vì đau đớn buồn khổ nếu tôi không mau chóng tìm lại được nàng công chúa yêu kiều diễm lệ nhất ở dưới bầu trời này. Vật đó là của nàng mà nó đã làm tôi điêu đứng, phải xa cách nàng. Một sự kiện lạ lùng đã gây ra cuộc phân ly đó. Câu chuyện chắc sẽ làm cho bệ hạ phải xúc động và thương cảm một người chồng, một ngườỉ si tình bất hạnh như tôi đây, nếu người vui lòng muốn nghe.
- Ông sẽ kể cho tôi nghe chuyện đó vào một lần khác - Công chúa bảo - Nhưng tôi rất vui - Nàng thêm- để nói với ông là chuyện đó tôi cũng biết ít nhiều. Ông hãy chờ tôi một lát nhé, tôi sẽ trở lại mau thôi.
Nói xong, công chúa Badoure bước vào một phòng làm việc, ở đó nàng bỏ vương miện ra và chỉ một loáng, nàng mặc vào mình bộ áo quần phụ nữ với chiếc thắt lưng nàng đã mang hôm bị chia ly, rồi trở lại buồng.
Hoàng tử Camaralzaman nhận ra ngay nàng công chúa yêu thương của mình, chạy tới và ôm hôn nàng thật dịu dàng âu yếm.
- Ôi! - Chàng kêu lên - Vô vàn đội ơn đức vua đã cho tôi giây phút ngạc nhiên dễ chịu biết bao?
- Chớ có chờ đợi để thấy lại nhà vua - Công chúa vừa nói vừa cũng đến lượt mình ôm hôn chàng, đôi mắt rớm lệ. Nhìn em tức là chàng đã thấy nhà vua rồi. Chúng ta hãy ngồi xuống đi, thiếp sẽ nói rõ cho chàng rõ bí ẩn đó.

Họ ngồi xuống và công chúa nói cho chàng biết quyết định của mình, sau khi chờ đợi không thấy chàng về lúc cùng nhau hạ trại trên bãi cỏ lần cuối nàng đã hành động như thế nào cho đến khi tới đảo Gỗ Mun và ở đó nàng phải cưới công chúa Haiatalnefous và nhận ngôi báu của quốc vương Armanos trao cho sau hôn lễ; nàng công chúa mà nàng ca ngợi hết lời đã có thái độ như thế nào khi được blết chính nàng cũng là gái; và cuối cùng là chuyện về tấm bùa tìm thấy trong chiếc bình chứa quả ô liu lẫn với bột vàng mà nàng đã cho mua tất cả. Chính vì vậy mà nàng đã cho tàu quay trở lại thành phố của những người theo tà giáo đón chảng.
Khi công chúa Badoure nói xong, nàng yêu cầu hoàng tử cho nàng biết vì sao tấm bùa lại là nguyên nhân của sự phân ly giữa hai người. Chàng nói hết cho nàng rõ và nhẹ nhàng trách nàng để chàng phải phiền não quá lâu. Nàng giãi bày những lý do mà chúng ta đã nói tới, sau đó vì đã quá khuya nên hai người đi ngủ.
Scheherazade thấy trời đã sáng nên dừng lại ở đoạn này. Nàng kể tiếp vào đêm sau, và nói với hoàng Đế Ấn Độ:
***
“- Tâu bệ hạ, công chúa . Badoure và hoàng tử Camaralzaman thức dậy lúc sáng sớm. Nhưng công chúa không mặc triều phục hoàng gia nữa mà mặc lại áo quần nữ giới. Sau khi đã tề chỉnh, nàng phái viên trưởng hoạn nô tới thỉnh nhà vua Armanos, nhạc phụ của mình xin hãy hạ cố đến phòng riêng của nàng.
Quốc vương Ar.manos tới và vô cùng ngạc nhiên thấy một người phụ nữ lạ mặt và ông tổng quản ngân khố trong phòng ngủ ở hậu cung mà theo lệ luật thì cấm không được vào đây kể cả bất cứ một đại quan nào của triều đình. Vừa ngồi xuống ông vừa hỏi nhà vua đâu.
- Tâu bệ hạ - Công chúa nói - Hôm qua tôi là quốc vương, và bây giờ tôi chỉ là công chúa Trung Quốc, vợ của hoàng tử Camaralzaman đích thực, con trai đích thực của quốc vương Schahzaman. Nếu bệ hạ vui lòng và chịu khó nghe tôi trình bày tất cả chuyện trên đây, tôi hi vọng là Người sẽ không kết tội là đã lừa ngài một cách thật ngây thơ vô tội.
Quốc vương Armanoscho phép kể và lắng nghe một cách vô cùng kinh ngạc từ đầu đến cuối chuyện.
Để kết thúc, công chúa nói thêm:
- Tâu bệ hạ, dù trong tôn giáo của chúng ta, đàn bà ít khi đồng tình cho người chồng của mình lấy nhiều vợ, tuy nhiên nếu bệ hạ bằng lòng cho công chúa Haiatalnefous, lệnh ái của Người, kết hôn với hoàng tử, tôi xin tự nguyện nhường ngôi chính cung hoàng hậu cho nàng, vì nàng có quyền như thế. Còn tôi xin lui xuống hàng thứ phi. Dù công chúa không muốn vậy, tôi cũng vẫn cứ xin nhường để cảm tạ nàng đã trọn lời hứa giữ bí mật cho tôi một cách thật là khảng khái. Nếu được bệ hạ phê chuẩn, tôi chắc chắn là nàng rất hài lòng, vì tôi cũng đã bàn trước với nàng rồi. Quốc vương Armanos thực thà lấy làm khâm phục khi nghe công chúa Badoure trình bày. Nghe xong ông quay sang hoàng tử Camaralzaman nói:
- Con ạ, vì công chúa Badoure, vợ con mà từ bấy đến nay ta đã coi như con rể bởi một sự lừa dối mà ta chẳng thể phàn nàn, khẳng định với ta là nàng muốn chia sẻ chuyện gối chăn với con gái ta, ta muốn biết là con có thật bằng lòng lấy nó và nhận chiếc vương miện mà công chúa Badoure xứng đáng được mang trọn đời nếu nàng không vì yêu con mà nhường lại.
- Tâu bệ hạ - Hoàng tử Camaralzaman đáp - Dù là có nóng lòng sốt ruột đến đâu để gặp lại phụ vương cha tối, thì ân đức vô cùng sâu nặng của bệ hạ và của công chúa Haiatalnefous cũng bắt tôi phải dẹp xuống để không dám khước từ một điều gì.

Camaralzaman được tôn lên làm vua và làm lễ cưới hết sức huy hoàng cùng một ngày. Chàng rất hài lòng vớI vẻ kiều diễm, trí thông minh sắc sảo và tình yêu đậm đà của công chúa Haiatalnefous.
Từ đó, hai bà hoàng hậu tiếp tục sống chung trong tình thương yêu và hoà thuận chẳng khác gì trước kia và rất vui vẻ hài lòng vì quốc vương Camaralzaman đối xử với họ thật bình đẳng trong việc gối chăn.
Cùng trong một năm, các bà cùng sinh con, mỗi bà một con trai, hầu như cùng một thời gian. Sự ra đời của các hoàng tử nhỏ đã được đón mừng bằng những cuộc vui chơi hội hè lớn.
Camaralzaman đặt tên cho con của hoàng hậu Badoure là Amgiad và con của hoàng hậu Haiatalnefous là Assad.
(Còn tiếp...)
 
Chương 25

CHUYỆN KỂ CỦA SINDBAD NGƯỜI ĐI BIỂN

- Tâu bệ hạ, cũng dưới triều hoàng đế Theo Haroun Alraschid mà thiếp vừa nói thì ở thành phố Bagdad có một người phu khuân vác nghèo khổ có tên là Hindbad: Vào một ngày nóng bức, anh ta vác một bọc đồ rất nặng đi từ đầu đến cuối thành phố. Đã rất mệt mỏi vì đi qua một quãng đường dài mà quãng đường phải đi tiếp cũng còn khá xa, nên khi tới một đường phố có gió mát hây hẩy, vệ hè lại được tưới nước hoa hồng thì gã thấy không còn chỗ nào hơn để nghỉ ngơi một lát lấy lại sức nữa. Thế là gã đặt bọc đồ xuơng đất cạnh một ngôi nhà lớn và đặt đít ngồi lên trên.

Gã tự cho là mình thật khôn ngoan đã dừng lại nghỉ ở đúng chỗ này vì khứu giác gã được một mùi thơm ngào ngạt của hương trầm từ các cửa sổ của ngôi nhà toả ra quyện vớI mùi thơm của nước hoa hồng đánh thức dậy thật là thú vị. Ngoài cái đó ra, gã còn nghe thấy trong nhà vang lên tiếng hoà nhạc cùng với tiếng hót du dương của vô số hoạ mi và các loại chim đặc biệt của khí hậu vùng Bagdad. Giai điệu êm ru đó cừng với khói thơm của các loại thịt thà bốc ra làm cho gã đoán chắc ở đây có tiệc tùng vui chơi gì đây. Gã rất muốn biết chủ nhân nhà này là ai vì gã ít khi đi qua đường phố này nên không rõ lắm. Để thoả mãn óc hiếu kỳ, gã đến gần mấy người đày tớ ăn vận sang trọng đứng trước cửa và hỏi một tên trong bọn chúng tên người chủ nhà này.

- Sao kia? - Người đầy tớ đáp - Anh ở Bagdad mà không biết đây là nhà ngài Slndbad người đi biển chu du nổi tiếng đã từng đi khắp năm châu bốn biển ư?
Gã khuân vác, đã từng nghe nói sự giàu có nứt đố nổ vách của Sindbad, chẳng khỏì ghen tị với một người mà điều kiện sống sung sướng như một trời một vực so vớI hoàn cảnh sống nheo nhóc của mình. Lòng tê tái bởi những suy nghĩ đó, gã ngửa cổ lên trời và nói khá to, mọi người xung quanh đều nghe thấy:
- Ối, đấng tạo hoá hùng mạnh, sáng tạo ra muôn loài. Xin Người hãy coi xem sự khác biệt giữa ngài Sindbad và con đây: hàng ngày biết bao sự mệt mỏi và bệnh tật hành hạ con. Con thật vô cùng vất vả còng lưng lao động, để nuôi sống vợ con và tự nuôi sống mình bằng bánh mì đen xấu trong khi đó thì ngài Sindbad may mắn kia tiêu pha rửng rỉnh, tiền của như nước sống một cuộc đời đầy hoan lạc. Ông ta đã làm gì để nhận được ở Người một số phận quá dễ chịu như vậy? Còn con, con đã làm gì để phải cam chịu một cuộc sống cơ cực thế này?
Nói xong, gã giậm bành bạch chân xuống đất như một người quẫn trí vì quá đau khổ và thất vọng.

Gã còn đang mải mê với những suy nghĩ buồn thảm của mình, thì thấy một người hầu từ trong nhà đi ra, bước đến chỗ gã, nắm lấy tay gã và bảo:
, Mời bác hãy đi theo tôi. Ngài Sindbad ông chủ của tôi, muốn nói chuyện với bác.”
Kể đến chỗ này thì trời vừa sáng ngăn không cho Scheherazade kể tiếp nữa. Nhưng đêm sau, nàng nối lại câu chuyện như thế này:

***​


“- Tâu bệ hạ, chắc Người cũng dễ dàng đoán thấy là Hindbad không khỏi ngạc nhiên về lời mời đó. Sau những - lời kêu ca phàn nàn vừa rồi, gã sợ là Sindbad cho tìm vào để gây chuyện tồi tệ gì chăng. Vì vậy gã lấy cớ là không thể bỏ bọc đồ lại giữa phố được. Nhưng người hầu của Sindbad bảo sẽ có người trông và ép gã vào nên gã buộc phải nghe theo.
Tên người nhà đưa gã vào một phòng lớn ở đó đã có rất nhiều người ngồi quanh một chiếc bàn trên bày toàn những thức ăn ngon. Ỏ chỗ ngồi danh dự gã thấy một người đàn ông bệ vệ, chững chạc đáng kính, có bộ râu dài bạc trắng và phía sau ông là đám gia nhân tôi tớ đứng hầu. Nhân vật đó là Sindbad. Gã khuân vác, càng lúng túng thấy đấm đông và bàn tiệc sang trọng, vừa run vừa cất tiếng chào Sindbad bảo gã đến gần và sau khi cho gã ngồi xuổng bên tay phải, tự mình mời gã ăn và uống thứ rượu rất ngon mà trên chạn thấy bầy đầy.
Cuối bữa, Sindbad nhận thấy là những khách mời của mình không ăn nữa bèn cất tiếng hỏi Hindbad coi ngang hàng như anh em theo tục lệ Ả Rập khi chuyện trò thân mật. Ông hỏi gã tên gì và làm nghề gì.
- Thưa ngài - Gã đáp - Tên tôi là Hindbad.

Ta rất vui được gặp người anh em - Sindbad nói – và tất cả nhũng người có mặt tại đây cũng thế. Nhưng ta muốn được nghe lại những lời người anh em đã nói vừa rồi ở ngoài phố.
Sindbad trước khi ngồi vào tiệc, đã nghe thấy tất cả những điều gã nói qua một khung cửa sổ, cũng vì vậy nên ông đã cho gọi gã vào.
Nghe lời yêu cầu đó, Hindbad ngượng ngập cúi đầu nói:
- Thưa ngài, thủ thực là vì thấy trong người quá mệt mỏi nên đâm ra cáu kỉnh, vô tình có thốt ra lời nào bất nhã, xin ngài rộng lòng tha thứ cho.
- Ồ! Người anh em chớ nghĩ là ta quá cố chấp mà còn giữ trong bụng điều đó - Sindbad nói - Ta thông cảm hoàn cảnh của người anh em. Đáng lẽ trách anh bạn về những lời kêu ca thì ta lại lấy làm ái ngại cho bạn. Nhưng ta cần phải kéo bạn ra khỏi việc bạn hiểu lầm về ta. Chắc bạn cho là ta có một cuộc sống an nhàn và đầy đủ tiện nghi như thế này mà chẳng phải làm ăn khó nhọc gì, chẳng phải đổ một giọt mồ hôi nào phải không? Bạn đã nhầm đấy. Qua bao năm tháng gian lao vất vả, lao tâm khổ tứ ít người tưởng tượng được cả về vật chất lẫn tinh thần ta mới có được như ngày nay đấy. Vâng, thưa tất cả các ngài - Ông nói thêm với cả đám - Tôi xin đoan chắc với các ngài là những công việc khó khăn nhọc nhằn đó kỳ lạ đến mức làm cho những kẻ hám giàu có nhất cũng phải tiêu tan ý muốn tai hại vượt biển đi tìm của cải. Các ngài chắc là cũng được nghe một cách lơ mơ những cuộc phiêu lưu kỳ thú và những hiểm nguy mà tôi đã từag trải qua trong bảy chuyến đi của tôi. Nhân tiện đây, tôi sẽ kể lại thật trung thực và tôi nghĩ là chắc các ngài chẳng lấy làm bực mình khi được nghe.

Vì Sindbad muốn kể chuyện ông, đặc biệt vì gã khuân vác nên trước khi bắt đầu, ông cho người đem hộ bọc hàng của gã khuân vác để trên hè phố đến nơi mà gã định mang tới. Rồi ông kể như sau:
(Còn tiếp...)
 
Chương 26

CHUYẾN ĐI ĐẦU TIÊN CỦA SINDBAD

Tôi được thừa hưởng của gia đình một tài sản lớn, và chi tiêu vung phí một phần đáng kể trong các cuộc chơi bời phóng túng của tuổi trẻ. Nhưng tôi đã kịp hồl tỉnh lại và thấy là sự giàu có sẽ chẳng bền, chẳng mấy chốc mà tiêu tan khi người ta cững vung tay quá trán như tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ là trong cuộc sống ẩu tả không nền nếp, tôi đã vung phí thời gian là thứ quí nhất trên đời. Tôi còn thấy là nỗi khổ nhất trong các nỗi khổ là chiu cảnh nghèo túng trong tuổi già. Tôi lại nhớ câu nói nổi tiếng của Salomon vĩ đại ngày xưa tôi thường được nghe cha tới nói lại: Chui vào nấm mồ còn dễ ehịu hơn là sống trong nghèo khổ . Thấm thía những điều suy ngẫm đó, tôi thu gom tất cả tài sản còn lại đem bán đấu giá ở giữa chợ tất cả các đồ đạc, giường tủ, bàn ghế... Sau đó, tôi tìm cách kết thân với một vài thương gia buôn bán trên đường biển, tôi tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm để được nghe những lời khuyên tốt. Cuối cùng tôi quyết làm cho sinh lợi khoản vốn liếng còn lại và khi đã có quyết định đó, đem ra thi hành ngay không để chậm trễ. Tôi đi tới Balsora và ở đó đáp xuống một con tàu cùng thuê chung với nhiều nhà buôn khác.

Chúng tôi giương buồm thẳng đường sang Đông Ấn qua vịnh Ba Tư hình thành bởi bờ biển xứ Arabie hạnh phúc về bên phải và bờ biển Ba Tư bên trái chỗ rộng nhất ở đây theo dư luận chung ước chừng bảy mươi hải lý. Ra khỏi vịnh Ba Tư là vào biển xứ Levant cũng chính là biển Ấn Độ rộng mênh mông. Một phía nó có giớl hạn là bờ biển nước Abyssinie và muốn tới quần đảo Vakvak thì đường dài là bốn ngàn năm trăm hải lý. Lúc đầu tôi rất khổ vì bị say sóng nhưng rồi quen đi và sức khoẻ tôi phục hồi rất nhanh.
Dọc đường đi, chúng tôi ghé vào nhiều đảo để mua bán hoặc trao đổi hàng hoá. Một hôm tàu đang chạy thì gió lặng làm tàu chúng tôi sững lại trước một hòn đảo nhỏ là là trên mặt nước, màu xanh của nó trông giống như một bãi cỏ chăn nuôi. Thuyền trưởng cho hạ buồm, lái tàu ghé vào đảo và cho phép những người trên tàu lên bờ nếu họ muốn. Tôi cũng là người trong số người đặt chân lên đảo.

Nhưng trong lúc chúng tôi vui đùa ăn uống, giải toả mệt nhọc thì bỗng thấy hòn đảo rung lên và làm cho một cái huých mạnh.
Nói đến đây Scheherazade dừng lại vì trời đã sáng rõ. Cuối đêm hôm sau nàng kể tiếp:
***
- Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục câu chuyện: Trên tàu, mọi người nhìn thấy hòn đảo rung chuyển vội gọi chúng tôi phải lên ngay kẻo chết đuối. Cái mà chúng tôi tưởng là hòn đảo nhỏ thì đó là lưng của một con cá voi khổng lổ. Những người nhanh chân thì vội nhảy vào xuồng, những ngườI khác lao xuống bơi, còn tôi chậm chân vẫn ở trên hòn đảo hay đúng hơn là trên lưng cá voi giữa lúc nó lặn xuống biển. Tôi chỉ còn đủ thời gian bíu vào một mảnh ván mang từ trên tàu xuống định để đốt lửa. Lúc đó người thuyền trưởng, sau khi đón những người trên xuồng và một vài người bơi dướl nước lên tàu, muốn tận dụng ngay cơn gió thuận vừa nổi lên nên giương buồm cho tàu xuôi và thế là tôi bị bỏ lại không còn hy vọng đuổi kịp.

Tôi bị sóng biển dập vùi lúc bị đánh sang bên nọ, lúc bị đẩy sang bên kia phải vật lộn với sóng để dành lấy sự sống suốt ngày hôm đó đến đêm hôm sau. Sáng ra, tôi thấy mình không còn sức nữa, đang tuyệt vọng chắc không sao tránh khỏi được cái chết thì may sao, một làn sóng mạnh đã đánh giạt tôi vào bờ một hòn đảo. Bờ cao và hiểm trở, tôi mất rất nhiều công sức để bò lên, nhưng nếu không có những rễ cây mà số phận đã run rủn cho trồi ra ở chỗ đó thì tôi chẳng còn cách nào để trèo lên được.

Dù rất yếu vì đã phải vật lộn bao nhiêu lần với sóng biển không có một chút gì trong bụng suốt cả ngày hôm trước, tôi vẫn cố gắng bò và tìm một vài thứ lá cỏ ăn được cho vào miệng nhai. May mắn sao tôi gặp được một suối nước trong và ngọt đã góp phần không ít để tôi phục hồi sức khoẻ. Đã lại người, tôi tiến vào phía trong đảo, đi lang thang không định hướng. Tới một cánh đồng cỏ rất đẹp, ở đó tôi nhìn thấy một con ngựa đang gặm cỏ.
Đưa bước chân về phía đó nửa sợ nửa mừng tôi không biết là mình đang đi tìm cái chết hay là thấy được dịp tốt để bảo đảm sự sống của mình. Đến gần, tôi nhận ra đó là một con ngựa cái được buộc vào một cái cọc. Vẻ đẹp của nó thu hút sự chú ý của tôi, nhưng trong lúc đang ngắm nhìn nó thì tôi nghe thấy tiếng một người đàn ông từ dưới đất vẳng lên. Một lát sau, người ấy xuất hiện tiến đến phía tôi và hỏi tôi là ai. Tôi kể lại chuyện của mình cho ông ta nghe. Ông ta liền nắm lấy tay, dắt tôi vào một cái hang trong đó có nhiều người khác. Họ tỏ vẻ ngạc nhiên khỉ nhìn thấy tôi và tôi cũng chẳng kém ngạc nhiên khi thấy họ.

Ăn vài thứ thức ăn mà những người này đem đến cho rồi tôi hỏi họ làm gì ở cái nơi có vẻ rất hoang vu này. Họ bảo họ là những giám mã của vua Mihrage, quốc vương của hòn đảo này. Hằng năm vào mùa này, theo thường lệ họ phải dắt những con ngựa cái của quốc vương đến đây, buộc vào cọc như tôi đã nhìn thấy đấy để chờ con hải mã từ biển lên giao phối. Giao phối xong, thường thì con hải mã sẽ ăn thịt con ngựa cái. Để ngăn nó lại, họ phải hò hét thật to buộc nó phải lặn lại xuống biển. Sau khi xong việc họ sẽ dắt ngựa cái về và những ngựa con sinh ra gọi là ngựa biển sẽ dành riêng cho nhà vua sử dụng. Họ nói thêm là hôm sau họ phải đi rồi, may là tôi đã đến đúng lúc, nếu không thì chắc chắn là chẳng sống được vì nhà dân ở đây còn rất xa, nếu không có người hướng dẫn thì khó mà tới chỗ họ. Trong khi bọn người chăn ngựa này nói chuyện vớI tôi thì con hải mã từ dưới biển trồi lên đúng như lời họ nói. Nó chồm lên con ngựa cái, giao phối xong nó định ăn thịt con này. Nhưng nghe thấy tiếng hò hét ầm ĩ, nó bỏ con mồi và vội vàng lặn xuống biển mất tăm.

Ngày hôm sau họ lên đường về kinh đô cửa đảo quốc với những con ngựa cái và tôi đi theo họ. Khi về tới nơi tôi được giới thiệu với vua Mihrage. Ông hỏi tôi là ai và vì có công việc gì mà tới đất nước ông. Khi tôi kể lại tất cả tai nạn của tôi vừa qua cho ông nghe, ông tỏ lời chia sé với tôi sự bất hạnh đó. Đồng thời ông ra lệnh cho triều thần chăm sóc không để cho tôi thiếu một thứ gì. Lệnh này được thi hành một cách chu đáo và tôi chỉ còn biết ca ngợi tấm lòng hào hiệp của nhà vua và sự nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của các quan chức triều đình.
Vì là thương gia nên tôi hay tìm cách quan hệ với những người cùng nghề, đặc biệt là thường tìm đến những nhà buôn nước ngoài vừa để hỏi han tin tức về Bagdad vừa để tìm người mà tôi có thể đi cùng để về cố quốc. Có thuận lợi lớn là kinh đô vương quốc Mihrage nằm trên bờ biển và có một bến cảng lớn, ở đó hàng ngày các con tàu của nhiều nước khác nhau trên thế giới ghé đậu. Tôi cũng tìm cách làm thân với các nhà thông thái Ấn Độ và thích thú nghe họ nói. Nhưng tất cả cái đó cũng không ngăn trở tôi đều đặn tới với nhà vua cũng như bàn luận với các triều thần và các tiểu vương, những chư hầu rất thân cận với quốc vương. Họ đặt ra cho tôi hàng ngàn câu hỏi về đất nước tôi và về phía mình, vì muốn tìm hiểu phong tục và luật pháp đất nước họ, tôi hỏi họ tất cả những gì mà mình tò mò muốn biết.

Dưới quyền cai trị của quốc vương Mihrage có một hòn đảo tên là Cassel. Dân ở đó quả quyết là đêm nào cũng nghe thấy tiếng trống đồng, điều này làm người ta nhớ đến lời nói của những thuỷ thủ là thần Degial sổng ở đây. Tôi nảy ra ý là muốn được chứng kiến sự kỳ bí đó. Trong cuộc đi tôi còn nhìn thấy những con cá dài từ một trăm đến hai trăm gang tay, chúng làm chúng ta sợ hơn là làm gì hại chứng ta. Chúng nhút nhát đến mức ta chỉ gõ vào tấm ván là chạy biến. Tôi còn trông thấy những con cá khác chỉ dài quãng hai gang tay thôi nhưng đầu chúng giống như đầu chim cú.
Lúc quay về đi quanh quẩn trên bến, tôi thấy một con tàu cập vào bến cảng. Khi đã buông neo người ta bắt đầu dỡ hàng hoá và những nhà buôn cho chuyển về các kho. Liếc mắt nhìn vào một số các kiện hàng và nhìn vào những chữ viết tên các chủ nhân ở từng kiện, tôi nhìn thấy tên mình. Sau khi xem xét kỹ, không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là những kiện hàng tôi đã cho chất lên con tàu mà tôi đã đáp từ Balsora. Tôi nhận ra cả người thuyền trưởng, nhưng vì chắc là ông đã tưởng tôi chết rồi nên không nhận ra tôi. Tôi đến gần và hỏi ông những kiện hàng để ở đây thuộc về ai, ông đáp:

- Ỏ trên tàu của tôi có một nhà buôn ở thành phố Bagdad tên là Sindbad. Một hôm tới gần một hòn đảo, chúng tôi tưởng vậy, chàng ta bước lên cùng với nhiều hành khách khác. Cái mà mọi người tưởng là một hòn đảo, lại chính là lưng một con cá voi khổng lồ đang ngủ là là trên mặt nước. Nó bắt đầu quẫy khi bị lửa đất nóng trên lưng vì các hành khách nhóm lửa nấu thức ăn. Cuối cùng nó lặn sâu xuống biển. Phần lớn những người trên lưng nó bị chết đuối, và chàng Sindbad không may cũng ở trong số đó. Những kiện hàng này là của chàng ta và tôi quyết định là vẫn đem bán rồi tìm gặp một người nào đó thuộc gia đình chàng để trả về cả vốn lẫn lãi.
- Thưa thuyền trưởng - Lúc đó tôi nói - Chính tôi là Sindbad mà ngài tưởng đã chết rồi nhưng thực tế còn sống đây và những kiện hàng này là của tôi...”
Scheherazade không nói gì thêm nữa đêm đó, nhưng nàng tiếp tục kể vào đêm sau:

***​


“Sindbad tiếp tục câu chuyện, nói với cả bọn:
- Khi người thuyền trưởng nghe tôi nói thế liền kêu lên: Ôi, Thượng đế cao cả1 Biết tin ai bây giờ đây Chẳng có mấy người trung thực trong cái xã hội này. Chính mắt tôi đã nhìn thấy Sindbad bị chết đuồi. Những hành khách trên tàu của tôi đều trông thấy như tôi, thế mà ông dám nhận mình là Sindbad! Thật là táo tợn! Nhìn bề ngoài ai cũng tưởng ông là người thực thà thế mà ông dám trí trá một cách trơ trẽn để hòng chiếm tài sản không thuộc về ông.
- Xin hãy kiên nhẫn thưa thuyền trưởng - Tôi bảo thuyền trưởng - Và hãy làm ơn nghe tôi nói đã nào.
- Vậy, ông còn muốn nói gì? Hãy nói đi, tôi nghe đây. Tôi kể cho ông nghe bằng cách nào mà tôi thoát chết và vì sao mà tôi gặp được những người chăn ngựa của quốc vương Mihrage và những người này đã đưa tôi về triều.

Ông ta có vẻ xuôi xuôi nghe những lời tồi nói và chẳng mấy chốc ông tin tôi chẳng phải là một kẻ lừa bịp khi những hành khách của tàu ông đi tới. Họ nhận ra tôi và vui mừng chúc tôi hết lời. Cuối cùng thuyền trưởng cũng nhớ ra và thấy đúng là Sindbad. Ông ôm lấy tôi, cảm động nói:
- Tạ ơn Thượng đế! Người đã cho ông may mắn thoát được một hiểm hoạ thật lớn. Tôi không sao nói được hết niềm vui của mình. Đâyy tài sản của ông đây. Hãy nhận lấy! Nó thuộc về ông, tuỳ ông sử dụng.
Tôi cảm ơn ông, khen ngợi sự thực thà của ông và để tạ ơn, tôi xin ông nhận một vài thứ hàng mà tôi lấy ra đưa tặng nhung ông nhất định từ chối.
Tôi lựa một vài thứ quí nhất trong các kiện hàng của mình dâng lên quốc vương Mihrage. Nhà vua vốn đã biết chuyện không may xảy ra cho tôi nên ông hỏi đã lấy ở đâu những vật quí hiếm đó. Tôi bẩm với Người sự tình cờ như thế nào mà châu đã về Hợp Phố. Người chia sẻ với tôi nỗi vui mừng, nhận quà tặng của tôi nhưng lại ban cho tôi nhiều thứ khác còn giá trị hơn. Sau đó tôi xin cáo biệt Người và lại xuống con tàu cũ. Nhưng trước khi tàu nhổ neo, tôi trao đổi các hàng hoá còn lại của mình lấy các sản vật của địa phương. Tôi mang đi theo trầm hương, đàn hương, long não, nhục đậu khấu, đinh hương, hồ tiêu và gừng. Qua nhiều hòn đảo, cuối cùng chúng tôi cập bến Balsora. Tới thành phố này, tôi có một khối lượng hàng hoá trị giá tới một trăm nghìn đồng sequins. Gia đình ra đón, tôi gặp lại người thân với tất cả tình cảm nhiệt thành và chân thực. Tôỉ mua nô lệ cả trai và gái, mua những khu đất màu mỡ, và xây một ngôi nhà lớn. Tôi an cư như vậy đó, quyết quên đi những gian lao đã qua và yên hưởng những hoan lạc của cuộc sống.

Sindbad ngừng lời ở chỗ này, lệnh cho nhạc công chơi lại bản hợp xướng mà câu chuyện kể đã làm ngắt quãng. Họ tiếp tục ăn uống mãi đến chiều tối và đến lúc chia tay, Sindbad sai mang tới một túl tiền một trăm đồng sequins đưa cho gã khuân vác, bảo:
- Cầm lấy này, Hindbad, anh hãy đi về và ngày mai trở lại đây nghe tiếp chuyện phiêu lưu của ta.
Gã khuân vác ra về rất sượng sùng về vinh dự được nhận quà. Kể chuyện lại với vợ và con khi về đến nhà, họ rất vui và không quên tạ ơn Thượng đế đã ban cho họ tiền của thông qua Sindbad.
Hôm sau Hindbad ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ hơn ngày hôm trước và trở lại nhà người du khách hào phóng đã vui vẻ tiếp anh với nhiều cử chỉ thân ái. Khi tất cả khách được mời đã tề tựu động đủ, bàn tiệc được dọn ra và họ ăn uống rất lâu. Tiệc tan Sindbad cất tiếng nói với các vị khách của mình.

- Thưa các ngài, xin cho tôi được kể tiếp và mong được các ngài vui lòng nghe câu chuyện phiêu lưu của tôi trong chuyến đi lần thứ hai. Chắc là nó sẽ làm cho các ngài thích thú hơn những chuyện của chuyến đi lần đầu.
Tất cả đều im lặng và Sindbad bắt đầu kể:
(Còn tiếp...)
 
Chương 27

CHUYẾN ĐI THỨ HAI CỦA SINDBAD

“Tôi đã quyết định, sau chuyến đi đầu tiên là sẽ sống yên bình những ngày còn lại của mình ở Bagdad như tôi đã có vinh dự nói với các ngài hôm qua. Nhưng chẳng được bao lâu, tôi lại cảm thấy buồn chán cái cuộc sống quá nhàn hạ. Ý muốn du ngoạn trên mặt biển kết hợp với việc bán buôn lại xâm chiếm đầu óc tôi. Tôi đi tìm mua các loại hàng hoá phù hợp cho việc đổi trao theo ý mình rồi lên đường lần thứ hai cùng với những thương gia khác mà tôi biết rõ tấm lòng ngay thẳng. Chúng tôi lên một con tàu chắc chắn, và sau khi phó thác số mệnh mình cho Thượng đế, chúng tôi bắt đầu ra khơi.
Từ hòn đảo này đến hòn đảo khác, chúng tôi làm việc đổi trao rất có lợi. Một hôm, lên một hòn đảo mọc đầy những cây ăn quả nhưng hoang vắng đến nỗi chúng tôi chẳng nhìn thấy bất cứ một ngôi nhà ở cũng như một con người nào. Chúng tôi cùng nhau đi dạo mát trên những bãi cỏ non và dọc theo các dòng suối chảy qua bãi.

Trong khi người này hái hoa, người khác ngắt quả thì tôi đem thức ăn và chai rượu mang theo, kiếm chỗ ngồi cạnh mợt khe nước chảy giữa những gốc cây to toả bóng mát rượi, làm một bữa ngon lành. Ăn xong, thấy hai mắt mình díp lại. Tôi ngả người cạnh gốc cây chẳng biết ngủ có lâu không nhưng khi mở mắt dậy thì chẳng nhìn thấy con tàu đã thả neo gần đó đâu nữa.
Đến đây Scheherazade buộc phải ngừng lời vì ngày đã rạng. Nhưng đêm sau, nàng kể tiếp câu chuyện đi biển lần thứ hai của Sinđbađ như sau:

***​


“Tôi rất ngạ c nhiên - Sindbad nói - là không nhìn thấy con tàu đã buông neo ở đâu cả. Ngồi dậy, tôi nhìn khắp xung quanh, những thương gia đã cùng tôi đặt chân xuống hòn đảo cũng không thấy một ai. Tôi chỉ nhìn thấy cánh buồm của con tàu nhưng xa tít tắp nên chỉ một thoáng sau là đã mất hút.
Xin các ngài hãy thử tưởng tượng xem ở hoàn cảnh đáng buồn ấy thì tôi nghĩ gì. Tôi tưởng chết đi được vì thất vọng, đau khổ, tôi kêu lên kinh hoàng, tự đấm lên đầu mình rồi gieo người trên mặt đất. Rất lâu, tôi đắm mình trong những ý nghĩ lộn xộn chết chóc, buồn rầu, chán ngán. Hàng trăm lần tôi tự xỉ vả đã dại dột chưa bằng lòng với chuyến đi đầu tiên đáng: lẽ phải làm cho tôi cạch đến già để không bao giờ dám làm một chuyến đi nào khác nữa. Nhưng tất cả sự hối tiếc của tôi đều đã là quá muộn.

Cuối cùng tôi đành phải nhẫn nhục trước ý chí của Thượng đế, và chẳng biết rồi đây mình sẽ ra sao, tôi leo lên một cây cao, đưa mắt nhìn ra bốn phía để thử xem có phát hiện được gì đem lại cho mình một chút hy vọng nào không. Nhìn ra ngoài biển chỉ thấy trời và nước, nhưng nhìn về phía đất liền nhận thấy có một vật gì đó trăng trắng, tôi liền tụt xuống và vớl số thức ăn còn lại tôi mang theo mình rồi đi về phía có vật màu trắng đó còn ở xa lơ xa lắc khiến tôi chẳng phân biệt được đó là cái gì.
Khi đã tới gần một chút, tôi nhận thấy đó là một khối tròn màu trắng cao và to thật đáng sợ. Lúc đã đến gần hẳn, tôi lấy tay sờ và thấy nó nhẵn thín. Tôi đi vòng quanh nó để xem có cửa vào chăng nhưng không thấy. Và vì trơn nhẵn như thế nên chẳng làm sao mà trèo lên được. Chu vi của nó có thể tới năm mươi bộ.

Lúc đó mặt trời sắp lặn. Trời đột nhiên tối sẫm lại như bị phủ một đám mây dày. Nhưng nếu tôi ngạc nhiên vì bóng tối bất chợt đó thì lại càng ngạc nhiên hơn lúc nhận thấy kẻ gây ra là một con chim to lớn khác thường đang bay về phía tôi. Chợt nhớ tới một con chim có tên là đại bàng mà tôi thường nghe các thuỷ thủ hay nói đến thì tôi hiểu ra là cái khối tròn lớn mà tôi đang chiêm ngưỡng đó có thể là trứng của loài chim ấy. Đứng vậy, nó đỗ lên trên cái khối đó và ngồi sụp xuống như để ấp vậy. Thấy nó bay tới, tôi đã nép sát vào quả trứng thành ra trước mặt mình là một cái chân của con chim, to bằng một cái thân cây. Tôi buộc chặt mình vào cái chân ấy bằng dải vải quấn quanh khăn của tôi, hy vọng là con đại bàng ngày hôm sau cất cánh bay lên sẽ mang tôi ra khỏi cái đảo hoang này. Quả nhiên, sau một đêm ở tình trạng đó, khi trời bắt đầu sáng, con chim cất cánh mang tôi lên cao, cao đến mức tôi không nhìn thấy mặt đất nữa. Rồi nó lao xuống nhanh ngoài sức tưởng tượng làm tôi chẳng còn cảm thấy gì nữa. Lúc con đại bàng đỗ xuống thấy mình đã ở trên mặt đất, tôi nhanh nhẹn thảo nút dải vải buộc mình vào chân nó. Tôi vừa rời khỏi chân con vật, thì cũng vừa lúc nó vươn người mổ vào một con rắn dài chưa từng thấy, giơ chân quắp lấy, và lập tức bay đi.

Nơi con đại bàng đặt tôi xuống là một thung lũng rất sâu, bao quanh là những ngọn núi cao chạm tới mây và dốc đứng đến nỗi không còn thấy một chỗ nào có thể leo lên được. Lại mồt tình trạng lúng túng mới đối với tôi, so sánh chốn này với hoang đảo mà tôi vừa rời đi thấy chẳng có gì đổi khác.
Dò bước đi trong thung lũng, tôi thấy rải rác đó đây những viên kim cương sáng loáng trong đó có những viên to kỳ lạ. Tôi rất thích được nhìn ngắm chúng: Nhưng chợt nhìn thấy đằng xa những vật làm tôi mất hết hứng thú và không khỏi rùng mình. Đó là một đám rất nhiều những con rắn sao mà to, sao mà dài, có lẽ không con nào là không đủ sức nuốt chửng một con voi. Ban ngày chúng chui tất cả vào hang, ẩn trong đó để tránh đại bàng, kẻ thù của chúng: Chỉ đêm tối chúng mới bò ra ngoài.


Cả ngày tôi đi lang thang trong thung lũng và thỉnh thoảng ngồi nghỉ ở những nơi mát mẻ thoáng đãng. Rồi mặt trời lặn và, chập tối, tôi rút vào một cái hang mà tôi cho là an toàn. Tôi bê một tảng đá to bịt cửa ra vào vốn hẹp và thập, nhưng không bịt khít để có một chút ánh sáng bên ngoài chiếu vào mà vẫn ngăn được lũ rắn. Tôi ăn một phần thức ăn mang theo trong tiếng phun củà những con rắn đã bắt đầu xuất hiện. Những tiếng phun phì phì ghê rợn của chúng làm tôi cực kỳ sợ hãi không sao có được một đêm nghỉ ngơi yên tĩnh, như các ngài có thể tưởng tượng được. Mặt trời lên, đám rắn rút về hang. Tôi cũng vừa run vừa bước ra ngoài và có thể nói không ngoa là tôi đã dẫm chân rất lâu lên bao nhiêu viên kim cương mà không hề nảy lên một chút nào ham muốn. Cuối cùng tôi tìm chỗ ngồi nghỉ và dù trong lòng lo âu khắc khoải, nhưng vì suốt một đêm không nhắm mắt, tôi đã ngủ vùi. Nhưng chỉ được một lát thì giật mình thức giấc vì thấy một cái gì đó rơi xuống cạnh gây thành một tiếng động lớn. Đó là một tảng thịt tươi và cũng cùng lúc đó tôi nhìn thấy nhiều tảng thịt khác từ các vách đá lăn xuống khắp chỗ.

Trước đây tôi cho chỉ là một câu chuyện làm quà của các thuỷ thủ và một số người khác. Họ nói nhiều lần về cái thung lũng kim cương và mánh khoé của một số nhà buôn dùng để lượm những viên đá quí đó. Bây giờ tôi mới blết là họ đã nói thật. Quả vậy, những nhà buôn đó lần tới thung lũng này vào thời kỳ mà những con đại bàng sinh đẻ. Họ cắt thịt bò, thit lợn, thịt cừu ra từng tảng to rồi ném xuống thung lũng. Những viên đá quí ở đúng chỗ tảng thịt rơi sẽ bám vào và những chú chim đại bàng, ở xứ sở này to và khoẻ hơn những con ở nơi khác, sẽ sà xuống quắp lấy những tảng thịt đó mang về tổ ở tít trên các mỏm núi cao để làm mồi cho chim con. Thế là, những nhà buôn leo lên đến tận nơi la hét, gõ đập gây tiếng động xua chim bay đi và nhặt lấy những viên kim cương đã dính chặt vào những thớ thịt. Họ phải dùng mẹo đó vì chẳng còn cách nào để lấy được những viên đá quí trong thung lũng như một cái vực sâu không đường lên xuống.

Tôi đã tưởng là không sao có thể ra khỏi cái vực này và coi đây như nám mồ của mình rồi. Nhưng những gì mà tôi trông thấy đã làm thay đổi ý nghĩ. Tôi đã hình dung ra phương cách để bảo tồn sinh mạng của mình.
Ánh sáng ngày đã rõ, buộc Scheherazade ngừng nói. Nhưng nàng lại kể tiếp câu chuyện này vào đêm sau.

***​


“Tâu bệ hạ - Nàng nói vẫn hướng về hoàng Đế Ấn Độ - Sindbad tiếp tục kể lại những mạo hiểm trong chuyến đi thứ hai của mình cho cả bọn nghe: .
- Tôi bắt đầu tìm nhặt - Ông nói- những viên kim cương to nhất dưới mắt mình và bỏ đầy vào trong cái túi đa mà tôi đã dùng để đựng thức ăn. Rồi tôi chọn một tảng thịt dài nhất quấn quanh vào người, buộc chắt lại bằng tấm vải khăn đội đầu của mình và cứ để như thế tôi nằm úp xuống đất, cái túi da chứa kim cương buộc thật chặt vào thắt lưng để không thể rơi được.

Vừa chuẩn bị xong thì bầy đại bàng bay tới. Mỗi con quắp lấy một tảng thịt. Một trong những con khoẻ nhất cũng làm thế quắp lấy tảng thịt, có tôi bên trong đưa lên núi cao về tới tổ của nó. Những nhà buôn đã chờ trước ở đó, la hét om xòm làm bầy đạI bàng hoảng sợ bỏ mồi lại và bay đi. Một người trong bọn họ đi tới gần và khi nhìn thấy tôi thì trố mắt sợ hãi. Nhưng hắn lấy lại ngay được tinh thần, đáng lẽ hỏi tôi vì sao lại ở đó thì lại gây sự hỏi tôi vì sao lại chiếm đoạt tài sản của hắn. Tôi bảo anh ta:
Anh sẽ nói năng với tôi bằng thái độ nhân đạo hơn khi anh biết tôi rõ hơn: Hãy yên tâm đi - Tôi nói thêm – Tôi có đủ kim cương cho anh và cho tôi nhiều hơn tất cả của nhũng người kia cộng lại. Nếu họ có viên nào thì chang qua là vì may mắn mà thôi. Còn tôi, tôi chọn từng viên ngay ở dưới đáy sâu thung lũng và để trong cái túi da mà anh nhìn thấy đây.

Vừa nói tôi vừa chỉ cái túi cho anh ta thấy. Chưa kịp nói hết câu thì những nhà buôn khác đến xúm lại quanh tôi, hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi, họ lại càng sửng sốt hơn khi nghe tôi kể chuyện của mình. Họ khâm phục không những vì mưu mẹo của tôi dùng để thoát ra khỏi cái vực sâu ấy mà còn vì sự táo bạo gan dạ của tôi nữa.
Họ dẫn tôi về nơi trọ chung và ở đó trước mặt họ, tôi mở cái túi da. Những viên kim cương cỡ to của tôi làm họ trầm trồ thán phục và cho biết là ở tất cả các triều đình mà họ đã từng qua đều không thấy có một viên kim cương nào bằng thế. Tôi bảo nhà buôn, chủ cái tổ chim mà tôi được mang tới (vì mỗi nhà buôn đều có tổ thuộc về mình) là tha hồ chọn cho mình bao nhiêu viên cũng được. Nhưng ông ta chỉ cầm lấy một viên, cũng không phải là to lắm, khi tôi nài ông ta cứ việc lấy thêm đi, chẳng làm tôi thiệt thòi gì thì ông ta bảo:
- Không, tôi đã thấy rất bằng lòng với viên này. Nó cũng đủ quí và giá trị để từ nay tôi khỏi còn phải nhọc công bôn ba đi kiếm tìm lưng vốn.
Tôi qua đêm với những người buôn bán này, kể cho họ nghe một lần nữa câu chuyện của tôi vì có mợt số người chưa được nghe yêu cầu. Tôi không sao kiềm chế được niềm vui khi cảm thấy mình đã may mắn thoát được bao hiểm nguy mà tôi vừa kể cho các vị nghe đó. Tôi thấy dường như hoàn cảnh đã trải qua chỉ là một giấc mộng và tin chắc là mình chẳng có gì phải sợ hãi cả.

Đã nhiều ngày, các nhà buôn ném những tảng thịt xuống thung lũng và vì mỗi người đều có vẻ mãn nguyện về những viên kim cương thu được, ngày hôm sau, tất cả chúng tôi lên đường. Chúng tôi vượt qua những tráí núi cao ở đó có những con rắn mình dài ghê gớm, may mà đều tránh được, không ai bị sao cả. Chúng tôi tới một bến cảng đầu tiên, từ đó đi qua đảo Roha, nơi mọc thứ cây chiết xuất ra long não. Cây này to lớn, cành lá rậm rạp, bóng của nó có thể che mát cho cả trăm người. Nhựa của nó chảy ra từ một chỗ người ta khoét vào thân nó trên cao và hứng vào một cái bình. Nhựa đặc lại là long não. Chiết xuất như vậy sẽ làm cho cây chết khô đi.

Ở đảo này còn có loài tê giác nhỏ hơn voi nhưng to hơn trâu. Chúng có một chiếc sừng trên mũi dài khoảng vài gang tay. Sừng này rắn chắc, có ngấn ở giữa từ bên nọ sang bên kia. Trên sừng có những vạch trắng hình mặt người. Tê giác đánh nhau với voi, dùng sừng húc vào bụng và nhấc bơng cả con voi lên đầu. Nhưng vì máu và mỡ chảy tràn xuơng mắt làm tê giác chẳng nhìn thấy gi nữa mà ngã lăn xuống đất. Điều này chắc làm cho các vị phải ngạc nhiên là đại bàng bay đến quắp luôn cả hai bằng cặp móngsiêu mạnh của mình mang về nuôi con.
Ở đảo này còn rất nhiều cái đặc biệt khác nữa nhưng tôi bỏ qua vì sợ các vị phải nghe nhiều nhàm tai. Tôi đổi một vài viên kim cương lấy những thứ hàng ở đây có chất lượng cao. Từ đảo này chúng tôi qua nhiều đảo khác nữa và cuối cùng sau khị ghé qua nhiều thành phố buôn bán, chúng tôi đến Balsora và từ đây tôi về tới Bagdad. Trước hết tôi bố thí thật rộng rãi cho những người nghèo và yên hưởng một cách đầy vinh hạnh nguồn của cải vô tận mà tôi kiếm được mang về, kết quả của bao gian lao hiểm trở.

Sindbad kể lại chuyện trong chuyến đí lần thứ hai của ông như thế đó. Ông bảo người nhà lại đem ra cho , Hindbad một trăm đồng sequin nữa và dặn hôm sau tới nghe chuyện chuyến đi thứ ba của ông.
Những khách được mời trở về nhà và lại tới nhà Sindbad, người đi biển vào ngày hôm sau cũng đúng giờ như thế kể cả người khuân vác hầu như đã quên đi một phần nào sự nghèo khổ những ngày qua. Họ lại ngồi vào bàn ăn uống và xong bữa, Sindbad được yêu cầu, kể những ehuyện về chuyến đi thứ ba, chi tiết như sau:
(Còn tiếp...)
 
Chương 28

CHUYẾN ĐI THỨ BA CỦA SINDBAD

- Chẳng bao lâu - Ông nói - Trong cuộc sỐng nhung lụa, tôi đã quên tất cả những kỷ niệm của bao gian lao khổ ải đã trải qua trong hai cuộc đi trước. Nhưng vì còn đang trong tuổi tráng niên, tôi tháy chán ngán trong cuộc sống an nhàn và say mê với những gian nguy mới mà tôi muốn đương đầu, tôi rờI Bagdad với nhiều thứ hàng có giá trị của địa phƯơng mà tôi cho chuyển tới Balsora. Tại đây, tôi lại xuống tàu cùnG với nhiều nhà buôn khác. Chúng tôi làm một chuyến đi biển dài, cập vào nhiều bến cảng và làm những cuộc mua bán lớn.
Một hôm, đang lênh đếnh giữa blển thì bị một cơn bão lớn làm chúng tôi lạc đường. Bão kéo dài nhiều ngày và đánh bạt chúng tôi đến trước bến một hải đảo mà thuyền trưởng rất không muốn cập vào. Nhứng tình thế bắt buộc chúng tôI phải ghé vào đậu ở đây lúc thuỷ thủ hạ buồm cuốn lại rồi, thuyền trưởng bảo chúng tôi:

- ĐẢo này và một số đảo lân cận đều có những bộ tộc đã man sinh sống. Mình họ đầy lông lá và thể nào họ cũng tấn công chúng ta. Dù họ là những người lùn, nhưng nỗI khổ của chúng ta là không được có bất kỳ một hàhh động chống lại nào vì họ đông lắm, đông chẳng khác gì châu chấu. Nếu xảy ra việc ta trót làm chết một người nào đó trong bọn họ thì cả hàng trăm hàng ngàn ngườị lao vào chúng ta ra tay tàn sát không bỏ sót một ai.
Ánh sáng ban ngày đã chiếu rọi vào hậu cung, ngăn Scheherazade lại. Đêm sau nàng lại kể tiếp.

***​


“Những lời nói của thuyền trưởng làm tất cả mọI người trên tàu hết sức sững sờ và chẳng phải lâu la gì mà chúng tôi thấy rõ những gì ông nói đó quả là sự thật. Chúng tôi thấy xuất hiện hằng hà sa số những con ngườI man rợ xấu xí, toàn thân Lông lá màu hung, cao chỉ khoảng hai bộ. Chúng nhảy xuống biển bơi và quây tròn lấy tàu chúng tôi chỉ trong chốc lát. Chúng nói gì đó khi tiếp cận, nhqng chúng tôi không hiểu gì cả. Chúng bám lấy mạn tàu và các dây rợ của tàu, leo lên từ mọi phía đến tận sàn tàu nhanh thoăn thoắt hầu như chân chúng chẳng chạm vào đâu cả.

Chứng tôi kinh hoàng nhìn bọn chúng hành động mà chẳng dám mảy may nghĩ tới việc chống cự hoặc nới gì để ngăn chúng lại vì sợ sẽ rất tai hại cho mình. Quả nhiên, chúng rỡ tung buồm ra, chặt đứt dây buộc neo mà chẳng thèm kéo nó lên, và sau khi đẩy con tàu cập bờ, chúng bắt tất cả chúng tôi phải đổ bộ lên cạn. Sau đó, chúng lái con tàu đến một đảo khác, nơi ở của chúng. Tất cả mọi người đi biển đều tránh hòn đảo mà chúng tôi đã ghé vào lúc đó, rất nguy hiểm phải đừng lại ở đây vì sao thì tôi sẽ nói sau, nhưng chúng tôi đành phải kiên nhẫn mà chịu đựng sự rủi ro này.

Bước lên bờ, chúng tôi đi vào đảo, dọc đựờng đi ngắt vài trái cây và cỏ mọc ở đó đưa vào miệng ăn để kéo dài thêm giây phút cuối cùng của sự sống được chừng nào hay chừng đó vì tất cả chúng tôi đều cầm chắc là mình sẽ chết. Trong lúc bước đi, chúng tôi nhìn thấy, còn khá xa một toà dinh thự lôn mà chúng tôi đang hướng đi tới. Đó là một toà lâu đài rất cao, kiến trúc đẹp, có một cổng lớn, hai cánh cửa bằng gỗ mun chúng tôi phải đẩy mạnh để mở ra. Vào đến trong sân, chúng tôi nhìn thấy ngay trước mặt là một căn nhà rộng. Ngoài hành lang, một bên có một đống xương người, một bên có rất nhiều những chiếc xiên dùng để nướng thịt. Chúng tôi sợ hết hồn người run lên bần bật trước cảnh đó và vì đã rất mệt qua quãng đường xa lắc vừa rồi, chân chúng tôi khuỵu xuống và lặng người đi rất lâu:
Mặt trời dần lặn, và trong khi đang ở trong tình trạng bi thảm như tôí vừa tả vôi các vị thì cửa ngôi nhà rầm rầm mở toang và ngay lập tức một bộ mặt khủng khiếp của một tên da đen cao bầng một cây cọ lớn nhô ra. Nó chỉ có một con mắt đỏ rực như một hòn than ở chính giữa trán, rặng cửa dài và nhọn hoắt nhô ra khỏI miệng rộng chẳng kém mỡm ngựa, môi dưới của nó chảy dài chấm ngực. Hai tai nó giống như tai voi trùm lên hai vai. Móng chân, móng tay nó đài, nhọn như móng của những con chim to lớn nhất. Nhìn thấy tên .khổng lồ khủng khiếp như thế, chúng tôi ngất lịm nằm im như chết.

Cuối cùng tỉnh lại chúng tôi thấy nó ngồi dưới mái tiền đình, con mắt độc nhất nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Khi đã nhìn kỹ, nó tiến đến gần, giơ một tay nắm lấy tôi xoay ra bốn phía nhu một người đồ tể xem đầu một con cừu vậy Ngắm đi ngắm lại, chắc là thấy tôi quá gầy chỉ có xương và da thôi nên nó lại thả xưống. Nó lần lượt tóm lấy từng người một, cũng ngắm nghía như thế và cuối cùng vì thuyền trưởng là người tọ béo nhất trong cả đám, nên nó nhấc bổng ông lên bằng một tay như ta nắm một con chim sẻ, cầm lấy xiên và xiên qua ngườI ông. Nhóm lửa lò lên chây thật to, nó đưa ông lên nướng qua rồi đem về nhà ăn bữa tối. Xong bữa, nó quay lại tiền đình, nằm ngủ, ngáy vang như sấm mãi tới sáng hôm sau. Còn chúng tôi, làm sao mà yên tâm hưởng giây phút êm đềm của sự nghỉ ngơi được chúng tôi qua đêm trong sự lo âu sợ hãi đến tột độ. Trời sáng, tên khổng lồ thức dậy, đứng lên, đi ra ngoài, để chúng tôi lại trong lâu đài.

Khi cho là nó đã đi xa, chúng tôi phá tan sự im lặng nặng nề đã phải giữ suốt đêm và cùng nhau kêu rên than khóc vang cả lâu đài. Dù chúng tôi là số đông và chỉ có mỗi một kẻ thù thôi nhưng lúc đầu không ai có ý nghĩ là phảI giết nó đi để tụ giải thoát. Việc này biết là cũng rất khó thực hiện đấy, nhưng đó là việc tất nhiên chúng tôi phảI làm:
Chúng tôi bàn bạc nhiều cách khác nhau nhưng không quyết định được phải chọn cách nào nên cũng đành phó thác cho Thượng đế định đoạt số phận của mình. Suốt cả ngày chúng tôi dạo quanh đảo kiếm quả kiếm rau ăn như ngày hôm truớc. Vào buổi chiều tối, chúng tôi định tìm một chỗ kín đáo nâo đó để ngủ, nhưng chẳng có, nên đành buộc lòng phải trở lại toà lâu đài.

Tên khổng lồ cũng không quên tới và lại nướng một người nữa trong bọn tôi ăn bữa tối. Rồi nó ngủ và ngáy ầm ĩ mãi đến sáng hôm sau, rồi nó lại đi ra và để chúng tôi lại đó. Tình thế vô cùng khủng khiếp đối với chúng tôi khiến cho nhiều người muốn nhảy xuống biển cho xong đời hơn là phải chờ một cái chết khủng khiếp như vậy. Nhưng một người trong bọn lúc này cất tiếng:
- Tự sát là một điều cấm kị. Và nếu như được phép thì phải chăng là rất hợp lý nếu chúng ta bàn cách tiêu diệt tên man rợ nó đang dành cho chúng ta một cái chết thảm khốc như thế này?
Vì có một dự kiến chợt nảy ra trong đầu, tôi liền đem trao :đổi với các bạn và được họ tán thành.

Các bạn ạ - Tôi nói với họ - Chắc các bạn cũng đã biết là có rất nhiều những tấm gỗ trôi nổi stlất đọc bờ biển, nếu các bạn tin tôi thì chúng ta hãy cùng nhau đóng thành những chiếc bè và khi làm xong, sẽ xếp lại trên bờ đợi thời cơ chúng ta sẽ phải dùng đến. Tuy nhiên trước tiên là phải tiến hành việc tụ giải phóng mình thoát khỏi tên khổng lồ đã. Nếu thành công, chúng ta có thể chờ ở đây một con tàu nào đó tới sẽ đưa chúng ta ra khỏi hòn đảo tai hoạ này. Nếu ngược lại, bị thất bại thì thật khẩn trương, chúng ta cùng những chiếc bè đã làm sẵn lao xuống mặt biển. Phải thú thực là với những phương tiện mỏng mảnh đối đầu cùng sóng dữ, cũng dễ dàng mất mạng như chơi, nhưng thà bị chôn vùi dưới sóng biển còn hơn là chui vào dạ dày của tên quỉ nó đã nhai tươi nuốt sống hai người bạn của chúng ta.-Ý kiến của tôi được tán thưởng. Chúng tôi làm những chiếc bè, mỗi chiếc có thể chở được ba người.

Tất cả lại trở về toà lâu đài vào buổi chiều, tên khổng lồ về sau chúng tôi một chút. Chúng tôi lại phải chứng kiến nó nướng một người nữa trong bọn. Nhưng cuối cùng đây là cách chúng tôi trả thù tên khổng lồ về tội ác dã man tàn bạo của nó. Sau khi nó ngủ xong cái bữa ăn đáng nguyền rủa đó rồi, nó nằm ngửa ra ngủ. Vừa nghe thấy tiếng ngáy, chín người gan dạ nhất trong chúng tôi và tôi, mỗi người cầm lấy một cái xiên cho vào lò lửa nung cho đầu nhọn đỏ lên rồi đồng thời nhất loạt chúng tôi đâm sâu vào mắt nó.
Tên khổng lồ kêu rống lên đau đớn. Nó chồm dậy khua hai tay ra bốn phía hòng nắm được một người nào đó. Nhưng chúng tôi đã kịp thời tránh ra xa và nằm vào những chỗ mà bàn chân nó không thể chạm tới. Sau khi sờ soạng vô ích, nó dò dẫm tìm được cửa ra, vừa bước đi vừa gào rú lên ghê rợn.

Scheherazade không nói thêm gì nữa trong đêm nay. Nhưng đêm sau, nàng kể tiếp chuyện này.

***​


“Chúng tôi ra khỏi lâu đài sau tên khổng lồ - Sindbad kể tiếp - Và đi đến chỗ để những chiếc bè trên bờ biển. Đưa các chiếc bè đó xuống nước, chúng tôi chờ trời sáng để trèo lên bơi đi, đặt trường hợp là nhìn thấy tên khổng lồ mù đó được đồng loại của nó dẫn tới. Nhưng chúng tôi hy vọng là nó không xuất hiện và không còn nghe thấy tiếng gầm rú nũa có thể nó đã chết vì vết thương. Và nếu vậy thì chúng tôi sẽ ở lại đảo để khỏi phải mạo hiểm đi trốn trên những chiếc bè mỏng manh: Nhưng mới tờ mờ sáng, chúng tôi đã nhìn thấy kẻ thù tàn bạo và dã man của chúng tôi tập tễnh bước theo hai tên khổng lồ to lôn gần bằng nó dắt nó đi và phía sau nó là cả một bọn khác khá đông cũng đang rảo bước.

Tới lúc này thì không còn ngần ngừ gì được nữa, chúng tôi lao xuống bè và bắt đầu gắng sức bơi ra xa bờ. Lũ khổng lồ thấy vậy; nhặt những tảng đá to chạy dọc trên bờ và lội xuống nước ngập tới nửa người, ném đá vào chúng tôi. Chúng ném rất trúng nên trừ chiếc bè trên đó có tôi ra thì tất cả những bè khác đều bị vỡ tan và người trên bè đều bị chết đuối. Tôi và hai người bạn, chúng tôi ra sức chèo cật lực nên đã ra được khá xa bờ ngoài tầm ném đá của bọn khổng lồ.
Ra đến ngoài khơi, gió và sóng thi nhau hành hạ vật vã chúng tôi dữ dội. Suốt ngày hôm đó và đêm tiếp theo chúng tôi sống trong sự lo sớ không biết số phận mình sẽ ra sao đây. Nhưng ngày hôm sau may mắn làm sao bị giạt vào một hòn đảo, chúng tôi bước lên với sự mừng vui khôn xiết ô đây có nhiều cây có quả ngọt giúp cho việc phục hồi sức khoẻ đã gần như kiệt quệ của chúng tôi.

Tối đó, chúng tôi nằm ngủ ngay trên bờ biển. Nhưng nửa đêm bị thức giấc vì tiếng bò sột soạt của một con rắn dài và to như một thân cây cọ. Nó ở quá gần chúng tôi nên đã há miệng nuốt luôn một trong hai bạn, dù bạn kêu và gắng hết sức vùng vẫy để thoát ra nhưng con rắn nhiều lần quật con mồi xuống đất và nuốt gọn anh. Anh bạn còn lại và tôi, chúng tôi gié chân chạy, và mặc dù đã ở khá xa mà một lúc sau vẫn còn nghe tiếng chúng tôi đoán là con rắn phun xương người bạn xấu số đã bị nó nuốt chửng. Quả nhiên, hôm sau chúng tôi rùng mình ghê rơn khi nhìn thấy đống xương. Tôi kêu lên thảm thiết:
Ôi, Thượng đế! Chúng tôi còn phải qua nhứng tai nạn nào nữa đây? Đã tưởng được thảnh thơi thoát khỏi cái chết ngày hôm qua dưới bàn tay độc ác của tên khổng lồ và của sóng dữ, thì lúc này đây lại rơi vào một hiểm nguy không kém phần khủng khiếp.

Trong lúc đi lang thang, nhận thấy có một cây rất cao, chúng tôi dự định buổi tối sẽ trèo lên đó qua đêm cho chắc chắn. Cũng như hôm trước, chúng tôi lại ăn một ít quả kiếm được và đến cuối ngày, thì trèo lên cây. Vừa trèo lên được nửa chừng thì nghe thấy tiếng rắn bò, đến gốc cây nó ngửa cổ lên phun phì phì rồi dựa vào thân cây, ngóc đầu lên chạm trúng vào anh bạn ở bên dưới tôi, nó đớp lấy và rút xuống ngay.
Tôi ở trên cây mãi đến sáng hôm sau mới trèo xuống sống đở chết đở. Nghĩ bụng rồi số phận mình cũng đến như hai anh bạn kia thôi, tôi rùng mình kinh hãi. Thế rồi tôi lần ra bờ biển định nhảy xuống biển cho thoát nợ. Nhưng nghĩ lại thấy tiếc cuộc sống, tôi chống lại cái hành động tuyệt vọng đó và phó mặc cho Thượng đế định đoạt tuỳ theo ý chí của Người.

Tuy vây nhặt nhạnh rất nhiều mảnh gỗ, những cành gai khô và các dây rợ. Tôi buộc thành nhiều bó và buộc liền các bó đó lại với nhau; quây thành một vòng rộng xung quanh gốc cây. Tôi buộc cả quanh đầu tôi một bó cành gai như thế. Xong việc, đến chập tối là tôi giam mình trong cái vòng tròn đó, buồn bã an ủi là mình đã chu đáo để tự bảo vệ chống lại số phận khắc nghiệt. Con rắn lại đến, bò quanh vòng vây, tìm cách nuốt sống tôi. Nhưng không xong vì bị cái hàng rào tôi tạo nên ngăn lại. Nó quanh quẩn ở đó cho tới sáng y như một con mèo, rình chuột trong hang được phòng thủ chắc chắn nên đành chịu. Cuối cùng trời sáng, nó bò đi, nhưng tôi cũng chừa đám ra khỏi cái thành trì gỗ và gai đó khi mặt trời chưa lên cao.

Tôi mệt bã người vì việc chống đỡ đó và vì cả cái hơi thở hôi thối của con rắn phả vào thật khủng khiếp. Tôi thấy thà chết luôn còn hơn. Không còn nhớ tới sự nhẫn nhục hôm qua nữa, tôi rời cái cây, chạy ra phía biển với ý định lại đâm đầu xuống chết quách cho xong:
Tới đây, thấy trời sáng Scheherazade dừng lại. Hôm sau, nàng kể tiếp và nói với hoàng đế.

***​


- Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục kể về chuyến đi thứ ba của ông ta: Thượng đế - Ông nói - động lòng về nỗi tuyệt vọng của tôi, giữa lúc tôi định đâm đầu xuống biển thì chợt trông thấy mọt con tàu cũng còn khá xa bờ. Tôi kêu thật to và tháo khăn quấn đầu ra vẫy. Việc làm này không phải là vô ích. Những người trên tàu đã nhìn thấy tôi và thuyền trưởng đã cho xuồng vào đón. Khi tôi đã ở trên tàu, các thương nhân và thuỷ thủ xúm lái vồn vã hỏi han vì sao tôi lại có một mình trên hoàng đảo này, và sau khi kể cho họ nghe tất cả những gì đã xảy ra với tôi, những người đi biển già dặn nhất bảo là rất nhiều lần đã được nghe về những tên khổng lồ trên đảo đó là những tên ăn thịt người, không những chúng ăn nướng mà còn ăn sống luôn kia. Còn về rắn thì các vị này nói thêm là trên đảo đó lúc nhúc rắn to dài ghê gớm, ban ngày thì lẩn đi, đến đềm mới bò ra kiếm mồi. Tất cả các người trên tàu đều tỏ ra hết sức vui mừng thấy tôi thoát nạn và thấy tôi cần ăn nên đã vội vàng chiêu đãi tôi tất cả những gì ngon nhất mà họ có. Thuyền trưởng thấy áo quần tôi rách tươm, hào hiệp cho tội một bộ của ông.
Chúng tôi lênh đênh trên biển một thời gian ghé vào nhiều hải đảo và cuối cùng cặp đảo Salahat, nơi người ta khai thác đàn hương, một dược liệu quí. Chúng tôi vào bến và buông neo. Những nhà buôn bắt đầu dỡ hàng xuống bán hoặc đổi. Trong lúc ấy, thuyền trưởng gọi tôi đến bảo: Người anh em ạ, tôi có một số hàng hoá thuộc về một nhà buôn đã là khách trên tàu này một thời gian. Vì người này đã chết nên tôi muốn bán đi để lấy tiền trao cho những người thừa kế của ông ta khi gặp một ai đó .

Những kiện hàng ông vừa nói đã để sẵn trên sàn thượng tàu, ông lấy tay chỉ và bảo tôi: Những kiện hàng ấy đấy. Tôi mong người anh em nhận đem đi bán hộ, dưới điều kiện là bạn sẽ được hưởng một phần lãi xứng với công lao .
Tôi nhận lời và cảm ơn ông đã cho tôi cơ hội để khỏi phải ăn không ngồi rồi.
Người thư ký tàu ghi vào sổ tất cả những kiện hàng kèm với tên những người chủ hàng đó. Anh ta hỏi thuyền trưởng những kiện hàng giao cho tôi bán thì sẽ phải ghi tên chủ hàng là ai? Thuyền trưởng bảo:
- Ghi là Sindbad, người đi biển.
Tôi nghe nói mà chẳng khỏi xúc động, nhìn kỹ viên thuyền trưởng tôi nhận ra đúng là người đã bỏ tôi lại ở hòn đảo mà tôi nằm ngủ ở bờ một con suối trong chuyến đi thứ hai của tôi. Ông ta đã giương buồm cho tàu chạy chẳng chờ mà cũng chẳng cho đi tìm tôi. Tôi không nhận ra ông ta ngay vì ông đã đổi khác nhiều kể từ lần gặp trước.

Ông ta thì coi như tôi đã chết, nên chẳng lấy làm lạ là không nhận ra tôi. Tôi bảo ông:
- Thưa thuyền trưởng, có phải số hàng này thuộc về một thương gia tên là Sindbad?
- Đúng - Ông đáp - Ông ta tên như thế, người thành phố Bagdad và lên tàu tôi từ Balsora. Một hôm chúng tôi lên một hòn đảo để lấy nước ngọt và nghỉ ngơi, tôi không, hiểu vì sơ ý làm sao cho tàu chạy mà lại không điểm xem ông ta đã lên cùng với nhũng người khác chưa. Bốn tiếng đồng hồ sau tất cả mọi người mới nhận thấy là thiếu ông ta. Lúc đó gió mạnh và thuyền đang xuôi nên không sao có thể quay ngược về để đón ông ta được.
- Thế ông cho là ông ta chết rồi chăng? - Tôi hỏi.
- Chắc thế - Ông đáp.
- Thế thì, thưa thuyền trưởng! - Tôi nghiêm trang nói - Ông thử mở to mắt nhìn xem tôi đây có phải là Sindbad mà ông đã bỏ lại trên cái đảo hoang đó không? Tôi nằm ngủ trên bờ một con suối và khi mở mắt thức dậy thì thấy chẳng còn một ai trong đoàn nữa.

Nghe nói thế, thuyền trưởng chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân.
Đến đây Scheherazade thấy trời đã sáng nên buộc phải im tiếng. Đêm sau, nàng lại kể tiếp:

***​


“Thuyền trưởng - Sindbad nói - Sau khi ngắm thật kỹ, cuôi cùng đã nhận ra tôi.
- Tạ ơn Thượng đế! - Ông ôm lấy tôi kêu lên - Tôi thật sưng sướng là định mệnh đã sửa chữa lỗi lầm cho tôi. Đây là hàng hoá của ông mà tôi luôn chú ý bảo quản và đem bán ở tất cả các bến mà tàu có thé vào; tôi trả lại ông tiền đây.
Tôi nhận tiền và ngỏ lời biết ơn sâu sắc.
Từ đảo Salahat chúng tôi đến một đảo khác, ở đây tôi mua vào đinh hương, quế và những hàng tạp hòá khác. Khi rời đi xa xa một chút, chúng tôi gặp một con rùa lớn, chiều dài và rộng tới bốn chục gang tay. Chúng tôi nhìn thấy cả một con cá hình thù giống như một con bò cái. Nó có sữa và da thì dầy và cứng mà thường người ta dùng để làm ra những chiếc khiên. Tôi cũng nhìn thấy một con cá khác nữa mà đầu và cả màu da của nó giống như một con lạc đà. Cuối cùng, sau một chặng đi dài, tôi tới Balsora và từ nơi đó tôi trở về thành phố Bagdad với bao nhiêu là của cải mà tôi cũng chẳng rõ số lượng là bao nhiêu. Tôi cũng lại bố thí cho người nghèo một phần lớn và tậu những vùng đất rộng thêm vào số đất đai đã có từ trước.

Sindbad chấm dứt câu chuyện về chuyến đi thứ ba của ông như thế đấy. Rồi ông lại tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và mời gã lại tới dùng bữa vào ngày mai và nghe chuyện về chuyến đi thứ tư của ông. Hindbad và mọi người ra về và ngày hôm sau, vì họ đã tới đông đủ, ăn xong Sindbad cất tiếng tiếp tục kể chuyện về những cuộc phiêu lưu của mình.
(Còn tiếp...)
 
Chương 29

CHUYẾN ĐI THỨ TƯ CỦA SINDBAD

Những thú vui chơi và những trò giải trí mà tôi lao vào sau chuyến đi biển thứ ba của mình không đủ sức mạnh quyến rũ để tôi từ bỏ tính thích phiêu lưu muốn đi nữa. Tôi vẫn còn bị lôi cuốn vì lòng ham mê buôn bán và được thấy những thứ mới lạ ở các nơi. Vậy là tôi sắp xếp công việc, gom một số hàng hoá có thể tiêu thụ được ở những nơi định đến và lên đường. Tôi theo đường đi Ba Tư, phải đi xuyên qua nhiều tỉnh thành tới một cảng biển, ở đây tôi xuống tàu. Chúng tôi giương buồm và đã ghé vào nhiều bến thuộc đất liền và một số hòn đảo miền Đông. Rồi một hôm sau khi vượt qua một chặng đường dài, chúng tôi bị một cơn gió xoáy khiến thuyền trưởng phải cho hạ buồm và ra những lệnh cần thiết đề phòng nguy hiểm mà chúng tôi đang bị đe doạ. Nhưng tất cả đều vô ích. Tàu không điều khiển được, các cánh buồm đều bị xé nát, xô vào đá ngầm vỡ toang, một số lớn nhà buôn và thuỷ thủ chết đuối, hàng hoá chìm nghỉm .

Scheherazade kể đến đây thì nhìn thấy trời sáng. Nàng dừng lại và Schahriar thì đứng lến. Đêm sau nàng kể tiếp như sau câu chuyện về chuyến đi thứ tư của Sindbad
Tôi may mắn - Sindbad kể tiếp- Cũng như nhiều nhà buôn khác và thuỷ thủ là bám được vào một tấm gỗ. Chúng tôi được một dòng thuỷ lưu đẩy tới một hòn đảo ngay trước mặt. Trái cây và nước suối ở đây đã giúp chúng tôi phục hồi một phần sức lực. Tìm chỗ nghỉ ngơi qua đêm ngay tại nơi đã bị biển hất lên, chúng tôi chưa biết phải làm gì đây. Tinh thần suy sụp sau tai nạn vừa qua đã làm chúng tôi hoang mang cực độ.

Ngày tiếp đó, lúc mặt trời lên, rời bờ biển đi sâu vào trong đảo, thấy có nhà cửa, chúng tôi liền đi tới. Rất đông những người da đen đổ xô ra vây tròn chia nhau nắm lấy chúng tôi rồi lôi vào trong nhà họ.
Năm người bạn và tôi được đưa vào cũng một nhà. Trước hết họ kéo chúng tôi ngồi xuống và đưa cho một thứ lá và ra hiệu mời ăn. Những người bạn của tôi không suy nghĩ là những người mời chúng tôi ăn nhưng bản thân họ không ăn, mà vì bị cái đói thôi thúc nên đã cầm lấy những lá đó mà nhai ngấu nghiến. Còn tôi, linh cảm thấy có một sự lừa bịp nào đó, tôi không đụng tới và như vậy thật là may vì chỉ một lát sau tôi thấy như tâm thần của các bạn tôi bị nhiễu loạn. Họ nói năng linh tinh và không biết mình nói gì.

Sau đó họ cho chúng tôi ăn cơm nấu với đầu dừa, các bạn tôi, không còn tỉnh táo nữa đã ăn lấy ăn để. Tôi cũng ăn nhưng rất ít. Những tên da đen này cho chúng tôi nhai loại lá đó trước hết là để làm cho chúng tôi loạn trí không còn biết gì về số phận thảm thê của mình nữa. Rồi chúng cho chúng tôi ăn để vỗ béo. Vì bọn chúng đều là giơng ăn thịt người nên trước khi ăn thịt chúng tôi, chúng để một thời gian chờ chúng tôi béo lên. Đó là điều xảy đến với các bạn tôi vì họ đã mất lý trí nên mặc kệ mọi sự. Vì tôi vẫn còn minh mẫn thì chắc các vị cũng đoán là đáng lẽ cũng béo tốt như mọi người nhưng tôi mỗi ngày lại càng gầy ốm thêm. Luôn luôn bị cái chết đe doạ trở thành một liều thuốc độc trong tất cả các thức tôi ăn. Chứng trầm cảm trở thành cứu tinh đối với tôi vì bọn da đen sau khi giết và ăn thịt hết các bạn tôi thì chúng ngừng lại. Nhìn thấy thân hình tôi khô khẳng, ốm yếu, chỉ có xưống và da nên chúng luì cái chết của tôi vào một thời đlểm khác.

Cũng vì vậy nên tời được khá tự do, hầu như chẳng cớ ai coi sóc và chú ý đến hành vi của tôi nữa. Điều đó cho phép tôi đi xa cụm nhà ở của bọn da đen. Một lão già nhìn thấy, nghi ngờ ý đlnh của tôl, đã gào to lên.cho tôi quay lại nhưng thay vì nghe theo lão, tôi chạy nhanh hơn lên và chẳng mấy chốc khuất tầm mắt lão ta. Chỉ có mỗi một lão già đó ở nhà, còn những tên đen khác đều đi vắng và chỉ trở về vào lúc cuối ngày, đó là lệ thường của chúng. Cũng vì chắc là chứng chẳng làm sao đuổi kịp được khi biết tôi đã chạy trốn, tôi bước đi thong thả đến tận nửa đêm mới dừng lại nghỉ một chút và ăn một vài miếng thức ăn mang theo. Rồi tôi lại tiếp tục lên đường đi suốt bảy ngày đêm, để ý tránh xa những nơi có người ở. Những ngày này tôi sống qùa ngày bằng những quả dừa: ăn cùi dừa và uống nước dừa.

Đến ngày thứ tám, tôi đến gần biển và bất ngờ trông thấy những người da trắng như tôi đang mải thu hoạch hồ tiêu mà ở đó mọc lên bạt ngàn. Vẻ mải mê làm việc của họ là một dấu hiệu tốt và tôi chẳng khó khăn gì mà đi tới gần họ .
Scheherazade không nói thêm gì nữa trong đêm nay và đêm sau, nàng kể tiếp:

***​


Những người thu hoạch hồ tiêu -Sindbađ kể tiếp - tiến đến phía tôi, và khi nhìn rõ họ hỏi bằng tiếng Ả Rập tôi là ai và từ đâu tới. Sung sướng nghe thấy họ nói tiếng của mình, tôi đã thành thật kể cho họ nghe đã bị đắm tàu như thế nào, tới được cái đảo đó và rơi vào tay bọn người da đen ra sao. Họ đồng thanh nói:
- Nhưng những người da đen đó chuyên ăn thịt người kia mà. Nhờ có phép màu nào mà ông thoát khỏi bàn tay độc ác dã man của chúng?
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện mà các ngài vừa nghe đó và tất cả bọn họ đều vô eùng klnh ngạc. Tôi ở cùng họ cho tới ngày họ thu hoạch xong một số lượng hồ tiêu họ cần. Sau đó họ đưa tôi xuống con tàu đã đưa họ tới đây và về hòn đảo, nơi ở của họ. Tôi được giới thiệu với vị quốc vương của đảo. Vị vua nhân từ này đã lắng nghe câu chuyện của tôi và tỏ ra rất ngạc nhiên. Ông sai mang cho tôi quần áo và ra lệnh phải chú ý chăm sóc tôi.

Hòn đảo mà tôi ở lúc đó rất đông dận và sản vật không thiếu thứ gì. Trong thành phố nơi nhà vua đóng đô, việc buôn bán rất thịnh vượng. Chỗ trú chân khá dễ chịu, này bát đầu làm tôi khuây đi nỗi bất hạnh của mình và lòng nhân từ của vị quốc vương hào hiệp này làm tôi thật hài lòng. Thật vậy, trong ý nghĩ của ông, không có ai tài trí hơn tôi và rất cuộc không ai trong triều đình cũng như ở thành phố là không tìm cơ hội để làm tôi vui lòng. Chẳng báo lâu mà tôi được coi là một người được sinh ra trên đảo chứ chẳng phải là người ở nơi khác đến.
Tôi nhận thấy một điều theo tôi thì thật khác lạ. Tất cả mọi người, kể cả vua, cưỡi ngưa đều không có yên cương, bàn đạp. Một hôm, đánh bạo tôi hỏi Bso bệ hạ không sử dụng tiện nghi đó. Ông đáp là những cái đó ở quốc gia này chưa có ai biết để sử dụng cả.

Ngay tức thì tôi tìm đến một người thợ, vẽ mẫu cái cốt yên ngựa cho anh ta làm. Làm xong tội tự tẩy nhồi đệm bọc da và tràng trí bằng một tấm vải thêu kim tuyến. Sau đó tôi tìm một người thợ rèn đặt làm một cái hàm thiếc tôi cho kiểu và làm luôn cả hai cái bàn đạp.
Khi các thứ đã hoàn hảo, tôi đưa đến dâng nhà vùa và đóng thử vào một con ngưa. Nhà vua trèo lên cưỡi và rất thích thú sáng kiến này. Ông thể hiện sự vui thích hài lòng của mình bằng cách thưởng cho tôi rất nhiều thứ quí. Tôi cũng không tránh khỏi phải đặt làm rất nhiều yên ngựa cho các quan thượng thư và các quan chức chính trong triều. Họ cho rất nhiều quà, chẳng mấy chốc mà tôi giàu sụ. Tôi cũng đặt làm cho cả những người có danh tiếng nhất trong thành phố, vì thế danh tiếng của tôi lại càng lừng lẫy.

Vì tôi vào chầu rất đều đặn, nên một hôm nhà vua bảo:
- Sindbad, ta yêu mến ông và ta biết là tất cả quần thần cũng theo gương ta. Ta có một yêu cầu và muốn ông nên tuân theo.
- Tâu bệ hạ - Tôi đáp - Không có điều gì mà tôi không sẵn sàng làm theo ý của Người. Đối với tôi, Người có quyền tuyệt đối.Ta muốn lấy,vợ cho ông, để có thể cuộc hôn nhân này sẽ giữ được ông ở lại trong vương quốc của ta, để ông khỏi nhớ về đất nước mình.
Vì chẳng dám trái lệnh quốc vương nên tôi đã kết hôn với một phụ nữ trong triều, sang quí, đẹp, ngoan và giàu có. Sau hôn lễ, tôi đến ở nhà người đàn bà này trong tình yêu thương trọn vẹn. Tuy vậy, tôi cũng chẳng ngăn được nỗi nhớ nhà. Ý đồ của tôi là sẽ thừa cơ trốn thoát khỏi tình trạng này, trở về Bagdad mà ở đó cơ ngơi của tôi to lớn, sinh lợi nhiều, tôi làm sao mà quên được.

Đang quẩn quanh trong những ý nghĩ đó, thì xảy ra việc vợ một người láng giềng mà tôi kết thân ngã bệnh ốm và chết. Tôi sang nhà để chia buồn và an ủi, thấy anh ấy đang đắm chìm trong nỗi u buồn sâu sắc.
- Mong được Thượng đế bảo vệ bạn - Tôi nói với anh ta - Và phù hộ cho bạn sống trường thọ!
- Than ôi? - Anh trả lời tôi - Làm sao mà tôi tiếp nhận được cái ân huệ mà bạn cầu chúc cho tôi đây? Tôi chỉ còn sống được một tiếng đồng hồ nữa mà thôi.
- Ồ? Tôi bảo anh - Xin bạn đừng nên có ý nghĩ quá bi thảm ấy. Tôi mong là việc đó không bao giờ xảy ra và tôi tin là bạn cùng tôi còn sống lâu.
- Tôi chúc cho bạn trường thọ - Anh ta lại nói – Còn tôi thì mọi sự đã an bài. Tôi cho bạn biết là hôm nay người ta sẽ chôn tôi cùng với vợ. Đó là tục lệ mà các cụ đã dựng nên ở đảo này tuyệt đối không được vi phạm. Người chồng còn sống sẽ phải chôn theo với người vợ đã chết và người vợ còn sống sẽ phải chôn theo với người chồng đã chết. Không ai có thể cứu sống được tôi. Tất cả mọi người đều phải tuân theo luật đó.

Trong lúc chúng tôi trao đổi về cái tục lệ dã man kỳ lạ đó nó làm tôi sợ khiếp đi được thì nhũng người họ hàng, bè bạn và hàng xóm láng giềng lũ lượt đến dự lễ tang. Người ta mặc cho người chết những áo quần đẹp như trang phục cô dâu ngày cưới và trang điểm cho xác chết tất cả các đồ nữ trang thường dùng hàng ngày của bà ta. Tiếp đó, người ta đặt thi hài vào một cỗ áo quan để mở và đoàn người lên đường. Người chồng đi đầu đám tang theo sau thì hài người vợ. Người ta đi men theo đường lên một quả núi cao và khi tới nơi họ lật một tảng đá to đậy trên miệng một cái giếng sâu và dòng xác chết vẫn để nguyên áo quần và đồ trang sức xuống đó. Mọi việc xong xuôi, người chồng ôm lấy người nhà, bè bạn và để cho người ta đặt mình vào áo quan cũng không có nắp dậy, không hề phản ứng, với một bình nước uống và bảy chiếc bánh mì để bên cạnh mình. Rồi người ta dòng anh xuống giếng cũng như cách họ đã dòng vợ anh vậy. Quả núi chạy dài làm thành bờ của biển và cái giếng thì thật sâu. Lễ tang chấm dứt, người ta lại đậy mlệng giếng lại bằng phiến đá to đó.

Chẳng cần phải nới thì các ngài cũng thấy rõ là tôi chứng kiến đám tang lễ đó, với sự buồn rầu vô hạn. Còn tất cả những người khác thì vẫn thấy thản nhiên vì thói quen thường luôn được nhìn cảnh ấy. Tôi không ngăn được mà không nói với nhà vua những suy nghĩ của mình về việc này:
- Tâu bệ hạ - Tôi nói với ông - Tôi không sao hết kinh ngạc về phong tục của quí quốc chôn người sống cùng với người chết. Tôi đã đi nhiều nơi, quan hệ với nhiều người ở rất nhiều quốc gia và chưa từng thấy nơi nào lại có một cái luật quá ác độc như vậy.
- Biết sao được hả Sindbad -.Nhà vua đáp - Đó lạ luật chung, bản thân ta cũng phải tuân theo. Ta cũng sẽ bị chôn sống cùng với hoàng hậu vợ ta, nếu nàng chết trước.
- Nhưng, tâu bệ hạ - Tôi nói - Xin mạnh dạn được hỏi bệ hạ nếu là nhữl:lg người nước ngoài thì có bắt buộc phải tuân theo tục lệ đó không?

- Có chứ, tất nhiên rồi - Nhà vua đáp và mỉm cười về lý do vì sao mà tôi lại hỏi thế - Họ không được miễn trừ khi đã kết hôn ở đảo này.
Tôi buồn rầu trở về nhà vì câu nói của quốc vương. Tôi sợ vợ mình chẳng may mà chết trước, mà tôi bị chôn sống cùng với nàng... ý nghĩ này làm tôi hết sức lo lắng và phiền muộn. Nhưng, có cách nào tránh được? Đành phải kiên nhẫn và phó mặc cho ý chí của Thượng đế thôi. Tuy nhiên tôi run lên mỗi khi thấy vợ mình có chút gì đó cảm thấy khó ở. Nhưng, than ôi, chẳng bao lâu tôi lâm vào cơn hoảng sợ thực sự: vợ tôi bị ốm nặng và mất sau đó ít ngày .
Scheherazade kể tới đây thí chấm hết cho đêm nay. Đêm tiếp theo sau đó, nàng kể tiếp thế này:

***​


“Hãy thử xem nỗi đau của tôi - Sindbad nói tiếp - bị chôn sống cũng chẳng kém phần thảm thương hơn là bị bọn ăn thịt người nhai tươi nuốt sống. Nhưng vẫn phải qua cái đận đó. Nhà vua, cùng với cả triều đình đều có mặt trong tang lễ chó thêm phần trọng thể. Những vị tai to mặt lớn trong thành phố cũng long trọng đến đưa đám tôi.

Khi tất cả đẫ sẵn sàng cho tang lễ, người ta đặt thi hài vợ tôi vào áo quan với tất cả quần áo đẹp và các đồ trang sức. Bắt đầu đám rước, như một diễn viên thứ hai trong vở bi kịch thê thảm này, tôi bước theo ngay sau quan tài của vợ, nước mắt chan hoà, than vãn cho số phận khốn khổ của mình. Trước khi tới ngọn núi, tôi thử tác động vào tinh thần những người có mặt ở đó xem sao. Trước tiên tôi nói với quốc vương rồi tất cả những người xung quanh và cúi xuống trước mặt họ sát tận mặt đất, hôn vào gấu áo và xin họ hãy rủ lòng thương hại: Các ngài hãy xét cho - tôi nói - tôi là người nước ngoài, đúng lẽ ra thì không phải tuân theo cái luật quá khắc nghiệt này, rằng tôi còn người vợ khác nữa và các con tôi ở nước tôi . Dù tôi nói những lời trên đây với giọng nhuốm nước mắt, nhưng chắng có ai động lòng. Ngược lại người ta còn vội vã dòng vợ tôi xuống giếng và một lát sau đó, người ta cũng đưa tôi xuống trong một quan tài để ngỏ với một bình nước đầy và bảy tấm bánh. Cuối cùng cái đám lễ quá bi thảm đó với tôi kết thúc, người ta đặt lại tấm đá lên miệng giếng bất chấp nỗi đau lòng và những tiếng kêu thảm thiết của tôi.

Bị đưa từ từ xuống đáy giếng, tôi nhận rõ được cảnh trí ở cái nơi dưới mặt đất ấy nhờ vào chút ánh sáng từ trên cao chiếu xuống. Đó là một cái hang rất rộng và sâu tới khoảng năm chục sải tay. Một mùi hôi thối nồng nặc từ vô vàn xác chết mà tôi nhìn thấy ở bên phải và bên trái xông lên. Hình như tôi còn nghe thấy những tiếng thở dàl cuối cùng của những người sống mới được dòng xuống đây. Dù vậy, khi đã chạm đáy giếng, tôi lập tức bước ra khỏi quan tài, vừa bịt mũi vừa đi ra xa. Tôi gieo mình xuống đất và nằm đó rất lâu chìm trong nước mắt. Thế rồi, nghĩ về cái số phận đáng buồn của mình, tôi tự bảo:
Đúng là chúng ta đều do Thượng đế định đoạt theo ý của Người. Nhưng, hỡi Sindbad khốn khổ, phải chăng vì tội lỗi của chính mày mà mày phải rơi vào một cái chết kỳ quặc như thế này? Thà Thượng đế cho mày chết quách đi trong một trận đắm tàu nào đó mà mày đã thoát được! Mày đã không phải lìa đời trong cái chết chậm chạp và khủng khiếp như thế này. Nhưng chinh mày đã tự chuốc lấy vì cái tật thích phiêu lưu đáng nguyền rủa của mày. Ôi! Khốn khổ khốn nạn! Đáng lẽ ra thì mày phải ở yên tại nhà, êm đềm hưởng thụ thành quả của bao công sức lao động của mày?

Đó là những lời than vãn vô tích sự mà tôi vừa thốt vang lên trong hang vừa lấy tay đấm vào đầu, vào bụng một cách điên cuồng tuyệt vọng và hoàn toàn thả mình trong những ý nghĩ vô cùng hoang mang và sầu não. Tuy nhiên, biết nói với các vị thế nào đây? Đáng lẽ khẩn cầu cái chết đến mang đi cho nhẹ tội thì, mặc dù vô cùng khốn đốn như thế, lòng yêu đời vẫn còn thấp thoáng trong tôi, nhủ tôi hãy kéo dài thêm những ngày còn lại. Tôi bước đi chập choạng và lấy tay bịt mũi, tôi rờ lấy nước uống và bánh để trong quan tài và đưa lên miệng nhai.

Dù bóng tối trong hang dày đặc, ngày như đêm, đêm như ngày, tôi vẫn thấy được quan tài của mình và cái hang có vẻ như rộng hơn và chứa nhiều xác chết hơn như nó có vẻ lúc đầu. Tôi sống được vài ngày bằng những chiếc bánh và bình nước, nhưng cuối cùng, không còn gì nữa, tôi sửa soạn chết... .
Scheherazađẻ kể đến đây thì im tiếng. Đêm sau, nàng kể tiếp:

***​


“Tôi chỉ còn nằm chờ chết - Sindbad nói tiếp – Thì bỗng nghe thấy tiếng có người nâng tảng đá. Người ta lại dòng xuống một xác chết và một người sống. Người chết là đàn ông. Thật cũng tự nhiên và dễ hiểu khi người ta có những quyết định tuyệt cùng vào những lúc tuyệt cùng. Lúc người đàn bà được dòng xuống, tôi tới gần chỗ mà chiếc quan tài phải được đặt vào và khi nhìn thấy tảng đá đã được lắp vào mlệng giếng, tôi liền giáng xuống đầu người đàn bà khổn khổ hai hoặc ba nhát bằng khúc xương to mà tôi đã trang bị. Bà ta bị choáng hay đúng hơn là bị giết và tôi làm cái hành động vô nhân đạo đó chỉ để đoạt bánh và nước để trong quan tài của bà ta. Tôi đã có lương thực dự trữ cho vài ba ngày. Cuối thời gian đó, người ta lại dòng xuống một người đàn bà chết và một người đàn ông sống. Tôi giết người đàn ông cũng bằng cách đó và rất may cho tội là dạo ấy thành phố có nhiều người chết nên tôi không bị thiếu lương thực vẫn bằng cách làm ăn vô nhân đạo đó.

Một hôm, tôi vừa thanh toán một người đàn bà nữa, thì bỗng nghe thấy có tiếng thở và tiếng chân di chuyển. Tôi lần bước đi về phía đó. Tôi nghe thấy tiếng thở rõ hơn và thấy như có một vật gì đó chạy trốn. Tôi đi theo cái bóng đó, thỉnh thoảng nó lại dừng lại và rồi lại vừa thở vừa chạy đi khi tôi đến gần. Tôi vẫn bước đi theo rất lâu và rất xa và cuối cùng nhìn thấy một chấm sáng giống như một ngôi sao. Tôi tiếp tục đi về phía chấm sáng đó, thỉnh thoảng lại mất hút vì bị những chướng ngại che khuất. Nhưng rồi tôi lại thấy và cuối cùng phát hiện ra đó là cái khe ở vách đá, khá rộng có thể lách qua.
Với sự phát hiện này, tôi phải dừng lại một lát để cố nén xúc động quá mạnh làm tôi choáng váng. Tôi tiến đến tận chỗ cái khe đó, lách người qua và thấy mình đứng trên bờ biển. Các vĩ hãy tưởng tượng tôi vui mừng đến độ nào. Nó lớn đến mức tôi cho đó chỉ là một giấc mơ. Khi đã biết chắc đây là sự thực, và các giác quan của tôi đã trở về hoạt động bình thường thì tôi hiểu cái vật mà tôi nghe thấy tiếng thở và tôi đã đi theo, là một con vật từ dưới biển lên và nó có thói quen sục vào cái hang đó để ăn thịt xác chết.

Tôi ngắm nhìn ngọn núi và nhận thấy nó nằm giữa thành phố và biển, chẳng có đường lên lối xuống, vì vách đá dựng đứng rất hiểm trở. Tôi quì xuống bờ biển để cảm tạ Thượng đế đã phù trợ cho tôi. Rồi tôi quay vào hang để lấy bánh mì và trở lại bờ biển ngồi ăn dưới ánh sáng ban ngày, ngon miệng chưa từng có kể từ ngày tôi bị chôn sống trong cái chốn tối tăm mù mịt đó.
Tôi còn quay lại hang để rờ rẫm thu nhặt trong các quan tài tất cả những viên kim cương, hồng ngọc, ngọc trai những vòng tay vàng và cuối cùng là tất cả những tấm vải đẹp mà tôi sờ thấy. Tôi lôi tất cả những thứ đó ra bờ biến. Tôi chia ra thành nhiều gói buộc chặt lại bằng những sợi dây có hàng đống đã dùng để dòng những quan tài xuơng giếng. Tôi để tất cả trên bờ, chờ dịp tất, không sợ trời mưa làm hỏng vì lúc đó chưa phải là mùa mưa.
Được độ hai hoặc ba ngày sau, tời nhìn thấy một con tàu như vừa rời bến và sắp đi qua rất gần chỗ tôi đang đứug. Tôi dùng cái khăn quấn đầu vẫy làm hiệu và kêu lên thật to. Trên tàu nghe tiếng, thả xuồng xuống bơi vào đón tôi. Thuỷ thủ hỏi tôi vì sao lại đến nỗi thế, tôi trả lời họ là thoát chết trong một vụ đắm tàu cách đây hai hôm và cứu được một số hàng hoá họ trông thấy đây. Những nguời này cũng chẳng chú ý quan sát nơi tôi đang đứng xem điều tôi nói có đúng không, họ đã tin và cho tôi lên xuồng cùng các gói hàng.

Khi chúng tôi đã ở trên tàu, thuyền trưởng vui vẻ vì đã giúp được tôi và vì còn đang bận chỉ huy con tàu nên cũng tin là tôi bị đắm tàu như câu chuyện tôi đã bịa đặt. Tôi biếu ông ta vài viên ngọc, nhưng ông không nhận. Chúng tôi đi ngang qua nhiều hòn đảo, trong đó có đảo Chuông, cách đảo Serendib mười ngày xa nếu có gió thuận đều và cách đảo Kela sáu ngày. Chúng tôi ghé vào, ở đây có mỏ chì, mía Ấn Độ và long não loại thượng hạng. Quốc vương đảo Kela rất giàu có, rất hùng mạnh và uy quyền của ông lan tới toàn đảo Chuông rộng hai ngày đường. Thổ dân ở đây rất man rợ, còn ăn cả thịt người. Sau khi bán được một số lớn hàng tại đây, chứng tôi lại giương buồm ghé vào nhiều bến khác. Cuối cùng, tôi thật sung sướng trở về Bagdad với rất nhiều của cải, chắc các vị cũng miễn cho việc nêu lên đầy đủ các chl tiết. ĐỂ tạ ơn Thượng đế vì bao nhiêu ân huệ người ban cho tôi đã làm nhiều điều công đức vừa cho tu sửa nhiều thánh thất vừa giúp đỡ những người nghèo khổ. Tôi hết sức rộng rãi với những người thân và bạn hữu, cùng họ thoả sức vui chơi và tiệc tùng linh đình.

Sindbad kết thúc ở đây câu chuyện về chuyến phiêu lưu thứ tư của ông làm mọi người đều thán phục và thích thú hơn cả các chuyện về ba chuyến đi trước. Ông lại tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và mời mọi người hôm sau lại đến đúng giờ như thế để cùng nhau dùng bữa và nghe những chi tiết về chuyến đi thứ năm của ông. Hindbad và những người khác cáo từ ra về. Và hôm sau, khi tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ, họ ngồi vào bàn ăn và sau bữa cũng chẳng kém kéo dài như các bữa trước, Sindbad bắt đầu kể tình tlết câu chuyện về chuyến đi biển thứ năm của ông như sau:
(Còn tiếp...)
 
Chương 30

CHUYẾN ĐI THỨ NĂM CỦA SINDBAD

Những thú vui - Ông nói - cũng hãy còn khá đủ sức hấp dẫn để xua khỏi trí nhớ của tôl tất cả những gian nan khổ ải mà tôi đã từng phải chịu đựng, nhưng không thể làm nhụt lòng ham muốn của tôi là lại lên đường làm những chuyến đi mới. Vì vậy, tôi mua hàng, đóng gói và chất lên xe và cùng với hàng, tôi đi ngay tới một cảng biển gần nhất. Tới đây, để khỏl phụ thuộc vào một truyền trưởng và muốn có một con tàu do mình chỉ huy, tôi dành thời gian cho đóng một tàu riêng và bỏ tiền túi ra trang bị hoàn chỉnh. Tàu đóng xong, tôi cho chất hàng lên nhưng tàu còn khá rộng nên tôi nhận chở thêm nhiều nhà buôn của nhiều nước khác nhau cùng vôi hàng hoá của họ.
Khi bắt đầu có gió thuận, chúng tôi giương buồm và lướt ra khơi. Sau một chặng đường dài, chỗ đầu tlên mà tàu ghé vào là một hòn đảo hoang mà chúng tôi thấy ở đó trứng của một con đại bàng to bằng quả trứng mà các vị đã nghe tôi nói rồi. Trong trứng có một con đại bàng non sắp nở, vì đã thấy cái mỏ của nó lấp ló qua chỗ rạn của vỏ trứng.
Kể đến đây, Scheherazade ngừng lại vì ánh sáng ngày đã chiếu vào trong ngự phòng của hoàng đế Ấn Độ. Đêm sau, nàng kể tiếp:
“ Sindbad, người đi biển - Nàng nói - tiếp tục kể chuyện về chuyến đi thứ năm của mình:

- Những nhà buôn - Ông nói tiếp - ở trên tàu của tôi và cũng cùng lên bờ với tôi bèn dùng rìu bổ vỡ quả trứng, lôi con đại bàng non ra, xả làm nhiều mảnh và đưa lên lửa nướng để ăn. Tôi đã nghiêm trang cảnh báo họ là chớ nên đụng vào quả trứng đó, nhưng họ chẳng thèm nghe.
Bữa tiệc thịt chim đại bàng non vừa qua khỏi miệng thì từ phía chân trời khá xa xuất hiện hai đám mây lớn! Người thuyền trưởng mà tôi thuê để chỉ huy con ngườl tàu, có kinh nghiệm biết cái đó có nghĩa gì, kêu lên đó là bố và mẹ con đại bàng non và ông giục chúng tôi gấp rút lên tàu ngay để tránh tai nạn mà ông dự đoán. Chúng tôi vội vã theo lời khuyên đỏ và khẩn trương kéo buồm lên.
Nhưng lúc đó, hai con đại bàng vừa bay tới gần kêu lên dữ dội và chúng lại càng kêu lên khủng khiếp gấp bội khi nhìn thấy tình trạng của quả trứng và không thấy con chúng đâu cả. Chắc là với ý định trả thù, chúng bay về hướng vừa tới và mất hút một thời gian, trong khi đó thì chúng tôi thì giừơng hết buồm lên và gắng sức ra càng xa càng tốt hòn đảo đó.

Đột nhiên, chúng bay trở lại và chúng tôi nhận thấy chúng quặp trong bộ móng của chúng mỗi con một tảng đá rất to. Khi bay đến đúng bên trên tàu chúng tôi thì chúng dừng lại và bay đứng trên không, một con buông tảng đá xuống, nhưng nhờ tài khéo léo của người lái quặt mũi tàu sang một bên nên tảng đá rơi xuống biển, cạnh ngay mạn tàu làm thành một lỗ hổng lớn trên mặt biển hầu như có thể nhìn tới đáy. Con chim kia, tai hại cho chúng tôi, lại buông tảng đá rơi xuống trúng giữa con tàu làm nó vỡ tan tành. Hành khách và thuỷ thủ, người chết bẹp, người chết đuối Còn tôi cũng chìm nghỉm nhưng lúc ngoi lên trên mặt nước, may mà vớ được một mảnh vỡ của con tàu. Cứ thế, lúc tay nọ, lúc tay kia, tôi không rời cái mảnh vỡ đó, gió và sóng đẩy tôi vào một hòn đảo bờ đốc đứng. Dù sao tôi cũng thoát nạn. Tôi ngồi xuống bãi cỏ nghỉ ngơi một chút cho hồi sức rồi sau đó đứng lên đi sâu vào đảo để tìm hiểu đất đai. Tôi đang như ở trong một khu vườn tuyệt diệu: cây mọc san sát, cây này trĩu quả, cây khác đang đâm hoa, những cón suối nước ngọt trong vắt uốn lượn quanh co. Tôi hái quả ăn, những quả thật là ngon ngọt; tôi uống nước của những dòng suối róc rách như mời chào.

Đêm đến, tôi nằm ngủ trên thảm cỏ ở một nơi mát mẻ thuận lợi. Nhưng chẳng ngủ tròn được một tiếng đồng hồ, giấc ngủ luôn bi gián đoạn vì nỗi lo thấy chỉ có mình mình ở một nơi quá hoang vu lặng lẽ. Phần lớn trong đêm tôi âu sầu và lo nghĩ, tự trách mình ngu dại đã không ở yên tại nhà mà lại còn đi làm cuộc phiêu lưu cuối cùng này. Những ý nghĩ bi quan này đã đưa tôi đi xa đến chỗ dự định huỷ hoại thân mình. Nhưng ban ngày tới và với ánh sáng của nó đã làm tán đi nỗi niềm tuyệt vọng của tôl. Tôi đứng lên đặt bước đi giữa các hàng cây mà lòng dạ vẫn bồn chồn.
Khi đi sâu vào đảo một chút, tôi nhìn thấy một ông già rất hom hem lọm khọm. Ông ta ngồi bên bờ suối. Lúc đầu tôi tưởng cũng là nạn nhân bị đắm tàu như mình. Đi lại gần, tôi cất tiếng chào lão và chỉ nhận được một cái gật đầu Tôi hỏi lão đang làm gì. Nhưng lão không trả lời mà lại ra dấu bảo tôi cõng lão lên lưng đưa lão qua suối sang bờ bên kia để hái quả ăn.

Tôi tưởng lão ta muốn tôi giúp đỡ thật nên cõng lão lên lưng và lội qua suối.
- Thôi xuống đi - Tôi bảo lão và cúi người thấp cho lão dễ xuống.
Nhưng đáng lẽ tụt xuống (mỗi khi nghĩ đến tôi lại bật cười) thì lão già đó mà tôi cho là đã quá suy yếu, lại nhẹ nhàng đưa chân lên mà tôi trông da chân lão giống như da bò cái quặp chặt lấy cổ tôi, rồi ngồi dạng chân trên vaí tôi. Quá ngạc nhiên và sợ hãi tôi ngã lăn xuống bất tỉnh...
Scheherazađe bắt buộc phải ngừng lại ở đây vì mặt trời đã xuất hiện. Nàng kể tiếp câu chuyện này vào cuối đêm sau.

***​


“Mặc cho tôi bất tỉnh nhân sự - Sindbad nói - cái lão già quái ác đó vẫn dùng chân bám chặt lấy cổ tôi. Lão chỉ hơi dạng đùi ra một chút cho tôi đễ thở mà thôi. Khi tôi tỉnh dậy, lão dùng một bàn chân đạp mạnh vào bụng tôi, bàn chân kia thúc mạnh vào sườn, bắt tôi phải đứng lên. Lão bắt tôi đi dưới hàng cây, ghìm tôi đứng lại để lão hái quả ăn mỗi khi đến gần một cây có quả chín. Suốt ngày lão quắp vào cổ tôi như vậy và đến tối lúc ngủ thì lão cùng nằm ngả xuống đất với tôi nhưng cặp chân của lão vẫn không rời cổ tôi. Trời sáng thì lão đạp mạnh để đánh thức tôi. Rồi sau đó lão bắt tôi đứng lên và bước đi bằng cách dùng bàn chân thúc vào bụng, vào sườn tôi. Các vị hãy tưởng tượng tôi khổ sở và bực mình biết bao khi cứ phải mang cái của nợ ấy trên vai mình mà không có cách nào rũ bỏ đi được.

Một hôm tôi bắt gặp trên đường nhiều quả bầu khô rụng từ trên cây xuống. Tôi chọn lấy một quả to nhất và sau khi lau rửa sạch sẽ, tôi vắt vào trong quả bầu, nước của những chùm nho mọc rất nhiều trên đảo cứ mỗi bước đi lại gặp, Khi nước quả nho đã đầy bầu, tôi đặt vào một nơi kín đáo và nhiều ngày sau, tôi khéo léo đẫn lão già đến đấy. Đến nơi, tôi cầm lấy quả bầu đưa lên miệng uống một thứ rượu vang ngon tuyệt làm cho tôi cũng tạm khuây khoả chốc lát cái nỗi buồn u uất. Nó làm cho tôi phấn chấn, sảng khoái đến mức tôi vừa đi vừa hát lại có lúc nhảy tâng tâng lên nữa.
Lão già nhận thấy cái loại nước uống đó tác đụng rõ rệt vào tôi, thấy tôi cõng lão thoải mái hơn mọi khi nên lão ra dấu bảo tôi đưa lão uống. Tôi đưa quả bầu, lão cầm lấy đưa lên miệng nếm. Thấy ngon ngọt dễ chịu, lão ngửa cổ dốc vào họng đến giọt cuối cùng. Chừng ấy rượu nho đủ làm cho lão say, và quả nhiên chẳng mấy chốc mà men rượu bốc lên làm cho lão ngật ngưỡng, lão bắt đầu ti tỉ hát theo kiểu của lão và nhún nhảy trên vai tôi. Lắc lư quá mạnh làm cho lão nôn thốc nôn tháo, đôi chân quặp lấy cổ tôi dần dần buông lỏng đến lúc cảm thấy không bị ghì quá chặt nữa, tôi bèn hất lão ngã xoài xuơng đất, lão nằm thẳng cẳng ra đấy, không cựa quậy. Tôi bèn bê một tảng đá to giáng xuống đầu lão.

Tôi vô cùng sung sướng giải thoát được vĩnh viễn khỏi đôi chân của lão già đáng nguyền rủa đó và đi ra phía bờ biển, ở đó tôi gặp được người của một con tàu vừa buông neo để lấy thêm nước ngọt và hái ít trái cây hoang. Nhìn thấy tôi, họ rất ngạc nhiên và khi nghe xong chuyện tôl kể, họ bảo:
- Bạn đã rơi vào tay lão già của biển và là người đầu tiên không bị lão chẹt cổ cho đến chết. Lão không bỏ qua một người nào sau khi đã phục vụ cho lão mà lão không ghì chết. Hòn đảo này nổi tiếng vì số người đã chết vì đôi chân của lão. Các thuỷ thủ và nhà buôn ghé vào đảo này chỉ dám đi sâu vào trong khi có đông người cùng đi.
Sau khi cho tôi biết những điều đó, họ mang tôi theo họ lên tàu. Người thuyền trưởng vui vẻ đón tiếp tôi khi rõ tất cả câu chuyện. Ông lại cho giương buồm và sau hai ngày chèo lái chúng tôi ghé vào bến cảng của một thành phố lớn mà nhà cửa ở đó toàn xây bằng đá tốt.

Một trong những thương gia trên tàu mà tôi đã kịp kết thân bảo tôi đi theo ông ta. Ông đưa tôi đến nơi thường trọ củn những thương gia người nước ngoài. Ông cho tôi một cái bao vải lớn rồi gửi gắm tôi cho mấy người trong thành phố, người nào cũng có một cái bao như tôi, nhờ những người này cho tôl đi theo để nhặt dừa cùng với họ.Ông bảo tôi:
Bạn hãy đi theo họ, làm như họ và nhớ là chớ có rời xa họlúc nào vì sẽ rất nguy hiểm đấy.
Ông ta cho tôi thức ăn mang theo cho ngày hôm đó. Rồi tôi lên đường cùng với những người được ông ta gửi gắm.
Chúng tôi đến một cánh rừng lớn có nhiều cây cao mọc rất thẳng, thân cây nhẵn lì, khó mà trèo lên được để hái quả. Đó là những cây dừa mà chúng tôi muốn trẩy quả chứa vào những bao mang theo. Lúc đi vào rừng, thấy rất nhiều khỉ to khỉ nhỏ. Thấy chúng tôi, chúng ù té chạy và leo tót lên cây trèo thật nhanh lên đến tận chùm quả dừa cao tít .
Scheherazade muốn kể tiếp, nhưng trời sáng ngăn nàng lại. Đêm tiếp theo, nàng kể tiếp như sau:

***​


“Những nhà buôn mà tôi đi cùng - Sindbad tiếp tục kể - nhặt đá, lấy hết sức ném vào bọn khỉ trên cao. Tôi cũng làm như họ. Bọn khỉ tức giận vặn những quả dừa ngay ở tầm tay chúng ném vào chúng tôi tới tấp. Chúng tôi nhặt dừa bỏ vào bao khi thấy bọn khỉ ngừng thả dừa xuống mà bao của chúng tôi chưa đầy, chúng tôi lại nhặt đá ném để trêu tức chúng. Bằng cái mẹo vặt này, bao của chúng tôi đầy lắc dừa.
Trở về thành phố, người nhà buôn đã cho tôi đi theo bọn người hái đừa đánh giá bao đừa của tôi và bảo:
- Bạn cứ tiếp tục làm như thế cho đến lúc nào đủ khoản chi phí để trở về nhà.
Tôi cảm ơn lờl khuyên tốt của ông và dần dần tôi tích đống được hàng núi dừa đưa lại cho tôi một khoản tiền lớn.

Con tàu mà tôi được đón lên trước đó nhổ neo cùng các nhà buôn chở theo rất nhiều dừa mà họ phải mua buôn. Tôi chờ chuyến tàu khác, chẳng mấy chốc đã tới cặp vào bến cảng thành phố để cũng chuyển tải dừa như thế. Tôi cho bốc cả kho dừa của tôi lên tàu và khi sắp nhổ neo, tôi đến chào và cảm ơn nhà thương gia đã giúp đỡ tôi hết lòng. Ông chưa đi cùng tôi được vì công việc chưa xong.
Chúng tôi giương buồm theo hướng đi vào hòn đảo mà cây hồ tiêu mọc rất nhiều. Từ đó chúng tôi qua đảo Comori nơi sản xuất gỗ đàn hương nổi tiếng mà dân cư ở đó có một đạo luật bất khả xâm phạm là không uống rượu và không tổ chức nhà chứa. Tôi trao đổi dừa ở hai hòn đảo trên đây lấy về hồ tlêu và gỗ đàn hương và cùng với những nhà buôn khác thuê thợ lặn mò ngọc trai. Tôi có những viên ngọc trai rất to và nước ngọc thật đẹp. Trong lòng lâng lâng vui sướng tôi trở lại biển trên con tàu đưa tôi đi Balsora và từ đó tôi trở về Bagdad với những khoản tiền lớn sau khi bán hồ tiêu, gỗ đàn hương và ngọc trai mà tôi kiếm được bằng những quả đừa. Tôi làm việc từ thiện hết khoảng một phần mười số vốn đó cũng như những chuyến trở về trước và tìm đến tất cả những thú vui để bù lại bao ngày vất vả mệt nhọc.

Kể xong chuyện, Sindbad lại đem tặng cho Hindbad một trăm đồng sequin và cả bọn ra về. Ngày hôm sau theo lời mời, họ lại tới nhà Sindbađ giàu có, dự tiệc ăn uống thoả thuê như những ngày trước rồi nghe ông kể chuyện về chuyến đi thứ sáu của mình.
(Còn tiếp...)
 
Chương 31

CHUYẾN ĐI THỨ SÁU CỦA SINDBAD

“Chắc là các vị rất khó hiểu là tại sao qua năm lần bị đắm tàu, trải qua biết bao nguy hiểm, mà tôi còn muốn thử vận mệnh của mình lại dấn thân vào gian khổ tìm kiếm những vận hạn mới nữa. Chính tôi cũng tự mình lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ tới điều đó, cho hẳn là ngôi sao chiếu mệnh đã lôi cuốn mình đây. Dù sao chăng nữa thì sau một năm nghỉ ngơi nhàn nhã, tôi lại chuẩn bị cho chuyến đi thứ sáu, bỏ ngoài tai tất cả những lời van xin can gián của người nhà và của bè bạn. Họ đã làm tất cả những gì có thể làm mong giữ tôi lại.
Thay vì đi theo đường biển qua vịnh Persique, một lần nữa tôi lại đi xuyên qua nhiều tỉnh thành của Ba Tư của Ấn Độ tới một hải cảng, ở đó tôi lên một chiếc tàu tốt mà người thuyền trưởng quyết định đl một chuyến dài ngày. Đúng là chuyến đi dài thật nhưng đồng thời cũng thật khốn đốn. Cả thuyền trưởng cả thuỷ thủ đều lạc đường đến nỗi không còn biết được lúc này tàu đang ở đâu. Cuối cùng họ cũng biết, nhưng đã quá muộn. Thuyền trưởng rời bỏ vị trí của mình. Ông quẳng khăn đội đầu xuống biển, lấy tay dứt râu dứt tóc, đấm vào đầu tát vào mặt, kêu lên như một người loạn trí vì tuyệt vọng. Chúng tôi hỏi vì sao ông lại quá phiền não như vậy. Ông thở dài não nuột! .

- Tôi báo cho các ông biết là chúng ta đang ở một nơi nguy hiểm nhất giữa biển. Một đòng nước rất mạnh cuốn con tàu đi và tất cả chúng ta sẽ chết trong một khắc đồng hồ nữa thôi.
Nói xong ông lệnh chò hạ tất cả các cánh buồm, nhưng trong thao tác, các dây rợ đều đứt phựt và con tàu không sao điều khiển được, bị dòng nước cuốn đi xô mạnh vào một trái núi chắn ngang làm vỡ tan ra nhiều mảnh. Tuy vậy khi cứu người, chúng tôi còn có cả thời gian để cứu được một ít lương thực và một số hàng hoá quí. Thuyền trưởng bảo chúng tôi:
- Thượng đế vừa làm cái việc theo ý muốn của Người. Chúng ta có thể đào ở đây mỗi người một huyệt để tự chôn mình và chào nhau lần cuối, vì chúng ta đang ở một nơi cực kỳ bi thảm, không có một ai bị nem vào đây trước chúng ta mà trở về nhà được.
Những lời nói của thuyền trưởng làm cho tất cả chúng tôi buồn rầu tuyệt vọng. Chúng tôi ôm hôn nhau mà than mà khóc cho số phận hẩm hiu. Ai cũng ròng ròng nước mắt.

Trái núi mà dưới chân nó, chúng tôi đang trú ngụ là bờ của một hòn đảo rất dài rộng. Đoạn bờ này rải rác rất nhiều những mảnh tàu bị đắm và từng chỗ từng chỗ là những đống xương trắng trông thật khủng khiếp. Chúng tôi thấy rõ là đã có rất nhiều người bị chết tại đây. Một điều không thể tưởng tượng được nữa là cùng với những đống xương, còn rất nhiều đống hàng hoá và của cải bầy ra trước mắt chúng tôi ở khắp mọi chỗ: Tất cả những vật đó chỉ càng làm tăng thêm sự hoang mang sầu não trong hoàn cảnh của chúng tôi mà thôi. Thường thường thì ở tất cả mọi nơi, những dòng sông đều đổ ra biển cả, nhưng ở đây, trái lại, một con sông lôn nước ngọt lại rời biển đổ vào bờ qua một hang động tối om mà cửa hang rất rộng và cao vút. ĐiỀu đáng chú ý nhất ở đây là đá núi đều là thạch anh, hồng ngọc và là nhiều thứ đá quí khác. Người ta còn thấy ở đây một con suối chảy ra biển toàn một chất đầu gì đó mà cá ăn vào lại nhả ra toàn là hổ phách. Những thứ này bị sóng đánh giạt vào bãi cát nằm ngổn ngang khắp chỗ. Ở đây còn mọc nhiều cây mà phần lớn là gỗ trầm hương chẳng thua gì gỗ trầm ở đảo Comari.

Để kết thúc phần miêu tả chốn này, người ta có thể gọi đây là một cái vực không đáy vì chẳng có gì có thể trở lại được cả. Những con tàu không tài nào tránh khỏi một khi đã tới gần ở một khoảng cách nào đó. Nếu chúng được gió biển đẩy đi thì sức gió và dòng nước mạnh sẽ xô vào chỗ diệt vong.
Và nếu chúng được gió từ đất liền thổi ra thì có nhiều cơ may chúng có thể. được đẩy ra xa, nhưng hòn núi cao trước mặt cản gió lại, tạo nên một sự tĩnh lặng mặc cho luồng nước honnh hành xô chúng vào thành đá cho vỡ tan ra từng mảnh cững y như con tàu của chúng tôi. Càng tệ hại và thất vọng hơn nữa là chẳng có cách nào leo được lên đỉnh ngọn núi để tìm cách thoát thân về phía bên kia được.

Chúng tôi ở trên bờ biển như những người mất trí và chờ đợi cái chết đến từng ngày. Trước tiên, chúng tôi chia đều thức ăn cho từng người, như vậy người nọ có thể sống lâu hơn hoặc chết trước người kia tuỳ theo tạng người và cách sử dụng thức ăn của từng ngửời.
Scheherazade đến đây ngừng kể vì thấy trời đã hửng sáng. Đêm sau, nàng kể tlếp những tình tiết trong câu chuyện về chuyến đi thứ sáu của Sindbad:

***​


“Những người chết trước tiên - Sindbad nói tiếp - được những người khác chôn cất. Về phần tôi, tôi làm nghĩa vụ cuối cùng đối với tất cả các bạn và cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên vì ngoài phần được chla đều với các bạn, tôi còn một phần giữ riêng không cho các bạn biết. Tuy vậy lúc tôi chôn cất cho người bạn cuối cùng xong thì số lương thực còn lại cũng thật quá ít ỏi, nên xét thấy tôi cũng chẳng còn đi được bao xa nữa. Vì vậy tự đào sẵn cho mình một huyệt mộ, để tới một lúc nào đó tôi sẽ tự lăn xuống đó. Tôi xin thú nhận với các vị là trong lúc. làm cái công việc đó tôl chẳng khỏi tự xỉ vả chmh mình là nguyên nhân cái chết của mình và ân hận là đã tự mình lao vào cái chuyến đi cuối cùng này. Không dừng lại ở những suy nghĩ mà tôi còn cắn vào tay mình cho đầm đìa máu, mong được chết sớm đi.

Nhưng Thượng đế hãy còn rủ lòng thương xui khiến tôi đi ra tới tận con sông mà dòng nước của nó chảy mất hút dưới vòm hang. Ở đó, sau khi xem xét rất kỹ, tôi tự bảo: Con sông giấu mình dưới đất này ắt phải thoát ra ở một chỗ nào đó. Làm một chiếc bè, ngồi lên trên, phó mặc cho dòng nước đẩy đi, ta sẽ tới một vùng đất có dân, hoặc là ta chết. Nếu chết thì chẳng qua cũng là thay đổi loại chết như thế nào thôi. Ngược lại, nếu ra khỏi được cái chốn thê lương này thì không những ta tránh được cái số phận buồn thảm của các bạn đường mà ta còn có thể tìm được cơ hội mớl để làm giàu. Biết đâu vận mệnh lại chẳng chờ ta ra khỏi cái tai nạn gớm ghiếc này để đền bù một cách hào hiệp cho vụ ta bị đắm tàu.

Tôi không lưỡng lự gì nữa mà bắt tay vào làm ngay chiếc bè. Không thiếu vật liệu nên tôi thả sức lựa chọn: những mảnh gỗ ván tốt, những dây thừng chão bền. Tôi gá, buộc thật chặt chẽ các thứ vào nhau thành một chiếc bè rất vững chắc. Khi hoàn thành, tôi chất lên vài bọc hồng ngọc, bích ngọc, hổ phách, đá thạch anh và vảl vóc quí. Xếp thật cân bằng và buộc chặt vào bè, tôi trèo, lên cùng với hai chiếc bơi chèo nhỏ tôi đã không quên đẽo gọt, rồi thả bè theo dòng sông, tôi phó mặc mình cho ý chí của Thượng đế.
Vừa qua vòm hang, chẳng còn ánh sáng nữa, dòng nước cuơn tôi đi đâu, tôi nào có rõ. Suốt mấy ngày tôi ở trong cái bóng tối đen ngòm chẳng nhìn thấy một tia sáng nào. Có lần tôi thấy cái vòm quá thấp tưởng có thể chạm đầu, điều đó làm tôi hết sức chú ý để khỏi bị nguy hiểm. Suốt thời gian này tôi chỉ nhấm nháp cầm chừng sốâ thực phẩm còn lại để duy trì sự sống. Nhưng dù có dè sẻn đến đâu thì thức ăn cũng cạn ráo. Thế rồi, không sao cưỡng nổi, một giấc ngủ nhẹ nhàng đến làm tê liệt cả các giác quan của tôi. Không biết là ngủ được bao lâu nhưng lúc thức giấc tôi ngạc nhiên thấy mình đang ở giữa một cánh đồng rộng trên bờ một con sông mà chiếc bè của tôi được neo buộc ở đó. Cả một đám đông người da đen xúm quanh tôi. Tôi lồm cồm đứng lên và cất tiếng chào.

Họ nói với tôi gì đó nhưng tôi không hiểu tiếng của họ.
Lúc đó tôi sung sướng đến mê man cả người nên không rõ là đã thức hay còn ngỉl. Biết chắc chắn là mình không mơ, tôi kêu to sung sướng và đọc lên những câu thơ tiếng Ả Rập: Hãy cầu khẩn đấng Tối cao hùng mạnh, Người sẽ tới cứu giúp mi. Chẳng cần mi phải ôm đồm việc khác. Hãy nhắm mắt lại! Và trong khi mi ngủ, Thượng đế sẽ chuyển vận mệnh mi từ xấu sang tốt .
Một trong số người da đen, hiểu tiếng Ả Rập, nghe thấy tôi nói thế, tiến đến và nói:
- Người anh em - Anh ta nói - Xin đừng ngạc nhiên thấy chúng tôi ở đây. Chúng tôi sống ở nông thôn như bạn thấy đấy và hôm nay tới đây để tưới ruộng bằng nước của con sông nó chảy từ quả núi kia ra những lạch nhỏ này. Nhận thấy dòng sông có cuốn theo cái gì đó, chúng tôi chạy ra xem và thấy đó là một chiếc bè. Một người trong bọn tôi bèn nhảy xuống sông lôi nó lên buộc vào bờ, và chúng tôi chờ bạn thức đậy. Xin bạn hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện của bạn chắc là phải rất kỳ lạ. Hãy nói cho chúng tôi biết vì sao bạn lại lênh đênh trên sông và bạn từ đâu tới thế.

Tôi bảo họ là trước hết họ hãy cho tôi ăn đã rồi sẽ kể hết cho họ nghe.
Họ đưa cho tôi nhiều món ăn và khi đã lưng lửng dạ, tôi kể cho họ nghe tất cả những gì xảy ra với tôi. Họ lắng nghe với vẻ thán phục. Khi kể xong, họ đồng thanh nói sau khi nghe người phiên dịch nói lại:
- Đó thực là một câu chuyện vô cùng kỳ lạ. Bạn cần phải đích thân kể lại cho nhà vua nghe mới được. Tôi bảo là sẵn sàng làm theo lờl họ.
Những người da đen tức thì cho đi kiếm một con ngựa, một lát sau cồ người dắt đến. Họ đặt tôi lên lưng ngựa, một toán đi trước dẫn đường, những người khác là những người khoẻ nhất khiêng lên vai chiếc bè cứ để nguyên thế với tất cả các gói bọc lên trên đi theo sau tôi.
Scheherazade kể đến đây bắt buộc phải ngừng lại vì trời đã sáng rõ. Cuối đêm sau, nàng lại kể tiếp câu chuyện còn bỏ dở.

***​


“Chúng tôi cùng đi - Sindbad tiếp- đến tận thành phố Serendib, chính tôi lúc này đang ở trên hòn đảo đó. Những người da đen đưa tôi đến trình quốc vương của họ. Tôi đến gần ngai vàng ông đang ngồi và chào như cách chào các ông vua Ấn Độ nghĩa là quì xuống bên chân ông và hôn mặt đất. Nhà vua này cho nâng tôi dậy, tiếp tôi rất lịch sự, mời tôi ngồi cạnh ông. Trước hết ông hỏi tên tôi. Trả lời tên mình là Sindbad, biệt hiệu người đi biển vì đã có nhiều chuyến đi vượt biển, tôi nói thêm mình là công dân của Bagdad.
- Nhưng - Quốc vương lại hỏi - làm sao ông lại đến được đất nước của ta và đến bằng đường nào. Tôi không giấu nhà vua một tí gì và cũng kể lại như tôi vừa kể cho các ông nghe. Ông rất lấy làm ngạc nhiên, thích thú và sai viết lại câu chuyện của tôi bằng chữ vàng để lưu lại văn khố quốc gia. Sau đó người ta khiêng cả chiếc bè cùng với những bọc gói tới trước mặt nhà vua. Ông ngắm xem và rất thích những bọc gỗ trầm hương và hổ phách, đặc biệt hâm mộ những viên hồng ngọc và bích ngọc vì ông bảo trong kho báu của ông chẳng có viên ngọc nào sánh bằng.

Nhận xét thấy ông thích thú ngắm nhìn những viên đá quí mân mê hết viên này đến viên khác, tôi đánh bạo quì xuống nói:
Tâu bệ hạ, không riêng gì bản thân tôi mà tất cả mọi thứ trên chiếc bè này đều thuộc quyền bệ hạ. Xin Người cứ tuỳ nghi sử dụng.
Ông mỉm cười bảo tôi:
- Ta không có một chút ý đồ nào muốn lấy đi những gì mà Thượng đế đã ban cho ông. Không những không muốn làm giảm đi sự giàu có của ông mà ta còn muốn làm tăng lên nữa kia. Ta không muốn khi ông rời khỏi vương quốc ta mà không có gì mang theo để chứng tỏ cho sự hào phóng của ta.

Tôi chỉ còn biết đáp lại những lời đó bằng những câu chúc tụng cho đất nước của Người luôn yên bình thịnh vượng và ca ngợi tấm lòng nhân từ và độ lượng của một vị anh quân. Ông trao cho một vị quan chăm sóc tôi, cử người hầu hạ tôi chu đáo. Ông quan đó chấp hành lệnh của chủ thật trung thành và cho chuyển đến nơi ở của tôi toàn bộ những bọc, những gói để trên chiếc bè gỗ.
Hàng ngày, vào giờ giấc nhất định tôi vào chầu vua, thời gian còn lại tôi đi dạo quanh thành phố để xem có gì hay, có gì lạ tại đây.
Đảo Serendib nằm chính dưới đường hoàng đạo vì vậy ngày và đêm ở đây đều dài đủ mười hai tiếng đồng hồ. Đảo có chiều dài cũng như chiều rộng đo được tám mươi parasanges(1). Thành phố kinh đô toạ lạc tại cuối một thung lũng đẹp hình thành bởi một ngọn núi ở chính giữa đảo và là một ngọn núi cao nhất thế giới. Đúng vậy, cách ba ngày đường trên mặt biển, người ta đã nhìn thấy nó. Người ta tìm thấy ở đây nhiều loại khoáng sản, kể cả đá đỏ và phần lớn đá núi ở đây thuộc loại sa thạch là một thứ đá kim loại dùng để gọt giũa những đồ đá quí. Người ta còn thấy ở đây tất cả các loạl cây cỏ quý hiếm nhất là cây bá hương và cây dừa. Dọc theo bờ biển và ở các cửa sông người ta còn mò ngọc trai và ở một vài thung lũng của đảo còn có cả mỏ kim cương. Vì tín ngưỡng, tôi còn làm một cuộc du hành lên tận đỉnh núi, tới chỗ mà tương truyền là nơi Adam bị đày ải sau khi bị trục xuất ra khỏi địa đàng.

Lúc trở lại thành phố, tôi xin nhà vua cho phép được trở về xử sở của mình. Nhà vua đã chuẩn y ngay với thái độ rất khiêm nhường và lịch sự. Ông bắt tôi phải nhận một tặng phẩm có giá trị lấy từ trong kho ra và lúc tôi tới để cáo biệt, ông lại ban thêm cho một tặng phẩm khác giá trị lớn hơn kèm với một bức thư đức gửi Thống lĩnh các tín đồ,hoàng đế của chúng ta. Ông bảo tôi:
- Ta nhờ ông dâng lên hoàng đế Haroun Alraschid món quà mọn này cùng với bức thư của ta và nói với Người là ta luôn luôn yêu quí và kính trọng Người. Tôi kính cẩn nhận quà tặng cùng với bức thư và hứa với quốc vương sẽ thực hiện đầy đủ mệnh lệnh mà Người đã hạ cố trao cho. Trước khi tôi xuống tàu, nhà vua cho vời thuyền trưởng và các thương gia sẽ cùng đi chuyến ấy, lệnh cho họ phải hết sức quan tâm đến tôi.

Thư của quốc vương Serendib viết trên tấm da của một con thú quí hiếm nào đó mà màu của nó ngả sang màu vàng. Chữ của bức thư viết bằng thứ mực có màu xanh da trời và bằng ngôn ngữ Ấn Độ như sau:
Mặc dù tặng phẩm gửi đến bệ hạ chẳng đáng là bao, mong bệ hạ vì tình hữu nghị xuất phát từ đáy lòng tôi mà nhận lấy trong tình anh em bè bạn mà món quà này là một biểu hiện. Tôi mong Ngài cho phép tôi cũng được hưởng như Ngài tình hữu nghị như thê. Tự xét mình xứng đáng với điều đó vì ngang địa vị với Ngài. Lấy tư cách là người anh em, tôi khẩn cầu bệ hạ như vậy. Xin kính chào .
Tặng phẩm gồm có: thứ nhất, một chiếc lọ bằng nguyên một viên hồng ngọc, khoét rỗng và chạm trổ, cao nửa bộ và dày một ngón tay, chứa đầy ngọc tròn nặng nửa drachme(1). Thứ hai: một tấm da rắn có vảy to bằng đồng tiền vàng và có tính năng phòng bệnh cho những ai thường nằm lên trên để ngủ. Thứ ba: năm mươi vạn drachme gỗ trầm hương thơm ngát nhất cùng ba chục viên long não to bằng củ lạc. Và cuối cùng sau tất cả những tặng phẩm trên là một nữ nô lệ với sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành trang phục đính đẩy châu ngọc.
Con tàu giương buồm và sau một chặng đường dài thuận buồm xuôi gió, chúng tôi ghé vào Balsora và từ đấy về Bagdad. Vlệc đầu tiên của tôi ngay sau khi về tới nơi là lo làm tròn sứ mệnh được trao.
scheherazade thôi kể vì thấy trời vừa sáng. Đêm sau, nàng kể tiếp.

***​


“Tôi cầm bức thư của quốc vương Serendib đi tới cung điện của đấng Thống lĩnh các tín đồ, theo sau là cô gái nô lệ tuyệt đẹp và những người nhà đội các thứ quà tặng mà tôi được ký thác. Nói rõ lý do và ngay tức thì tôi được dẫn đến trước ngai vàng của hoàng đế. Tôi quì lạy và sau khi kể lại sự việc một cách thật ngắn gọn, tôi trình bức thư và các tặng phẩm. Hoàng đế, sau khi đọc xong những lời mà quốc vương Serendib viết trong bức thư, hỏi tôi có thực đúng là nhà vua này rất giàu và hùng mạnh không. Tôi lại quì xuống một lần nữa và khi đứng lên, tôi nól:
- Tâu, đấng thống lĩnh các tín đồ? Tôi có thể đảm bảo chắc chắn là ông ta không nói quá sự thật về sự glàu có và hùng mạnh của mình, chính tôi đã mục klch. Không sao có thể tả hết được vẻ tráng lệ của cung điện nhà vua đó. Khi đi tuần du, ông ngồi trên chiếc ngai vàng đặt trên lưng voi và đi giữa hai hàng các thượng thư, các cận thần và các quan chức khác của triều đình. Phía trước ông, cũng trên con voi đó là một võ quan tay cầm một ngọn giáo bằng vàng, phía sau ông là một võ quan khác đứng cầm một cây trượng cũng bằng vàng và đầu chót là một phiến ngọc bích dàl nửa bộ và to bằng ngón tay cái. Tiền vệ là một đơn vị cấm binh gồm một ngàn người mang đồng phục bằng dạ và lụa thêu kim tuyến, ngồi trên những thớt ỵoi trang sức thật sang trọng.

Ngoài ra, quốc vương Serendib còn là một ông vua thật công minh chính trực. Ở kinh đô cũng như ở các địa phương trong đất nước của ông đều không có pháp quan. Dân chúng nước ông không cần cái đó, họ thông hiểu luật pháp, tôn trọng làm theo luật pháp và không bao giờ xa rời nghĩa vụ của mình. Vì vậy toà án và pháp quan đối với họ hoàn toàn không cần thiết.
Hoàng đế rất hài lòng về sự tâu trình của tôi, Người bảo:
- Tài trí của nhà vua đó đã thể hiện trong bức thư và sau khi nghe ông kể lại thì ta cũng thấy là ông ta thật xứng đáng với thần đân của mình và thần dân của ông cũng thật xứng đáng vớl ông ta.
Nói xong hoàng đế cho tôi lui và ban cho một tặng phẩm có giá trị. Sindbad kết thúc câu chuyện, những thính giả của ông cũng rút lui, nhưng Hindbad lại nhận được một trăm đồng sequin. Ngày hôm sau, tất cả bọn họ lại tới nhà Sindbad để ông kể cho họ nghe chuyện chuyến đi thứ bảy cũng là chuyến phiêu lưu cuối cùng của ông.
(Còn tiếp...)
 
Chương 32

CHUYẾN ĐI THỨ BẢY VÀ CŨNG LÀ CHUYẾN ĐI CUỐI CÙNG CỦA SINDBAD

Sau chuyến đi thứ sáu trở về, tôi quyết từ bỏ ý định làm những chuyến đi khác. Cũng đã đến cái tuổi đòi hỏi được nghỉ ngơi nhiều hơn, tôi tự hứa là chẳng tội gì còn dấn thân vào hiểm nguy mà tôi cũng đã nhiều lần trải qua. Chỉ nên nghĩ đến một cuộc sống êm đềm cho quãng đời còn lại.
Một hôm đang chiêu đãi một số bạn bè thì gia nhân đến báo có một vị quan tới hỏi tôi. Tôi rời bàn ăn để tiếp ông. Ông bảo:
- Hoàng đế sai tôi đến triệu ông tới gặp Người.
Tôi theo vị quan này đi tới hoàng cung, quỳ lại bên chân hoàng đế.
- Sindbad - Nhà vua nói - Ta cần ông, ông phải giúp ta một việc. Ông mang cho ta thư trả lời và những tặng phẩm này tới quốc vương Serendib: Cần phải đáp lại Bự lịCh thiệp của nhà vua đó.
Lệnh của hoàng đế như một tiếng sét đối với tôi:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ! - Tôi nói - Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì Người ra lệnh, nhưng cầu xin Người chiếu cố mà xét cho là tôi đã chán ngấy bao nhiêu gian lao khổ ải mệt nhọc ngoài sức tưởng tượng mà tôi đã phải trả qua. Hơn nữa, tôi cũng đã có lời nguyền là sẽ chẳng bao giờ rời khỏi Bagdad nữa.

Nhân đó tôi cũng kể cho nhà vua nghe hết các chi tiết trong tất cả các chuyến phiêu lưu của tôi và ông cũng chịu khó ngồi nghe không bỏ sót một chi tiết nào.
Khi tôi kể xong, Người liền bảo:
Ta thú thật, đó đúng là những sự kiện thật lạ kỳ nhưng dù sao thì vì lòng yêu mến ta, ông cũng chẳng nên từ chối chuyến đi mà ta yêu cầu. Chỉ cần đi tới đảo Serendib hoàn thành sứ mệnh ta đã trao, rồi sau đó ông sẽ được tự đo quay trở về. Nhưng nhất thiết phải đi vì ông cũng thấy rõ là sẽ chẳng lịch sự và chẳng xứng đáng với danh vị của ta chút nào nếu chưa đáp lễ được quốc vương đảo ấy .

Thấy hoàng đế cứ khăng khăng bắt tôi làm việc đó, biết không thể thoái thác được nữa, tôi đành phải tỏ ra sẵn sàng tuân phục. Ông tỏ vẻ rất vui và cấp cho tôi một nghìn đồng sequin làm lộ phí.
Tôi sửa soạn cho chuyến đi chỉ mất vài ngày và khi người ta đem đến các tặng phẩm và lá thư chính tay hoàng đế viết thì tôi lên đường ngay. Tôi đi thẳng đến Balsora và xuống tàu. Thuận buờm xuôi gió nên chẳng bao lâu đã tới đảo Serendib. Tôi trình bày với các quan chức sứ mệnh được trao và yêu cầu được bệ kiến nhà vua ngay, họ đã vui vẻ giúp tôi liền. Họ long trọng đưa tôi tới hoàng cung, lúc quỳ lạy theo đúng nghi lễ, nhà vua nhận ra tôi, ông hết sức vui mừng khẽ kêu lên:
- A, Sinđbad! Xin chào mừng ông. Ta thề với ông là từ ngày ông ra đi, ta luôn nhớ tới ông. Tạ ơn ngày hôm nay vì chúng ta lại được gặp nhau lần nữa.

Tôi cũng chúc mừng ông và sau khi nói lời cảm ơn về lòng tốt đối với tôi, tôi dâng lên ông bức thư và tặng phẩm của hoàng đế. Ông tiếp nhận với vẻ hết sức hân hoan mừng rỡ.
Hoàng đế gửi tặng nhà vua Serendib một chiếc giường hoàn chỉnh phủ dạ vàng trị giá tới một nghìn đồng sequin; năm chục áo dài bằng thứ vải quí, một trăm chiếc khác bằng vải trắng mịn xứ Caire, Suez, Cufa và Alexandrie; một chiếc giường khác màu đỏ sẫm và chiếc khác nữa theo kiểu khác; một chiếc bình mã não lùn dày một đốt ngón tay miệng rộng nửa bộ, đáy chạm nổi một người nam giới quỳ một gối xuống đất, tay cầm cung và một mũi tên sẵn sàng bắn vào một con sư tử; cuối cùng hoàng đế gửi tặng nhà vua một chiếc bàn sang trọng tương truyền được lưu lại từ thời Salomon vĩ đại. Thư của hoàng đế nội dung như sau:
Nhân danh vị chúa dẫn theo chính đạo xin gửi tới hoàng đế hùng cường và hạnh phúc lời chào của Abdallah Haroun Alraschid, được Thượng đê đặt vào chỗ tôn qúi sau các đấng tổ tiên đời đời vinh hiển.
Chúng tôi đã vui mừng nhận được thư bệ hạ và xin gửi đến bệ hạ thư này từ triều đình chúng tôi, vườn hoa của nhưng trí tuệ lớn. Chúng tôi hy vọng khi bệ hạ ngự lãm sẽ thấy được thiện chí của chúng tôi và bệ hạ sẽ thấy hài lòng. Xin kính chào
.

Quốc vương Serendib rất vui thấy hoàng đế đáp lại tấm tình hữu nghị của mình. Sau cuộc bái klến đó một thời gian ngắn, tôi xin phép được cáo biệt nhưng thật chẳng dễ dàng gì vì sự quyến luyến của nhà vua. Nhưng cuối cùng tôi cũng được y chuẩn, và nhà vua, trước lúc bái biệt còn ban cho tôi một tặng phẩm có giá trị rất lớn. Không chút chậm trễ, tôi xuống tàu với ý định là thẳng hướng trở về Bagdad. Nhưng không đạt được ý muốn như hằng mong ước, số phận tôi còn tuỳ thuộc vào sự định đoạt của Thượng đế kia.

Đi được khoảng ba bốn ngày, chúng tôi bị bọn cướp biển tấn công. Chúng chẳng khó khăn gì tròng việc làm chủ con tàu vì tàu không có một chút chuẩn bị nào để đối phó. Một vài người trên tàu định phản đối đều bị chúng giết, Còn tôi và những người khác thì bị chúng bắt làm nô lệ
Trời hừng sáng ngăn Scheherazađe lại. Đêm sau, nàng kể tiếp:

***​


- Tâu bệ hạ - Nàng nói với hoàng đế Ấn Độ - Sindbađ kể tiếp những chuyện xảy ra trong chuyến đi cuối cùng của ông:
“Sau khi bọn cướp biển cướp đoạt và trấn lột chúng tôi trần trụi, chúng vứt cho những áo quần cũ bẩn bắt mặc vào rồi đưa chúng tôi tới một hòn đảo to và rất xa để bán.
Tôi rơi vào tay một nhà buôn giàu có. Vừa mua được tôi, ông ta đã đưa về nhà cho ăn uống và cho ăn vận sạch sẽ, áo quần của người nô lệ. Vài ba ngày sau vì chưa rõ thân thế của tôi nên ông ta hỏi tôi có biết nghề nào không. Tôi trả lời mình không phải là thợ mà chuyên làm nghề buôn bán. Bọn cướp biển đã đem bán tôi sau khi đã cướp đoạt toàn bộ hàng hoá của cải của tôi. Ông hỏi:
- Cho tôi biết là anh có thạo nghề cung nỏ không?
Tôi đáp đó là một trong các môn chơi của tôi hồi trẻ và đến lúc này cũng hãy còn nhớ.

Thế là ông ta đưa cho tôi một cây cung và ít mũi tên, đặt tôi ngồi trên lưng voi, phía sau ông ta và đưa tôi đến một khu rừng rất rộng cách xa thành phố khoảng hai giờ đi đường. Chúng tôi đi rất sâu vào phía trong và khi thấy có thể dừng lại, ông bảo tôi xuống voi. Rồi chỉ tay yào một Cây to, ông bảo:
- Anh hãy trèo lên cây kia, và nhằm bắn vào những con voi đi ngang qua. Rừng này có rất nhiều voi. Khi bắn ngã được con nào thì báo cho tôi biết.
Nói xong, ông để lại thức ăn cho tôi và quay trở lại đường về thành phố. Tôi núp trên cây cao suất cả đêm đó mà chẳng thấy một con voi nào. Nhưng đến ngày hôm sau, mặt trời vừa nhô lên, tôi đã nhìn thấy một đàn voi rất đông. Chúng đi ngang qua dưới gốc cây, tôi giương cung bắn liên tiếp. Cuối cùng có một con ngã xuống. Ngay lập tức các con khác rùng rùng tháo chạy để tôi được tự do đi báo chủ. Ông thết tôi một bữa ăn thịnh soạn, khen ngợi tài bắn cung của tôi, rồi cũng đi vào rừng, đào một hố to chôn con voi tôi vừa hạ. Ông chủ của tôi bảo là sẽ quay lại khi con voi đã thối rũa để lấy đôi ngà của nó đem bán.

Tôi tiếp tục săn voi trong khoảng hai tháng và không mấy ngày là tôi không hạ được một con. Không phải là tôi chỉ cố định núp trên một cái cây duy nhất mà nay ở cây này, mai ở cây khác. Một buổi sáng tôi chờ đàn voi đến và cực kỳ kinh ngạc thấy đáng lẽ bọn chúng đi xuyên rừng, qua chỗ tôi nấp thì tất cả dừng lại và ào ào tiến về cál cây trên đó có tôi, chân chúng chạy làm rung chuyển cả mặt đất. Chúng vây chặt xung quanh cây giơ vòi lên và những cặp mắt nhìn thẳng vào tôi. Trông cảnh tượng kỳ quặc khủng khiếp đó, tôi đờ người sợ hãi đến nỗi cả cung cả tên đều rơi xuống đất.

Đàn voi nhìn tôi một lát, rồi một con to nhất chắc là con đầu đàn bước đến dùng vòi quấn quanh thân cây vặn mạnh đến mức cál cây to như vậy mà bật rễ bị quật nằm xuống đất. Tôi bị ngã cùng với thân cây nhưng con voi đã đưa vòi ra đỡ lấy tôi và nhẹ nhàng đặt lên lưng nó. Tôi ngồi mà sợ hết vía, túi đựng tên hãy còn lủng lẳng trên vai. Con voi đó tức thì dẫn đầu cả bọn đưa tôi đến một nơi quang đãng, đặt tôi xuống đất rồl nó và cả bọn quay vòi đi mất. Các vị có biết tình trạng tôi lúc đó như thế nào không? Tôi tưởng mình đang sống trong một giấc mơ vậy. Sau một lát nằm đài trên mặt đất, nhìn không còn thấy con voi nào, tôi ngồi dậy và thấy mình đang ở trên một quả đồi khá dài rộng. Xương voi và ngà voi chất đống. Xin thú thật với các vị là điều trông thấy làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi thầm thán phục linh tính của loài vật này. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là nghĩa địa của voi. Chúng đã cố ý đưa tôi đến đây để cho tôi biết và thôi không giết hại chúng nữa. Sở dĩ làm cái việc đó chẳng qua cũng chỉ là muốn lấy ngà của chúng thôi. Tôi không nán lại trên đồi làm gì nữa mà lập tức quay gót về thành phố. Sau một ngày và một đêm đi bộ, tôi về đến nhà người chủ. Trên đường đi, chẳng gặp một con voi nào, tôi đoán là chúng đã rút sâu vào trong rừng để con đường từ thành phố đến quả đồi đó không có gì trở ngại.

Vừa trông thấy tôi, ông chủ đã kêu lên:
- Ôi? Sindbad tội nghiệp! Ta đang rất buồn khổ khi biết cái gì đã xảy ra với anh. Ta đã vào rừng, đã thấy cái cây bị vặn trơ gốc, cái cung và các mũi tên rải rác trên mặt đất. Sau khi ra sức tìm kiếm anh không kết quả, ta thất vọng là chẳng còn bao giờ được nhìn thấy anh nữa. Hãy kể lại cho ta nghe đi, điều gì đã xảy ra với anh. Nhờ may mắn nào mà anh hãy còn được sống.
Tôi đã thoả mãn sự muốn hiểu biết của ông. Ngày hôm sau cả hai đi tới quả đồi và ông cực kỳ vui sướng công nhận những điều tôi nói hoàn toàn là thật. Chúng tôi chất lên lưng con voi mà chúng tôi cười để đến quả đồi, tất cả những cặp ngà mà nó đủ sức mang được. Trên đường về, ông chủ bảo tôi:
- Người anh em ạ! Ta không muốn coi anh như nô lệ nữa, sau việc anh vừa làm cho ta. Sự khám phá này sẽ làm cho ta giàu sụ, Thượng đế sẽ ban cho anh mọi thứ của cải và sự phồn vinh: Ta xin tuyên bố trước Người là ta trả lại tự do cho anh. Ta đã giấu anh những điều mà anh sẽ nghe ta nói đây.

Những con voi trong rừng đây, mỗi năm đã giết chết rất nhiều nô lệ mà chúng ta sai đi lấy ngà. Dù có dặn dò chúng thế nào đi nữa thì sớm hoặc muộn thế nào chúng cũng bị nhũng con vật tinh khôn ấy giết chết. Thượng đế đã giải thoát cho anh khỏi sự hung dữ của chúng và chỉ ban phúc cho một mình anh thôi đó. Điều này chứng tỏ là Người yêu anh và Người cần đến anh để anh làm điều tốt cho đời. Anh đã mang về cho ta một mối lợi rất lớn. Chúng ta có được những ngà voi cho đến lúc này là nhờ vào sụ hi sinh mạng sống của các nô lệ. Và bây giờ, thế là cả thành phố này giàu có lên là nhờ vào cách làm của anh. Đừng tưởng là trả lại cho anh tự do là đã đền đáp cho anh đầy đủ. Ta muốn còn cho anh của cải nhiều hơn nữa mới xứng đáng. Ta có thể vận động cả thành phố này tham gia vào việc gây dựng cơ đồ cho anh, nhưng đó là một vinh dự mà ta muốn chỉ một mình ta hưởng thôi.
Với những lời đầy ân nghĩa đó, tôi đáp:

- Ông chủ ạ, cầu Thượng đế phù hộ cho ông! Cái tụ do mà ông ban cho cũng đủ đền công cho tôi rồi. Để trả công cho tôi đã giúp đỡ ông và toàn thành phố, tôi chỉ dám xin ông cho phép được~trở về quê huơng xứ sở.
- Được lắm. - Ông nói - Chẳng bao lâu nữa những con tàu sẽ theo gió mùa về đây ăn ngà voi. Ta sẽ gửi anh và những thứ ta cho để anh đưa về nhà.
Tôi lại cảm ơn ông về việc giải phóng cho tôi và những ý tốt của ông đối với tôi. Tôi ở nhà ông để chờ có gió mùa lên và trong thời gian đó chúng tôi đã nhiều lần đi tới ngọn đồi khiến cho những kho hàng đầy ắp ngà voi. Tất cả những nhà buôn của thành phố làm nghề buôn bán ngà voi đều làm thế vì không thể giấu được lâu sự phát hiện đó.
Đến đây, Scheherazade thấy trời hửng bèn thôi kể. Nàng tiếp tục vào đêm sau và nói với hoàng đế.

***​


“Tâu bệ hạ, Sindbad tiếp tục kể về chuyến đi thứ bảy của ông:
- Những con tàu - Ông nói - cuối cùng đã tới và ông chủ tôi tự mình chọn tàu cho tôi xuống, chất ngà voi xuống đầy nửa tàu coi như phần của tôi. Ông cũng không quên đưa xuống tàu nhiều thức ăn nước uống cần cho chuyến quá giang của tôi. Thêm nữa ông còn bắt tôi dự những buổi chiêu đãi thịnh soạn và nhận những sản vật lạ của địa phương. Sau khi hết lòng cảm ơn về tất cả những việc tết ông đã làm cho tôi, tôi xuống tàu. Tàu nhổ neo bắt đầu lướt sóng và câu chuyện bị làm nô lệ rồi lạl được trả tự ảo thật vô cùng kỳ lạ làm cho đầu óc tôi không khỏi bàng hoàng.

Chúng tôi dừng lại ở một vài hòn đảo để tiếp tế thêm thức ăn tươi. Tàu của chúng tôl khởi hành từ một bến đất liền Ấn Độ, chúng tôi cũng cặp vào một bến như vậy và ở đó, để tránh những rủi ro ở biển đến tận Balsora, tôi cho bốc số ngà voi của tôi lên bờ và quyết định đi bằng đường bộ. Tôi bán ngà voi được khoản tiền rất lớn. Bằng tiền đó tôi mua nhiều thứ quý hiếm dùnly làm quà, và nhập vào một đoàn nhà buôn rất đông người. Đường đi dài và thật là gian khổ nhưng tôi cố gắng chịu đựng với ý nghĩ an ủi là như vậy chẳng phảl bị bão biển, cướp biển cũng chẳng sợ gặp rắn rết và các tai nạn hiểm nghèo khác mà tôi đã từng trải qua .

Nhưng rồi tất cả những sự gian lao vất vả ấy đều qua, tôi sung sướng về tới Bagdad. Trước hết tôi xin bệ kiến hoàng đế và tường trình về chuyến đi sứ của mình. Nhà vua nói là chuyến đi quá dài của tôi làm cho Người lo lắng nhưng ông luôn hy vọng là Thượng đế sẽ chẳng bỏ tôi. Khi kể cho Người nghe chuyện về những con voi, Người tỏ ra rất ngạc nhiên, chắc Người sẽ không tin là chuyện có thật nếu sự trung thực của tôi Người không biết rõ từ lâu. Người thấy câu chuyện này và cả những câu chuyện khác tôi đã kể thật là kỳ lạ nên lệnh cho một trong những ký lục của Người chép lại bằng chữ vàng để giữ gìn trong văn khố của triều đình. Tôi cáo lui, rất hài lòng về vinh dự được nhận và những tặng phẩm Người hạ cố ban cho. Rồi sau đó tôi dành hoàn toàn mọi sự quan tâm, mọi điều ưu ái và tất cả thời gian của tôi cho gia đình, bà con, bè bạn.

Sindbad kết thúc câu chuyện về chuyến đi biển thứ bảy và là cuối cùng của ông như vậy đấy. Rồi ông bảo Hindbad:
- Này anh bạn! Anh có bao giờ nghe nói có một người nào đó đã từng trải qua bao gian nan khổ ải như tôi chưa, có một người nào bị rơi vào những tình huống vô cùng gay cấn như thế chưa? Có công bằng không, sau bao nhiêu việc đã làm như thế, tôi được hưởng một cuộc sống dễ chịu và bình yên?
Ông nói xong, Hindbad tiến lại gần hôn tay ông, nói:
- Phải thú thật là, thưa ngài, ngài đã trải qua bao gian nan nguy hiểm thật là khủng khiếp. Những nỗi khó khăn vất vả của tôi nếu đem so thì chẳng thấm gì. Nếu nó có làm cho tôi mệt nhọc, buồn nản trong thời gian phải chịu đựng thì bù lại và để an ủi thì tôi đã có được một món lợi nhỏ trong đó rồi. Ngài không những xứng đáng được sống một cuộc sống êm đềm, mà còn đáng được hưởng tất cả của cải ngài có bởi vì ngài đã biết sử dụng nó một cách xứng đáng và thật hào hiệp biết bao. Xin ngài hãy cứ tiếp tục sống trong niềm vui cho đến giờ phút lậm chung.

Sindbad lại biếu gã một trăm đồng sequin, nhận gã vào số bạn bè, bảo gã hãy bỏ cái nghề khuân vác quá cực nhọc đối với tuổi của gã, đến ăn tại nhà ông, cho gã có chỗ dựa để trọn đời nhớ đến Sindbad, người đi biển.”
Scheherazade, nhìn thấy trời chưa sáng nên lại tiếp tục nói và bắt đầu kể một câu chuyện khác.
(Còn tiếp...)
 
Chương 33

NGƯỜI HAI LẦN TỈNH MỘNG

Dưới triều đại hoàng đế Haroun Alraschid, ở thành phố Bagdad có một nhà buôn rất giàu có mà bà vợ đã già. Họ có một người con trai độc nhất, tuổi độ ba mươi, được nuôi dưỡng trong tình trạng cực kỳ keo kiệt mọi thứ.
Người thương gia qua đời, Abou-Hassan (tên người con trai) là người thừa kế độc nhất được hưởng một tài sản lớn do người cha suốt đời cần cù trong công việc kinh doanh để lại. Người Con có cách nhìn và có xu hướng không giống cha nên đã sử dụng tài sản ấy với những cách thức khác hẳn. Vì trong thuở thiếu thời, người cha chỉ cung cấp cho con một khoản chi đủ sống hàng ngày, mà cậu con thì luôn ham muốn một cuộc sống chơi bời phóng túng đua đòi cùng bạn bê, cho nên lúc này chàng ta nhất quyết phải chơi bời ăn tiêu cho xứng với khoản tài sản kếch xù mà số mệnh đã ưu đãi. Để thực hiện ý đồ đó, chàng ta phân chia của cải thành hai phần: một phần dùng để tậu ruộng đất ở nông thôn và mua nhà cửa ở thành phố. Lợi tức của phần này cũng đủ để chàng có một cưộc sống thoải mái, nhưng chàng thề là sẽ không đụng chạm tới mà chỉ để tích luỹ lại thôi. Phần kia là một khoản tiền mặt khổng lồ sẽ dùng để bù đắp lại suất cả quãng đời mà chàng coi là đã bỏ phí do bị cha kiềm chế cho đến tận ngày ông qua đời. Nhưng chàng cũng tự đặt ra luật lệ cần thiết, tự hứa là sẽ chẳng bao giờ vi phạm mà tiêu pha quá cái khoản đã dành cho cuộc sống chơi bời.

Với ý định đó, chỉ trong ít ngày Abou-Hassan đã tập hợp được một số thanh niên cùng ìứa tuổi và địa vị xã hội, chỉ bày cho họ cách ăn chơi thoải mái... Rồi nào tiệc tùng, của ngon vật lạ... Chàng dốc tiền túi ra chiêu đãi. Trong những buổi tiệc tùng nhậu nhẹt như vậy thường kết thúc bẳng vũ hội mà những vũ công vũ nữ và các nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng cả nam và nữ được mời từ Bagdad tới. Tất cả những trò vui chơi ăn uống đó kéo dàl hết ngày này đến đêm khác đã làm cho Abou Hassan phải bỏ ra một khoản tiền lớn, khiến chàng không thể như thế quá một năm. Năm vừa hết thì tiền cũng vừa cạn. Từ lúc không còn tiệc tùng gì nữa thì bạn bè cũng biến mất tăm, đi đâu chàng cũng chẳng còn gặp họ nữa. Đúng vậy, bởi vì. trông thấy chàng là họ đã lẩn tránh rồi. Nếu may ra mà gặp một bạn nào đó đã cùng nhau vui chơi ăn uống trước kia thì bạn này cũng kiếm cớ để thoái thác và tìm cách rút lui.

Abou Hassan rất buồn lòng về thái độ lạ lùng của bạn hữu. Họ bỏ rơi chàng một cách vô sỉ và vô ơn sau bao nhiêu biểu hiện và những lời thề thất về tình bằng hữu keo sơn mà họ đã bộc bạch với chàng. Buồn về khoản tiền lớn đã tiêu pha cho họ thì ít mà buồn về tình đời đen bạc lại nhiều hơn. Buồn bã, trầm ngâm, đầu cúi thấp, nét mặt âu sẩu chàng bước vào phòng riêng của mẹ, ngồi xuống đầu chiếc sập khá xa chỗ bà ngồi. Nhìn thấy tình trạng con trai như thế, bà cất tiếng hỏi:
Con làm sao thế? Sao mà con lại đổi khác, lại rầu rĩ khác thường như vậy? Dù có mất trắng tay những gì con đã có ở trên đời này thì cũng chảng đến nỗi như vậy. Mẹ biết là con đã tiêư pha mất một khoản tiền lớn vào con đường chơi bời phóng túng và mẹ biết lúc này con chẳng còn lại được bao nhiêu. Con là người làm chủ tài sản của mình, sở dĩ mẹ không khuyên can con về lối sống buông thả đó vì mẹ biết con đã khôn ngoan để dành riêng ra một nửa tài sản. Sau chuyện đó ra thì mẹ không thấy có gì đã làm cho con phải đắm chìm trong sầu não như vậy.

Abou Hassan bật khóc khi nghe mẹ nói, và trong nước mắt cùng tiếng thở dài, chàng nói với bà:
- Mẹ ơi, bằng kinh nghiệm đau đớn con đã thấy là cái nghèo túng làm cho ta khổ sở như thế nào. Mặt trời lặn đã làm cho ta mất đi cái ánh sáng huy hoàng của nó cũng như cái nghèo khổ đã tước đi của ta tất cả niềm vui sướng trên đời. Tóm lại một câu là kẻ nghèo thì đối với người thân, đối với bạn bè chỉ là những người xa lạ. Thưa mẹ, mẹ biết đấy - Chàng nói thêm - suốt một năm trời, con đã sử dụng một nửa gia sản để chiêu đãi bạn bè như thế nào: Con đã không tiếc họ một tí gì cho đến ngày cạn túi, và đến lúc này con không còn gì để cung đốn cho họ nữa thì họ bỏ rơi con. Con nói không còn gì nữa là muốn nói về cái khoản dành riêng để dùng vào việc ấy. Còn về phần lợi tức của con về nhà cửa ruộng đất, thì tạ ơn Thượng đế đã xui khiến con để rlêng ra dưới điều kiện và lời thề là không được đụng tới để mà vung phí. Con đã giữ trọn lời thề và con biết sẽ phải sử dụng ra sao khoản may mắn còn lại đó. Nhưng trước hết con muốn thử lòng các bạn bè của con xem chúng còn xứng với tên gọi đó không, xem chúng vong ơn bạc nghĩa đến mức nào. Con sẽ lần lượt gặp từng đứa, nói cho chúng rõ những việc đã làm trước đây vì lòng yêu chúng và cầu xin chúng cùng nhau gom góp để vực con ra khỏi cơn khốn đốn này mà khốn đốn cũng là vì chúng mà thôi. Nhưng, như con đã nói với mẹ, con làm việc này cũng chỉ là để xem bụng dạ chúng thế nào thôi.

- Con ạ - Bà mẹ Abou Hassan bảo chàng - Mẹ chẳng muốn ngăn con đâu. Nhưng mẹ có thể nói trước là hy vọng của con không có cơ sở. Hãy tin mẹ, dù làm cách nào thì con cũng sẽ thất bại. Con chỉ tìm thấy sự giúp đỡ ở chính con mà thôi. Mẹ thấy rõ là con chưa hiểu những người bạn mà ngườ ta thường gọi như thế với những ngườỉ như loại bạn con, nhưng rồi con sẽ hiểu chúng. Thượng đế cũng như mẹ muốn là tất cả vì con.
- Mẹ ơi - Abou Hassan lại tiếp - Con rất tin lời mẹ nói là sự thật. Nhưng con sẽ càng tin chắc hơn bằng việc làm thiết thân này để tự mình được sáng tỏ hơn về sự hèn mạt và vô liêm sỉ của chúng.
Abou Hassan đi thực hiện ý đồ của mình ngay lúc đó và rất may mắn chàng gặp được tất cả bọn bạn này tại nhà chúng. Chàng trình bày với chúng tình trạng lúng túng của mình và đề nghị chúng bỏ tiền ra cứu đỡ. Chàng còn hứa riêng với một vài đứa là sẽ trả nợ sòng phẳng khi công việc hoàn thành, và cũng không quên nói chỉ vì phần lớn tiêu pha cho chúng trước đây mà bây giờ gặp khó khăn, để kích thích thêm tấm lòng hào hiệp của chúng. Chàng cũng nhử mồi bảo chúng là rất có hy vọng sẽ có thể lại cùng chúng vui chơi, nhậu nhẹt, đàn hát, nhảy múa như cả một năm trời trước đây.

Không có một đứa nào trong số bạn nhậu của chàng động lòng về viễn cảnh huy hoàng mà chàng Abou Hassan buồn bã nêu ra để thuyết phục chúng. Chàng còn đau lòng thấy là nhlều đứa còn nói xưng xưng là chưa từng quen biết chàng, thậm chí còn chưa nhìn thấy chàng bao giờ. Chàng trở về lòng thắt lại trong đau đớn và bất bình, bước vào phòng riêng của mẹ, kêu lên:
- Ôi mẹ ơi! Đúng như mẹ nói, chúng đâu phải là bạn mà là một lũ vô lại, một lũ vong ơn bạc ác, chẳng xứng với tình bạn của con. Thế là xong, con chấm dứt tình nghĩa với chúng và hứa với mẹ là không bao giờ còn nhìn mặt chúng nữa!

Abou Hassan kiên quyết giữ lời hứa. Để thực hiện, chàng đề phòng mọi hoàn cảnh có thể đưa tới sự bất tiện, thề là suốt đời mình sẽ không chiêu đãi mời ăn uống bất cứ một người nào trong toàn thành phố Bagdad. Rồi chàng lấy từ trong két số tiền lợi tức để dành ra đặt vào chỗ chàng vừa vung phí cho khoản ăn uống chơi bời đã hết sạch. Chàng quyết định chỉ chi tiêu hàng ngày một khoản tiền vừa phải đủ để mời ăn tối một người. Chàng còn thề là người này phải là ở nơi khác đến vào ngày hôm đó chứ không phải là dân Bagdad. Và chàng sẽ giã biệt người đó vào sáng hôm sau, chỉ để cho ngủ lại một đêm thôi.
Theo dự tính đó, Abou Hassan tự mình chuẩn bị từ sáng thực phẩm cần thiết cho bũa ăn tối cùng với khách và cuối mỗi ngày chàng ra đầu cầu Bagdad ngồi chờ. Khi trông thấy một người khách lạ, bất cứ người đó như thế nào, chàng lịch sự chào đón, mời về nhà mình ăn ngủ đêm đầu tiên và sau khi phổ biến thành thật điều kiện mình đã dặt ra, chàng dẫn khách về nhà.

Bữa cơm mà Abou Hassan mời khách chẳng lấy gì làm thịnh soạn nhưng cúng đủ làm cho khách hài lòng. Nhất là rượu ngon thì không bao giờ thiếu. Bữa ăn thường kéo dài tới gần nửa đêm và đáng lẽ trao đổi cùng với khách những câu chuyện về thời sự, về gia đình hoặc về buôn bán, thường thường là như thế, thì chàng lại đề cập tới những chuyện linh tinh, vui vẻ nhẹ nhàng. Bản chất chàng cởi mở, vui tính và hài hước nên bất cứ về lĩnh vực nào, trong câu chuyện của chàng cũng làm cho người nghe khoan khoái và đượm vui dù đang có chuyện buồn.
Đưa tiễn khách vào sáng hôm sau, Abou Hassan nói:
- Dù đi tới đâu, Thượng đế cũng sẽ dành cho ngài mọi sự vui vẻ! Hôm qua khi tôi mời ngài về nhà tôi ăn nghỉ, tôi đã nói trước luật lệ tôi đẫ tự đặt ra, xin ngài cũng đừng cho là không phải khi chúng ta không còn cùng nhau ăn uống và ngay cả việc chúng ta sẽ chẳng còn gặp lại nhau ở nhà tôi hoặc ở nơi khác nữa. Tôi có những lý do để xử sự như vậy. Cầu xin Thượng đế phù hộ cho ngài. Abou Hassan thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc đó. Chàng không mời những người lạ đã một lần tiếp đón tại nhà mình và cũng chẳng chuyện trò gì với họ nữa. Khi gặp họ ngoài phố, ở nơi công cộng hoặc trong nhũng cuộc hội họp, chàng làm như không thấy họ, thậm chí còn lảng đi chỗ khác sợ họ đến hỏl han, tóm lại là chẳng còn quan hệ với họ bất cứ về mặt nào. Đã một thời gian khá lâu chàng xử sự như thế thì một hôm trước khi mặt trời lặn một chút, chàng ngồi chơi chờ khách như thường lệ thì hoàng đế Haroun Alraschid chợt xuất hiện nhưng cải trang vì vậy không ai nhận ra được.

Dù vị hoàng đế này có cả triều thần với đủ các bá quan văn võ điều hành công việc thật chu đáo, nhưng Người vẫn muốn tự mình đi tìm hiểu cho rõ tất cả mọi sự việc. Cũng vì thế mà chúng ta đã nhiều lần thấy Người cải trang vi hành khắp thành Bagdad. Ông cũng chẳng ngần ngại việc ra mãi xa ở bên ngoài hoàng cung, vì vậy, ông có thói quen là cứ mỗi ngày đầu tháng lại tới những đại lộ mà có người ở xa tới lúc thì từ đầu này lúc từ đầu kia. Hôm đó vào ngày đầu tháng, ông cải trang như một thương gia ở Moussoul vừa ghé tàu buôn tới từ đầu cầu bên kia, theo sau là một nô lệ to khoẻ.
Trong bộ y phục cải trang, hoàng đế vẫn có một phong thái bệ vệ đáng kính, Abou Hassan tưởng đó là một thương gia Moussoul thật nên từ chỗ ngồi đứng lên, và sau khi lịch sự và nhã nhặn cất lời chào và hôn tay người khách lạ, chàng nói:
- Thưa ngài, xin chúc mừng ngài đã bình yên tới thành phố chúng tôi. Xin được hân hạnh mời ngài tới dùng bữa và qua đêm tại nhà tôi để xua đuổi hết đi nỗi mệt nhọc trên đường.
Và để khách khỏi từ chối lời mờí thành thực của mình, chàng trình bày vắn tắt lệ luật tự đề ra về việc tiếp đãi khách lạ mỗi ngày.
Hoàng đế thấy cái gì đó hay hay và khác lạ trong sở thích của Abou Hassan nên nảy ra ý muốn tìm hiểu sâu xem sao. Không để lộ tư cách của mình, hoàng đế vui vẻ nhận lời và nói sẵn sàng đi theo chàng về nhà.

Abou Hassan không một chút nghi ngờ là người khách tình cờ của mình lại là hoàng đế nên đối xử như một người ngang hàng. Chàng dẫn khách về nhà mình và đưa khách vào một căn phòng rất sạch sẽ gọn gàng. Chàng mời khách ngồi trên Bập, chỗ long trọng nhất. Bữa ăn đã xong và bàn ăn đã dọn. Bà mẹ Abou Hassan rất thạo công vlệc bếp núc, bầy ra ba món, món đặt giữa bàn là món gà trống thiến hầm, với bốn gà dò, hai bên là các món khai vị, một bên là món ngỗng béo và bên kia là món bồ câu ra ràng. Không có gì hơn nữa nhưng các món thịt này đều là những thứ chọn lọc và chếbiến thơm ngon tụyệt vời.
Abou Hassan ngồi vào bàn đối diện với khách. Hoàng đế và chàng bắt đầu ăn những món mình ưa thích, không nói chuyện , không uống rượu, theo phong tục địa phương. Khi ăn xong, nô lệ của hoàng đế đưa khăn cho họ lau miệng lau tay trong lúc đó bà mẹ của Abou Hassan dọn bàn và mang thức tráng miệng gồm các loại quả đầu mùa như nho, đào, lê, táo và nhiều loại mứt khô. Tối đến, nến được thắp sáng và Abou Hassan bảo lấy rượu và ly uống bày ra đồng thời đặn mẹ cho người nô lệ của khách ăn uống tử tế.

Khi nhà thương gia Moussoul giả hiệu và Abou Hassan đã ngồi vào bàn, Abou Hassan trước lúc mời khách ăn trái cây liền cầm lấy chai rượu rót ra chén rồi giơ lên nói: Thưa ngài - Chàng nói với hoàng đế mà chàng vẫn cho là thương gia ở Moussoul - Chắc ngài cũng biết như tôi là một con gà trống chẳng bao giờ uống mà không gọi gà mái đến uống cùng, tôi xin mời ngài hãy theo gương tôi. Tôi không rõ ngài nghĩ ra sao chứ theo tôi thì một người đàn ông ghét rượu mà ìạl muốn cho mình là khôn ngoan thì chẳng bao glờ khôn ngoan cả. Chúng ta hãy gạt cái loại người đó với cái vẻ âu sầu buồn bã của họ sang một bên và hãy tìm cái vui cál thú. Nó ở ngay trong chén rượu đó và cái chén này truyền niềm vui cho những người uống cạn nó .
Và Abou Hassan dốc cạn chén rượu. Chàng lại rót đầy chén khác và đưa cho khách.
- Điều này làm tôi thích thú - Hoàng đế nói và đón lấy chén rượu - Thế mới là nam nhi chứ. Tôi yêu thích cái phong thái vui vẻ của ngài.
- Ngài nếm đi, thưa ngài - Abou Hassan nói - Ngài sẽ thấy rượu rất ngon.
- Chắc chắn như thế rồi - Hoàng đế tươi cười nói - Một người như ngài đây không thể là một người ngu ngơ trỏng việc chọn lựa những thứ hảo hạng.

Trong khi hoàng đế đưa chén rượu lên nhâm nhi, Abou Hassan lại nói:
- Chỉ mới thoạt trông đã thấy ngài là một người lịch lãm và biết cách sống. Nếu ngôi nhà của tôi - Chàng đọc thơ bằng tiếng ẢrẬp - mà có hồn và cảm thấy sung sướng được thấy ngài dưới mái nhà thì ắt phải quì xuống trước ngài mà kêu lên: Ôi! Sung sướng biết bao, vinh quang biết bao được một con người rất mực vui từơi và rất mực nhân hậu như ngài chiếu cố dùng cơm trong nhà mình! Thưa ngài, đúng là tôi không sao nól lên được niềm vui lớn hôm nay được gặp một con người cao quí như ngài.
Những điều bộc bạch của Abou Hassan làm cho hoàng đế rất thú vị vì bản tính ông vơn cũng thích bông đùa, ông khuyến khích cho chàng uống bằng cách tự mình luôn luôn đòi chuốc rượu cho mình. Ông muốn nhờ vào rượu để khơi chuyện mong biết rõ thêm về chàng trai này. Để bắt đầu câu chuyện tâm tình, ông hỏi chàng tên gì, quan tâm tới cái gì nhất và cáeh sống của chàng như thế nào. Chàng đáp:

- Thưa ngài, tên tôi là Abou Hassan. cha tôi vốn là thương gia và ông đã mất. Chưa phải là một người giàu có nhất, nhưng cha tôi cũng là một trong số những người sống sung túc ở Bagdad. Khi qua đời, người đã để lại cho tôi thừa kế một gia sản quá đầy đủ để sống không cần có tham vọng gì nữa đối với thực trạng của mình. Vì cha tôi đối với tôi rất khe khắt nên suất một phần tuổi thanh xuân của tôi phải sống trong gò bó, vì vậy sau khi người mất, tôi muốn cố gắng bù đắp lại một phần nào cái thời tươi đẹp mà tôi cho là đã bị mất đi một cách oan uổng.
- Nhưng ít ra về điều đó - Abou Hassan nói tiếp – tôi đã xử sự một cách khác hẳn với thói thường của tất cả những người trẻ tuổi. Họ nhắm mắt lao vào cuộc sống phóng túng không cần suy ưnh và tự buông thả cho đến lúc khánh kiệt không còn một đồng tiền kẽm dính túi, buộc phải sống trong thiếu thốn, trong đói khổ suốt những ngày còn lạl của cuộc đời. Để không phải rơi vào cảnh đó, tôi đã chia của cải của mình ra làm hai phần, một phần là ruộng đất, nhà cửa, phần kia là tiền mặt. Tôi dành phần tiền mặt cho những khoản chi tiêu theo ý muốn và cương quyết không đụng chạm tới phần lợi tức của bất động sản. Tôi tụ tập một đám đông người quen biết sàn sàn cùng lứa tuổi với mình và vung tiền ra không thương tiếc, tôi chiêu đãi họ hàng ngày thật l1nh đình, đến mức các của ngon vật lạ các hình thức chơi bời không thiếu một thứ gì. Nhưng chẳng được bao lâu, cuối năm, két tiền của tôi rỗng tuếch và đồng thời các bạn tôi cũng biến mất tăm. Tôi lần lượt đi tìm gặp họ, ,trình bậy với họ hoàn cảnh khốn đốn của mình, nhưng chẳng có một .aí:đoái hoài, chẳng có một ai có một lời an ủi. Thế là tôi tuyệt giao với chúng và hạn chế vlệc chi tiêu của mình trong phạm vi khoản lợi tức. Tôi cũng hạn chế trong vlệc giao tiếp, chỉ tiếp đãi người khách lạ đầu tiên mà tôi gặp mỗi ngày khi họ tới Bagdad với điều kiện là chỉ mời ăn uống một ngày hôm đó. Phần còn lại tôi đã trình bày với ngài rồi và tôi rất cảm ơn vận may đã cho tôi được gặp một người khách lạ cao quý như ngài ngày hôm nay.

Hoàng đế rất hài lòng đã biết rõ sự việc, bảo Abou Hassan:
Tôi thật không đủ lời lẽ để ca ngợi ph.ương cách thật tết mà ông đã hành động với sự thận trọng thật chu đáo khi lao vào cuộc sống phóng đãng truỵ lạc, không giống như kiểu thường có của tuổi thanh niên. Tôi còn mến phục ông là đã giữ trọn vẹn lời thề với bản thân như ông đã làm. Bước đường đi thường trơn rượt, tôi không ngớt khâm phục ông ở chỗ thấy tiền mặt hết sạch, ông đã kiềm chế được mà không tiêu tán nết khoản lợi tức và có khi cả vốn liếng ruộng vườn nhà cửa nữa. Để nói cho ông biết tôi đã nghĩ gì về việc này, tôi phải nói ông là đân chơi duy nhất có cách xử sự lạ lùng đó và chắc chẳng bao giờ có ai như thế. Cuối cùng cũng phải thú thực là tôi ganh tị với hạnh phúc của ông. Ông là một người sung sướng nhất trần gian, mỗi ngày được đánh bạn với một người trung thực, được cùng nhau chuyện trò thật tâm đắc, để rồi người đó loan truyền đi khắp mọi nơi sự tlếp đãi nồng hậu của ông. Nhưng mà... Cả ông và tôi, chúng ta đều không nhận thấy là chuyện trò lâu quá quên cả uống. Hãy uống đi ông bạn, và sau đó hãy rót đầy chén cho tôi nữa.
Hoàng đế và Abou Hassan tiếp tục cuộc rượu thật lâu và trao đổi nhlều điều thật lý thú.
Đêm đã về khuya và hoàng đế làm như rất mệt vì chặng đường đã đi bảo với Abou Hassan là mình cần được nghỉ ngơi. Và ông nói thêm:
- Tôi cũng không muốn vì lòng yêu tôi mà ông phải chịu thiệt thòi. Trước khi chúng ta chia tay (vì rất có thể là ngày mai tôi sẽ ra đi trước khi ông ngủ dậy), tôi xin thành thật nói vớl ông là tôi rất xúc động về lòng trung hậu, về thức ăn ngon và tính hiếu khách của ông đối với tôi thật là ân tình. Điều duy nhất làm tôi băn khoăn là biểu lộ sự biết ơn của mình ra sao đây. Xin ông hãy vui lòng cho biết tôi phải làm gì để khỏi mang tiếng là kẻ vô ơn. Chẳng lẽ một người như ông mà lại không có việc nào đó cần làm, một nhu cầu nào đó cần đáp ứng và tóm lại là không có một mong ước nào đó cần được thoả mãn hay sao. Hãy cởi mở và hãy thành thật bảo tôi đi. Dù chỉ là một thương gia nhưng không phải là tôi không có điều kiện để tự tôi hoặc qua các bạn bè giúp ông mọi việc.

Nghe những lời ân cần của hoàng đế mà Abou Hassan vẫn ngỡ là một thương gia, chàng nói:
- Thưa ngài, tôi tin không phải là chỉ vì muốn làm vui lòng tôi mà ngài có những gợi ý thật là hào hiệp. Nhưng xin thành thật thưa với ngài là tôi không hề buồn nản, chẳng có công việc gì mắc mớ, chẳng có ham muốn gì và cũng chẳng cần xin ai một thứ gì. Tôi không có một chút tham vọng nào như đã nói với ngài và tôi rất hài lòng với số phận của mình. Không những tôi phải cảm tạ về những đề xuất thật ưu ái của ngài mà còn phải cảm tạ cả nhã ý của ngài đã cho tôi vinh dự là đã tới đùng bữa cơm thanh đạm tại nhà tôi. Tuy nhiên cũng xin thưa với ngài – Abou Hassan nói tiếp - duy nhất có một điều làm tôi băn khoăn, nhưng cũng chẳng đến nỗi làm tôi mất ăn mất ngủ. Chắc ngài cũng đã rõ là thành phố Bagdad được chia ra làm nhiều khu phố, và ở mỗi khu phố có một thánh thất với một trưởng giáo. Vào giờ thường lệ trưởng giáo đứng đầu khu phố tập hợp đân chúng tới thánh thất để cầu nguyện. Trưởng giáo ở đây là một lão già to lớn, nét mặt khắc khổ và đạo đức giả nhất thế giới. Hội đồng của lão còn có bốn lão già khác toàn là láng giềng của tôi, loại người cũng gần giống như lão, hàng ngày tập hợp đều đặn tại nhà lão trưởng giáo. Và trong những cuộc họp kín đó, các lão không từ một sự đèm pha, một sự vu khống hoặc xỏ xiên nào mà không chĩa vào tôi và cả khu phố để chia rẽ và gây rối. Chúng hùng hổ với người này, doạ nạt người kia. Cuối cùng chúng muốn xưng hùng xưng bá, mỗi đứa xử sự theo tính khí thất thường của mình nhưng ngay chính chúng cũng còn không biết xử sự với chmh mình ra sao nữa. Thật tình mà nói, tôi đau buồn là thấy các lão thọc mũi vào tất cả, ngoài cuốn kinh Coran của họ và không để cho thiên hạ sông yên ôn.

- Vậy là Hoàng đế nói - ý ông muốn tìm một cách nào đó để chặn đứng sự lộn xộn ấy chứ gì?
- Đúng như ngài đã nói đó - Abou Hassan nói – và điều duy nhất mà tôi cầu xin Thượng đế để làm việc đó là được làm hoàng đế chỉ một ngày thôi thay thế cho đấng Thống lĩnh các tín đồ Haroun Alraschid, đức vua và lãnh chúa của chúng ta.
- Ông sẽ làm gì nếu được như vậy? - Hoàng đế hỏi.
- Tôi sẽ làm một việc có ý nghĩa lớn, và việc này sẽ làm hài lòng tất cả những người trung thực. Tôi sẽ cho đánh một trăm gậy vào gan bàn chân mỗi người trong bơn lão già và bốn trăm gậy cho lão trưởng giáo để dạy cho họ chớ có gây rối và làm phiền lòng những người láng giềng của chúng.
Hoàng đế thấy ý nghĩ của Abou Hassan thật là ngộ nghĩnh và vì ông cũng vốn rất thích những chuyện phiêu lưu kỳ lạ nên bỗng nẩy ra ý muốn nhân đó bày ra một chuyện vui đùa thật độc đáo. Ông liền bảo chàng:
Điều mong ước của ông làm tôi rất thích nhất là nó lại phát xuất từ một tấm lòng ngay thẳng, không sao chịu được những hành động ma quái của bọn xấu mà không bị trừng trị. Tôi sẽ rất thích thú chờ xem hiệu quả và không phải là nó không có khả năng xảy ra như ông tưởng đâu. Tôi chắc chắn là hoàng đế sẽ vui lòng trao quyền lực vào tay ông trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ nếu Người biết rõ thiện ý và cách sử dụng quyền lực của ông như thế nào. Dù chỉ là một thương gia nước ngoài, tôi cũng muốn có cái gì đó để góp phần nhỏ mọn của mình vào việc này.

- Tôi thấy rõ - Abou Hassan nồi- là ngài muốn chế nhạo về sự tưởng tượng điên rồ của tôi và hoàng đế cũng giễu cợt tôi nếu Người biết ý tưởng hoang đường đó. Điều có thể xảy ra là Người sẽ tra hỏi về tư cách của lão trưởng giáo và những cố vấn của y rồi có hình thức trừng phạt mà thôi.
- Tôi chẳng chế nhạo ông đâu - Hoàng đế phản đối - Xin Thượng đế trừng phạt nếu tôi đã có ý nghĩ bậy bạ như thế đối với Người như ông đã đón tiếp tôi thật thân tình dù chưa từng quen biết. Và tôi có thể cả quyết với ông là hoàng đế sẽ cũng chẳng giễu cợt ông đâu. Nhưng thôi, ta hãy gác chuyện đó lại. Gần nửa đêm rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
- Chúng ta chấm dứt câu chuyện tại đây – Abou Hassan nói - Tôi chẳng muốn làm trở ngại cho sự nghỉ ngơi của ngài. Nhưng, rượu trong chai hãy còn, chúng ta phải uống cạn chứ, sau đó thì đi ngủ. Điều đuy nhất tôi đề nghị là sáng mai, nếu ngài ra đi mà tôi chưa thức giấc thì xin đừng để cửa ngỏ mà khép lại giúp tôi.
Hoàng đế hứa là sẽ làm đúng như thế.

Trong khi Abou Hassan nói thế thì hoàng đế cầm lấy chai rượu và hai chiếc chén. Ông tự rót cho mình đầu tiên, cho Abou Hassan biết là ông uống để tạ ơn chàng. Uống xong, ông khéo lệo và nhanh nhẹn bỏ vào chén của Abou Hassan một nhúm bột mà ông có trong người và rót nốt rượu trong chai vào. Đưa chén rượu cho Abou Hassan, ông nói:
- Ông đã mất công rót rượu mời tôi suốt buổi, lần uống cuối cùng này, tôi phải mời ông là chuyện đương nhiên phải làm để đỡ vất vả cho ông. Xin ông hãy đỡ lấy chén rượu này từ tay tôi và uống cạn vì tình yêu của ông đối với tôi.
Abou Hassan đỡ lấy chén rượu và để tỏ ra với khách niềm vui và vinh dự được mời như vậy, chàng đưa chén rượu lên miệng và uống cạn một hơi. Nhưng chỉ vừa đặt chén xuống bàn thì cái thứ bột gì đó đã phát huy hiệu quả. Chàng thiếp đi ngay, đầu gục xuống một cách bất thần làm hoàng đế không khỏi mỉm cứời: Người nô lệ đi theọ ông bưôc vào sẵn sàng chờ lệnh. Hoàng đế bảo y:
- Vác người này lên vai, nhưng chú ý phải nhớ kỹ địa điểm nhà này để ngươi sẽ phải mang trả lại đúng chỗ khi ta có lệnh.
Hoàng đế, theo sau là người nô lệ vác Abou Hasạan trên vai, đi ra khỏi nhà nhưng vẫn để ngỏ cửa chứ không khép lại như Abou Hassan đề nghị. Ông cố tình làm như thế. Khi về tới hoàng cung, ông vào trong bằng một cái cửa bí mật, bắt tên nô lệ theo ông về tới tận ngự phòng ở đó tất cả các quan hầu đang túc trực. Vua phán:
- Hãy cởi quần áo người này ra và đặt nằm trên long sàng, ta sẽ cho mọi người biết ý định của ta sau:

Những viên quan hầu cởi bỏ quần áo của Abou Hassan ra, mặc áo quần ngủ của hoàng đế vào cho chàng và theo lệnh nhà vua đặt chàng nằm trên giường của Người. Trong hoàng cung chưa có ai ngủ, nhà vua cho gọi tất cả các quan hầu khác và các cung nữ. Khi tất cả đã tập hợp đông đủ trước mặt rồi, hoàng đế bảo:
- Ta muốn tất cả các ngươi đã quen có mặt vào lúc ta thức dậy chớ quên là sáng mai khi người nằm trên giường của ta mở mắt thì mỗi người sẽ làm công việc của mình như thường ngày hầu hạ ta vậy. Ta cũng muốn là mọi người đều phải cung kính tôn trọng người này cũng như đối với ta và phải tuyệt đối phục tùng mỗi khi người này ra lệnh. Không ai được từ chối điều gì khi người này đòi hỏi và không được làm trál bất cứ điều gì mà người này có thể nói ra hoặc muốn được có. Trong tất cả các trường hợp cần trình thưa hay đáp lại, không được quên là phải coi người này như đấng Thống lĩnh các tín đồ. Tóm lại một câu là không một ngườl nào được nghĩ đến ta trong suốt cả thời gian ở gần người này, phải coi như người này là ta tức là hoàng đế và là Thống lĩnh các tín đồ. Trên tất cả mọi thứ là tuyệt đối không được nhầm lẫn bất cứ trong trường hợp nào.
Những viên quan hầu cận và các cung nữ hiểu trước hết là hoàng đế muốn bày một trò vui, nên chỉ biết cúi đầu tuân lệnh và ngạy lúc đó mỗi người đều chuẩn bị đóng vai trò của mình cho thật đạt.
Quay trở lại hoàng cung, hoàng đế cho vời tể tướng đầu triều Giafar tới.

Hoàng đế bảo:
- Giafar, ta cho triệu nhà ngươi tới để báo cho ngươi biết chớ nên lấy làm ngạc nhiên về buổl thiết triều ngày mai. Con người hiện đang ngủ trên long sàng của ta, ngày mai sẽ ngồi lên ngai vàng với triều phục hoàng đế. Nhà ngươi hãy tiếp cận hắn với sự kính trọng như thường vẫn đối với ta và đối xử với hắn như đối với vị Thống lĩnh các tín đồ vậy. Hãy lắng nghe và thi hành ngay tức khắc tất cả những gì người ấy ra lệnh cũng như ta ra lệnh vậy. Người ấy sẽ không quên tỏ ra hào phóng và trao cho ngươi nhiệm vụ phân phát những đồng tiền thưởng. Hãy làm theo dù có phải đốc c_ạn tất cả những rương tiền của ta. Nhớ là báo cho tất cả các thượng thư, các pháp quan và tất cả những quan chức khác ở bên ngoài hoàng cung là ngày mai vào triều cũng phải tung hô chúc tụng nhứ đối với ta và phải chú ý giữ gìn không để người ấy nhận ra bất cứ một điều gì có thể làm gián đoạn cuộc vui mà ta đã sắp đặt. Thôi, về đi, ta eũng chẳng còn gì phải đặn thêm nữa. Hãy cố gắng cho ta niềm vui mà ta đòi hỏi.

Sau khi tể tướng rút lui, hoàng đế đi sang một phòng khác và trước khi ngủ, ông lệnh cho Mesrour, tổng thái giám, những cái cần làm về phía ông ta để tất cả đều đạt được việc theo ông là để thừc hiện ước mơ của Abou Hassan và để xem anh ta sẽ sử đụng quyền lực của một hoàng đế như thế nào trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà anh ta yêu cầu. Và cuối cùng ông dặn đánh thức ông dậy như thường lệ trước khi đánh thức Abou Hassan vì ôũg muốn mình được chứng kiến sự việc điễn biến ra sao ngay từ lúc đầu.
Mesrour không quên đánh thức hoàng đế đúng giờ đã dặn. Khi hoàng đế vào tới phòng Abou Hassan đang ngủ, ông nấp trong một căn buồng nhỏ trên cao mà ở đó qua một cửa sổ ông có thể nhìn thấy tất cả những gì xảy ra trong phòng mà không sợ ai nhìn thấy mình. Tất cả các quan hầu và các cung nữ cần phải có mặt khi Abou Hassan thức dậy đều cùng vào ngự phòng một lúc và mỗi người đứng vào chỗ quen thuộc của mình tuỳ theo chức vụ và tuyệt đối im lặng làm như để chờ hoàng đế thức giấc và sẵn sàng làm nhiệm vụ của mỗi người đã được phân công.
Vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên, đã đến lúc phải dậy để cầu nguyện, người quan hầu đứng gần phía đầu giường, đưa vào gần mũi Abou Hassan một miếng bông tẩm dấm.

Lập tức chàng hắt hơi và quay đầu về phía khác nhưng chưa mở mắt. Hiệu quả của chất bột hoàng đế bỏ vào chén rượu của chàng lúc này chấm đứt. Quay lại và d8ặt đầu trên gối, Abou Hassan mở mắt và dù trời mới tờ mờ sáng cũng nhận thấy là mình đang ở trong một căn phòng được trang trí thật lộng lẫy, trần nhà chạm trổ tinh vi, chung quanh có nhiều bình lớn bằng vàng ròng, những tấm màn che cửa và tấm thảm trải sàn bằng lụa thêu kim tuyến. Nhiều cung nữ quây quần, mỗi người cầm một nhạc cụ sẵn sàng hoà tấu. Các cô đều xinh đẹp tuyệt vời cùng với các thái giám da đen ăn mặc sang trọng cùng đứng yên một cách thật khiêm nhường. Đưa mắt nhìn chăn đệm trên giường, chàng thấy đó là một tấm gấm đỏ thêu kim tuyến, đát ngọc trai và kim cương. Gần bên. giường là một bộ quần áo cũng bằng cùng thứ vải và trang trí giống như thế và trên một chiếc gối là chiếc mũ mềm của hoàng đế.
Nhìn thấy những đồ rực rỡ huy hoàng đó, Abou Hassan kinh ngạc và hoang mang không sao tả xiết. Chàng nhìn tất cả những đồ vật như trong một giấc mộng, mộng rất thật đối với chàng mà chàng muốn cứ thế mãi. Chàng tự nhủ: Được, thế là ta đã là hoàng đế. Nhưng - Chàng nói thêm sau một lát nghĩ ngợi - không phải là ta nhầm chứ? Đúng là một giấc mộng, kết quả của lời mong ước mà ta vừa thổ lộ với ông khách . Và chàng lại nhắm mắt như để ngủ tiếp.

Cũng lúc đó thì một hoạn nô tới gần:
- Tâu đấng Thơng lĩnh các tín đồ - Y cung kính nói - Xin bệ hạ đừng ngủ lại nữa, đã đến lúc Người dậy để cầu nguyện, bình minh đã bắt đầu ló rạng rồi!
Những lời nói trên làm cho Abou Hassan vô cùng kinh ngạc, chàng lại tự hỏi: Ta thức hay ta ngủ đây? Nhưng đúng là ta đang ngủ - Chàng lại tự nhủ tiếp, mắt vẫn nhắm nghiền - Không còn nghi ngờ gì nữa .
Một lát sau, viên thái giám thấy chàng không nói năng gì và chẳng tỏ ra vẻ gì muốn trở dậy cả, liền nói tiếp:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ cho phép tôi nhắc lại là đã tới giờ Người trở dậy nếu không thì sẽ lỡ buổi cầu kinh sáng mà Người chưa bao giờ quên.
Ta đã nhầm - Abou Hassan bật nói - Ta không ngủ mà ta đang thức. Những người ngủ thì chẳng nghe thấy gì còn ta lại nghe rõ có người đang nói với ta.
Chàng lại mở mắt và vì trời đã sáng hẳn, chàng nhìn thấy rõ rệt tất cả những đồ vật mà lúc nãy chỉ trông thấy lờ mờ. Chàng ngồi lên vui vẻ như một người tràn ngập niềm vui khi thấy mình đang ở trong một trạng thái, có một địa vị cao sang hơn rất nhiều so với điều kiện thực của mình. Còn hoàng đế đang bí mật quan sát thì vô cùng thích thú đọc được ý nghĩ của chàng.

Vừa lúc đó, các cung tần mỹ nữ của hoàng cung quỳ dập xuống trước Abou Hassan và những người đang có nhạc cụ trong tay hoà tấn một bản nhạc đu dương thay cho lời chào gửi tớl chàng. Abòu Hassan đắm say mê mẩn đến mức không hiểu được là lúc này mình đang ở đâu và mình có còn phải là mình nữa không. Tuy nhiên ý nghĩ lúc đầu trở về trong trí và chàng hãy còn nghi ngờ tất cả những gì trông thấy, nghe thấy thực sự là có thật hay chỉ là trong một giấc mơ. Chàng giơ hai bàn tay lên trước mặt và cúi đầu suy nghĩ: Tất cả cái này là gì vậy - Chàng tự nhủ - Ta đang ở đâu? Lâu đài này là của ai? Những thái giám, những viên quan hầu cận ăn mặc chỉnh tề, phong thái trịnh trọng này là thế nào? Những cô nương xinh đẹp và những nữ nhạc công làm ta mê đắm này là ai? Có thể thế được không? Ta không sao phân biệt được là đang trong giấc mộng hay đúng là hiện thực? . Chàng bỏ hai tay trước mặt xuống, mở mắt ra, ngửng đầu lên và nhìn thấy ánh sáng ban ngày đã chiếu qua cửa sổ lọt vào trong phòng chàng đang ngồi.
Trọng lúc này thì Mesrour, tổng thái giám đi vào quỳ, cúi đầu thấp trước Abou Hassan và nói với chàng khi đứng lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ cho phép tôi được thưa là Người thường không có thói quen là dậy quá muộn và đã để cho thời gian cầu nguyện trơi qua. Nếu chẳng phải là vì đã có một đêm mất ngủ và thánh thể bất an thì xin Người hãy đi tới phòng thiết triều, ngồi lên ngai vàng để quần thần được chiêm ngưỡng như mọi khi. Những tướng lĩnh, những thủ hiến các tỉnh thành, và các quan đại thần khác trong triều đình chỉ còn chờ cánh cửa của cung thiết triều mở ra thôi.

Nghe lời tâu trình của Mesrour, Abou Hassan vững tin là chàng không ngủ mê và tất cả quang cảnh này chẳng phải là trong giấc mộng. Chàng chắng khỏi lúng túng và hoang mang không biết phải làm gì đây. Cuối cùng chàng nhìn thẳng vào mặt Mesrour và nghiêm trang hỏi:
- Ông đang nói với ai vậỳ, và ai là người mà ông gọi là đấng Thống lĩnh các tín đồ, tôi chưa từng biết ông là ai. Có thể là ông đã nhầm tôi với một người khác đấy.
Nếu không phải là Mesrour đã được hoàng đế cho biết trước rồi thì sẽ lúng túng trước câu hẻi của Abou Hassan. Viên tổng thái giám đóng rất tất vai trò của mình, y kêu lên:
- Thưa lãnh chúa chủ nhân tôn kính, bệ hạ nói như vậy với tôi hôm nay để thử thách tôi chăng? Bệ hạ há chẳng phải là đấng Thống lĩnh các tín đồ, chúa tể của thế giới từ đông sang tây, người đại diện cho đấng tlên tri, sứ giả của Thượng đế dưới cõi trần cũng như trên thiên đường đó ư? Mesrour, kẻ nô lệ hèn mọn này làm sao mà quên được Người sau bao năm đã có hạnh phúc và vinh dự được hầu hạ Người. Nó sẽ là đứa khổ sở nhất trong tất cả mọi người nếu nó bị bệ hạ thất sủng. Vì vậy nó cầu xin bệ hạ rủ lòng thương mà làm cho nó yên tâm: nó muốn tin là một cơn ác mộng trong đêm đã làm cho Người không được yên giấc.
Nghe Mesrour kể lể, Abou Hassan cười rộ lên, người ngả ra giường làm cho hoàng đế rất vui muốn cũng cười to như thế nếu không sợ là cuộc vui mới bắt đầu đã phải chấm dứt.

Abou Hassan, nằm cười rất lâu rồi nhổm dậy bảo một tên hoạn nô nhỏ da cũng đen như Mesrour:
- Này, nghe đây, hãy nói đi ta là ai?
- Dạ muôn tâu - Hoạn nô nhỏ cung kmh đáp - Bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ và là người đạl diện cho cả trần gian và thượng giới.
- Mày là một thằng bé nói dối, đồ-"mặt đen như trôn chảo! - Abou Hassan tức giận bảo.
Chàng lại gọi một trong các cung nữ đứng gần:
- Hãy lại gần đây, người đẹp - Abou Hassan nói và giơ bàn tay ra - Này, hãy cắn vào đầu ngón tay tôi để xem là tôi đang ngủ hay là đang thức.
Cô gái, biết là hoàng đế đang chú ý nhìn tất cả những gì đang xảy ra trong phòng, rất hài lòng để tỏ ra vai trò mình đóng cũng không phải dở. Thế là nàng rón rén đến gần Abou Hassan, nhẹ nhàng nắm lấy một ngón tay mà chàng giơ ra, đưa tay lên miệng cắn nhẹ làm cho chàng cảm thấy hơi đau.
Giật nhanh bàn tay lại, Abou Hassan lẩm bẩm:
- Đúng là ta không ngủ mơ. Có phép lạ gì đây mà chỉ trong lnột đêm ta lại trở thành hoàng đế “Đây quả là một việc kỳ diệu và lạ lùng nhất thế gian.
Và quay lại bảo người cung nữ vừa cắn ngón tay mình:
- Xin đừng giấu tôi sự thật, xin có Thượng đế chứng giám mà nàng cũng như tôi đều tôn sùng Người, có phải tôi đúng là Thống lĩnh các tín đồ không?
- Đúng như vậy - Người cung nữ đáp - Đúng bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ mà chúng tồi là bầy tôi của Người, tất cả những nô lệ chúng tôi đều ngạc nhiên thấy Người không tin mình là hoàng đế.
- Nàng là kẻ nói láo - Abou Hassan nói - Tôi biết rõ mình là ai chứ.
Thấy Abou Hassan muốn đứng lên, người chỉ huy các hoạn nô giơ tay ra giúp chàng bước xuống giường. Chàng vừa đứng lên, cả căn phòng vang lên tlếng chào mừng của tất cả các quan hầu và cung tần mỹ nữ: Cầu xin Thượng đế ban cho đấng Thống lĩnh các tín đồ một ngày tất đẹp.

- Ôi! Trời đất? Thật kỳ diệu làm sao! - Abou Hassan kêu lên - Chiều hôm qua ta là Ábou Hassan và sáng nay ta đã là Thống lĩnh các tín đồ! Ta không sao mà hiểu được vì đâu lại có sự đổi thay nhanh chóng và lạ kỳ như vậy.
Các quan hầu chuyên lo việc trang phục đã mau chóng mặc triều phục cho chàng và khi làm xong thì cùng với các quan hầu khác, các hoạn nô và cung tần mỹ nữ đứng thành hai hàng kéo dài ra tận cửa thông sang cung thiết triều. Mesrour đi trưôc dẫn đường, Abou Hassan theo sau. Một viên quan vén rèm, mở cửa, Mesrour b.ước vào và vẫn đi trước đến tận chân ngai vàng thì đứng lại đỡ cho Abou Hassan bước lên ngai có sự giúp của một vị quan khác, mỗi người xốc một bên nách chàng.
- Abou Hassan ngồi xuống ngai trong tiếng hoan hô của các quan chức triều thần. Họ chúc chàng tất cả những lời tốt đẹp: hạnh phúc và thịnh vượng. Chàng quay nhìn sang phải, sang trái, thấy các quan và thị vệ đứng thành hàng trật tự và trang nghiêm.
Hoàng đế lúc đó rời khỏi căn buồng ông nấp trong khi Abou Hassan đã vào cung điện. Ông chuyển đến một căn buồng khác cùng có cửa sổ hướng sang cung thiết triều, ở đây có thể nhìn và nghe thấy tất cả những gì xảy ra trong đó điều đầu tiên làm hoàng đế hài lòng là thấy Abou Hassan thay mình ngồi trên ngai cũng chững chạc bệ vệ chẳng kém gì chính ông.

Sau lúc Abou Hassan đã yên vị, tể tướng Giafar vừa tới, quì xuống trước chàng bên cạnh ngai rồi đứng lên nói vớl chàng:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, cầu mong Thượng đế ban phúc dồi đào eho bệ hạ trên cõi đời này, nhận Người lên thiên đường ở cõi đời bên kia, và đầy xuống hoả ngục tất cả những kẻ thù của Người.
Sau tất cả những gì xảy ra từ lúc thức dậy và những lời vừa được nghe qua miệng tể tướng, Abou Hassan không còn nghi ngờ gì nữa mình đúng là hoàng đế như đã mong ước Vì vậy, chẳng cần phải xem xét vì sao hoặc có gì xảy ra để có sự đổi thay số phận bất ngờ như vậy, lập tức chàng đi vào việc sử dụng quyền lực của một hoàng đế. Vì vậy, chàng nghiêm nghị nhìn tể tướng và hỏi ông có vấn đề gì tấu trình hay không.
- Tâu đấng Thống lĩnh các tln đồ - Tể tướng thưa - Lúc này các đại thần, thượng thư và các quan chức khác trong triều đều còn đang đứng ngoài cửa, chỉ còn chờ lệnh bệ hạ cho vào để được dâng lên Người lời chúc mừng kính trọng thường lệ.
Abou Hassan tức thì bảo cho ra mở cửa. Tể tướng quay lại bảo người thị vệ trưởng đang chờ lệnh:
- Thị vệ trưởng? Đa61ng Thống lĩnh các tín đồ lệnh cho nhà ngươi làm nhiệm vụ của mình.

Cửa mở, cùng một lúc các thượng thư, các đại thần và các quan chức chủ chốt của triều đình, tất cả đều mang triều phục lộng lẫy, trật tự bước vào, tiến tới tận chân ngai, kính trọng cúi chào Abou Hassan, mỗi người đi theo hàng của mình, gối quì xuống đất, trán chạm thảm sàn, y như đối với hoàng đế và kêu chàng là Thống lĩnh các tín đồ như lời đại tể tướng đã căn dặn. Rồi lần lượt mỗi người về chỗ của mình sau khi đã làm tròn bo63n phận.
Nghi lễ kết thúc, tất cả mọi người ai về chỗ na2y, im lặng hoàn toàn trong điện.
Tể tướng vẫn đứng trước ngai, bắt đầu tâu trình mọi việc lần lượt theo xấp giấy cầm tay. Những sự vụ thực ra thì bình thường không có gì quan trọng. Nhưng Abou Hassan chẳng khỏi làm cho tất cả phải thán phục kể cả hoàng đế. Đúng vậy, chàng không chút tỏ vẻ lạ lẫm cũng không bối rối vì bất cứ sự vụ nào. Chàng cho lời phán xét thật chính xác về tất cả mọi việc dựa theo linh khiếu của mình, hoặc chuẩn y hoặc bác bỏ những gì dân cầu xin.

Trước khi tể tướng chấm dứt bản tấu trình, Abou Hassan chợt nhìn thấy viên quan tư pháp, mà chàng biết mặt, đang ngồi trong hàng quan của mình, chàng giơ tay bảo tể tướng:
- Hãy chờ một chút, ta có mệnh lệnh gấp cho viên pháp quan.
Viên quan này vẫn chăm chú nhìn Abou Hassan từ đầu, nhận thấy là chàng nhìn mình một cách đặc biệt, lại nghe nói đến mình, vội vàng đứng lên, tiến lại ngai vàng quỳ xuống, mặt chạm đất.
- Này pháp quan - Abou Hassan bảo sau khi y đứng lên - Ông hãy cho lính tới ngay phố này thuộc khu này... Ở đó có một thánh thất trong đó có một trưởng giáo và bốn lão già tóc bạc. Hãy tóm bắt luôn cả bọn và đánh cho bốn lão già mỗi lão một trăm roi gân bò, đánh cho lão trưởng giáo bốn trăm roi. Sau đó, ông cho đặt chúng lên lưng năm con lạc đà, mặt ngoảnh về phía đuôi con vật, trên người mặc quần áo rách rưới. Ông cho cả đoàn này đi diễu khắp các khu phố trong thành, đi đầu là một ngườl mõ kêu to lên: Đây là hình phạt cho những kẻ hay xía vào những việc không liên quan gì tới mlnh mà chỉ để quấy rối, gây chia rẽ trong gia đình những người xung quanh và gây cho họ nhiều điều khổ sở . Ta còn muốn là chúng phải chuyển chỗ ở sang khu phố khác và không được bén mảng về khu phố cũ nữa. Trong khi người phó của ông cho chúng đi diễu phố như ta vừa nói thì ông trở lại đây trình tâu rõ mệnh lệnh của ta đã được thi hành ra sao.

Viên pháp quan đặt bàn tay lên đầu để tỏ là mình sẽ thi hành mệnh lệnh vừa nhận được, nếu không làm tròn thì xin nộp cái đầu mình. Quì xuống trước ngai lần thứ hai và sau khi đứng lên y đi ngay.
Mệnh lệnh được phát ra đầy cứng rắn làm hoàng đế thích thú và thấy đúng là Abou Hassan đã không bỏ lỡ cơ hội để trừng phạt lão trưởng giáo và bốn lão già như đã nói với hoàng đế nếu được một ngày thay ông làm vua.
Tướng tiếp tục đọc bản tấu trình và khi sắp sửa kết thúc thì viên pháp quan trở về, bệ kiến để trlnh bày sứ mệnh đã được thực hiện. Đến gần ngai vàng, quì xuống theo lễ tục rồi ông thưa khi đứng lên:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, tôi đã thấy lão trưởng giáo và bốn lão già tại thánh thất mà bệ hạ đã chỉ, đây là tờ lục biên có chữ ký của những nhân chứng là các vị chức sắc của khu phố.
Cùng lúc y lôi từ ngực áo ra một tờ giấy và đưa cho Abou Hassan.
Abou Hassan cầm lấy đọc toàn bộ tờ lục biên đến tận các chữ ký của những nhân chứng mà chàng cũng đã quen biết. Xong, chàng cười bảo viên pháp quán:

- Tốt lắm, ta hài lòng về vlệc làm của ông, mờì ông về chỗ.
Rồi chàng hể hả tự nhủ: Những con chlên ghẻ nảy cứ muốn dòm ngó vào việc làm của ta, cho việc ta đón tiếp và thết đãi tại nhà những người lương thiện là xấu, chúng đáng phải chịu trừng phạt như thế .
Hoàng đế, quan sát biết được ý nghĩ của chàng, cũng rất vui thấy chàng xử lý công việc thật hợp lý hợp tình.
Abou Hassan sau đó bảo tể tướng:
- Hãy bảo tổng quản ngân khố đưa cho ông một nghìn đồng tiền vàng, tới khu phố mà ta đã phái viên pháp quan đi vừa rồi, mang đến cho bà mẹ một người có tên là Abou Hassan tục danh là Phóng-đãng. Đó là một người mà cả khu phố biết đến dưới cái tên đó. Không có ai là không chỉ nhà người ấy cho ông đâu. Đi đi và mau chóng về ngay.
Tể tướng đặt bàn tay lên đầu tỏ ý tuân lệnh và sau khi quì gối xuống trước ngai, ông đi đến chỗ tổng quản ngân khố, llnh túi tiền, đưa cho một tên nô lệ mang đi theo ông và đưa tặng cho bà mẹ Abou Hassan. Tể tướng vào gặp bà nói là hoàng đế đưa tặng và chẳng nói gì hơn. Bà nhận mà hết sức ngạc nhiên có điều gì mà hoàng đế lại tặng bà một món quà hậu hĩ như vậy và bà cũng không biết một tí gì xảy ra trong hoàng cung.

Trong khi tể tướng không có đấy, viên pháp quan tâu trình nhiều vụ việc liên quan tớl nghiệp vụ tư pháp của mình. Cuộc tấu trình kéo dài mãi tới lúc tể tướng trở về. Tể tướng cũng tâu lại sứ mệnh được trao đã hoàn thành rồi đến lượt Mesrour, tổng thái giám ra hiệu cho các thượng thư, các đại thần và tất cả các quan chức là buổi chầu đã kết thúc mọi người có thể ra về. Các triều thần trước khi đi ra đều cúi đầu lần lượt quỳ lạy trước ngai vàng cũng trật tự như khi vào triều vậy. Chỉ còn lại trong cung cạnh Abou Hassan những quan hầu của hoàng đế và tể tướng.
Abou Hassan không ngồi quá lâu trên ngai vàng hoàng đế. Chàng bước xuống cũng như khi bước lên tức là được Mesrour và một quan hầu khác đỡ hai bên và đưa tới ngự phòng, nơi chàng ở đấy đi ra. Chàng bước vào theo tể tướng đang đi trước dẫn đường. Nhưng mới đi được mấy bước, chàng tỏ ý muốn đi đại tiện. Ngay tức thì chàng được đưa tới một căn phòng nhỏ thật sạch sẽ, sản lát đá cẩm thạch, khác với phòng chàng ngủ và các phòng khác đều trải thảm rất đắt tiền. Người ta đưa cho chàng một đôi giày lụa thêu kim tuyến thường vẫn sỏ vào chân trước khi vào phòng vệ sinh. Chàng cầm lấy và vì không quen dùng nên đút luôn vào tay áo rộng.

Thường thường người ta hay bật cười trước những sự việc nhỏ nhặt như thế, nên cả tể tướng, Mesrour và tất cả các quan hầu trong cung điện, đứng gần đó đều muốn cười phá lên, nhưng lại sợ làm hỏng cả cuộc vui hoàng đế đã bày đặt nên phải cố gắng nín nhịn, và tể tướng cuối cùng phải giảng giải cho chàng biết cần phải đi đôi giày đó vào chân khi bước vào nhà vệ sinh.
Trong lúc Abou Hassan ở trong đó thì tể tướng đi gặp hoàng đế, lúc ấy đã chuyển ra chỗ khác để tiếp tục bí mật quan sát Abou Hassan, kể với hoàng đế chuyện vừa xảy ra và Người lại thấy thêm một đlều thích thú nữa.
Abou Hassan ra khỏi phòng vệ sinh, Mesrour đi trước dẫn chàng vào căn phòng phía trong, ở đó đã bầy sẵn cỗ tiệc Cửa phòng mở rộng, rất nhiều hoạn nô đi lại bảo nhau báo cho các nhạc công là hoàng đế giả sắp tới. Thế là nhã nhạc nổi lên một khúc điệu du đương, âm thanh quyến rũ khiến Abou Hassan mê man sảng khoái chỉ còn biết nghĩ tới những gì trông thấy và nghe thấy thôi.

Chàng tự nhủ thầm: Nếu đây là một giấc mộng thì quả là giấc mộng dài. Nhưng đâu phải là một giấc mộng - Chàng tiếp tục tự nhủ - Ta cảm thấy rõ ràng, ta nói, ta nhìn, ta đi, ta nghe đủ cả. Dù sao, cũng phó mặc cho Thượng đế muốn ra sao thì ra. Tuy nhiên ta không sao có thể không tin mình là đấng Thống lĩnh các tm đồ. Chỉ duy có một Thống lĩnh các tín đồ mới được sống trong cảnh huy hoàng như ta lúc này. Những nghi tiết và những biểu hiện cung kính mọi người đối với ta, những mệnh lệnh mà ta ban ra đều được răm rắp thi hành. Đó là những chứng cứ đầy đủ.
Cuối cùng Abou Hassan đinh ninh mình đúng là hoàng đế, là Thống lĩnh các tín đồ và chàng càng lấy làm hoàn toàn chắc chắn khi thấy mình đang ở trong một phòng khách tráng lệ rộng thênh thang. Vàng ngọc lẫn vào bao sắc mầu rực rỡ long lanh bốn phía. Bảy toán nữ nhạc công, tất cả đều xinh đẹp, bao quanh phòng khách và bảy chùm đèn bảy nhánh bằng vàng treo từ nhiều chỗ khác nhau từ trần cao rủ xuống, màu vàng tươi và màủ thiên thanh quyện vào nhau tạo thành một hiệu quả thật kỳ ảo. Giữa phòng là một chiếc bàn bày trên là bảy chiếc mâm bằng vàng khối và từ những thức ăn trong mâm làm gian phòng đầy ắp mùi thơm phức ngon lành. Đứng quanh bàn là bảy cung nữ xinh đẹp, xiêm y mỗi người một màu sắc. Mỗi nàng đều có trong tay một chiếc quạt để phẩy nhẹ cho Abou Hassan khi chàng ngồi vào bàn ăn.

Nếu trên đời này có người nào cảm thấy sung sướng đến đê mê thì đó là Abou Hassan khi chàng bước vào cái phòng khách lộng lẫy này. Cứ mỗi bước đi là một bước dừng lại để ngắm nhìn thoải mái tất cả những kỳ quan bầy ra trước mắt. Chàng hết quay sang bên này lại quay sang bên kia dưới sự thích thú của hoàng đế vẫn chăm chú theo dõi chàng. Cuối cùng chàng tiến ra giữa phòng và ngồi vào bàn. Tức thì cả bảy cung nữ xinh đẹp nhất loạt giơ quạt lên phẩy nhẹ hướng về phía hoàng đế mới. Chàng nhìn họ hết người nọ đến người kia và sau khi đã ngầm thán phục vẻ duyên dáng của họ lúc đứng phẩy quạt, chàng cười bảo chỉ cần một người quạt cho chàng là đủ, còn sáu người kia chàng muốn cùng ngồi vào bàn với chàng, ba người bên phải, ba người bên trái. Bàn thì tròn và Abou Hassan cho họ ngồi xung quanh để bất cứ chàng ngoảnh về phía nào cũng chỉ nhìn thấy những gì là vui mắt, là xinh tươi.
Sáu thiếu nữ vâng lời, ngồi vào bàn. Nhưng Abou Hassan lập tức nhận thấy là các nàng chẳng ăn gì cả có lẽ vì kính trọng chàng. Vì vậy chàng được dịp mời mọc, gắp thức ăn và ép họ ăn bằng những lời lẽ thật ân cần. Rồi chàng hỏi tên các nàng và được thoả mãn ngay. Tên của họ là: Cổ Bạch Ngọc, Miệng San Hô, Mặt Trăng Rằm, Ánh Thái Dương, Mắt Huyền Mơ, Tâm Mê ĐẮm. Chàng cũng hỏi cả cô nàng thứ bảy cầm quạt và nàng bảo tên là Cây Mía Ngọt. Những lời dịu dàng chàng nói với mỗi cô lại càng làm tăng thệm lòng yêu mến của hoàng đế, đã chẳng bỏ sót một lời nào, đối với chàng.

Khi các cung nữ nhận thấy Abou Hassan không ăn nữa, một nàng liền bảo những hoạn nô đang đứng hầu tại đó.
- Đức Thống lĩnh các tín đồ muốn sang phòng ăn tráng miệng. Hãy mang các thứ rửa tay tới đây.
Các nàng nhất loạt đứng lên và nhận từ tay những hoạn nô người thì một cái chậu bằng vàng, người thì chiếc gáo bạc và người thứ ba là chiếc khăn mặt. Tất cả đều quì dâng các thứ lên Abou Hassan vẫn đang ngồi. Lau tay rửa miệng xong chàng đứng lên thì ngay lúc đó một hoạn nô kéo rèm mở cửa sang một phòng khác.
Mesrour vẫn theo sát Abou Hassan, lại đi trước và đưa chàng vào một phòng cũng rộng như phòng chàng vừa đi ra nhưng trang trí nhiều tác phẩm hội hoạ của các nghệ sĩ bậc thầy, các bình vàng lọ bạc, thảm trải sàn và bàn tủ gỗ quí. Trong phòng này cũng có bảy tốp nữ ca công hay đúng hơn là bảy ban hợp xướng bắt đầu điễn tấu khi Abou Hassan bước vào. Phòng này cũng trang trí bảy cụm đèn chùm lớn và chiếc bàn ở giữa phòng đặt bảy chiếc mâm to bằng vàng chất đầy các loại quả đầu mùa, những quả được chọn lựa đẹp nhất và ngon ngọt nhất. Xung quanh bàn cũng lại có bảy cung nữ, mỗi người một cái quạt cầm tay, vẻ xinh đẹp có phần trội hơn bảy nàng ở phòng ăn.

Những cảnh vật mớỉ này lại làm cho Abou Hassan thán phục bội phần hơn trước, làm chàng không thể bước qua mà không cảm thấy vô cùng bất ngờ đến mức sững sờ kinh ngạc. Rồi chàng đi tới chiếc bàn, ngồi xuống, ngắm nhìn thoải mái các người đẹp, không biết ưu tiên cho ai. Chàng bèn ra lệnh cho tất cả bảy nàng bỏ quạt xuống và ngồi cả quanh bàn cùng ăn với chàng bảo là trời chẳng lấy gì làm nóng bức, không cần phải phẩy quạt làm gì.
Khi các nàng đã ngồi xuống bên phải và bên trái Abou Hassan, đầu tiên chàng muốn biết tên các nàng và chàng được biết là mỗi nàng đều có những tên khác hẳn những tên của bảy nàng ở phòng ăn và cũng có ý nghĩa nói lên sự hoàn hảo của tâm hồn và trí tuệ. Điều này làm chàng cực kỳ vui thích và cũng bằng những lời nói dịu dàng chàng lần lượt mời từng người những quả chín thơm lấy ra từng mâm đặt trên bàn:
- Xin nàng ăn quả này vì tình yêu tôi - Chàng nói với nàng Dây Buộc Trái Tim ngồi bên tay phải, đưa cho nàng một trái và nói tiếp - Xin nàng hãy nói lỏng dây để trái tim tôi được thoải mái một chút từ lúc được thấy nàng.

Rồi đưa một chùm nho cho Day Dứt Tâm Hồn, chàng nói:
- Hãy cầm lấy chùm nho này, và xin hãy làm cho tâm hồn tôi thoát khỏi sự day dứt mà tôi phải chịu đựng vì yêu nàng.
Và cứ thế lần lượt với các cung nữ khác. Hoàng đế vẫn chú ý theo dõi tất cả các hành động và lời nói của chàng, càng lúc càng thấy là đã tìm thấy một con người làm cho mình thực sự vui thích vâ cho mình cơ hội để hiểu biết rõ chàng hơn.
Khi Abou Hassan đã nếm đủ các loại quả mình ưa trong các chậu đựng bằng vàng, liền đứng dậy và ngay tức thì Mesrour, lúc nào cũng túc trực sẵn sàng, lại đi trước và dẫn chàng vào căn phòng thứ ba được trang trí và thiết bị cũng lộng lẫy như hai căn phòng trước.

Abou Hassan thấy ở đó cũng có bảy đàn hợp xướng và bảy cung nữ xinh đẹp, đứng xung quanh một chiếc bàn trên bày bảy chiếc chậu bằng vàng chứa mứt lỏng nhiều màu với cách chế biến khác nhau. Sau khi đưa mắt nhìn xung quanh với vẻ thán phục mỗi lúc một tăng, chàng tiến tới chiếc bàn dưới tiếng nhạc êm dịu mê ly. Tiếng nhạc ngừng lại khi chàng ngồi vào bàn. Bảy cung nữ xlnh đẹp, tuân lệnh ngồi xuống hai bên chàng và vì không làm được việc mời mọc như ở hai nơi trước, chàng xin họ hãy tự chọn loại mứt nào các nàng ưa thích. Chàng cũng hỏi tên từng người và cũng không khỏi lấy làm thlch thú về sự đa dạng nó gợi cho chàng trao đổi với họ bằng những lời lịch sự êm ái làm cho cả hoàng đế cũng vui thích vì Người không bỏ sót một câu nói nào của chàng.
Ngày bắt đầu tàn khi Abou Hassan được đẫn vào căn phòngthứ tư. Phòng này cũng được trang trí và thiết bị lộng lẫy như các căn phòng trước. Cũng có bảy cụm đèn chùm bằng vàng cắm đầy nến thắp và toàn phòng sáng rực gây một hiệu quả lạ kỳ. Abou Hassan cũng thấy ở đây bảy đàn hợp xướng cùng tấu lên một lúc vui vẻ tưng bừng hơn ở các phòng kia. Chàng cũng nhìn thấy bảy cung nữ xinh đẹp đứng xung quanh chiếc bàn, trên mặt bàn cũng bày bảy chiếc mâm bằng vàng chất đầy bánh kẹo, mứt khô và bao nhiêu các thức khác dùng để nhắm rượu. Cái mà Abou Hassan không nhìn thấy ở các phòng khác là một cái tủ có ngăn bày bảy chiếc bình lớn bằng bạc chứa đầy rượu ngon vào loại hảo hạng và bảychiếc chiếc cốc pha lê, được chạm trổ tinh vi để bên cạnh mỗi bình rượu.

Ở ba căn phòng đầu tiên, Abou Hassan chỉ thấy có nước uống. Trong dân chúng cũng như trong các hàng quan chức ở Bagdad cho đến triều đình hoàng đế, người ta chỉ uống rượu vào buổi chiều tối. Tất cả những ai uống rượu vào những buổi khác sẽ được coi như những kẻ phóng đãng, chẳng ai đám thò mặt ra ngoài. Tục lệ này thật đáng khuyến khích vì suất ban ngày cần phải tỉnh táo để lo chuyện làm ăn. Vì người ta chỉ được uống vào buổi chiều tối, nên chẳng ai nhìn thấy giữa ban ngày những người rượu say quấy phá gây mất trật tự trên các đường phố của kinh thành.
Vậy là Abou Hassan bước vào căn phòng thứ tư và tiến tới chiếc bàn. Khi ngồi xuống, chàng như mê man lặng đi mất một lúc để ngắm nhìn bảy người đẹp đang xúm quanh. Chàng thấy họ xinh đẹp hơn rất nhiều những cô nàng ở nhũng căn phòng trước. Chàng muốn hỏi tên từng nàng nhưng vì tiếng nhạc tấu to quá, nhất là những tiếng trống đánh làm át đi cả tiếng chàng nới nên chẳng ai nghe được. Chàng bèn vỗ mạnh tay và lập tức căn phòng im lặng như tờ.

Thế là, nắm bàn tay cô đứng gần mình nhất ở bên tay phải, chàng kéo nàng ngồi xuống và sau khi đưa mời nàng một chiếc bánh ngọt, chàng hỏi nàng tên là gì. Nàng ta đáp:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, em tên là Bạch Ngọc.
- Thật không còn tên nào thích hợp hơn – Abou Hassan bảo - Và nó làm cho mọi người thấy rõ giá trị của nàng. Tuy vậy, dù không biết người nào đã đặt cho nàng tên ấy, ta cũng thấy là hal hàng răng rất đều và trắng bóng của nàng cũng đủ xoá đi vẻ đẹp của tất cả những viên ngọc có ở thế gian này. Bạch Ngọc - Chàng nói tiếp - vì đó là tên nàng, vậy thì nàng hãy rót rượu vào ly và đưa mời ta uống bằng bàn tay đẹp của nàng.
Thiếu nữ liền đi tới tủ và trở lại với một ly đầy rượu đưa mời Ábou Hassan với vẻ vô cùng duyên dáng. Chàng đưa tay đỡ lấy và say đắm nhìn nàng.

- Bạch Ngọc - Chàng nói - Ta uống chúc sức khoẻ của nàng, vậy thì nàng hãy tự rót cho mình từng ấy và uống chúc sức khoẻ ta.
Nàng chạy nhanh đến tủ chứa rượu và quay lại, ly rượu cầm tay, nhưng trước khi uống, nàng cất tiếng ca một bài làm chàng không những rất thích về nội đung mới mẻ của nó mà còn như bị mê hoặc vì cái giọng mượt mà êm như ru của nàng.
Sau khi uống, Abou Hassan chọn những loại bánh kẹo mình thích trong các mâm đưa mời một nàng khác mà chàng kéo xuống ngồi cạnh mình. Chàng hỏi tên, cô ta nói là Sao Mai. Chàng liền bảo:
- Đôi mắt đẹp của nàng còn long lanh hơn cả ngôi sao mà nàng mang tên đấy. Nào, hãy mời ta uống cho vui.
Lập tức nàng làm ngay với vẻ duyên dáng nhất trần đời. Chàng cũng xử sự như thế với người đẹp thứ ba tên là Ánh Dương và cũng như vậy cho đến người đẹp thứ bảy. Tất cả đều chuốc rượu chàng với sự cực kỳ khoái trá của hoàng đế.

Khi Abou Hassan uống đủ bảy ly rượu của cả bảy thiếu nữ, Bạch Ngọc, người đẹp đầu tiên mà chàng hỏi chuyện, đi tới tủ rượu, cầm lấy một chiếc ly, lén bỏ vào trong một dúm bột mà hoàng đế đã sử dụng hôm trước, rót rượu vào và tới mời chàng:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Nàng nói – Vì quan tâm đến việc bảo vệ sức khoẻ của Người, em xin dâng Người ly rượu này, và trước khi uống, hãy nghe một bài hát mà em dám chắc là Người sẽ vừa lòng. Em mới làm ra ngày hôm nay và chưa hát cho bất cứ người nào nghe.
Abou Hassan đỡ lấy ly rượu và nói:
Ta vui lòng nghe nàng hát và với tư cách đấng Thống lĩnh các tín đồ, chắc là với một người đẹp như nàng thì chỉ có thể làm ra những bài hát du dương và đầy trí tuệ mà thôi.
Thiếu nữ cầm lấy cây đàn và cất giọng hát nhịp với tiếng đàn thật khớp, duyên dáng đầy tình cảm làm cho Abou Hassan như mê đi suốt từ đầu đến cuối. Chàng thấy bài hát quá hay nên bắt nàng hát lạl lần thứ hai và vẫn bị cuốn hút chẳng kém lần đầu.

Khi nàng hát xong, Abou Hassan vì muốn khen ngợi nàng thật xứng đáng, đã nâng ly rượu vừa được nàng dâng, dốc cạn một hơi rồi quay lại phía thiếu nữ như muốn nói thì chất bột đã phát huy hiệu quả, chàng chỉ vừa hé miệng thì hai mắt đã nhắm nghiền, đầu gục xuống bàn ngủ thiếp đi y như hôm trước hoàng đế đã cho chàng uống với rượu cùng một thứ bột ấy. Cùng lúc, một thiếu nữ đứng gần nhất đã kịp thời đỡ lấy chiếc ly từ tay chàng rơi xuống. Hoàng đế được thoả mãn thích thú với trò vui ngoài dự kiến vì Người đã theo dõi và chứng kiến suốt từ đầu. Lúc này ông rời khỏi chỗ núp, ra phòng khách lớn, rất hài lòng vì sự thành công mỹ mãn của tấn trò. Trước hết ông cho cởi bỏ triều phục hoàng đế của Abou Hassan mới được choàng vào buổi sáng, mặc lại cho chàng bộ áo quần của chàng cách đây hai mươi bốn tiếng khi người nô lệ tuỳ giá mang chàng vào hoàng cung. Ông cho gọi cũng người nô lệ này tới và phán:

- Nhà ngươi lại mang người này trả về chỗ cũ, nhẹ nhàng đặt hắn lên trường kỷ như trước, không được gây tiếng động và cứ để nguyên cửa mở như thế mà đi ra.
Tên nô lệ bế xốc Abou Hassan lên, đi qua một cửa bí mật của hoàng cung, làm đúng theo lời dặn của hoàng đế rồi lập tức quay về ngay bẩm báo việc đã làm theo lệnh chủ. Hoàng đế nói:
Abou Hassan chỉ ước được làm hoàng đế có một ngày thôi để trừng phạt tên trưởng giáo và bốn lão già ở thánh thất trong khu phố hắn ở mà hạnh kiểm bọn này làm hắn bất bình. Ta đã tạo điều kiện cho hắn được thoả mãn ước mơ, chắc là hắn đã được hài lòng.

Abou Hassan ngủ li bì mãi tới ngày hôm sau và chỉ đến lúc hiệu quả của bột thuốc đã hết tác dụng chàng mới tỉnh dậy. Mở mắt ra nhìn, chàng vô cùng ngạc nhiên là thấy đang ở tại nhà mình. Chàng gọi to tên các thiếu nữ trong hoàng cung đã cùng chàng trò chuyện, nhớ tên nào gọi tên ấy:
- Bạch Ngọc, Sao Mai, Bình Minh, Miệng San Hô, Mặt Trăng Rằm... Các nàng ở đâu? Lại đây! Lại gần đây nào!
Abou Hassan kêu lớn. Mẹ chàng, từ buồng riêng nghe tiếng kêu, chạy đến, bước vào buồng:
- Con sao đấy? - Bà hỏi - Có việc gì đã xảy ra với con thế?
Nghe tiếng mẹ, Abou Hassan ngẩng đầu lên, kiêu ngạo và khinh bỉ nhìn bà, bảo:
- Mụ kia, mụ gọi ai là con đấy?
- Chính là con chứ còn ai nữa - Bà dịu dàng đáp – Con chẳng phải là Abou Hassan, con trai mẹ ư? Thật là hết sức lạ lùng nếu con lại quên được điều đó.
- Tôi, tôi mà lại là con trai mụ ư, mụ già ghê tởm kia? Abou Hassan nhệch miệng nói - Mụ chẳng hiểu mụ nói cái gì đâu và mụ là một con mụ dối trá. Ta không phải là Abou Hassan như mụ nói, ta là Thống lĩnh các tín đồ.

Hãy thôi đi, con trai mẹ - Bà mẹ nói tiếp – Con chẳng khôn ngoan chút nào. Lỡ có ai nghe thấy, họ sẽ cho con là điên đấy.
- Chính mụ mới là người điên - Abou Hassan cãi – Ta không điên như mụ tưởng. Ta nhắc lại: ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ và là người đại diện cho cả thượng và hạ giới.
- Ôi! con trai của tôi! - Bà mẹ kêu lên - Có đúng là tôi nghe con tôi nói toàn những lời của một kẻ loạn trí không? Ma quỷ nào ám để con nói lên những lời như vậy? Cầu xin Thượng đế gia ân đuổi hết tà ma trong con đi? Con là Abou Hassan con trai mẹ và mẹ chính là mẹ của con.
Sau khi nhắc lại tất cả những gì bà có thể nhớ lại để làm cho con trai tĩnh trí lại nhận ra sự nhầm lẫn của mình, bà bảo tiếp:
- Con thấy không, căn buồng này là buồng riêng của con chứ đâu phải ngự phòng của một vị Thống lĩnh các tín đồ và con vẫn ngủ ở buồng này từ hồi còn tấm bé và chưa từng rời mẹ ra nửa bước. Hãy nghĩ kỹ những điều con nói và chớ nên cho đầu óc mình tưởng tượng đến những cái không hề có và chẳng bao giờ có được. Thêm một lần nữa nghe mẹ, con trai ạ, hãy suy nghĩ cho chín chắn.

Abou Hassan lặng yên nghe mẹ nói, tay chống cằm, mắt nhìn xuống như dáng điệu của một người tự thu mình lại để xem xét lạl sự thật của tất cả những ,gì đã nhìn và đã nghe thấy. Chàng bảo mẹ:
- Tôi cho là bà nói đúng.
Một lát sau, như sau một giấc ngủ sâu chợt tỉnh, vẫn không thay đổi tư thế, chàng nói tiếp:
. Dường như đúng tôi là Abou Hassan, bà là mẹ của tôi và tôi như đang ở trong buồng mình.
Một lần nữa chàng lại đưa mắt nhìn xung quanh và tự nhìn mình rồi lẩm bẩm:
- Ta là Abou Hassan, chẳng còn nghi ngờ gì nũa và ta đã để cho cơn mộng mị đó chiếm lĩnh đầu óc mình.
Bà mẹ thật lòng tin là con trai mình đã khỏi cơn loạn trí mà bà đổ cho tại một cơn ác mộng. Bà đang định cất tiếng cười vui vẻ và hỏi con về giấc mộng đó thì đột nhiên chàng nhổm lên nhìn bà trừng trừng và thét lên:
- Mụ già phù thuỷ kia! Mụ chẳng biết mụ nói gì đâu. Ta chẳng phải là con mụ, mụ cũng chẳng phải là mẹ ta. Mụ đã nhầm và muốn ta cũng nhầm như mụ. Ta bảo mụ ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ, còn mụ thì lại muốn ta phải cho là điều ngược lại.

- Con trai ơi!, con hãy đặt niềm tin tuyệt đối vào Thượng đế và chớ nên nói năng như vậy mà tai hoạ có thể xảy ra với con đấy. Thôi, mẹ con ta hãy nói sang chuyện khác. Để mẹ nói cho con biết những gì đã xảy ra cho lão trưởng giáo và bốn ìão già, láng giềng của nhà ta ở khu phố này. Viên pháp quan của triều đình đã cho bắt cả bọn, đánh bằng gân bò mỗi đứa bao nhiêu roi mẹ không biết sau đó đưa đi diễu phố và rao lên đó là sự trừng phạt đối vôi những kẻ hay can thiệp vào những công việc không liên quan gì tới mình và gây chia rẽ trong các gia đình hàng xóm. Sau đó cấm bọn chúng vĩnh viễn không được trở về khu phố cũ.
Bà mẹ của Abou Hassan khơng thể tưởng tượng được là con trai bà lại có phần nào đó dính vào sự kiện mà bà hào hứng kể vớl mục đích để xoá đi cái ấn tượng hoang đường của con trai cứ cho mình là đấng Thống lĩnh các tín đồ Nhưng hiệu quả mang lại trái với điều mong đợi mà chỉ làm cho chàng nhớ lại và khắc sâu thêm vào trí tưởng tượng của chàng cho như vậy không phải là hoang tưởng mà rõ ràng là sự thật.

Vì vậy, Abou Hassan sau lúc nghe câu chuyện đó nói liền:
- Ta không phải là con trai bà mà cũng chẳng phải là Abou Hassan, ta đúng là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Ta không còn nghi ngờ gì nữa khi nghe chính bà đã kể chuyện đó: Bà nên biết là chmh ta đã ra lệnh trừng phạt lão trưởng giáo và bốn lão già như cách thức bà vừa kể đó. Vậy thì ta đúng là Thống lĩnh các tín đồ, ta đã bảo bà rồi, đừng có bảo là ta mơ ngủ nữa. Ta không ngủ, ta cũng thức tỉnh như ta đang nói với bà lúc này đây. Ta lấy làm hài lòng được bà xác nhận với ta những gì mà viên pháp quan đó đã làm và đã tâu trình với ta. Thế có nghĩa là lệnh của ta đã được thi hành một cách nghiêm chỉnh, và ta thật sự khoái chá là tên trưởng giáo và bốn lão già bị trừng phạt đó đúng là những tên đạo đức giả chính hiệu. Ta rất muốn biết ai đã mang ta về đây. Tất cả là do Thượng đế, có điều thực chắc chắn ta là Thống lĩnh các tín đồ và tất cả lý lẽ của mụ không thể nào làm ta tin được. Bà mẹ không hiểu được tại sao con trai bà cứ đinh ninh một cách thật ngoan cố mình là Thống lĩnh các tm đồ. Bà tin là chàng loạn trí khi nói những điều ngoài sức tưởng tượng dù rằng lại rất có cơ sở trong đầu óc của Abou Hassan. Nghĩ như thế bà bảo con:

- Con trai của mẹ? Mẹ cầu xin Thượng đế rủ lòng thương phù hộ cho con. Con hãy thôi nói năng linh tinh đi. Cầu khẩn Thượng đế, xin Người xá cho để con trở lại thành một người lành mạnh. Mọi người sẽ nghĩ ra sao khi họ nghe con nói năng như vậy? Con không biết là vách cũng có tai ư?
Những lời khuyên tốt lành như thế không những không làm cho Abou Hassan dịu đi mà càng làm cho chàng bực tức thêm. Chàng nổi khùng lên với bà mẹ thật dữ dội:
- Này mụ già! Mụ hãy câm miệng lại. Nếu còn lải nhải nữa, ta sẽ đứng lên và ra tay làm cho mụ phải nhớ đến suốt đời đấy. Ta là hoàng đế, là Thống hnh các tín đồ. Ta nói thì mụ phải tin chứ!
Thế là người đàn bà trung hậu thấy mỗi lúc bệnh , loạn trí của Abou Hassan lại càng nặng hơn, đành bỏ đi, lấy tay đấm vào mặt vào ngực mình mà khóc nức nở. Bà kêu than vừa ngạc nhiên vừa đau đớn thấy cậu con nổi cơn điên khùng ghê gớm.
(Còn tiếp...)
 
Chương 34

NGƯỜI HAI LẦN TỈNH MỘNG (TT)

Abou Hassan đáng lẽ phải dịu đi và xúc động vì những giọt nước mắt của mẹ thì ngược lại không tự chủ được đi đến chỗ quên cả sự kính trọng tự nhiên đối với người đã cho mình sự sống. Chàng đột ngột đứng lên, vớ lấy một cây gậy đuổi theo bà như một thằng khùng điên, tay giơ cao, thét to:
- Mụ già đáng nguyền rủa kia? - Tiếng thét của chàng làm cho bất kỳ ai cũng phải kinh hoàng nếu đó không phải là một bà mẹ đầy yêu thương đối với con trai mình – Hãy nói mau ta là ai?
- Con của mẹ - Bà mẹ nhìn chàng âu yếm, không tỏ ra chút nào sợ hãi - Mẹ không tin là Thượng đế bỏ rơi con đến nỗi con không nhận ra chính con nữa. Mẹ không nói sai khi bảo Abou Hassan là con trai của mẹ và con đã sal lầm rất lớn khi khoác vào cho mình một danh hiệu chỉ thuộc về hoàng đế Haroun Alraschid, đức vua của con và cả của mẹ khi mà vị quốc vương này đã bàn cho chúng ta, mẹ và con biết bao là của cải bằng tặng phẩm gửi cho hôm qua. Tóm lại con phải biết là đại tể tướng Giafar đã thân chinh tới tìm mẹ, đặt vào tay mẹ một túi tiền có tới một nghìn đồng sequin vàng. Ông ấy bảo mẹ cầu Thượng đế phù hộ cho đấng Thống lĩnh các tín đồ, Người đã tặng quà cho mẹ. Và cái khoản tiền của này nhằm vào con là chính chứ mẹ thì còn sống được bao năm nữa đâu.

Nghe đến đây, Abou Hassan thấy không còn phải băn khoăn gì nữa. Những tình huống của sự ban thưởng rộng rãi của hoàng đế mà mẹ chàng vừa nói cho thấy là chàng không nhầm và chắc chắn hơn bao giờ hết chính mình là hoàng đế vì viên tể tướng mang túi tiền đến cho mẹ là theo lệnh của chàng.
- Nào, nào! Mụ già phù thuỷ kia- Chàng quát - Mụ đã chịu tin chưa khi ta bảo là chính ta đã gửi cho mụ khoản một nghìn đồng tiền vàng đó qua đại tể tướng Giafar của ta, người chỉ biết thi hành lệnh ta với danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ? Thế mà đáng lẽ phải tin ta thì mụ lại chỉ tìm cách làm cho ta loạn trí bằng những lời phản kháng của mụ, cứ khăng khăng nhận ta là con trai mụ. Nhưng ta sẽ chẳng để cho mụ nói năng bậy bạ mãi thế mà không trừng trị.

Nói xong, trong cơn điên giận, chàng như một kẻ mất hết nhân tính, sẵn gậy trong tay hắn đập túi bụi vào bà mẹ.
Người mẹ đáng thương không ngờ là đứa con chuyển nhanh đột ngột từ doạ dẫm sang hành động hung bạo như thế bèn dùng hết sức cất tiếng kêu cứu vang, lên cho đến lúc những hàng xóm, láng giềng chạy đến. Abou Hassan không ngừng tay, và mỗi đòn giáng xuống hắn lại hỏi:
- Có phải ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ không?
Bà mẹ vẫn một mực trìu mến đáp:
- Con là con trai của mẹ.
Abou Hassan bắt đầu khoan tay một chút khi những người láng giềng xông vào phòng hắn. Người đến đầu tiên nhảy ngay vào giữa bà mẹ và hắn và sau khi giật lấy cây gậy trong tay đứa con bất hiếu này, bảo chàng:

- Anh làm gì vậy, Abou Hassan? Anh có còn sợ Thượng đế và lẽ phải nữa không? Có bao giờ một đứa con có giáo dục như anh mà lại dám giơ tay lên đánh mẹ mình? Anh có thấy xấu hổ khi ngược đãi mẹ mình như thế này không, mà bà thì luôn luôn giữ trọn một tấm tình mẫu tử Abou Hassan hãy còn đầy giận dữ, nhìn người vừa nói chẳng hé răng nửa lời và liếc đôi mắt như lạc thần trí nhìn tất cả mọi người đã vào đầy trong phòng, hỏi họ:
Abou Hassan mà các người nói là ai vậy? Có phải là tôi mà các người gọi bằng cái tên đó không?
Câu hỏi làm cho các người láng glềng ngẩn người ra một phút. Rồi người vừa nói với chàng hỏi:
- Sao? Thế ra anh chưa từng biết bà này ư? Chính là người đã nuôi dạy anh và chúng tôi luôn thấy anh sống với bà, tóm lại là với mẹ anh?
- Các người là những tên láo xược - Abou Hassan lớn tiếng cãi - Ta không biết mụ ấy là ai, cả nhà ngươi nữa và ta không muốn quen biết các người. Ta không phải là Abou Hassan, ta là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Nếu các người không biết điều đó, thì ta sẽ cho các người biết, lúc đó thì đừng trách ta.

Nghe Abou Hassan nói vậy, những người láng giềng không còn nghi ngờ gì nữa, chàng ta đã bị loạn trí nặng rồi và để ngăn không cho chàng hành động như vừa rồi với chính mẹ mình nữa nên cả bọn hè vào tóm chặt lấy, trói cả chân lẫn tay lại chàng mặc cho chàng giẫy giụa. Và thấy là chẳng nên để chàng ta ở lại một mình với bà mẹ, họ cho người nhanh chóng đến báo với người gác cổng của bệnh viện tâm thần chuyện đã xảy ra. Người này liền cùng họ tới ngay nhà Abou Hassan, một đám đông hàng xóm cũng đi theo. Họ mang đi nào là dây xích, còng tay và cả một roi gân bò nữa.
Thấy họ đến, Abou Hassan không ngờ là xảy ra chuyện khủng khiếp như vậy nên cố sức giẫy giụa chống lại nhưng bị người của bệnh viên thần kinh vụt roi gân bò tới tấp nên đành chịu để cho bọn họ khoá tay, trói chân và khênh vào bệnh viện.
Chàng bị nhất vào một cái cũi sắt và mỗi ngày trong suốt ba tuần lễ, bị quất năm chục roi gân bò vào lưng, vào vai cùng với câu: “Hãy mau tĩnh trí lại và nói cho chúng ta biết mày có còn là đấng Thống lĩnh các tín đồ nữa không? .

Mỗi lần như thế, Abou Hassan lại đáp:
- Ta không cần lời khuyên của mày. Ta không điên. Nếu ta có hoá điên thì cũng chỉ vì những trận đòn đánh dã man của mày thôi.
Tuy nhiên bà mẹ của Abou Hassan vẫn đều đặn đến thăm con hàng ngày. Bà không sao cầm được nước mắt thấy mỗi ngày chàng lại gầy yếu đi trông thấy và nghe chàng thở đài than vãn về nỗi đau đớn của annh. Quả vậy, vai chàng, lưng chàng bầm tím những vết roi, nằm không biết trở mình về phía nào cho đỡ đau. Làn da của chàng đã hơn một lần tróc ra trong suất thời gian bị đày ải ở cái nơi khủng khiếp này. Mẹ chàng nhiều lần muốn an ủi và thăm dò xem đầu óc chàng còn bị ám ảnh bởi cái danh nghĩa Thống lĩnh các tín đồ nữa hay không nhưng cứ mỗì khi mở miệng thì chàng lại nổi cơn điên khùng nên đành chịu quay về với bao buồn tủi trước sự cứng đầu cứng cổ của chàng. Những ý nghĩ rất mạnh, gây ấn tượng sâu sắc trong đầu óc Abou Hassan là: trong triều phục hoàng đế, sử lý có hiệu quả các sự vụ, sử dụng uy quyền đầy hiệu lực được mọi người tuân phục coi như một hoàng đế thực sự, được củng cố rõ, ràng khi thức giấc và làm cho chàng đắm mình mãi vào sự sai lầm đó. Những ý nghĩ trên đây bắt đầu từ từ nhạt dần trong đầu óc chàng. Đôi khi chàng tự nhủ:

Nếu ta là hoàng đế và là Thống lĩnh các tín đồ thì vì sao lúc thức giấc tại nhà mình, ta lại mặc quần áo thường? Vì sao ta lại không nhìn thấy nào là tổng thái giám và bao nhiêu hoạn nô, nào là một đám rất đông các cung nữ xinh đẹp xúm quanh lấy ta? Vì sao ta lại không thấy đại tể tướng Giafar quì dưới chân ta? Rồi biết bao nhiêu các đại thần, thủ hiến của tỉnh và vô số các quan hầu khác không thấy bao quanh ta. Họ bỏ rơi ta rồi chăng? Thấy ta trong cái hoàn cảnh khốn khổ này đã bấy lâu ắt là họ phải ra tay gải thoát ta mới phải chứ, nếu ta còn có chút nào uy lực đối với họ. Thôi, đúng tất cả những cái đó chỉ là trong một giấc mộng mà thôi, chẳng phải khó khăn gì mà không tin như vậy. Ta đã ra lệnh, đúng thế cho viên pháp quan trừng trị lão trưởng gláo và bốn lão già trong hội đồng của hắn. Ta lại cũng ra lệnh cho đại tể tướng Giafar đem về cho mẹ ta một nghìn đồng tiền vàng và tất cả lệnh của ta đều được nghiêm chỉnh thi hành. Điều này làm ta bối rốl chẳng còn hiểu ra sao nữa. .Nhưng rồi còn biết bao nhiêu chuyện gì khác xảy ra nữa đây mà ta không sao hiểu được và sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi. Vậy thì đành phó mặc vào đôi tay của Thượng đế, Người hiểu và biết tất cả mọi sự.

Abou Hassan còn đang trầm ngâm với những suy nghĩ như trên thì bà mẹ tới. Bà nhìn thấy chàng suy nhược và tiều tuỵ chẳng còn ra hồn người nữa nên khóc oà lên, thương cảm gấp bội từ trước tới nay. Glữa những tiếng nức nở nghẹn ngào bà thăm hỏi con như thường lệ, và Abou Hassan đã ôn tồn đáp lại khác hẳn với thói quen từ khi chàng bị nhất ở nhà thương này. Bà cho đó là một dấu hiệu tốt nên gạt nước mắt hỏi chàng:
- Con thấy sức khoẻ của mình ra sao hả con? Đầu óc con thế nào rồi? Con đã gạt bỏ đi tất cả những điều ngông ngạo vớ vẩn mà ma quỉ đã nhồi nhét vào đầu óc con chưa?
Abou Hassan điềm tĩnh và lộ vẻ đau buồn hối hận đáp:
Mẹ ơi? Con đã thấy sự lầm lạc của mình. Xin mẹ tha cho con cái tội bất hiếu đối với mẹ. Con cũng xin mẹ giúp con nói lại với những nhà hàng xóm lời xin lỗi của con đã xử sự rất đáng chê trách đối với họ. Con đã bị một giấc mơ ám ảnh nhưng đó là một giấc mơ ky lạ, giống như in với thực tế đến mức con có thể khẳng định là bất cứ ai bị như con cũng sẽ rơi vào tình trạng hành động điên rồ như con thôi. Con hãy còn hoang mang ngay trong lúc này, lúc con đang nói với mẹ đây và con thấy khó mà dám chắc là những gì xảy ra với con không phải là thật vì nó giống vô cùng với những gì xảy ra giữa những người đang thức vậy.
Dù sao thì con cũng coi và luôn chắc chắn coi như đó là một giấc mơ, một ảo ảnh. Con cũng tự xác định mình chẳng phải là cái bóng ma hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ nhưng là Abou Hassan, con trai của mẹ. Con bao giờ cũng kính yêu mẹ, và sẽ còn kính yếu mẹ đến trọn đời con. Mỗi khi nhớ lại cái ngày định mệnh đó, con thấy vô cùng xấu hổ
Nghe những lời lẽ khôn ngoan và đầy đạo lý đó, những giọt nước mắt đau thương, buồn tủi của bà mẹ Abou Hassan đã đổ ra từ bao lâu nay lúc này biến thành những giọt nước mắt mừng vui, được an ủi và yêu thương về người con trai mà bà như thấy lại. Bà kêu lên tràn ngập hân hoan:

Ôi, con của mẹ! Mẹ thật hả lòng hả dạ được nghe những lời con vừa nói sau biết bao sự việc đau lòng xảy ra. Mẹ thấy như vừa được sinh con ra lần thứ hai vậy. Mẹ cần phải nóỉ cho con biết mẹ đã nghĩ gì về hành động của con và mẹ nói cho con biết một việc mà có thể con không để ý. Người khách lạ mà con mời về nhà ăn uống buổi tối hôm đó, khi ra về đã không đóng cửa buồng như cơn đã dặn. Mẹ cho là vì thế mà đã tạo điều kiện cho ma quỉ lọt vào và làm cho con u mê lú lẫn như vậy. Vì thế, con ơi, chúng ta cần phải cảm tạ Thượng đế đã ra tay giải thoát cho con, và cầu xin Người phù hộ cho từ nay đừng rơi vào cạm bẫy của quỉ dữ nữa.
- Mẹ ơi, mẹ đã tìm ra nguyên nhân căn bệnh của con - Abou Hassan nói - Đúng là đêm hôm đó con đã bị giấc mơ làm đảo lộn cả đầu óc. Thế mà con đã dặn đi dặn lại nhà thương gia phải đóng chặt cửa lại khi ông ta ra về, bây giờ con mới biết là ông ta đã chẳng làm gì cả. Con cũng thấy chắc chắn như mẹ là quỉ dữ thấy cửa mở đã vào buồng con và nhồi vào đầu óc con tất cả những thứ ngông ngạo đó. Ở Moussoul, nơi nhà thương gia đó sinh sống chắc người ta không biết như chứng ta ở Bagdad là nếu cửa phòng ngủ để mở trong khi ngủ thì thể nào quỉ dữ cũng lọt vào để gây ác mộng và làm nhiều điều tồi tệ. Nhân danh Thượng đế, mẹ ơi, vì nhờ trời con đã hoàn toàn khỏi bệnh, con van mẹ, người mẹ hiền đức của con, hãy giải thoát con khỏi bàn tay tên đao phủ nhất định nó sẽ rút ngắn cuộc sống của con nếu còn phải ở đây lâu hơn nữa.

Bà mẹ Abou Hassan được hoàn toàn an ủi và hể hả thấy con trai không còn tí dấu vết nào của sự hoang tưởng cho mình là hoàng đế nũa nên lập tức đi tìm người gác cổng nhà thương đã dẫn chàng tới đây và cai quản chàng tới lúc này. Khi nghe nói chàng đã hoàn toàn khỏi bệnh, y liền tới xem xét rồi thả chàng ra ngay trước mặt bà mẹ.
Abou Hassan trở về nhà mình, nghỉ ngơi nhiều ngày và ăn uống tẩm bổ cho lại sức bù với bao ngày thiếu thốn và bị hành hạ trong nhà thương đlên. Nhưng khi thấy sức khoẻ mình đã gần được như trước, chàng lại bắt đầu thấy buồn chán vì tối tối không có bạn bè trò chuyện. Vì vậy chẳng bao lâu chàng lại muốn quay về cách sống như trước nghĩa là lại bắt đầu hàng ngày ra chợ mua thức ăn đủ để đãi một người khách vào buổi tối.
Chiều chlều chàng lại tha thẩn ra đầu cầu Bagdad đón người khách lạ đầu tiên, mời về nhà ăn cơm và ngủ lại.
Hôm đó là một ngày đầu tháng, như chúng ta đã nói hoàng đế thường có cái thú cải trang vi hành để xem xét dân tình xem có gì làm rói, làm trái với lệ luật mà chính ông đã soạn thảo và cho thi hành từ hồi lên ngôi báu không.

Ngồi trên chiếc ghế đài đặt tựa vào thành cầu chưa được mấy chốc, khi liếc mắt sang đầu cầu bên kia, Abou Hassan nhìn thấy hoàng đế cải trang thành một thương gia ở Moussoul như lần trước và theo sau vẫn là người nô lệ đó. Đinh ninh tất cả tai hoạ mà chàng đã phải chịu đựng là ở con ngưởi này, đã để cửa buồng ngủ của chàng mở toang khi ông ta ra về để cho ma quỉ vào quấy nhiễu. Run lên vì tức giận khi trông thấy ông.ta, chàng tự nhủ:
- Cầu xin Thượng đế phù hộ! Nếu ta không nhầm thì kia đúng là tên phù thuỷ đã ám hại ta.
Chàng liền quay mặt ra sông, tựa người trên thành cầu để không nhìn, mặc cho ông ta đi qua.
Nhà thương gia ở Moussoul hầu như cùng một lúc nhìn thấy chàng cũng nhu chàng nhìn thấy ông. Cử chỉ vừa rồi của chàng làm ông hiểu rõ là chàng đã căm giận ông tới mức nào và cố tình tránh mặt ông. Ông bèn đi men theo thành cầu, đến thật gần chỗ Abou Hassan đang đứng. Ông cúi xuống nhìn thẳng vào mặt chàng:
- Ồ thế ra là bạn đấy ư, người anh em Abou Hassan của tôi? Chào bạn, hãy để tôi ôm hôn bạn nào! Abou Hassan, không nhìn mặt người thương gia giả hiệu, đột ngột đáp:
- Còn tôi thì tôi không chào ông. Tôi chẳng cần đến cái chào cũng như cái ôm hôn của ông. Ông hãy cứ đi đường của ông.

- Ồ, sao .nào? Bạn không nhận ra tôi ư? Bạn có còn nhớ cái buổi tối, cách đây một tháng, tôi được bạn mời về nhà và cùng nhau ăn tối. Bạn đã chiêu đãi tôi thật là hào hiệp.
Không? - Abou Hassan đáp vẫn bằng cái giọng dấm dẳn như trước - Tôi không biết ông và cũng chẳng hiểu ông nói gì cả. Một lần nữa xin mời ông đi đi cho.
Hoàng đế vẫn không nản lòng vì thái độ thiếu thân thiện của Abou Hassan. Ông cũng đã biết cái lệ của Abou Hassan đặt ra là không giao thiệp gì nữa với người đã một lần được chàng chiêu đãi. Abou Hassan đã tuyên bố với ông như vậy nhưng ông cứ vờ như không biết. Ông nói:
- Tôi không thể ngờ được là bạn lại không nhận ra tôi. Chúng ta gặp nhau lần trước nào đã lâu la gì, tôi không sao tin được là bạn lại quên tôi dễ đàng như vậy. Chắc hẳn là bạn đã gặp một chuyện không hay nào đó mà sinh ra ghét bỏ tôi như thế. Bạn nên nhớ lại là tôi đã biểu lộ sự biết ơn của tôi bằng những lời chúc tốt đẹp. Hơn nữa, điều mà bạn mong ước thiết tha nhất, tôi cũng đã giúp bạn hết lòng và không thể coi thường cái gì đã mang lại.

- Tôi chẳng biết gì - Abou Hassan nól - về cái chuyện ông nói là giúp và kết quả không thể coi thường nhưng lại biết rất rõ là những lời chúc của ông chỉ đưa tôl đến chỗ trở thành một thằng đlên. Nhân danh Thượng đế, tôi xin ông một lần nữa là ông đi đi cho và chớ làm phiền tôi nữa.
- Ồi! Abou Hassan, người anh em của tôi? - Hoàng đế kêu lên và lại ôm hôn chàng - Tôi chẳng muốn chia tay bạn như thế này đâu. Ngôi sao may mắn của tôi đã xui khiến tôi gặp được anh bạn lần thứ hai, bạn cũng phải lần thứ hai thù tiếp tôi mới phải chứ, để chúng ta lại được cùng nhau nâng chén.
Đó chmh là đlều mà Abou Hassan phản kháng để giữ được điều đã tự hứa với mình. Chàng nói:
- Tôi có đủ nghị lực để tự ngăn mình không được giao du với ông, người đã mang đến cho tôi điều bất hạnh. Chắc ông đã biết câu phương ngôn: Biết điều thì hãy cao chạy xa bay... . Có cần phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần nữa không? Mong Thượng đế chỉ đường cho ông! Ông đã gây cho tôi biết bao đau khổ, tôi không muốn hứng chịu nhiều hơn nữa.
- Anh bạn thân mến Abou Hassan của tôi? - Hoàng đế nói và lại ôm hôn chàng lần nữa - Bạn đã đối xử với tôi thật khắc nghiệt mà tôi thật không ngờ tới. Tôi xin bạn đừng quá xúc phạm tôi mà nói năng như vậy và ngược lại hãy tin tưởng ở tình bạn của tôi. Bạn hãy làm ơn kể cho tôi nghe có điều gì đã xảy đến với bạn, tôi thì chỉ luôn muốn cho bạn được mọi sự tốt lạnh và sẽ còn mong mãi như thế. Tôi cũng muốn tìm dịp tốt để sửa chữa lại những điều chẳng hay mà bạn nói là do tôi mà ra, nếu đúng là tôi có điều gì khiếm khuyết với bạn.

Abou Hassan mềm lòng vì những lời khẩn khoản của Hoàng đế. Sau khi chỉ cho ông ngồi xuống cạnh mình chàng bảo:
- Sự hoài nghi và quấy đảo của ông làm tôi không kiên nhẫn được nữa. Những gì mà tôi sẽ kể cho ông nghe đây sẽ làm rõ là việc tôi oán trách ông là đúng hay sai.
Hoàng đế ngồi sát gần vào Abou Hassan nghe chàng kể đầu đuôi tất cả những chuyện xảy ra từ lúc chàng thức giấc trong cung điện cho tới lần thức giấc thứ hai trong buồng ngủ của chàng. Chàng kể tất cả coi như một giấc mộng thực với tất cả các chi tiết mà hoàng đế cũng đã nắm được chẳng kém gì chàng, do đó hoàng đế như lại được thêm một lúc để cười thầm thích thú. Chàng còn nhấn mạnh là ấn tượng mà giấc mơ dõaể lạ; trong đầu làm chàng cứ lúc nào cũng cho mình là hoàng đế và là đấng Thống lĩnh các tín đồ. Chàng thêm:
- Cái ấn tượng đó đã khiến tôi làm lắm điều kỳ cục ngông ngạo đến nỗi những người láng giềng phải trói tôi lại như một kẻ điên khùng và đưa tôi vào nhà thương điên. Ở đây người ta đã đối xử với tôi một cách có thể gọi là rất tàn tệ, độc ác, dã man và vô nhân đạo. Nhưng điều làm ông không ngờ tới và chắc là chẳng mong đợi là tất cả những gì xảy ra với tôi đều là đo lỗi của ông. Chắc hẳn ông còn nhớ là tôi yêu cầu ông phải đóng cửa buồng tôi lại khi ông ra về. Nhưng ông đã chẳng làm thế cho, ngược lại ông để cửa mở toang hoang, thế là quỷ dữ lần vào nhồi vào đầu óc tôi giấc mộng đó xem ra thì thật là dễ chịu, khoái chá nhưng nó đã gây ra cho tôi biết bao đau khổ. Ông là nguyên nhân của tất cả cái đó vì sự tắc trách của mình (đã làm cho ông phải chịu trách nhiệm về tội ác của tôi), mà tôi đã phạm một điều khủng khlếp và bỉ ổi là đã giơ tay không những là để đánh mẹ mà còn định giết bà vì bà đã dám gọi tôi là con trai bà và không muốn công nhận tôi là Thống lĩnh các tín đồ. Mỗi khi nghĩ tới tôi lại đỏ mặt lên vì xấu hổ. Ông còn là nguyên nhân của việc tôi gây nên vụ xích mích mâu thuẫn với bà con hàng xóm láng giềng. Nghe tiếng mẹ tôl kêu cứu, họ đã chạy tới và kịp thời ngăn được tôi khỏi phạm vào tội giết mẹ. Điều này không thể nào xảy ra nếu ông cẩn thận giúp tôi đóng cửa buồng lại khi ra về như tôi đã yêu cầu và những người bà con hàng xóm đó sẽ không kéo vào phòng tôi khl chưa được phép. Và điều làm tôi khổ tâm hơn nữa là họ đã chứng kiến sự điên rồ của tôi. Tôi đã đánh họ để tự vệ và họ đã trói ghì tôi lại, nhất tôi vào nhà thương điên mà có thể đoan chắc với ông là trong suốt thời gian tôi bị giam tại đó như trong địa ngục họ không quên thết tiệc tôi hàng ngày bằng những nhát roi gân bò quật thật lực.

Abou Hassan kể cho hoàng đế nghe nguyên cớ của sự kêu ca than vãn của chàng một cách sôi nổi và hăng hái. Hoàng đế còn biết hơn chàng tất cả những gì xảy ra và ông thấy ngầm thích thú là đã thành công trong ý định đưa chàng ta vào chỗ hoang mang bất định mà lúc này hãy còn rơi rớt. Nhưng nghe chàng kể với đầy vẻ ngây thơ tội nghiệp, ông không khỏi phá lên cười.
Abou Hassan cứ tưởng chuyện của chàng đáng được sự thương cảm và tất cả mọi người nghe cũng phải thấy xúc động như chàng. Vô cùng bất bình vì tràng cười ròn của nhà buôn giả hiệu ở Moussoul, chàng tức giận nói:
- Ông còn muốn chế giễu tôi chăng? Hoặc ông tưởng là tôi bịa chuyện khi tôi rất nghiêm chỉnh kể cho ông nghe toàn sự thật. Ông muốn xem những chứng cứ cụ thể ư? Xin hãy nhìn đây, trông cho kỹ và nói cho biết có phải là tôi muốn giỡn ông không?
Vừa nói, chàng vừa cúi người vạch vai và trật áo lưng ra để hoàng đế nhìn những vết sẹo và những lằn bầm tím do những trận đòn roi gân bò chàng đã hứng chịu.

Nhìn những vết thương đó, hoàng đế không khỏi ghê sợ Ông thương hại Abou Hassan và giận mình vì đã đẩy trò đùa đi quá xa. Ông lấy lại bình tĩnh, ôm hôn thật âu yếm Abou Hassan và nghiêm trang bảo chàng:
Hãy đứng lên đi, tôi van bạn? Chúng ta hãy cùng về nhà bạn. Tôi muốn cùng người anh em vui vẻ tốị nay và ngày mai, nhờ ơn Trời, bạn sẽ thấy mọi việc đều tất đẹp.
Abou Hassan, mặc dù đã quyết định và đã thề là không tiếp tại nhà cùng một người lạ đó lần thứ hai. Nhưng không sao cưỡng lại được những lời ngon ngọt dỗ dành của hoàng đế mà chàng vẫn tưởng đó là nhà buôn ở Moussoul, chàng bảo người thương gia:
- Thôi cũng được - Và nói thêm - Nhưng ông phải hứa với tôi là vì tôi mà chớ quên đóng cửa phòng lại khl ra về để quỷ dữ khỏi lẻn vào làm cho đầu óc tôi rối loạn cả lên như lần trước ấy.
Người thương gia giả hiệu nhận tất cả các điều kiện. Họ đứng lên và cùng bước về thành phố.
Để làm cho Abou Hassan không còn ngần ngại gì nữa, hoàng đế bảo:
- Người anh em hãy tin ở tôi. Hứa trên danh dự tôi không nuết lời đâu. Chẳng nên quá đa nghi với một người như tôi luôn luôn chỉ mong cho bạn những điều tết lành và rồi bạn sẽ thấy hiệu quả.

- Tôi không đòi hỏi ở ông điều đó - Abou Hassan nói và dừng lại - Tôi vui lòng nhượng bộ để cùng ông vul vẻ tối nay, nhưng xin miễn cho lời cầu chúc. Tôi van ông, nhân danh Thượng đế, là đừng cầu chúc cho tôi bất cứ cái gì. Tất cả tai hoạ đã đến với tôi cho đến nay chẳng qua chỉ là đo cái cửa để ngỏ mà thôi chứ chẳng phải là đo những lời ông cầu chúc cho tôi.
Hoàng đế cười thầm trong bụng vì thấy trí tưởng tượng của Abou Hassan vẫn còn bị ảnh hưởng, ông bảo:
- Nếu bạn muốn vậy thì cũng xin chiều lòng. Tôi hứa là sẽ chẳng bao giờ chúc tụng bạn gì nữa.
- Tôi vui lòng thấy ông nói thế đấy- Abou Hassan nói- Và tôi cũng chẳng đòi hỏi ở ông điều gì cả. Tôi sẽ thấy rất hài lòng miễn là ông giữ lời hứa. Còn tất cả mọi điều khác, tôi coi như ông chẳng bị ràng buộc tí gì.
Abou Hassan và hoàng đế, theo sau là người nô lệ, vừa đi vừa nói chuyện như thế mà về tới nhà lúc nào cũng không hay. Trời cũng vừa sập tối, Abou Hassan gọi mẹ và sai người nhà mang đèn lên. Chàng mời hoàng đế ngồi lên tràng kỷ và ngồi xuống bên ông. Một lát sau bữa ăn đã được dọn trên bàn. Họ ăn uống tự nhiên không khách khí. Ăn xong, bà mẹ Abou Hassan vào dọn dẹp, đặt đla trái cây lên bàn, chai. rượu và chén uống rượu để cạnh con trai. Rồi bà đi ra và không xuất hiện nữa. Abou Hassan bắt đầu rót rượu trước tiên cho mình rồi sau đó rót cho hoàng đế. Họ uống bốn năm tuần như thế, vừa uống vừa nói đủ các thứ chuyện. Khi hoàng đế thấy Abou Hassan bắt đầu lơ mơ say, ông đề cập đến vấn đề yêu đương và hỏi chàng đã từng yêu bao giờ chưa. Abou Hassan coi như đang nói chuyện với một người ngang hàng, thân mật đáp:

- Ông anh ạ, tôi luôn coi tình yêù hoặc hôn nhân nếu ông thích gọi thế, chỉ là một thứ rợ buộc chân mà tôi cố tránh. Thú thực với ông, cho tới nay tôi chỉ yêu cái bàn ăn, những thức ăn hợp khẩu vị và nhất là rượu ngon. Tóm lại một câu: thú vị nhất là được cùng bè bạn vui chơi, chuyện trò tâm sự thoải mái. Tuy nhiên tôi cũng muốn nói là mình thờ ơ với hôn nhân không phải vì bất lực trong chuyện yêu đương mà bởi vì... nếu tôi gặp được một người đàn bà xinh đẹp và đuyên dáng tươi vui như những thiếu nữ thấy trong giấc mơ của cái đêm định mệnh đó... Nhưng tìm đâu cho thấy một người đẹp như vậy ngoài cung điện của hoàng đế, ngoài lâu đài của đại tể tướng Giafar, ngoài dinh thự các đại thần hùng mạnh của triều đình ta? Ỏ những nơi đó thiếu gì vàng, thiếu gì bạc để có không biết bao nhiêu người đẹp? Vì vậy tôi thích làm bạn với chai rượu hơn. Đó là một thú vui không mấy tốn kém mà đối với họ, mình thấy cũng chẳng thua gì.
Dứt lời, chàng cầm chén tự rót rượu cho mình và bảo hoàng đế.
Ông cầm chén lên nào! Để tôi rót cho ông. Chúng ta hãy cùng thưởng thức cái thú vui bất hủ này?
Hai người uống cạn chén rượu và hoàng đế bảo:
- Thật vô cùng đáng tiếc, một thanh niên hào hoa như bạn, không thờ ơ lạnh nhạt với tình yêu mà cứ phải cam sống độc thân và ẩn dật như thế này!

- Tôl chẳng lấy làm buồn - Abou Hassan nói - mà vẫn thích một cuộc sống yên ả như ông thấy đấy, hơn là sống cùng với một người đàn bà chưa chắc đã có một sắc đẹp làm mình vừa mắt mà còn gây ra bao nỗi phiền toái về những bất cập và tính khí thất thường của cô ta.
Họ chuyện trò khá lâu về vấn đề này và khi hoàng đế nhìn thấy Abou Hassan đã ở một trạng thái ông mong đợi liền bảo chàng: Hãy để việc ấy cho tôi. Vì bạn có xu hướng tất với tất cả những người trung thực, tôi sẽ cho bạn được hài lòng mà chẳng phải tốn kém gì đâu.
Và ngay lúc đó, ông cầm lấy chén của Abou Hassan khéo léo bỏ vào một đúm bột mà ông đã sử dụng lần trước, rót rượu vào và đưa mời chàng:
- Bạn hãy cầm lấy và chúc sức khoẻ trước cho người đẹp sẽ đem hạnh phúc về cho bạn. Chắc chắn là bạn sẽ hài lòng.
Abou Hassan vừa cười vừa đỡ lấy chén rượu, đầu lắc lư nói:
- Muốn ra sao thì ra vì ông anh đã muốn như vậy. Tôi không thể tỏ ra bất lịch sự và vô ơn đối với một khách quí như ông anh để không làm một việc mà tôi cho là sẽ chẳng đi đến đâu cả. Vậy là tôi phải uống chúc sức khoẻ cho cái người đẹp đó, dù là tôi vẫn vui vẻ an phận mình và chẳng kỳ vọng gì nhiều vào lời hứa của ông anh đâu.

Abou Hassan vừa cạn chén thì cơn buồn ngủ ập đến làm tê liệt mọi giác quan giống như hai lần trước và hoàng đế lại làm chủ để định đoạt số phận chàng theo ý chí mình. Ông bèn bảo tên nô lệ đi theo mang Abou Hassan về hoàng cung. Tên nô lệ vác chàng lên vai và hoàng đế không có ý đem trả lại chàng như lần trước nên khi ra đã đóng chặt cửa buồng lại.
Về tới hoàng cung, hoàng đế bảo đặt Abou Hassan nằm trên tràng kỷ trong phòng khách thứ tư nơi cách đây nột tháng ông đã cho đưa trả chàng về nhà chàng trong tình trạng thiếp đi vì ngủ rất say. Trước khi vẫn để cho chàng tiếp tục ngủ như thế, ông bảo người hầu thay cho chàng cũng bộ quần áo mà chàng đã mặc để làm nhân vật hoàng đế. Việc này được làm ngay trước mặt ông. Sau đó lệnh cho tất cả đi ngủ, ông dặn tổng thái giám và những hoạn quan khác cùng tất cả những quan hầu phòng, những nữ nhạc công và cả các cung nữ có mặt trong phòng khách này khi Abou Hassan úống chén rượu cuối cùng làm cho chàng thiếp đi... tất cả, sáng hôm sau lúc tờ mờ sáng đều phải có mặt tại đây khi chàng ta thức đậy. Ông còn dặn mỗi người đều phải đóng tất vai trò của mình.

Hoàng đế đi ngủ sau khi bảo Mesrour nhớ đánh thức mình đậy trước khi mọi người vào phòng khách để ông lại vào căn buồng nhỏ, nấp kín quan sát.
Mesrour không quên đánh thức hoàng đế đúng giờ đã đặn. Ông mặc áo quần nhanh chóng và đl tới phòng khách ở đó Abou Hassan còn đang ngủ. Ông thấy những quan chức hoạn nô, các quan hầu phòng, các cung nữ và các nữ nhạc công tụ tập trước cửa chờ ông. Ông nói với họ vắn tắt mấy lời về ý định của mình, rồi đi vào ẩn trong căn phòng nhỏ có mành che kín. Mesrour cũng như các quan hầu khác, các cung nữ và các nữ nhạc công đi vào sau ông và xếp hàng xung quanh chiếc trường kỷ có Abou Hassan đang nằm, sao cho không che lấp để hoàng đế có thể nhìn thấy tất cả những cử chỉ hành động của chàng.
Tất cả những sự bố trí trên đây đều được hoàn tất trong thời gian mà chất bột gây ngủ còn có hiệu quả. Abou Hassan thức giấc lúc đã giã thuốc nhưng mắt vẫn nhắm, nhổ một bãi nước miếng vào cái ơng nhổ bằng vàng như lần đầu. Đúng lúc này cả bảy đàn nhạc cùng tấu một bản nhạc du dương kèm theo với lời ca thánh thót.

Abou Hassan cực kỳ ngạc nhiên khi nghe thấy một nhạc điệu hình như đã được nghe quen. Chàng mở mắt và lại càng ngạc nhiên gấp bội khi nhìn thấy các cung nữ và các quan hầu vây quanh mà chàng thấy như đã quen mặt. Phòng khách mà chàng ở đó lúc này dường như cũng là phòng khách chàng đã nhìn thấy trong giấc mơ trước, cũng ánh sáng đó, cũng bàn ghế đó và sự trang trí cũng như vậy.
Bản hoà tấu dừng lại để hoàng đế quan sát và nghe rõ hơn lời người khách mới thốt ra trong lúc kinh ngạc. Mesrour và tất cả các quan hầu phòng đều hết sức im lặng và đứng tại chỗ với vẻ hết sức tôn kính.
- Than ôi! - Abou Hassan cắn vào ngón tay mình và kêu thật to làm cho hoàng đế vô cùng thích thú - Thế là ta lại rơi vào vẫn cái gíấc mơ đó, cũng trong cái ảo giác đó cách đây một tháng? Ta chỉ còn phải đợi một lần nữa những nhát roi gân bò, nhà thương điên và cái lồng sắt. Hỡi Thượng đé quyền uy? - Chàng thêm - Con xin tự phó thác vào đôi bàn tay thiêng liêng của đấng Tạo hoá. Con đã tiếp đãi một con người bất lương chiều tối hôm qua tại nhà và đó là nguyên nhân của ảo ảnh này và những cực hình có thể sẽ phải chịu đựng. Cái tên phản trắc và vô lại đó đã thề là khi đi ra sẽ khép cửa buồng con lại nhưng nó đã không làm thế và thế là ma quỉ đã lẻn vào và làm đầu óc con rối mù lên vì cái giấc mơ chết tiệt, làm mắt con chói loà lên vì Thống lĩnh các tín đồ và hàng đống ma quỉ. Mong cho Thượng đế trừng phạt mày, hỡi quỷ dữ! Mày sẽ bị cả một núi những đá tảng đè nát!

Nói đến đây, Ábou Hassan nhắm mắt lại và gắng tĩnh tâm trong lúc đầu óc vô cùng hoang mang. Một lát sau chàng mở mắt, liếc nhìn ra xung quanh, nhìn vào tất cả những vật bày ra trước mắt rồi kêu to lên một lần nữa đã phần nào bớt vẻ kinh ngạc và lại còn mỉm cười:
Thượng đế vĩ đại? Con lại xin tự trao phó mình vào bàn tay đầy quyền uy của Người. Xin Người hãy bảo vệ con khỏi sa vào âm mưu của quỉ dữ.
Rời lại nhắm mắt vào, chàng nói tiếp:
- Ta biết điều gì ta sẽ làm: ta sẽ ngủ cho tới khi quỷ dữ bỏ ta mà cút về chỗ của nó, dù có phải chờ cho đến buổi trưa.
Người ta không cho chàng ngủ lại như chàng vừa tự nêu ra. Tâm Nương, một trong những người đẹp mà chàng đã thấy lần trước, đến gần chàng và ngồi xuống mép tràng kỷ, cung kính nói:
Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ, xin bệ hạ tha tội nếu thiếp mạo muội bẩm với Người là không nên ngủ lại nữa mà cố gắng tỉnh thức và đứng dậy vì mặt trời đã bắt đầu nhô lên.

- Cút mau đi, quỉ dữ - Abou Hassan thét lên khi nghe tiếng đó nói.
Rồi nhìn vào Tâm Nương chàng hỏi:
- Có phải là tôi mà nàng kêu là Thống lĩnh cáe tín đồ? Chắc hẳn là nàng đã nhầm với một người khác rồi đó.
- Chính là với bệ hạ - Tâm Nương nói - mà thiếp mới gọi bằng danh hiệu ấy, danh hiệu thuộc về hoàng đế của tất cả những con dân đạo Hồi mà thỉếp là một nô lệ hèn hạ nhất. Chắc là bệ hạ muốn giỡn chơi một chút - Nàng nói thêm - giả cách như quên đi chính mình, nếu không phải đó là dư âm của một giấc mơ xấu đáng buồn. Nhưng nếu Người vui lòng mở to đôi mắt thì những đám mây làm vẩn đục cái bầu trời tưởng tượng của Người sẽ tan và Người sẽ thấy Người đang ở trong cung điện của Người và quây quần xung quanh là những quan hầu của Người và tất cả chúng em, những nô lệ của Người sẵn sàng phục vụ Người những công việc thường ngày. Ngoài ra, xin bệ hạ chớ ngạc nhiên thấy mình ở trong phòng khách này chứ không ở trên giường ngự. Tối qua Người đã bất thình lình ngủ lịm đi, chúng em chẳng dám mạo muội đánh thức để đưa về nghĩ phòng nên đành phải đặt Người nằm thoải mái trên chiếc trường kỷ này.

Tâm Nương còn nói với Abou Hassan nhlều điều khác nữa mà chàng cho là đúng đắn nên cuối cùng đã ngồi nhỏm dậy. Chàng mở mắt ra và nhận thấy nàng cũng như nhận thấy Bạch Ngọc và các nàng khác mà chàng đã quen. Thế là tất cả các nàng xúm lại. Tâm Nương tiếp tục nói:
- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ và đại diện đấng tiên tri trên thế gian này, xin Người cho phép chúng thiếp được tâu lại một lần nữa là đã đến thời đlểm Người đứng dậy, kìa trời đã sáng rõ.
Abou Hassan giụi giụi mắt, lầm bầm:
Các người là những kẻ vô đuyên và quấy đảo? Tôi đâu phải là Thống lĩnh các tín đồ, tôi là Abou Hassan, tôi biết rõ là như thế, các người không thể nói trái lại được đâu.
- Chúng em chẳng biết Abou Hassan mà bệ hạ nóì là ai cả - Tâm Nương lại nói - Và chúng em cũng chẳng muốn biết hắn làm gì. Chúng em chỉ biết bệ hạ là đấng Thống lĩnh các tín đồ và chắc là Người chẳng thể bảo với chúng em Người không phải là như vậy.
Abou Hassan đưa mắt nhìn xung quanh và sững sờ khi thấy mình đang ở trong một phòng khách đã từng ở qua, nhưng chàng gán cho tất cả những cái đó là ở trong một giấc mơ mà chàng đã từng mơ và rất sợ những chuyện tai hại xảy ra tiếp đó.
Mong được Thượng đế cứu rỗi- Chàng giơ hai tay kêu lên, đôi mắt dáo dác như một người không biết mình đang ở chỗ nào - Con xin tự trao phó cho Người. Cứ những gì con trông thấy đây thì không còn nghi ngờ gì nữa: đúng là quỉ dữ đã lọt vào phòng con, ám vào con và làm đầu óc con lộn xộn vì tất cả những ảo anh này.

Hoàng đế nhìn thấy chàng, nghe thấy tất cả những lời than vãn của chàng, bật lên tiếng cười thật hồn nhiên mà Người không sao kìm giữ được.
Nhưng Abou Hassan đã lại nằm xuống và nhắm mắt lại Tâm Nương bèn tâu:
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, vì bệ hạ vẫn còn muốn ngủ nữa mặc dầu trời đã sáng, nên chúng em phải làm bổn phận mà chính Người đã trao cho là nhắc Người còn phải ra thiết triều để xử lý mọi công việc mà quốc gia đã trao phó.
Cùng lúc, nàng nắm lấy một cánh tay chàng và gọi những thiếu phụ khác tới giúp kéo chàng ra khỏi giường nằm và lôi chàng xềnh xệch, nếu có thể nói như vậy, ra đến giữa phòng và đặt chàng ngồi xuống. Rồi các nàng nắm tay nhau làm thành một vòng tròn nhảy múa xung quanh chàng theo tiếng trống và tất cả các nhạc cụ tấu ngay trên đầu và bên tai chàng.
Abou Hassan thấy mình trong tình trạng hoang mang không sao tả xiết. Phải chăng ta đúng là hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ? Chàng tự nhủ. Cuối cùng trong tâm trạng hoài nghi như thế, chàng muốn nói gì đó nhưng tiếng ồn ào của các thứ nhạc cụ chơi quá mạnh làm chẳng ai nghe được. Chàng ra hiệu cho Bạch Ngọc và Sao Mai đang nắm tay nhau nhảy múa xung quanh chàng, là chàng muốn nói. Thế là hai nàng bảo ngừng nhảy, thôi chơi nhạc và đến gần chàng. Chàng ngây thơ bảo hai người”

- Xin các nàng chớ nói dối, hãy bảo cho blết đúng sự thực tôi là ai?
- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Sao Mai đáp - Bệ hạ muốn làm cho em bất ngờ vì câu hỏi đó chăng? Bệ hạ cứ muốn làm như mình chẳng phải là Thống lĩnh các tín đồ, là đại điện đấng tiên tri của Thượng đế, là chúa tể của thế giới chúng ta đang sống và cả thế giới mà chúng ta tới sau khi chết. Nếu không phải thế thì đúng là một giấc mộng kỳ quái nào đó đã làm Người quên đến cả chuyện không biết mình là ai nữa. Có thể như thế được lắm vì đêm qua bệ hạ đã ngủ lâu hơn tất cả mọi ngày. Tuy nhiên nếu Người vui lòng cho phép thì em sẽ gợi cho Người nhớ lại tất cả những gì Người đã làm trong ngày.
Thế rồi nàng kể lại chuyện chàng đi đến cung thiết triều, ra lệnh cho pháp quan trừng trị tên trưởng giáo và bốn lão già hội đồng, phái đại tể tướng đem tặng một túi tiền vàng cho bà mẹ một người tên là Abou Hassan. Rồi những gì chàng làm bên trong cung điện và những gì xảy ra trong các phòng ăn, phòng điểm tâm và phòng uống rượu. Nàng nói thêm:

- Ở trong căn phòng cuối cùng này, bệ hạ đã cho phép chúng em được ngồi hai bên cạnh Người, cho chúng em vinh dự được hát cho Người nghe, được chuốc rượu cho Người, cho đến lúc Người gục xuống ngủ như chị Tâm Nương vừa kể. Từ lúc đó, trái với thói quen thường lệ, bệ hạ ngủ say li bì cho tới tận lúc này khi trời đã sáng bạch. Bạch Ngọc, tất cả các nô tì khác và tất cả các quan hầu có mặt tại đây cũng sẽ chứng nhận đúng như thế. Vậy thì xin bệ hạ hãy bắt đầu cầu nguyện vì đã tới giờ rồi.
- Đươc! được đấy! - Abou Hassan lắc lư đầu nói – Các nàng đến làm ta tin mất nếu cứ nghe các nàng nói dông dài mãi nhừ thế. Và ta - Chàng tiếp - thì ta bảo các nàng tất cả là một lũ điên rồ mất trí. Thật là đáng tiếc vì tất cả các nàng đều xinh đẹp. Nên biết rằng từ lúc ta nhìn thấy các nàng, ta đã đi về nhà và đã hành hạ mẹ già của mình đến nỗi người ta phải bắt ta vào nhà thương điên và ngoài ý muốn của mình, ta phải ở trong đó suốt ba tuần lễ, mỗi ngày xơi năm chục roi gân bò của tên gác cổng. Và các nàng thì cho tất cả những cái đó chỉ là một giấc mộng. Các nàng muốn giễu ta chăng?

- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Sao Mai lại nói - Chúng em sẵn sàng lấy tất cả những gì thân thiết nhất của mình ra mà thề độc là tất cả những gì Người vừa nói đều chỉ là trong một giấc mộng. Chứng cứ là từ hôm qua tới lúc này Người chưa từng bước chân ra khỏi phòng khách này và Người đã ngủ suốt đêm tại đây cho đến bây giờ.
Cô cung nữ Sao Mai cả quyết với Abou Hassan là tất cả những gì cô ta nói đều là sự thật, chàng chưa hề ra khỏi phòng khách này kể từ lúc bước chân vào. Điều khẳng định này lại đẩy chàng vào tình trạng không biết tin vào những gì đã xảy ra cho mình hay những gì đang nhìn thấy. Chàng như đắm trong suy tư một khoảng thời gian khá lâu. “Trời đất ơi! - Chàng tự hỏi - Ta là Abou Hassan hay là Thống lĩnh các tín đồ? Thượng đế tối linh! Xin Người hãy làm cho sáng tỏ, cho con rõ sự thật để con còn biết phải xử sự ra sao”.
Sau đó chàng vạch áo để hở vai còn đầy những vết thâm tím ngang dọc ra, chỉ cho các nàng xem.
- Các nàng hãy trông đây - Chàng bảo họ - Và thử xét xem những vết thương như thế này có thể tới từ một giấc mơ hay trong khi ngủ được không. Về phần tôi, tôi có thể cả quyết với các nàng rằng những vết thương đó là rất thực và cái đau vì bị đòn mà lúc này tôi còn cảm thấy là một bảo đảm chắc chắn không cho phép tôi nghi ngờ chút nào. Nếu thảng hoặc điều đó đã xảy ra cho tôi trong giấc ngủ thì đó là một điều vô cùng kỳ lạ, vô cùng khác thường. Và xin thú thực với các nàng là nó vượt ra ngơài tầm hiểu biết và sự chấp nhận của tôi.

Trong cái tình trạng phân vân chưa ngã ngũ ra sao đó Abou Hassan gọi một trong các quan hầu hoàng đế đứng cạnh mình ôn tồn bảo:
- Ống hãy đến gần đây và cắn vào tai tôi một cái để xem tôi ngủ hay đang thức.
Viên quan hầu tới gần ghé răng vào chót tai Abou Hassan cắn mạnh một cái làm cho Abou Hassan bị đau quá thét lên rất to.
Cùng với tiếng kêu đó là tất cả nhạc cụ cùng tấu lên một lúc và các cung nữ, các quan hầu nâm lấy tay nhau nhảy múa xung quanh Abou Hassan gây thành một tiếng động ầm ĩ, ồn ào khiến chàng cũng hưng phấn đứng lên làm lắm trò điên rồ. Chàng cũng cất tiếng hát cùng với mọi người. Chàng xé rách cả tấm áo triều phục ìộng lẫy mà người ta đã mặc cho chàng. Chàng ném toạch cả mũ đội xuống đất, và chỉ còn trên mình chiếc quần đùi cùng áo lót chàng bất ngờ nhảy xổ vào giữa hai cung nữ, nắm lấy bàn tay họ và nhảy như choi choi, uốn éo đủ kiểu ngộ nghĩnh tức cười làm cho hoàng đế không sao ở yên được nơi đang nấp. Sự quay lộn nhảy hát bất ngờ của Abou Hassan làm ông phá lên cười nghiêng cười ngả, tiếng cười của ông át cả tiếng đàn tiếng trông ầm ĩ. Cười hết trận nọ đến trận kia làm ông đau cả bụng. Cuối cùng ông đứng lên, mở rèm và thò đầu ra, ông vẫn vừa cười vừa kêu to:

- Abou Hassan, Abou Hassan! Nhà ngươi muốn làm cho ta chết vì cười hay sao thế?
Nghe thấy tiếng hoàng đế, tất cả mọi người đều im lặng và mọi tiếng động đều chấm dứt. Abou Hassan cũng dùng lại nhú mọi người và quay đầu về phía có tiếng nói. Chàng nhận ra hoàng đế đồng thời với nhà buôn ở Moussoul cũng là người này. Không chút bối rối về chuyện đó, chàng hiểu là lúc này chàng đang thức và tất cả những gì xảy ra ở đây là rất thực chứ không phải là trong một giấc mộng. Chàng xoay ra chuyện trò đùa và đó cũng là khớp với ý đồ của hoàng đế.
- Ha? Ha? - Chàng nhìn thẳng vào vua kêu lên - Ra là ông đấy phải không, ông nhà buôn ở Moussoul? Sao? Ông kêu là tôi làm ông chết vì cười ư? Ông chính là nguyên nhân để tôi đối xử tàn tệ với mẹ tôi và cũng là nguyên nhân để tôi bị đối xử tàn tệ trong một thời gian khá lâu trong nhà thương điên. Cũng chính ông đã trừng trị nặng lão trưởng giáo trong thánh thất ở khu phố tôi và cả bốn lão già hội đồng, hàng xóm của tôi (không phải là tại tôi đấy nhé!). Ông là người đã gây cho tôi biết bao nhiêu nỗi khổ tâm và bao điều ngang trái! Cuối cùng, có phải đúng ông là người đã gây ra mọi sự và tôi chỉ là nạn nhân của ông không?

- Nhà ngươi nói đúng, Abou Hassan ạ - Hoàng đế nói và vẫn tiếp tục cười - nhưng để an ủi và để bù lại tất cả những gì khổ cực nhà ngươi đã phải chịu đựng, thề có Thượng đế chứng giám, ta sẵn sàng đền bù lại cho ngươi bằng tất cả những gì ngươi đặt ra, tuỳ ý ngươi chọn lựa.
Nói xong, hoàng đế rời khỏi căn buồng nhỏ, đi vào phòng khách lớn. Ông sai mang một trong những bộ áo quần đẹp nhất của mình bảo các cung nữ làm thay
việc của những quan hầu mặc cho Abou Hassan. Khi chàng đã chững chạc trong bộ áo quần lộng lẫy, hoàng đế ôm lấy chàng hôn và bảo:
- Ngươi là người anh em của ta, hãy đòi hỏi ở ta những gì có thể làm cho nhà ngươi vui lòng, ta sẽ chiều ngươi tất cả.

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ - Abou Hassan nói - Xin bệ hạ hãy làm ơn cho biết Người -đã làm những gì khiến cho đầu óc của tôi bị nhiễu loạn như vậy, và ý đồ của Người là gì? Điều này đối với tôi hiện nay quan trọng hơn tất cả mọi thứ khác để cho đầu óc tôi trở lại thanh thản bình thường.
Hoàng đế cũng rất muốn làm cho ý muốn của Abou Hassan được thoả mãn, nên bảo chàng:
- Trước hết nhà ngươi cũng cần biết là ta thùờng hay cải trang vi hành nhất là về ban đêm, để tự mình tìm hiểu tình hình trật tự an ninh trong thành phố Bagdad. Và vì ta cũng rất muốn biết những gì xảy ra ở các vùng phụ cận nên ta đã ấn định vào ngày đầu mỗi tháng để vi hành một vòng ra phía ngoài hoàng cung khi thì ở phía này khi thì ở phía khác và bao giờ cũng qua cầu để trở về. Ta vừa đi một vòng và trở về chiều hôm đó thì nhà ngươi mời ta về nhà ăn cơm tối. Trong chuyện trò, nhà ngươi cho ta hay là điều độc nhất mong ước của mình là được làm hoàng đế và Thống lĩnh các tín đồ chỉ trong khoảng thời gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ để chỉnh đốn lại tên trưởng giáo ở thánh thất khu phố nhà ngươi và bốn lão cố vấn hội đồng của y. Ước mong của nhà ngươi làm ta nẩy ra ý đồ muốn làm một trò giải trí và với mục tiêu đó, ta phác ngay ra cách thức để làm cho ước muốn của ngươi trở thành hiện thực. Sẵn trong người có thứ bột gây ngủ có tác dụng tức thì lúc uống vào và chỉ thức gíâc sau một thời gian nào đó. Chén rượu cuối cùng tối đó ta đã lén bỏ loại bột ấy cho ngươi uống. Giấc ngủ say li bì đã tới liền. Người nô lệ đi theo ta đã mang nhà ngươi về hoàng cung sau khi đã để cửa buồng nhà ngươi mở toang. Có lẽ chẳng cần phải kể lại những diễn biến trong hoàng cung từ lúc nhà ngươi thức giấc suốt ngày hôm đó cho mãi đến chiều tối. Sau khi đã chiêu đãi ngươi đủ thứ theo lệnh ta trong ba phòng ăn, một trong những cung nữ hầu rượu ngươi đã lén bỏ vào chén rượu cuối cùng của ngươi cùng liều lượng bột gây ngủ như thế và cũng tên nô lệ đã mang nhà ngươi tới lại mang ngươi trả về với lệnh là vẫn để cửa buồng ngỏ như thế khi đi ra. Nhà ngươỉ đã kể tất cả cho ta nghe những gì xảy ra hôm sau và nhùng ngày tiếp theo. Ta thật cũng không ngờ là nhà ngươi lại phải chịu bao cảnh đau lòng khổ sở như thế. Nhưng, cũng như ta đã giao ước với ngùơi, ta sẽ làm tất cả để nhà ngươi được an ủi và cũng là địp để nhà ngươi quên đi tất cả những khổ ải đã phải chịu thời gian qua. Nào, xem ta có thể làm gì để cho ngươi được hài lòng. Hãy mạnh dạn lên, nhà ngươi muốn gì nào?

- Tâu đấng Thống lĩnh các tín đồ - Abou Hassan nói - Dù tôi đã phải chịu đựng nhiều đau đớn vừa rồi nhưng những điều không hay đó đã bị xoá sạch trong trí nhớ của tôi khi biết là những cái đó đều do đức vua, lãnh chúa và chủ nhân của tôi gây ra. Còn về những ân huệ mà Người hứa ban cho tôi một cách hào hiệp thì tôi tin chắc lời của Người như đao chém đá, không thể đổi thay. Nhưng tôi vốn không tham lợi lộc, vì Người đã cho phép được nói ra điều yêu cầu, tôi chỉ xin Người một đặc ân là luôn được gần gũi Người để có cái vinh dự suốt đời được chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Người.
Lời nói của Abou Hassan thể hiện rõ sự vô tư trong sáng, không mưu cầu danh lợi càng làm hoàng đế quí mến chàng gấp bội. Nhà vua bảo chàng:

- Ta vui lòng chấp nhận lời, thỉnh cầu đó. Nhà ngươi có thể tự do ra vào nơi cung cấm, bất cứ vào giờ nào, bất cứ ở đâu nơi mà ta có mặt.
Cùng lúc đó, nhà vua cấp cho chàng một nơi ở trong hoàng cung. Còn về khoản bổng lộc, ông bảo chàng không phải phụ thuộc vào ngân qũi quốc gia mà cứ trông ở hoàng đế Ngay lập tức, ông bảo thủ ngân riêng của mình cấp cho chàng một ngân khoản một nghìn đồng vàng. Abou Hassan trân trọng tạ ơn hoàng đế và Người cũng rời đi để đến cung thiết triều như thường lệ.
Abou Hassan lợi dụng thời gian đó về nói cho mẹ biết ngay tất cả những gì xảy ra để bà biết số phận may mắn của mình. Chàng cũng nói cho mẹ biết là tất cả những gì xảy ra cho chàng chẳng phải là xảy ra trong một giấc mộng. Chàng đã là hoàng đế và thực sự đã điều hành công việc triều đình suốt một ngày trời và đã nhận được nhiều vinh dự. Chàng bảo mẹ chớ nghi ngờ gì về những điều chàng nói vì chính hoàng đế, từ miệng Người đã xác nhận như vậy.
Câu chuyện về Abou Hassan chẳng bao lâu đã lan truyền ra toàn thành phố Bagdad, lan sang cả các tỉnh lân cận và từ đó tới các địa phương xa hơn với những tình tiết ly kỳ và trào lộng được thêm thắt vào.
Với ân huệ mới, Abou Hassan rất cần mẫn trong việc hàng ngày đi chầu vua. Vì bản chất luôn vui vẻ yêu đời nên bất cứ chàng đi tới đâu cũng gieo được niềm vui tới đó bằng những lời hài hước có duyên. Hoàng đế cảm thấy không thể thiếu chàng nên không bao giờ không đòi chàng cùng đi trong những cuộc vui chơi giải trí. Đôi khi hoàng đế dắt chàng tới cả cung hoàng hậu Zobéide mà vua cũng đã kể cho vợ nghe chuyện về chàng khiến hoàng hậu rất thích thú. Nhưng bà có một nhận xét là mỗi lần chàng đi theo hoàng đế sang cung điện thăm bà, đôi mắt chàng thường hay liếc nhìn về một trong những nữ tì của bà là cô hầu Nouzhat-Oulaoudat. Vì vậy bà quyết định nói cho hoàng đế hay việc đó. Một hôm hoàng hậu nól nhỏ với hoàng đế.

- Thưa đấng Thống lĩnh các tín đồ, có lẽ Người không như thiếp chú ý tới chuyện này: tất cả các lần Abou Hassan tháp tùng Người tới đây, nó đều không rời mắt khỏi Nouzhat-Oulaouđat làm con bé này ửng đỏ cả mặt mày. Chắc Người cũng thấy đó là dấu hiệu nó tỏ ra là cũng chẳng đến nỗi ghét bỏ cậu ta.
Bởi vậy nếu bệ hạ tin lời thiếp thì chúng ta sẽ làm cái việc xây dựng lứa đôi cho chúng.
- Hậu ạ - Hoàng đế nói - Nàng làm cho ta nhớ đến một việc mà đáng lẽ ta phải làm rồi mới phải. Ta biết xu hướng của Abou Hassan về vấn đề hôn nhân, vì chính nó nói ra. Ta cũng đã hứa là sẽ tìm cho nó một người vợ hợp với nó. Ta rất vui là hậu đã đề cập tới vấn đề mà không hiểu sao ta đã quên bẵng đi mất. Nhưng cứ để cho Abou Hassan tự chọn cho mình thì có lẽ hơn đấy. Vả lại, theo như hậu nói thì con bé Nouzhat-Oulaoudat cũng có vẻ quyến luyến nó. Vậy thì chúng ta chẳng nên do dự nữa mà không vun vén cho chúng. Này, cả hai đứa đều có mặt tại đây. Chúng chỉ cần nói lên là chúng có bằng lòng hay không.

Abou Hassan sụp quì xuống bên chân hoàng đế và hoàng hậu, vô cùng xúc động:
- Tôi không mong gì hơn là được nhận một người vợ từ tay của những người cực kỳ đôn hậu. Nhưng tôi chưa dám hy vọng là Nouzhat-Oulaoudat cũng yêu thương tôi như tôi thương yêu nàng.
Dứt lời, chàng đưa mắt nhìn sang cô nữ tì của hoàng hậu. Cô nàng cũng tỏ lộ sự vui mừng ưng ý theo cách của mình: bối rối, khép nép, im lặng và khuôn mặt ửng đỏ đến tận mang tai.
Hôn lễ được cử hành trong hoàng cung với nhiều cuộc vui kéo dài nhiều ngày. Đề làm vui lòng hoàng đế, hoàng hậu Zobéide tặng cho cô người hầu thân tín của mình nhiều quà tặng có giá trị và về phía mình, hoàng đế, trân trọng hoàng hậu cũng làm như vậy đối với Abou Hassan.
Cô dâu mới được đưa về toà dinh thự mà hoàng đế đã cấp cho Abou Hassan, hôn phu của cô đang nóng lòng chờ đợi Chàng đón người vợ mới trong tiếng nhạc vang lừng và những bản đồng ca du dương của các nhạc công nam và nữ của hoàng cung.
Nhiều ngày trôi qua trong lễ hội tưng bừng thường được tổ chức trong những dịp như thế. Sau đó họ để cho đôi vợ chồng mới được yên hưởng tình yêu nồng thắm trong tuần trăng mật.
Abou Hassan và Nouzhat-Oulaoudat say sưa sống hết mình trong hạnh phúc lứa đôi, gắn bó với nhau như keo như sơn. Ngoài thời gian dành ra, chàng để đi chầu vua, nàng để đi thăm hầu hoàng hậu, thì họ không rời nhau ra nửa bước.
(Còn tiếp...)
 
Chương 35

ALADDIN VÀ CHIẾC ĐÈN THẦN

Tâu bệ hạ, trong kinh thành một vương quốc thuộc Trung Hoa, rất giàu và rộng mà tiện thiếp không nhớ tên, có một người thợ may tên là Mustafa, đặc điểm không gì khác ngoài phong thái nghề nghiệp. Mustafa rất nghèo, công việc chỉ vừa đủ ăn cho ông, vợ và một đứa con trai Trời ban cho.
Đứa con trai, Aladdin, được nuôi dạy rất cẩu thả nên tiếp xúc với những xu hướng xấu, nghịch ngợm, bướng bỉnh, không vâng lời bố mẹ. Lớn lên một ít, bố mẹ không giữ được cậu bên mình, ngay từ sáng sớm cậu ra khỏi nhà suốt ngày rong chơi trên đường ở những nơi công cộng, với những đứa trẻ lang thang thậm chí ít tuổi hơn cậu.

Đến tuổi cậu phải học nghề, song bố cậu không thể tạo dựng cho cậu một công việc gì khác ngoài nghề nghiệp của mình, ông đưa con vào cửa hiệu tập cho may vá. Nhưng kể cả ngọt ngào lẫn đe doạ, ông bố không sao ngăn được tính lêu lổng của con, không buộc được cậu chịu khó, chăm chỉ và chú tâm vào công việc như ông mong muốn. Mustafa quay lưng đi, là Aladdin chạy ngay ra ngoài đi suốt ngày không về. Bố trừng phạt Aladdin mấy cũng không sửa chữa được. Và dù rất tiếc, Mustafa đành phải bỏ mặc con lêu lổng. Việc đó làm ông đau lòng và nỗi buồn không dạy được con khiến ông lâm bệnh nặng sau mấy tháng thì chết.
Mẹ Aladdin thấy con không học nghề của chồng, liền đóng cửa hiệu may, bán đồ đạc hành nghề của chồng để mẹ con sinh sống, phụ thêm vào chút ít tiền công mà bà kiếm được nhờ kéo sợi.
Aladdin không còn phải sợ bố nữa và lại càng không sợ mẹ, thậm chí bà chỉ hơi mắng mỏ là cậu đã doạ lại bà nên cậu thoả sức tự do càng ngày eàng ehơi bời say sưa hơn trước đây với lũ trẻ cùng lứa! Cậu tiếp tục cuộc sống như thế cho đến năm mười lăm tuổi, không làm gì để mở mang trí tuệ và chẳng suy nghĩ sau này mình sẽ ra sao. Trong tình trạng đó, một hôm cậu đang chơl ngoài bãi rộng với toán trẻ lang thang thì một người lạ đi qua đứng lại nhìn cậu.
Người này chính là một lão phù thuỷ đáng gờm, người ta gọi lão là phù thuỷ châu Phi.

Có lẽ lão phù thuỷ châu Phi biết tướng số nhận thấy trên mặt Aladdin những gì cần thiết cho việc thực hiện mục đích của mình hoặc lão đã khôn khéo thăm dò về gia đình, bản thân và khuynh hướng của cậu. Lão lại gần chàng trai, kéo cậu ra cách bạn bè mấy bước, hỏi:
- Này cậu, bố cậu có phải là ông thợ may Mustafa không?
-Thưa ông đúng đấy nhưng bố tôi mất lâu rồi.
Nghe nói thế, lão phù thuỷ châu Phi ôm lấy Aladdin hôn nhiều lần, nước mắt xen lẫn thở than. Aladdin thấy lão khóc, liền hỏi vì sao. Lão phù thuỷ kêu lên:
- Chà, cháu ơi! Làm sao không khóc được? Ta là chú của cháu, bố cháu là người anh phúc hậu của ta. Ta đi xa đã nhiều năm và lúc về với hy vọng gặp lại anh, đưa niềm vui lại cho anh thì cháu cho biết bố chết rồi! Ta rất đau đớn vì không có được niềm an ủi như mong đợi. Nhưng ta cũng nhẹ lòng một phần thấy trên khuôn mặt cháu có những nét của anh ta, ta thấy đã không lầm khi hỏi chuyện cháu.
Tay bỏ vào túi tiền lão hỏi mẹ cậu ở đâu. Aladdin trả lời ngay và lão phù thuỷ vừa đưa cho cậu một nắm tiền lẻ, vừa nói:
Cháu ạ, về gặp mẹ nói chú gửi lời chào, nếu thời gian cho phép, ngày mai chú sẽ đến thăm mẹ để tự an ủi thấy được nơi anh chú sinh sống và đã qua đời.

Lão phù thuỷ vừa rời cậu cháu vừa nhận nhằng, Aladdin liền chạy về gặp mẹ, vui sướng muốn khoe số tiền chú vừa cho.
- Mẹ ơi - cậu hỏi - con có một người chú không?
- Không con ạ - Bà mẹ trả lời - Bên bố con cũng như bên mẹ không có người chú nào cả.
- Thế mà con vừa gặp một ông nói là chú về bên bố vì là em bố con. Điều làm con tin chắc là vì khi con nói, bố chết rồi, ông khóc và ôm lấy con - Cậu đưa tiền ra và nói thêm - Con nói thật đấy. Ông ấy cho con tiền đây, gửi lời chào mẹ và nói nếu ngày mai có thì giờ ông sẽ đến thăm nhà và nơi bố con mất.
Con ạ - Bà mẹ lại nói - Đúng bố con có một người em nhưng chết đã lâu và mẹ không bao giờ nghe nói có người em nào nữa.
Hai mẹ con không nói gì hơn về người lạ ấy.
Hôm sau lão phù thuỷ lại gặp Àladdin lần thứ hai đang chơi một chỗ khác trong thành phố. Lão ôm lấy cậu như lần trước, bỏ vào tay cậu hai đồng tiền vàng và nói:
- Cháu ơi, đưa cái này về cho mẹ nói chiều nay ta đến thăm, bà đi mua gì để chúng ta cùng ăn tối với nhau. Trước hết chỉ cho ta nhà cháu ở đâu đã.

Cậu nói rõ địa chỉ và lão để cậu đi về.
Aladdin đưa hai đồng vàng cho mẹ. Nghe nói ý định của ông chú, bà đi mua thức ăn ngon và sang hàng xóm mượn thêm một số nồi niêu. Bà để cả buổi chuẩn bị bữa ăn tối. Và chiều đến khi bữa ăn đã sẵn sàng, bà bảo con:
- Có lẽ chú con không biết nhà chúng ta, con đi đón chú đưa ông về.
Tuy đã chỉ rõ nhà mình cho lão phù thuỷ châu Phi, song Aladdin cũng sắp đi thì nghe tiếng gõ cửa. Cậu mở và thấy ông ta đang bước vào, mang theo mấy chai rượu và nhiều loại quả cây cho bữa tối.
Đưa những thứ cho Aladdin lão chào bà mẹ, xin bà cho biết chỗ ông anh Mustafa thường ngồi. Bà vừa chỉ chỗ lão liền, quỳ xuống hôn chỗ ấy nhiều lần, rớt nước mắt đầm đìa kêu lên:
- Ông anh khốn khổ, em rất đau lòng không đến được sớm hơn để ôm hôn anh một lần nữa truớc khi anh mất! Dù mẹ Aladdin mời nhiều lần, lão vẫn không ngồi vào chỗ ấy.
- Không - Lão nói - Tôi ngồi đối điện đây để nếu không được thoả mãn gặp người anh thân yêu mà tôi kính trọng như chính bố của mình thì ít nhất tôi cũng được nhìn như thấy anh đang ở đấy.
Khi đã chọn được chỗ ngồi khác, lão bắt đầu nói chuyện với mẹ Aladdin:

- Chị quý hoá của tôi, chị đừng ngạc nhiên không thấy tôi trong suốt thời glan chị là vợ anh Mustafa. Tôi ra đi khỏi đất nước này đã bốn mươi năm. Từ ngày đó sau khi đi hết Ấn Độ, Ba Tư, A Rập, Xy Ri, Ai Cập qua những thành phố đẹp nhất các nước đó, tôi sang châu Phi và ở lại đó lâu nhất: Cuối cùng theo lẽ tự nhiên của người dù xa quê hương đến mấy cũng không quên nhớ về bố mẹ và anh em ruột thịt, tôi chuẩn bị hành lý và lên đường mong muổn trở về đất nước mình, đến ôm hôn người anh thân yêu trong lúc còn sức và lòng can đảm làm một cuộc hành trình dài. Tôi không kể lại với chị thời gian lăn lộn trải qua những gian nan, vất vả để về được đến đây. Chỉ nói với chị không gì làm tôi day dứt, buồn rầu bằng được tin anh đã mất, người anh tôi luôn yêu kính với một tình cảm thực sự. Tôi chú ý đến những nét của anh trên khuôn mặt cháu và điều đó làm tôi phân biệt cháu với những đứa trẻ khác cùng chơi. Cháu có thể nói tôi buồn đến mức nào khi biết anh tôi đã mất. Nhưng cũng phải tạ ơn Trời về mọi việc: tôi tự an ủi thấy lại người anh trong đứa con trai giữ được những nét nổi bật của anh.
Lão phù thuỷ châu Phi thấy bà mẹ đau lòng về kỷ niệm ông chồng, liền thay đổi câu chuyện, ngoảnh lại Aladdin hỏi tên cậu.
- Cháu là Aladdin - Cậu trả lời.
- Thế cháu làm việc gì Aladdin? Cháu có biết nghề gì không?
Nghe hỏi thế, Aladdin cúi mặt bối rối. Mẹ cậu trả lời:
- Aladdin là một đứa lười biếng. Bố nó lúc còn sống đã ra sức dạy nghề của ông cho nó nhưng không được. Từ khi ông mất, mặc đù tôi nhắc nhở hàng ngày, nó không làm nghề gì khác ngoài việc lêu lổng, suốt ngày chơi với trẻ con như chú thấy, không nghĩ mình chẳng còn bé nữa; nếu chú không làm cho nó thấy xấu hổ, và không sửa chữa nhân dịp này, tôi sẽ thất vọng vì không bao giờ nó có thể nên người. Nó biết bố mất chẳng để lại tài sản gì và cũng thấy tôi kéo sợi suốt ngày khó kiếm đủ ăn. Tôi đã quyết định một ngày nào đó sẽ đuổi nó ra khỏi nhà cho đi kiếm sống ở chỗ khác.
Sau khi bà mẹ vừa khóc vừa nól thế, lão phù thuỷ châu Phi bảo Aladdin:
- Như vậy không tốt cháu ạ, cần phải tự lực mà kiếm sống. Có nhiều nghề nghiệp, phải tìm cho mình một hướng ưa thích. Có lẽ cháu không thích nghề của bốvà thấy mình phù hợp với một nghề khác hơn; đừng giấu chú suy nghĩ của mình, chú sẽ tìm cách giúp cháu.

Thấy Aladđin không trả lời, lão nói:
- Nếu cháu sợ phải học nghề mà vẫn muốn trở thành một người lương thiện, chú sẽ mở cho một cửa hàng vải vóc đẹp, cháu đứng bán lấy tiền mua tiếp hàng, với cách đó cháu sẽ sống xứng đáng. Hãy tự nói thật với chú: ý của cháu ra sao? Cháu nhớ là bao giờ chú cũng giữ lời hứa.
Sự giúp đỡ đó kích thích Aladdin vốn không muốn làm công việc chân tay và cũng khá hiểu biết để nhận thấy những cửa hàng loại ấy sạch sẽ, có nhiều người đến, những người bán hàng ăn mặc đẹp và được coi trọng. Cậu lưu ý lão phù thuỷ mà cậu xem là chú mình rằng cậu có xu hướng về mặt ấy hơn cả và rất cám ơn chú về điều tết ông định xây dựng cho mình. Lão phù thuỷ châu Phi lại nói:
- Vì cháu thích công việc ấy, mai chú đưa cháu cùng đi, cho cháu ăn mặc sạch sẽ, sang trọng phù hợp với phong cách một nhà buôn lớn trong thành phố này; ngày kia chúng ta sẽ nghĩ đến việc mở cửa hàng như chú nói.
Mẹ Aladdin trước đó vẫn không tin người lạ là em chồng bà, lúc này nghe mọi điều tốt lành lão hứa xây dựng cho con thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bà cảm ơn lão về dự định quý hoá ấy, khuyên nhủ Aladdin cố gắng xứng đáng với những điều tốt đẹp chú sẽ giúp cho rồi bà bày bữa ăn tối. Cuộc nói chuyện xoay quanh vấn đề ấy suốt bữa ăn cho đến lúc thấy đã khuya, lão phù thuỷ xin phép ra về.
Sáng hôm sau, lão trở lại nhà bà vợ goá ông thợ may Mustafa như đã hứa, dẫn Aladdin đi theo mình, đến một cửa hàng bán quần áo may sẵn đủ các loại vải, phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp. Lão bảo cho xem quần áo vừa cỡ người Aladdin, để riêng những loại lão ưng ý rồi nói với Aladdin:

- Cháu chọn trong số này những bộ quần áo thích nhất đi.
Cậu phấn khởi về thái độ thoải mái của ông chú mới, chọn một bộ. Lão phù thuỷ mua tất cả những gì kèm theo và trả tiền không cần mặc cả.
Khi Aladdin thấy mình mặc quần áo đẹp từ chân đến đầu, cậu vô cùng cám ơn ông chú; lão phù thuỷ còn hứa không bao gíờ rời cậu. Thực thế, lão đưa cậu đến những chỗ đông vui nhất thành phố, vào những cửa hàng vải vóc nhiều và đẹp nhất bảo Aladdin:
- Rồi cháu sắp thành một thương nhân như những người cháu thấy, nên đi lại với họ và để họ quen biết cháu.
Lão cũng dẫn cậu đi xem nhà thờ Hồi giáo đẹp và lớn nhất, ung dung vào lâu đài những thương nhân nước ngoài tạm trú. Sau khi cùng nhau đi khắp những chỗ đẹp của thành phố, họ đến một lâu đài và thuê một căn hộ. Ở đấy có một số thương nhân lão làm quen khi vừa mới đến, mời họ cùng tập hợp ăn uống với nhau và giới thiệu đứa cháu hờ.
Tiệc xong trời vừa tối. Aladdin muốn xin phép chú ra về nhưng lão phù thuỷ không muốn để cậu đi một mình, đích thân đưa cậu về với mẹ. Thấy con trai ăn mặc đẹp đến thế bà mẹ vui mừng khôn xiết, rối rít cám ơn ông chú đã chi tiêu nhiều cho con mình:
- Chú thật độ lượng, chị không biết làm thế nào để cám ơn lòng hào phóng của chú, chị biết con chị không xứng đáng với điều tết lành chú đưa lại nếu như nó không cố gắng đáp ứng được ý chú định xây dựng cho nó một cơ ngơi làm ăn vững vàng. Riêng chị - Bà nói thêm - chị vô cùng cảm kích, chúc chú trường thọ để chứng kiến lòng biết ơn của con trai chị thể hiện tất nhất ở cách quản lý cửa hàng theo lời chú dạy.

Lão phù thuỷ đáp:
- Aladdin là một đứa trẻ ngoan biết nghe lời, và tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm được điều gì đó cớ kết quả. Chỉ phiền là chưa thể thực hiện lời hứa vào ngày mai, thứ sáu, các cửa hàng đóng cửa hết, thương nhân chỉ vui chơi, đành để lại ngày thứ bảy. Nhưng ngày mai tôi sẽ đến đưa cháu đi chơi ở các công viên, chỗ giới khá giả lui tới. Có lẽ nó chưa biết gì về những trò giải trí ở đấy, cho đến nay nó chỉ tiếp xúc với trẻ con, phải cho cháu gặp người lớn.
Lão phù thuỷ cáo lui. Aladdin vô cùng sung sướng vì đã được diện quần áo sang trọng, tận hưởng trước một niềm vui lớn được dạo quanh thành phố vốn rất đẹp và dễ chịu.
Hôm sau cậu dậy sớm, ăn mặc tử tế chờ chú đến đưa đi. Có vẻ như chờ lâu, cậu nóng lòng mở cửa, đứng ở bậc thềm nhìn ngóng. Thấy lão, cậu báo tin với mẹ và chào từ biệt bà, đóng cửa lại chạy đến vớl ông chú.
Lão phù thuỷ thấy cậu, vuốt ve và cười cợt nói:
- Nào, cháu thân yêu, hôm nay ta muốn cho cháu thấy những điều còn kỳ diệu hơn nhiều những lâu đài tuyệt vời, với những khu vườn tươi tốt kia.
Trước mỗi lâu đài lão lại hỏi cậu thấy có đẹp không, Aladđin, lại đáp:
- Thưa chú, đây lại là một toà đẹp hơn những toà chúng ta vừa đi qua.
Tuy nhiên họ mỗi lúc một tiến dần ra phía ngoài thành phố mà lão phù thuỷ vừa tinh ranh muốn đi xa hơn nữa để thực hlện ý định trong đầu. Thừa dịp vào trong một khu vườn, lão đến ngồi gần chiếc bể lớn có nước chảy ra từ mõm một con sư tử bằng đồng đen, giả vờ mệt để nghỉ.

- Cháu ạ - lão nói - chắc cháu cũng mệt như chú, chúng ta nghỉ một lúc cho lại sức để tiếp tục đi dạo.
Lão lấy ở thắt lưng ra một túi bánh và các loại quả cây bày trên thành bể, chia đôi bánh và để Aladdin chọn nhũng quả mình thích. Trong bữa ăn tạm đó, lão khuyên cậu cháu hờ thôi lêu lổng với bọn trẻ con nên quan hệ với những người lớn tuổi thông thái và không ngoan để tranh thủ nghe họ và học hỏi qua những lời trao đổi của họ. Lão bảo: Rồi cháu sẽ là người lớn như họ, sẽ sớm quen nói những lời tất đẹp theo gương họ . Ăn xong họ đứng dậy tiếp tục đi qua nhiều khu vườn cách nhau bằng nhiều hào nhỏ làm ranh giới nhưng vẫn qua lại được: Những người dân ở kinh thành này có lòng tin vào nhau, không cần phải bảo vệ kỹ hơn để ngăn chặn việc làm hại lẫn nhau. Không ai nhận thấy lão phù thuỷ đã đưa Alađdin qua những khu vườn khá xa, qua những cánh đồng gần đến rừng núi.
Aladdin suốt đời chưa đi nhiều như thế, thấy rất mệt mỏi. Cậu nói với lão phù thuỷ:
- Chú ơi, chúng ta đi đâu vậy? Đã qua những khu vườn rất xa và cháu chỉ thấy rừng núi. Nếu đi nữa không biết cháu còn đủ sức trở về thành phố không?

- Can đảm lên cháu, ta muốn cho cháu thấy một khu vườn tuyệt vời hơn rất nhiều những khu cháu vừa thấy. Không xa đây đâu, chỉ một bước chân nữa thôi và tới nơi, cháu sẽ không thấy phí công chút nào.
Aladdin bị thuyết phục, lão phù thuỷ còn dẫn cậu đi rất xa, vừa đi vừa kể những chuyện vui làm cậu thấy con đường đỡ buồn và đỡ mệt mỏi hơn.
Cuối cùng họ đến giữa hai ngọn núi thấp ngang nhau, giữa là một khu đồi hẹp. Đấy là nơi đáng chú ý mà lão phù thuỷ muốn đưa Aladdln đến để thực hiện một ý đồ đã đưa lão từ cuối châu Phi đến đất nước Trung Hoa. Lão nói với cậu:
Chúng ta không đi xa hơn nữa; ta muốn cho cháu thấy ở đây những vật khác thường người đời không biết và khi thấy cháu sẽ cám ơn ta đã cho cháu chứng kiến những kỳ quan có một không hai. Trong lúc ta chuẩn bị, cháu thu thập mọi cành lá xung quanh, những ìoại khô nhất để đất lửa.
Aladdin dồn rất nhiều rác rưởi thành một đống to. Lão phù thuỷ châm lửa và trong lúc cành lá bùng cháy, lão vứt vào đấy một loại bột thơm đã chuẩn bị sẵn. Một làn khói dày đặc bốc lên, lão quay hết phía này sang phía khác và lẩm nhẩm những cậu thần chú mà Aladdin, chẳng hiểu gì.
Cùng lúc ấy mặt đất nơi đó rung chuyển, trước mặt hai người lộ ra một tảng đá rộng khoảng một bộ rưỡi vuông và dày một bộ bằng phẳng, giữa gắn chặt một vòng đồng đen dùng nâng tảng đá. Alađđin sợ hãi thấy những gì xảy ra trước mắt, muốn bỏ chạy. Cần đảm bảo bí mật, lão phù thuỷ giữ cậu lại, mắng và tát một cái mạnh đến nỗi cậu ngã ra đất và răng cắn vào miệng đến chảy máu Cậu bé khốn khổ run rẩy khóc nói:

- Chú ơi, cháu đả làm gì mà chú đánh cháu đau như vậy?
- Ta có lý do để đánh - Lão phù thuỷ trả lời - Ta là chú, bây giờ thay thế bố, cháu không được cãi lại. Nhưng cháu ạ - Lão dịu lại nóỉ thêm - Đừng sợ, ta không đòi hỏi gì cháu ngoài việc theo đúng lời ta bảo nếu cháu muốn cố gắng đạt được và xứng đáng với những món lợi lớn ta làm cho cháu.
Những lời hứa ngọt ngào ấy làm Aladdin yên lòng và khi thấy cậu đã hoàn toàn bình tĩnh, lão tiếp tục nói:
- Cháu đã thấy đlều gì xảy ra nhờ bột thơm và lời thần chú. Nên biết hiện tại dưới tảng đá này có một kho báu dành riêng cho cháu, người mà một ngày nào đó sẽ giàu hơn tất cả những ông vua lớn nhất trên thế giới. Điều ấy là sự thực vì không ai trên đời này ngoài cháu được phép sờ vào tảng đá, nâng lên để chui vào. Cả ta cũng không được sờ vào và xuống kho báu khi đã mở. Cháu phải thực hiện đúng từng điểm theo lời ta bảo. Công việc có kết quả rất lớn đối với cháu và với ta.
Aladdin vô cùng ngạc nhiên về điều mình thấy và những gì vừa nghe ông chú nói về kho báu sẽ làm cậu sung sướng cả đời. Quên hết chuyện vừa bị đánh mắng cậu đứng dậy nói với lão phù thuỷ:
Nào! Thưa chú, cần làm gì đây? Chú ra lệnh đi, cháu sẵn sàng vâng lời.
- Cháu của ta, ta hân hoan thấy cháu đồng ý- Lão vừa ôm hôn cậu vừa nói - Lại gần đây, cầm lấy chiếc vòng nâng tảng đá lên.
- Nhưng thưa chú, cháu không đủ sức nâng nó lên; chú phải giúp cháu.
- Không, cháu không cần chú giúp, chúng ta sẽ không làm được gì nếu ta giúp cháu, cháu nâng lên một mình thôi. Cứ gọi tên bố cháu và tên ông cháu khi cầm chiếc vòng nhấc lên, cháu sẽ thấy không khó khăn gì.
Aladdin làm như lão phù thuỷ bảo, nâng tảng đá lên dễ dàng đặt sang bên cạnh.
Tảng đá được cất đi lộ ra một căn hầm nhỏ sâu ba đến bốn bộ, có một cánh cửa và bậc thang đi xuống. Lão phù thuỷ bèn nói với Aladdin:
Cháu của ta, hãy làm đúng như ta bảo. Cháu đi xuống căn hầm, đến bậc thang cuối cùng sẽ thấy cánh cửa mở đưa cháu đến một vòm rộng chia làm ba phòng lớn liên tiếp nhau. Trong mỗi phòng cháu thấy bên phải và bên trái có bốn chiếc vại lớn bằng đồng đen, đựng đầy vàng và bạc nhưng đừng sờ vào. Trước khi vào phòng thứ nhất cháu vén áo buộc chặt vào người; vào trong ấy cháu đi thẳng qua phòng thứ hai không dừng lại, từ đó qua phòng thứ ba cũng không dừng lại. Chú ý đừng lại gần và đụng vào những bức tường, nếu đụng vào tường, đù chỉ là áo đụng vào cháu cũng chết ngay. Cuối gian phòng thứ ba có một cánh cửa mở ra khu vườn cây rất đẹp đầy quả. Cháu cứ đi thẳng, qua khu vườn theo con đường dẫn đến bậc thang năm mươi bậc đưa lên một cồn đất. Trên cồn đất cháu thấy một cái hốc và trong hốc có chiếc đèn thầp sáng. Cháu cầm lấy đèn, tắt đi, vứt bỏ ngọn đèn, đổ nước trong đó ra, bỏ đèn vào lòng mình đưa ra cho chú. Cháu đừng sợ hỏng áo vì nước ấy không phải dầu và khi không còn nước, đèn sẽ khô ráo. Nếu cháu thích quả cây, cứ hái bao nhiêu cũng được, việc ấy không bị cấm.

Nói thế xong, lão phù thuỷ rút chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, đeo vào một ngón tay của Aladdin nói là để dự phòng những gì xấu có thể gặp phải và dặn dò nhớ kỹ lời lão. Tiếp đó lão bảo:
- Đi đi, cháu của ta, bước xuống táo bạo lên, chúng ta sắp giàu suất đời rồi.
Aladdin nhẹ nhàng nhảy vào căn hầm, xuống tận bậc đưới cùng, vào cửa thấy ba gian phòng như ông chú tả, và cậu cẩn thận đi qua các phòng, qua khu vườn không dừng lại Cậu leo lên cồn đất, cầm lấy chiếc đèn đang cháy trong hốc, vứt ngọn đổ nước trong đèn ra, thấy khô ráo như lão phù thuỷ đã nói bèn bọc vào lòng. Cậu xuống khỏi cồn đất, đứng lại trong vườn ngắm những quả cây đã thấy khi đi qua. Cây trong vườn đầy những quả khác thường, mỗi cây mang quả màu sắc khác nhau. Có những quả trắng, ánh lên và trong suốt như thuỷ tinh, những quả đỏ, xanh, tím, hơi vàng và nhiều màu khác. Những quả cây màu trắng là ngọc, lấp lánh và trong suốt là kim cương, màu đỏ là hồng ngọc, màu xanh là ngọc bích vân vân... Những quả ấy to lớn và hoàn hảo người ta chưa từng thấy trên đời. Aladdin không biết giá trị, không xúc động gì trước những quả ấy, không thích bằng những quả vả, nho và những quả ngon khác phổ biến ở Trung Hoa. Cậu hình đung đây chỉ là những quả thuỷ tinh màu, không đáng giá hơn nhiều. Tụy vậy những màu săc muôn vẻ, mỗi quả lại đẹp và to lớn khác thường làm cậu muốn hái đủ các loại nhét đầy hai túi chiếc áo và hai túi vải mới lão phù thuỷ mua cho. Khi áo đã căng phồng, cậu buộc vào hai bên thắt lưng còn giắt vào gấp nếp thắt lưng và không quên nhét vào bụng, giữa áo dài và sơ mi quấn quanh người.

Aladdin mang bao nhiêu của cải như thế mà không biết, trở lại gấp con đường để ông chú khỏi phải chờ lâu. Sau khi qua ba gian phòng cẩn thận như lần trước, cậu bước lên lối vào căn hầm chỗ lão phù thuỷ đang nóng lòng chờ đợi. Thấy lão, cậu nói:
- Thưa chú, chú đưa tay kéo glúp cháụ lên.
Lão phù thuỷ bảo:
- Cháu ạ, đưa chiếc đèn cho chú trước đã khỏi bị vướng.
- Xin lỗi chú, nó không làm vướng cháu đâu, lên đến nơi cháu sẽ đưa.
Lão phù thuỷ cương quyết muốn Aladdin đưa chiếc đèn trước khi kéo cậu lên và Aladdin vướng chiếc đèn với các loạl quả cây mang khắp người nhất định từ chối đưa chiếc đèn trước khi lên khỏi hầm. Thất vọng về sự chống cự của chàng trai, lão phù thuỷ điên lên vì giận, ném một ít bột thơm vào lửa, vừa đọc mấy câu thần chú thì tảng đá tự chuyển ìại chỗ cũ đóng cửa hầm, đất lại phủ lên trên như trước lúc lão và Aladdin mới đến.
Chắc chắn lão phù thuỷ không phải em ông Mustafa thợ may, do đó không phải là chú của Aladdin. Lão là người châu Phi, sinh ra tại đó, châu Phi là một nước có nhiều người hành nghề phù thuỷ hơn bất cứ chỗ nào. Lão tập làm từ khi còn trẻ và sau khoảng bốn mươi năm làm phù phép, bói toán đọc sách phù thuỷ lão phát hiện ra trên đời có một chiếc đèn thần, nếu chiếm được sẽ có quyền lực hơn bất cứ một ông vua nào trên thế giới. Theo một đợt bói phong thuỷ, lão biết chiếc đèn đang để trong đất nước Trung Hoa, ở một chỗ mà trong quang cảnh như đã nói trên. Tin chắc vào sự phát hiện đó lão tiến hành một cuộc đi xa, vất vả, đến gần thành phố tiếp cận với kho báu. Nhưng tuy chiểc đèn đúng ở chỗ đã biết, lão không được phép tự mình nâng tảng đá lên và xuống đưới căn hầm. Phải có một người khác xuống đấy lấy chiếc đèn đưa vào tay lão. Vì thế lão làm quen với Aladdin, cậu có vẻ là một đứa trẻ vô tư thích hợp với việc lão cần và lão quyết định khi đã có chiếc đèn, sẽ phù phép đóng cửa hầm, hy sinh cậu bé để phi tang. Lão tát Aladdin và ra oai với cậu nhằm làm cậu sợ nhất nhất vâng lời để khi bảo đưa chiếc đèn thần cậu phải đưa ngay. Sự việc diễn ra ngược lại ý muốn, lão vội độc ác thủ tiêu Aladdin, sợ chần chừ sẽ có người nghe, biết điều muốn giấu kín.

Khi lão phù thuỷ thấy không còn hy vọng lão lên đường trở về châu Phi, không qua thành phố nơi lão ra đi với Aladdin, sợ nhìều người đã thấy cùng đi với cậu mà trở lại không có cậu.
Xem ra người ta không được nghe nói về Aladdin nữa. Nhưng ngay cả người muốn cậu biến mất mãi mãi cũng quên việc lão đã đeo vào ngón tay Aladdin một chiếc nhẫn có thể cứu cậu.
Aladdin chưa hề nghĩ đến tâm địa độc ác của ông chú mạo danh chỉ biết đến những âu yếm và điều tết lão đã làm cho cậu. Khi thấy bị chôn sống, cậu gọi chú hàng nghìn lần, kêu lên sẵn sàng đưa chiếc đèn nhưng vô ích. Đành ở trong cảnh tối tăm của căn hầm, sau khi khóc chán chê cậu xuống cuối thang định ra ngoài ánh sáng khu vườn đã đi qua. Bức tường trước đây mở ra vì phép lạ đã tự đóng lại rồi, cậu sờ soạng khắp nơi không thấy cánh cửa, cậu càng kêu khóc gấp bội, ngồi ở bậc thang căn hầm không hy vọng gì thấy lại ánh sáng, buồn bã chắc chắn về cái chết đến gần.
Aladdin trong tình trạng đó hai ngày không ăn uống. Ngày thứ ba thấy cái chết không tránh khỏi, cậu giơ hai tay lên kêu trời. Với cử động chắp hai tay ấy, cậu vô tình xát mạnh chiếc nhẫn lão phù thuỷ đeo vào ngón tay cho mà chưa biết quyền lực của nó. Ngay lập tức một vị thần khuôn mặt đồ sộ, cái nhìn đáng sợ, sừng sững hiện ra trước mặt như từ dưới đất lên, đầu đung tới vòm hầm, nói với Aladdin:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của những người có chiếc nhẫn ở ngón tay, tôi và những kẻ nô lệ khác của chiếc nhẫn đều thế.

Ở mọi trường hợp khác, Aladdin vốn không quen thấy như vậy, sẽ sợ hãi và không nói nên lời trước khuôn mặt kỳ lạ ấy. Nhưng lo lắng về mối nguy hiểm hiện tại, cậu không ngập ngừng bảo:
- Ông là ai cũng thế, nếu có quyền lực thì đưa tôi ra khỏi nơi này.
Cậu vừa dứt lời, mặt đất mở ra và cậu đã đứng ngoài cửa hầm, đúng ở chỗ lão phù thuỷ dẫn đến.
Aladdin ở lâu trong đêm tối, lúc đầu khó chịu đựng được ánh sáng ban ngày. Mắt quen dần, cậu nhìn quanh mình thấy rất lạ không có lỗ hổng trong đất, không hiểu mình ra khỏi lòng đất bằng cách nào. Chỉ còn chỗ đất rác làm cậu nhận ra tương đối căn hầm ở đâu. Ngoảnh về phía thành phố, cậu thấy những khu vườn quanh đấy và nhận ra con đường lão phù thuỷ đã đẫn cậu đến đây. Cám ơn trời đất đã cho mình được trở về cuộc sống, cậu theo đường ấy trở lại thành phố và mệt nhọc lê về đến nhà. Vui mừng gặp lại mẹ, thêm vào sức yếu vì ba ngày không ăn, cậu ngất đi một lúc. Bà mẹ đã khóc con vì mất tích hay đã chết, thấy cậu trong tình trạng ấy, lo chạy chữa để cậu tỉnh lại. Bước đầu hồi phục, những lời đầu tiên của cậu là:
- Mẹ ơi, trước hết cho con ăn đã, đã ba ngày nay con không được ăn tí gì.
Bà mẹ đưa lại cho con những gì mình có,và bảo:
- Con trai, đừng ăn vội vàng rất nguy hiểm, ăn từng ít một rồi sau hãy ăn tuỳ thích, con cần nghỉ ngơi, thậm chí mẹ không muốn con nói chuyện. Khi đã khoẻ con sẽ kể lại với mẹ: Được gặp lại con mẹ rất yên tâm sau bao lọ lắng từ hôm thứ sáu thấy trời tối mà con không về nhà.
Aladdin nghe lời mẹ, bình tĩnh ăn dần dần, uống từng ngụm. Xong bữa, cậu nói với mẹ:

Mẹ ơi, con rất buồn là mẹ đã dễ dàng phó thác con cho cái người có ý định thủ tiêu con và tròng lúc con đang nói đây, hắn chắc chắn con đã chết rồi. Mẹ nghĩ hắn là chú con và con cũng tưởng thế. Chài Chúng ta nghĩ thế nào khác được trước một người âu yếm, tốt với con và hứa hẹn những việc làm có lợi như thế? Mẹ biết không, hắn chỉ là một kẻ phản phúc, độc ác, lừa lọc. Hắn tốt với con, hứa hẹn như thế để đi tới mục đích thủ tiêu con như con đã nói mà cả mẹ và con đều không biết vì nguyên nhân gì. Mẹ sẽ hiểu ra khi nghe con kể lại cặn kẽ sự việc xảy ra từ khi con đi với hắn cho đến khi hắn thực hiện ý đồ.
Aladdin thuật lại những gì từ ngày thứ sáu lão phù thuỷ đến dẫn cậu đi xem nhũng lâu đài, những khu vườn bên ngoài thành phố trên đường đến hai ngọn núi, chỗ lão phù thuỷ làm phép lạ vứt một loại bột thơm vào ngọn lửa và đọc mấy câu thần chú, mặt đất mở ra ngay và có một lối vào căn hầm dẫn tới kho báu vô giá. Cậu không quên cái tát của lão phù thuỷ và sau đó dịu lại, lão hứa hẹn nhiều, đeo chiếc nhẫn vào ngón tay cậu, bảo đi xuống căn hầm. Cậu không bỏ sót một chút nào về những gì mình đã thấy qua ba gian phòng, khu vườn và cồn đất. Sau đó cậu đưa cho mẹ xem chiếc đèn cậu đã lấy ở đó cùng những quả cây trong suốt, nhiều màu đã hái khi trở lại bỏ đầy hai túi vải. Những quả ấy thực ra là những đá quý, lóng lánh như mặt trời, chiếu sáng cả gian phòng, có thể đoán được giá trị rất lớn. Mẹ Aladdin cũng chẳng biết gì về những cái đó hơn con trai, bà được nuôi dưỡng trong điều kiện khốn khó, chồng bà không giàu có để cho bà những đá quý, bà cũng không bao giờ thấy những đá quý như vậy ở nhà người thân hoặc hàng xóm. Vì vậy không lạ lùng gì khi bà nhìn chúng như những vật ít giá trị, có chăng chỉ làm vui mắt vì nhiều màu sắc. Do đó Aladdin để những túi đá quý phía sau chiếc ghế cậu đang ngồi. Cậu kể tiếp câu chuyện từ lúc sắp sửa ra khỏl cửa hầm, vì từ chối đưa cho lão phù thuỷ chiếc đèn, lão ta phù phép làm cửa hầm đóng ngay lại. Cậu không ngăn được nước mắt chảy khi kể tình trạng khổ sở dưới hầm lúc thấy mình bị chôn sống trong lòng đất và chỉ trở lại trên đời nhờ vô tình chà xát vào chiếc nhẫn. Kể xong cậu nói với mẹ:

- Phần còn lại mẹ đã biết không cần nói thêm gì. Đây là cuộc phiêu lưu của con, mối nguy hiểm con trải qua từ khi mẹ không thấy con nữa.
Mẹ Aladdin chăm chú nghe hết câu chuyện thần kỳ lạ lùng đã làm đau lòng người mẹ yêu thương con mình tuy nó có những khuyết điểm. Trong những chỗ cảm động nhất thể hiện rõ tmh gian đốl của lão phù thuỷ bà không ngăn được cử chỉ giận dữ căm ghét của mình. Con trai kể xong, bà chửi rủa tên lừa bịp hàng tràng, gọi hắn là lừa đảo, gian dối, dã man, giết người, phù thuỷ, kẻ thù phá hại loài người. Bà nói thêm:
- Đúng đấy con ạ, hắn là một lão phù thuỷ, là kẻ thù của mọi người, phù thuỷ quan hệ với ma quỷ bằng những phù phép, hành động bí hiểm. Nhờ Trời con thoát được cái chết không tránh khỏi vì việc làm độc ác của hắn không thực hiện được .
Bà còn nói nhiều điều, căm ghét lão phù thuỷ lừa gạt con trai bà nhưng nhận thấy Aladdin đã ba ngày không ngủ, bà bảo con đi nằm và bà cũng đi ngủ.
Chàng trai ngủ say suốt đêm, chỉ thức đậy rất muộn vào sáng hộm sau. Cậu ra gặp mẹ, câu đầu tiên cậu nói với mẹ là đói, rất vui sướng được mẹ cho ăn trưa. Bà mẹ trả lời:
- Than ôi? Con trai, mẹ không còn một mẩu bánh cho con; hôm qua con đã ăn hết số thực phẩm ít ỏi còn lại trong nhà. Nhưng con chịu khó một lúc, mẹ có một số sợi vải đưa đi bán, chẳng mấy chốc sẽ mua bánh và thức ăn về chúng ta cùng ăn tối.

- Mẹ ơi - Aladdin nói - Mẹ để dành sợi vải vào dịp khác; đưa con chiếc đèn con đem về hôm qua, con sẽ đi bán lấy tiền mua thứ gì ăn trưa, tối và có lẽ sẽ đủ cho cả bữa khuya nữa đấy.
Bà mẹ vào chỗ bà đã cất giữ lấy đèn ra:
- Đây bà nói với con - nhưng bẩn lắm, lau chùi sạch đi chắc sẽ có giá hơn.
Bà lấy cát mịn và nước để đánh sạch đèn. Vừa xát vào chiếc đèn, ngay lập tức trước mặt bà và cậu con xuất hiện một vị thần xấu xí, to lớn đồ sộ, giọng oang oang:
- Người muốn gì? .Tôi sẵn sàng vâng lệnh như kẻ nô lệ của Người, nô lệ của những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn đều thế.
Mẹ Aiadđin không còn sức để trả lời. Thấy khuôn mặt xấu xí, đáng sợ, vừa nghe thần cất tiếng nói bà đã kinh hãi ngã lăn ra bất tỉnh.
Aladđin đã thấy thần xuất hiện gần như thế dưới căn hầm, nên không bỏ phí thì giờ suy xét, cầm ngay lấy chiếc đèn bổ sung thiếu sót của mẹ, cậu trả lời thay bà:
- Tôi đói, đem thức gì ăn đến cho tôi.
Vị thần biến mất, một lúc sau trở lại đội trên đầu một khay lớn bằng bạc đựng mười hai đĩa bạc đầy thức ăn thật ngon cùng sáu chiếc bánh trắng như tuyết, hai chai rượu vang và hai chiếc ly bạc cầm tay. Ông ta đặt những thứ ấy lên ghế xô-pha rồi biến mất.
Việc ấy xảy ra chỉ trong giây lát trong lúc mẹ Aladdin đang bất tỉnh. Cậu con trai phải vẩy nước lên mặt mẹ đến mấy lần để giúp bà hoàn hồn và có lẽ cả mùi vị thức ăn ngon vị thần đưa tới cũng có góp phần tác động, nên một lúc sau bà tỉnh ìại. Aladdin nói:
- Mẹ ơi, việc đó không là gì đâu, mẹ đậy và lại ăn đi, đây là những thứ làm mẹ yên lòng và thoả mãn yêu cầu ăn uống của con. Đừng để nguội lạnh nhửng thức ăn ngon như thế, chúng ta ăn thôi.
Bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi thấy khay lớn đầy các thứ ăn ngon, bánh, rượu và mùi thơm toả ra từ những đa thức ăn, hỏi con:
- Con ơi, do đâu mà dồi dào đến thế và chúng ta phải ơn ai về sự hào phóng này? Có phải nhà vua biết chúng ta nghèo khó đã chiếu cốcho chúng ta không?
- Thưa mẹ, chúng ta lại bàn ăn thôi, mẹ cũng cần như con, ăn xong con sẽ nói rõ với mẹ.
Họ ngồi vào bàn, ăn rất ngon miệng như chưa bao giờ có được một bữa ăn đầy đủ.

Trong lúc ăn, mẹ Aladdin nhìn ngắm không mỏi khay và những đa thức ăn tuy không biết rõ bằng bạc hay chất liệu gì vì chưa từng thấy những dụng cụ như vậy, nói đúng ra là không biết giá trị của chúng mà chỉ sự mới lạ của chúng đã đủ làm bà thán phục, con trai bà cũng chẳng biết gì hơn.
Aladdin và mẹ không nghĩ đó chỉ là một bữa ăn trưa đơn giản mà họ dùng làm bữa ăn tối luôn. Những thức ăn tuyệt ngon làm họ thấy ngon miệng và vì trong lúc thức ăn còn nóng, họ nghĩ nhập hai bữa ăn làm một cũng tốt, không phải ăn làm hai lần. Bữa ăn kép xong, còn lại không chỉ cho bữa ăn khuya mà khá đủ cho hai bữa ăn no nê vào ngày hôm sau.
Sau khi mẹ Aladdln ăn xong và cất riêng thức ăn còn lại cho những bữa sau bà đến ngồi trên ghế xô pha gần con mình.
- Aladdin - Bà nói - Ta nóng lòng muốn nghe câu chuyện con đã hứa.
Aladdin kể lại đúng việc xảy rạ giữa vị thần và cậu trong lúc bà mẹ ngất đi.
Bà rất ngạc nhiên về lời kể của con và sự xuất hiện của vị thần, liền hỏi con:
- Con muốn nói gì về những vị thần của con thế? Từ khi ta sinh ra đến nay, không nghe nói có ngườl nào đã gặp thần thánh. Tại sao vị thần xấu xí ấy đến trước mặt mẹ? Vì lẽ gì ông ấy nới với mẹ chứ không phải với con, người mà ông đã xuất hiện trước mặt dưới căn hầm?
- Thưa mẹ, vị thần vừa rồi không phải là người đã đến với con. Họ giống nhau về đáng đlệu khổng lồ nhưng hoàn toàn khác nhau về khuôn mặt và cách ăn mặc. Họ thuộc về những người chủ khác nhau. Nếu mẹ nhớ lại, người con đã thấy xưng là nô lệ của chiếc nhẫn ở ngón tay con và người mẹ vừa thấy là nô lệ của chiếc đèn mẹ cầm trong tay.
- Thế nào? Như vậy chiếc đèn của con là nguyên nhân vị thần đáng sợ ấy nói với mẹ? Chà, con ơi? Con cất chiếc đèn khỏi mắt ta, để vào đâu tuỳ thích, ta không muốn sờ mó đến nố nữa. Ta bằng lòng vứt nó hoặc bán đi còn hơn nguy cơ chết vì sợ hãi. Nếu tin mẹ, con cũng nên bỏ chiếc nhẫn đi. Không nên quan hệ với các vị thần, đó là những ma quỷ mà các nhà tiên tri đã nói.

- Thưa mẹ, nếu mẹ cho phép, con sẽ không bán nó như đã dự định, chiếc đèn sẽ rất có ích cho mẹ con chúng ta. Mẹ không thấy nó vừa cho ta những gì à? Phải để nó tiếp tục cung cấp cho chúng ta ăn, mặc. Chắc mẹ cũng đoán được phải có lý đo gì ông chú hờ độc ác của con mới có hành động ấy, làm một chuyến đi dài và vất vả như vậy. Chính để chiếm được chiếc đèn thần, ham muốn hơn cả mọi vàng bạc ông ta biết có trong các phòng và con cũng đã thấy tận mắt. Ông ta biết rõ giá trị của chiếc đèn nên chẳng đòi hỏi gì khác ngoài kho báu dồi đào ấy. Sự tình cờ đã cho chúng ta biết quyền lực của đèn, chúng ta phải sử dụng nó, cho có lợi nhưng phải thật kín đáo, để chòm xóm khỏi thèm muốn và ghen ghét chúng ta. Con sẽ cất giấu một chỗ khuất mắt mẹ, sẽ tìm lại khi cần. Về chiếc nhẫn con cũng không vứt bề được, không có nhẫn mẹ đã không bao giờ gặp lại con nữa. Mẹ cho con giữ nó lại và luôn đeo nó vào ngón tay như vật quý. Biết đâu con sẽ gặp một hiểm nguy khác, mẹ và con không lường được và chính nó sẽ cứu con?
Aladdin nói rất có lý, mẹ cậu không có gì bàn cãi thêm. Bà nói:
- Con trai, con hãy làm như con nghĩ. Riêng mẹ, mẹ không muốn dính líu với các vị thần. Mẹ nói rồi, mẹ không dính líu về chuyện đó hơn nữa.
Chiều tiếp théo và bữa khuya ăn nốt thức ăn vị thần đã đưa tới. Hôm sau Aladdin không chờ đói thôi thúc, cầm một chiếc đĩa bạc giấu dưới áo đem đi bán ngay từ sáng sớm. Cậu gặp một người Do Thái trên đường, kéo riêng ra đưa chiếc đa cho xem hỏi có muốn mua không.
Ngựời Do Thái, tinh ranh, cầm chiếc đĩa ngắm nghía, biết ngay thuộc loại bạc tốt, hỏi giá bao nhiêu. Aladdin vốn không biết giá trị và chưa mua bán loại này bao giờ đành bảo lão tự nói giá trị của chiếc đĩa và cậu tin tưởng lão thành thật. Người Do Thái bối rối trước thái độ ngây thơ của Aladdin, nhưng lão nghĩ rằng cậu không biết chất lượng và giá trị, nên rút ra một đồng tiền vàng chỉ là một phần sáu mươi hai, giá bán chiếc đĩa đưa cho cậu. Aladdin vội cầm lấy đồng tiền và đi ngay khiến người Do Thái chưa hài lòng về món lời chưa thật lớn, ông ta bực mình vì đã không nghĩ Aladdin không biết giá, lẽ ra phải trả tiền ít hơn nhiều. Lão ta định đi theo chàng trai lấy lại một ít nhưng Ataddin chạy đã xa đuổi không kịp.

Aladdin trên đường về nhà, dùng đồng tiền vàng mua bánh cho mẹ và mình, số tiền thừa đưa cho mẹ đi chợ mua thực phẩm, cần thiết để mẹ con ăn mấy ngày.
Họ tiếp tục sống như thế, nghĩa là Aladdin bán tất cả những chiếc đĩa cho người Do Thái lần lượt đến chiếc thứ mười hai theo như lần đầu tiên mỗi khi gia đình hết tiền. Người Do Thái đứa một đồng tiền vàng như lần trước, không dám bớt sợ mất món hời quá lớn lão trả tất cả những chiếc đĩa cùng một giá. Đến lượt chiếc khay, nặng gấp mười lần mỗi chiếc đĩa cậu đã đưa cho người Do Thái đem về nhà; lão ta sau khi cân trọng lượng, trả ngay mười đồng vàng, Aladdin chấp nhận.
Khi tiêu hết mười đồng tiền vàng, cậu lại nhờ vào đèn. Cầm chiếc đèn trong tay tìm chỗ mẹ đã xát vào đó, cậu xát như mẹ đã làm, vị thần trước đây xuất hiện ngay. Do Aladdin xát nhẹ hơn, thần nói với giọng dịu hơn:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lời như kẻ nô lệ của Ngườỉ và tất cả những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng thế.
Aladdin bảo:
- Tôi đói, mang cho tôi thức gì ăn.
Thần biến đi, một lúc sau trở lại đội một bữa ăn như lần trước để trên ghế xô-pha và biến mất.

Mẹ Aladdin được báo về ý định của con, ra ngoài làm một số công việc để không ở nhà khi thần đèn xuất hiện. Ít lâu sau đó bà trở về, cũng gần ngạc nhiên như lần trước về tác dụng kỳ diệu của chiếc đèn. Hai mẹ con ngồi vào bàn và sau khi ăn xong phần còn lại của thức ăn vẫn còn đủ cho hai ngày sau.
Khi Alađdin thấy trong nhà không còn bánh, thực phẩm khác, cũng không có tiền để mua, cậu cầm một chiếc đĩa bạc đi tìm người Do Thái để bán. Qua cửa hiệu một người thợ kim hoàn một người đáng kính vì già cả; trung thực và ngay thẳng, bỗng ông gọi cậu vào bảo:
- Con trai, ta thấy anh đi qua đây nhiều lần cầm cái gì đó như mọi lần đến gặp người Do Thái ấy và trở về không cầm gì nữa, ta hình dung anh đã bán cho ông ta. Có lẽ anh không biết đấy là một tay lừa bịp, thậm chí mánh khoé hơn những người Do Thái khác và những ai đã biết rõ không quan hệ với ông ta. Ta nói thật đấy. Ánh đưa ta xem anh mang cái gì vậy và muốn bán, ta sẽ trả đúng giá nếu phù hợp với ta, nếu không ta sẽ giới thiệu với những nhà buôn khác không lừa bịp anh.
Hy vọng được nhiều tiền hơn, Aladdin rút chiếc đĩa dưới áo ra đưa cho người thợ kim hoàn xem. Ông già biết là bạc tinh khiết, hỏi cậu có bán những chiếc đa loại này cho người Do Thái không và ông ta trả bao nhiêu? Aladdin ngây thơ nói đã bán mười hai chiếc, mỗi chiếc một đồng vàng. Người thợ kim hoàn kết luận:
- Chàl Thằng ăn cướp! Nhưng con trai, việc gì đã làm là xong, không nghĩ đến nữa. Ta cho anh xem chiếc đĩa đáng giá ra sao, đó là loại bạc tốt nhất ta vẫn dùng ở cửa hiệu, anh sẽ biết rõ tay Do Thái lừa anh đến mức nào.

Ông lấy cân ra, cân trọng lượng chiếc đĩa và sau khi giải thích chất lượng bạc, ông lưu ý cậu theo trọng lượng chiếc đĩa, nó giá đến bảy mươi hai đồng vàng, ông đếm trả ngay bằng tiền mặt nói:
- Đấy là giá đúng của chiếc đĩa. Nếu anh nghi ngại cứ đi hỏi những thợ kim hoàn khác tuỳ thích, họ nói đáng giá hơn ta hứa sẽ trả anh gấp đôi. Chúng ta chỉ lãi về công làm đồ trang sức với số bạc chúng ta mua và những người Do Thái chính trực nhất cũng không làm thế.
Aladdin rất cám ơn người thợ kim hoàn về lời khuyên xác đáng, và nhờ đó cậu đã có lợi lớn. Sau đó cậu bán cho ông những chiếc đĩa khác và cả chiếc khay, được trả đúng giá thực trọng lượng. Tuy Aladdin và mẹ có một nguồn tiền bạc vô tận từ chiếc đèn, họ vẫn tiếp tục sống đạm bạc như trước, để dành tiền lại sống một cách lương thiện và mua một số vật dụng cần thiết. Mẹ cậu cũng chỉ tiêu pha, may quần áo dựa vào số tiền mười hai chiếc đĩa và khay bạc bán cho người thợ kim hoàn. Họ sống theo cách đó mấy năm, thỉnh thoảng mồi phải dùng đến đèn thần.
Trong thời gian ấy chàng rất chăm gặp gỡ những người có tiếng tăm trong giới cáe nhà buôn lớn nhất về chăn đệm quý, vải vóc đẹp, tơ lụa và đồ trang sức. Qua những câu chuyện của họ, chàng có được phong thái của tầng lớp quý tộc từ lúc nào không hay đặc biệt qua những cửa hàng trang sức đá quý, chàng biết mình đã lầm tưởng những quả cây trong suốt nhiều màu hái trong khu vườn khi đi lấy đèn chỉ là thuỷ tinh màu, đấy chính là những đá quý rất cao giá. Nhiều lần thấy người ta mua bán các loại đá quý, chàng biết được giá trị của chúng và thấy không có loại nào đẹp và lớn như những quả của chàng, chàng hiếu rõ mình đã có một kho báu vô giá. Chàng khôn ngoan không nói với ai, kể cả với mẹ và đinh ninh sự im lặng đó đưa lại cho chàng một số phận cao sang.
Một hộm dạo chơi trong một khu phố, Aladdin nghe thông báo một mệnh lệnh của nhà vua bắt đóng cửa các hàng quán, các cửa nhà và mọi người phải ở trong nhà đế công chúa Badroulboudour, con gái vua đi qua ra nhà tắm cho đến khi lúc trở về.
Lời thông báo ấy làm Aladdin nảy sinh tò mò muốn nhìn mặt công chúa không che mạng. Chàng có thể làm việc đó bằng cách đứng trong nhà một người quen hé nhìn, song chàng không hài lòng thế vì theo phong tục, công chúa phải che mặt. Để thoả mãn chàng tìm một cách chắc chắn hơn đó là đến đứng phía sau cánh cửa nhà tắm nấp kín để nhìn được mặt công chúa.

Aladdin chờ không lâu. Chàng thấy nàng đi tới với một đoàn thị nữ hộ tống xung quanh và phía sau. Khi cách cánh cửa nhà tắm ba bốn bước, nàng cất tấm mạng che mặt làm vướng víu đi nên Aladdin nhìn thấy nàng thoải mái đi thẳng lại phía chàng.
Cho đến lúc đó Aladdin chưa từng được nhìn người phụ nữ nào khác cởi mạng che mặt ngoài mẹ mình vốn đã là không còn những nét đẹp đáng kể để thấy những người đàn bà khác đẹp hơn. Chàng có nghe nói về sắc đẹp lạ thường của công chúa nhưng chưa có lời nói nào tả được hết vẻ đẹp như chính bản thân sắc đẹp của nàng.
Khi thấy công chúa Badroulbouđour, chàng mất hẳn ý nghĩ mọi phụ nữ đều gần giống như mẹ. Tâm trạng bối rối và tim chàng không thể không hướng về đối tượng vừa làm chàng ngây ngất. Thực vậy, công chúa là cô gái đẹp nhất trên đời. Đôi mắt to tinh nhanh và lóng lánh, cái nhìn hiền dịu và khiêm tốn, mũi cân đối, miệng nhỏ, đôi môi tuyệt đẹp hài hoà. Tóm lại, những nét trên khuôn mặt đều đặn hoàn hảo. Không lạ gì khi Aladdin bị choáng ngợp, thất thần trước vẻ đẹp xưa nay lạ lẫm đối với cậu. Ngoài những nét tuyệt hảo ấy công chúa có một thân hình đầy đặn, phong thái trang nghiêm mà chỉ nhìn thấy nàng người ta đã hết lòng kính trọng.
Khi công chúa vào phòng tắm, Aladdin đứng ngẩn người một lúc, khoan khoái hình đung lại những gì làm chàng say mê tận đáy lòng. Bình tĩnh lại, thấy công chúa đã đi vào chàng có đứng tại chỗ cũng vô lch vì khi ra nàng đã che mặt nên chỉ thấy lưng, chàng đành rút lui khỏi chỗ .
Về đến nhà Aladdin không giấu được mẹ sự bối rối băn khoăn của mình. Bà ngạc nhiên thấy chàng buồn và mơ mộng trái với thường ngày nên hỏi có việc gì xảy ra hay chàng bị ốm. Chàng không trả lời, luôn lơ đãng ngồi xuống ghế xô-pha, bận tâm vẽ lại hình ảnh tuyệt vời của công chúa Badroulboudour. Bà mẹ chuẩn bị bữa ăn khuya không gặng hỏi thêm. Khi xong bà đưa lại gần eùng ăn nhưng chàng con vẫn không hề chú ý. Bà giục chàng ăn mà khó khăn lắm chàng mới thay đổi tư thế ngồi. Chàng ăn ít, cúi mặt, tuyệt đối im lặng; bà mẹ không sao gặng được chàng nói một lời về sự thay đổi khác thường ấy.
Sau bữa ăn, bà mẹ lại muốn hỏi về nỗi buồn sâu nặng ấy nhưng chàng muốn đi nằm hơn là cho mẹ biết chuyện của mình.

Chẳng cần kể lại Aladdin say mê sắc đẹp công chúa Badrouthoudour đã qua một đêm như thế nào, chỉ biết hôm sau ngồi trên ghế trước mặt mẹ đang kéo sợi chàng nói với mẹ như thế này:
- Mẹ ơi, hôm qua ra ngoài khu phố lớn trở về con im lặng mãi làm mẹ phiền lòng, cỏn biết. Con nói để mẹ rõ, con không đau ốm gì như mẹ nghĩ, bây giờ cũng không. Nhưng có thể nói điều con cảm thấy vâ không ngừng trăn trở còn tệ hại hơn một căn bệnh. Con không biết thế nào nhưng nghe con nói chắc mẹ biết rõ.
Trong khu người ta không biết, mẹ cũng không thế biết chiều hôm qua công chúa Badroulboudour, con gái nhà vua đi tắm. Đang đi ngoài đường phố con nghe được tin ấy. Người ta ra lệnh đóng các cửa hàng, vào trong nhà để đảm bảo danh dự cho công chúa, cho nàng tự do đi trên đường. Con đang ở gần nhà tắm, tò mò muốn xem mặt công chúa nên nảy ra ý định đến nấp sau cửa nhà tắm nghĩ rằng nàng sẽ bỏ mạng che mặt lúc bước vào. Mẹ biết cánh cửa được bố trí ra sao rồi và có thể đoán con đã nhìn nàng thoải mái. Thực thế, nàng bỏ mạng ra khi vào nhà tắm và con có diễm phúc chiêm ngưỡng sắc đẹp của công chúa. Thưa mẹ đấy là nguyên cớ tình trạng của con khi về nhà và giữ im lặng cho đến bây giờ. Con yêu công chúa dữ dội đến mức không diễn tả được với mẹ; lòng say mê của con lúc nào cũng mãnh liệt, tươi nguyên và con cảm thấy tình yêu ấy chỉ được thoả mãn khi lấy được công chúa Badroulboudour nên con quyết định phải xin hỏi nàng làm vợ.

Mẹ Aladdin chú ý nghe con nói đến hết nhưng khi biết ý định của con là xin hỏi công chúa làm vợ, bà phá lên cười Aladdin muốn tiếp tục nói nhưng bà lại ngắt lời con:
- Này, con ơi, con nghĩ gì thế? Phải mất trí rồi mới nói với mẹ điều ấy.
- Mẹ ơi, xin cam đoan với mẹ, con không mất trí đâu, rất tỉnh táo, con đã lường trước mẹ sẽ mắng con điên rồ, quái gở và những gì mẹ có thể làm, nhưng tất cả những điều đó không ngăn cản được con nói một lần nữa với mẹ là con đã quyết định xin nhà vua cho hỏi công chúa Badroulboudour làm vợ.
- Thực ra con ơi, - bà mẹ lại rất nghiêm chỉnh nói với con, - mẹ không thể không nói là con quên mất mình là ai rồi, và dù con muốn thực hiện ý định đó thì mẹ chẳng thấy ai là người con đám nhờ chuyển yêu cầu đó lên nhà vua.
- Nhờ ngay chmh mẹ chứ ai.
- Nhờ mẹ à?- Bà mẹ kêu lên kinh ngạc. - Đến đề nghị nhà vua? Chà! Mẹ không dấn thân làm việc đó đâu. Con là ai, con trai, mà dám ngông cuồng nghĩ đến con gái vua? Con quên con là con trai một người thợ may hèn kém trong kinh thành và của một người mẹ nguồn gốc không cao quý rồi ư? Con có biết những ông vua không thèm gả con gái cho cả những người con trai vua không hy vọng cũng có ngôi vị tôn quý như họ?
- Mẹ ơi - Aladdin đáp - Con nói con đã dự kiến trước những điều mẹ vừa nói với con và con cũng nói như vậy về những điều mẹ có thể nói thêm nữa. Mẹ nói gì và thái độ ra sao cũng không làm con thay đổi tình cảm được. Con đã nói nhờ mẹ đi xin hỏi công chúa Badrouthoudour làm vợ, đấy là với lòng kính trọng xin mẹ làm ơn. Con khẩn cầu mẹ đừng từ chối nếu mẹ không muốn con chết đi hơn là cho con cuộc sống một lần nữa.

Mẹ Aladdin rất bối rối thấy con ngoan cố với ý định xa rời lẽ phải như vậy. Bà nói:
- Con trai, ta là mẹ con là người mẹ smh ra con không có gì hợp lý và thích hợp hơn là sẵn sàng vì yêu con mà làm việc đó. Nếu nói về hôn nhân của con với một cô gái hàng xóm, điều kiện giống hoặc gần như con, mẹ sẽ không nề hà điều gì, dốc lòng giúp con bằng mọi khả năng vốn có. Những người nghèo như chúng ta khi muốn kết hôn, trước hết phải nghĩ lấy gì để sống. Nhưng không nghĩ đến nguồn gốc nghèo hèn, về tài năng của cải ít ỏi, con mơ quá cao đến bậc thang cao nhất của vận mệnh, tham vọng quá lớn, khi muốn hỏi công chúa làm vợ, con gái vị vua mà chỉ một tiếng nói, đủ nhận chìm, đè nát con. Mẹ muốn con phải suy nghĩ như thế nào về điều phi lý ấy. Mẹ nói về việc liên quan đến mẹ. Làm sao con có ý nghĩ khác thường bảo mẹ đến xin vua cho cưới con Người được? Dù mẹ không phải táo tợn mà l1ều lĩnh đến xin gặp vua với một đề nghị lố lăng như thế, ai cho mẹ vào? Con nghĩ người đầu tiên nghe mẹ trình bày không cho mẹ là điên và đuổi mẹ ra nhục nhã ư? Lại cho rằng việc tiếp kiến nhà vua không khó khăn lắm: mẹ biết người ta có thể đến gặp vua để xin xử kiện, xin gia ân và được Người chấp nhận nếu xứng đáng. Nhưng con có ở trong trường hợp đó không? Con có xứng đáng xin gia ân không? Con đã làm gì cho vua và đất nước mình? Không được thế làm sao mẹ dám đến đề nghị? Làm sao mẹ dám mở miệng trước phong thái oai nghiêm của nhà vua và quang cảnh rực sáng của triều đình? Còn một lẽ khác, con trai, người ta không đến xin gặp vua về một việc gì đó mà không có món quà cầm tay. Ít nhất quà cáp cũng có lợi và đù từ chối gia ân, vua cũng chiếu cố nghe lời trình bày. Con có món quà gì? Và nếu con có vật gì đó xứng đáng được một nhà vua hùng mạnh như thế để ý đến cũng sánh sao được vớl lời yêu cầu của mình? Con hãy nhìn lại mình đi nghĩ đến điều con không thể nào mong đạt được?
Aladdin im lặng nghe những lời mẹ khuyên để cậu từ bỏ ý định và sau khi suy nghĩ mọi lý lẽ, chàng thưa với mẹ:

- Mẹ ạ, con thú nhận đã rất táo tợn đám có ý đồ vượt quá hoàn cảnh mình đòi hỏi mẹ sốt sắng đến cầu hôn con gái vua mà trước hết không tạo những điều kiện thuận lợi cho mẹ, con xin mẹ tha lỗi. Nhưng niềm say mê mãnh liệt làm con không hình dung hết những gì có thể làm con toại nguyện. Con yêu công chúa Badroulboudour vượt ra ngoài điều mẹ tưởng tượng, càng tôn sùng nàng con càng quyết tâm cưới nàng. Đây là một vấn đề dứt khoát, đã xác định chắc chắn trong tâm trí con. Con cám ơn mẹ đã gợi mở cho con bước đi đầu tiên hứa hẹn có kết quả.
Mẹ bảo thông thường xin tiếp kiến nhà vua phải có một món quà và con không có gì xứng đáng. Con đồng ý về món quà, xin thú nhận đã không nghĩ đến điều ấy. Mẹ nói con không có gì đáng đưa tặng, mẹ không nghĩ những vật con mang về ngày thoát chết ở căn hầm không ìà một món quà đáng kể đối với vua sao? Con nói về những gì con đựng trong hai chiếc túi và dắt vào thắt lưng mà chúng ta tưởng những quả thuỷ tinh màu, đó chính ìà những viên đá quý vô giá chỉ thích hợp với những nhà vua lớn. Tất cả những viên con thấy trong những cửa hàng đá quý không thể sánh về độ lớn, sắc đẹp với những viên đá chúng ta có nhưng chúng đã được bán với giá cao vô cùng. Thực tế, chúng ta không biết giá những viên đá quý của chúng ta nhưng theo kinh nghiệm con đã có, con chắc chắn chúng sẽ là món quà nhà vua rất hài lòng. Mẹ lấy một chiếc bình sứ lớn, đổ vào những viên đá quý, đủ mọi màu sắc, mẹ cứ mang đi để xem tác đụng ra sao.
Mẹ Aladdin đưa bÌnh sứ ra con trai bà ìấy đá quý xếp vào đó: Dưới ánh sáng ban ngày, màu sắc khác nhau của những viên đá ánh lên, lóng lánh đến mức làm mẹ con chói loà, sửng sốt vì trước nay họ chỉ thấy dưới ngọn đèn nhỏ. Đúng là Aladdin đã thấy chúng trên cây tạo nên một quang cảnh mê hồn nhưng khi đó chàng còn bé, chàng chỉ xem là những vật để chơi, mang về với ý nghĩ đó, không hiểu biết gì hơn.
Sau khi ngắm nghía một lúc, Aladdin nói:
- Thưa mẹ, mẹ thoái thác không đến gặp nhà vua vì không có quà. Con nghĩ đây là một món quà sẽ làm cho mẹ được tiếp đón thuận lợi.
Tuy bà mẹ ngẩn người vì vẻ đẹp và nét lấp lánh của món quà, bà không nghĩ nó có giá trị lớn như con khẳng định nhưng để làm chàng vui lòng bà không bàn cãi về điều đó nữa. Bà vẫn lo lắng về sự chấp nhận của nhà vua nên nói với con:

- Con trai ạ, mẹ cũng cho là món quà này có tác dụng nhưng khi thỉnh cầu vua mẹ cảm thấy rõ là không đủ sức và sẽ câm lặng thôi. Như vậy không chỉ mất công đi mà mất cả món quà là cả một tài sản khác thường và mẹ sẽ thẹn thùng trở về báo tin vô vọng. Mẹ đã nói rồi và con hãy tin là thế - Bà nói thêm: - Dù mẹ muốn cố gắng chiều ý con, đủ sức dám thỉnh cầu vua như con mong đợi, chắc chắn hoặc nhà vua sẽ cười nhạo rồi đuổi mẹ đi như một kẻ điên hoặc ông nổi giận mà con và mẹ sẽ là nạn nhân.
Mẹ Aladdin còn nói nhiều lý lẽ khác để chàng thay đổi ý kiến nhưng sắc đẹp của công chúa Badroulboudour tác động quá mạnh đến trái tim không làm chàng lay chuyển được. Aladdin nài nỉ mẹ thực hiện điều chàng đã quyết định. Vừa thương yêu vừa sợ chàng làm điều gì liều lĩnh, bà mẹ cố nén nỗi lo sợ làm theo nguyện vọng của con.
Vì đã muộn không đên được cung vua nữa, công việc để lại ngày hôm sau.
Hai mẹ con không nói gì về việc khác trong phần thì giờ còn lại của ngày hôm đó. Aladdin cẩn thận gợi ý với mẹ những suy nghĩ của mình để bà vững tẩm đến xin tiếp kiến nhà vua. Mặc dù con trai đưa ra nhiều lý lẽ, bà mẹ vẫn không tin tưởng thành công và thực tế bà nghi ngại cũng phải. Bà bảo con:
- Này con, mẹ mong nhà vua cho được gặp và bình tĩnh lắng nghe lời mẹ thỉnh cầu nhưng sau việc tiếp đón khá tất ấy nếu ông hỏi nhà cửa, tài sản, đất đai của con ở đâu, vì đấy là những vấn đề vua quan tâm trước cả bản thân con, nếu ông hỏi thế thì con bảo mẹ trả lời ra sao?
- Mẹ ơi, chúng ta đừng lo lắng trước về một việc có lẽ sẽ không xảy đến. Chúng ta cứ nghĩ trước hết về sự tiếp đón và câu trả lời của nhà vua đã. Nếu ông muốn biết về những điều mẹ vừa nói, con sẽ liệu để trả lời, con tin tưởng ở chiếc đèn nhờ nó lâu nay chúng ta không thiếu thốn gì.

Mẹ Aladdin không có gì cãi lại điều con trai vừa nói. Bà nghĩ chiếc đèn có thể giúp cho họ những việc thần kỳ lớn hơn việc cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó làm bà hài lòng đồng thời rũ bỏ được những khó khăn có thể làm bà lùi bước. Aladdin hiểu ý nghĩ của mẹ chàng nói:
- Thưa mẹ, ít nhất mẹ cũng nhớ giữ bí mật của chúng ta: mọi kết quả tốt đẹp trong việc này tuỳ thuộc vào điều ấy đấy
Hai mẹ con chia tay nhau đi nghỉ. Nhưng tình yêu mãnh liệt và những dự kiến lớn về tài sản trong tâm trí làm chàng không bình tĩnh ngủ yên như lòng mong muốn. Chàng đậy trước lúc trời sáng ra đánh thức mẹ dậy, thúc mẹ mặc nhanh quần áo đến cổng hoàng cung kịp giờ mở cửa và yết kiến nhà vua cùng lúc với các quan lớn nhỏ vào triều đình tham dự cuộc xét xử thường kỳ mà bao giờ vua cũng trực tiếp chủ trì.
Mẹ Aladdin làm mọi việc như con bảo. Bà lấy chiếc bình sứ để những viên đá quý làm quà, bọc một lớp vải rất mịn và sạch sẽ, một lớp khác ít mịn hơn bà buộc nối bơn góc cho dễ mang. Bà ra đi, hướng về hoàng cung làm Aladdin rất thoả mãn trong lòng. Các quan đại thần, những vị có chức vụ cao ở triều đình đã vào hoàng cung khi bà đến trước cổng lâu đài. Đám người có việc đến triều đình rất đông; khi mở cổng bà đi cùng họ vào phòng xét xử. Đây là một phòng khách rất đẹp, rộng rãi và tráng lệ, cửa ra vào trang nghiêm. Bà dừng lại, cố thu xếp đứng trước mặt chỗ vua ngồi, các triều thần tham dự ngồi bên phải, bên trái nhà vua. Người ta gọi lần lượt mọi người theo thứ tự đơn thỉnh cầu của họ nêu lên và xét xử cho đến giờ nghỉ thường lệ. Vua đứng dậy, giải tán quần thần vào trong phòng riêng có vị tể tướng đi theo. Những quần thần khác trong triều cũng ra về. Những người đến xin được bày tỏ nguyện vọng cũng giải tán, những người này hài lòng vì được lợi, những người khác phàn nàn về kết quả xét xử đối với họ, có những người lại hy vọng vào buổi xét xử khác.

Mẹ Aladdin thấy vua đứng dậy về cung, nghĩ rằng trong ngày đó ngài sẽ không trở lại nữa vì mọi người đều bỏ đi, nên bà cũng ra về. Aladdin thấy mẹ vào nhà với quà tặng vua vẫn mang theo, không biết kết quả ra sao? Sợ có điều gì bi thảm, chàng không dám mở miệng hỏi. Bà mẹ phúc hậu chưa bao giờ đặt chân tới cung vua và không biết gì về công việc hàng ngày ở đó, để con trai khỏi băn khoăn. bà kể lại với chàng một cách rất thật thà:
- Con ạ, mẹ đã thấy nhà vua và chắc chắn Người cũng thấy mẹ, mẹ đứng ngay trước mặt mà không có ai cản trở Người trông thấy mẹ nhưng người bận rộn phải nghe rất nhiều người trình bày. Việc đó kéo dài mãi, cuối cùng mẹ nghĩ Người buồn chán quá nên đã bất ngờ đứng đậy bỏ vào không chờ nghe những người đang xếp hàng chờ đến lượt trình bày. Tuy vậy điều đó làm mẹ hài lòng vì mẹ đã bắt đầu sốt ruột, mệt mỏi vì chờ quá ìâu. Không có gì thay đổi, mẹ sẽ trở lại hoàng cung vào ngày mai, có lẽ vua không quá bận.
Dù say mê đến mấy Aladdin cũng đành nén lòng vì sự việc như vậy. Ít nhất chàng cũng hài lòng thấy mẹ đã vượt qua bước đi khó khăn nhất, chịu đựng được trước mặt vua và hy vọng bà noi gương những người trình bày với vua, sẽ không ngần ngại làm việc được uỷ thác khi có dịp được nói:
Ngày hôm sau cũng sáng sớm như hôm trước mẹ Aladdin đến hoàng cung nhưng vô ích. Bà thấy cổng đóng, hỏi thăm được biết triều đình chỉ xét xử hai ngày một lần nên phải trở lại vào ngày tiếp đó. Bà đưa tin về và khuyên con trai phải kiên nhẫn thêm. Bà lại đến hoàng cung sáu lần vào những ngày qui định cũng không có hiệu quả và có lẽ bà sẽ trở lại đến hàng trăm lần khác cũng vô ích nếu vua luôn thấy bà trước mặt mình nhưng không lưu ý đến bà. Điều ấy rất có thể xảy ra vì chỉ có những người thưa kiện lần lượt lại gần vua để trình bày và mẹ Aladdin không ở trong trường hợp đó.

Cuối cùng hôm đó sau khi dừng thiết triều về cung, vua nói với vị tể tướng:
- Mấy hôm nay ta thấy một người đàn bà đến đều đặn vào những buổi ta xét xử, mang vật gì bọc trong vải và đứng trước mặt ta từ đầu đến cuối buổi. Khanh có biết bà ấy đề nghị gì không?
Vị tể tướng cũng chẳng biết gì hơn nhà vua, ông trả lời:
- Thưa bệ hạ, phụ nữ thường khiếu kiện về những việc không đâu. Bà này có lẽ đến trình với bệ hạ việc người ta bán bột xấu cho bà hoặc việc gì tương tự không đáng kể.
Vua không hài lòng về câu trả lời đó, bảo:
- Ngày tập trung sắp tới nếu bà ấy lại đến, khanh cho gọi lại để ta nghe xem có việc gì.
Vị tể tướng hạ bàn tay rồi đưa lên phía trên đầu mình để thể hiện nếu ông quên việc đó sẽ xin bị chặt đầu. Mẹ Aladdin đã quen đến trong buổi xét xử trước mặt nhà vua, không kể gì vất vả đi lại để con trai yên lòng. Vào ngày thiết triều, bà lại đến đứng trước mặt vua như thường lệ.
Vị tể tướng chưà trình lên vụ kiện nào thì nhà vua đã trông thấy mẹ Aladdin. Cảm động vì lòng kiên trì chờ đợi đã chứng kiến, ông bảo tể tướng:
- Trước mọi việc, sợ khanh quên mất, kia là người đàn bà ta đã nói tới: cho gọi bà ấy lên, chúng ta bắt đầu nghe và giải quyết việc đã đưa bà ấy tới đây.

Tể tướng ra hiệu cho tuỳ tùng dẫn bà tiến lại trước mặt vua.
Mẹ Aladdin theo gương bao nhiêu người đến trình bày với nhà vua quỳ xuống dập trán vào tấm thảm phủ trên bậc ngai vàng, giữ tư thế đó cho đến lúc vua cho lệnh dậy. Bà đứng lên, nhà vua hỏi bà:
- Người đàn bà phúc hậu, ta thấy bà đến đây đã nhiều lần và đứng ở cửa ra vào từ đầu đến cuối buổi xét xử. Có việc gì mà bà phải tới vậy?
Mẹ Aladdin nghe hỏi, lại quỳ xuống lần thứ hai rồi đứng dậy nói:
- Thưa đức vua trên mọi nhà vua trong đời, trước khi trình bày với bệ hạ vấn đề khác thường thậm chí không tin được đã dẫn thần tới trước ngai vàng anh minh thần khẩn cầu Người tha thứ cho sự táo tợn đã dám có lời trơ trẽn xin Người Điều ấy thật bất thường khiến thần run sợ và thật xấu hổ.
Để bà tự đo thổ lộ, vua ra lệnh mọi người ra ngoài và để một mình ngài và quan tể tướng ở lại rồi bảo bà có thể trình bày đừng sợ hãi gì.
Mẹ Aladdin không chỉ yên tâm về lòng tốt của vua đã miễn cho bà phải nói trước mọi người, bà còn muốn vua không nổi giận khi nghe bà cầu xin đlều ngài không ngờ tới. Bà lại nói:
- Thưa bệ hạ, thần dám xin Người đồng ý tha thứ, gia ân cho thần nếu thấy lời thỉnh cầu của thần có khía cạnh xúc phạm hoặc không vừa lòng Người.
- Dù sự việc ra sao, - nhà vua nói, - ngay từ bây giờ ta tha thứ cho bà, không có điều gì làm hại đến bà. Nào, hãy mạnh dạn nói đi.
Khi mẹ Aladdln đã đề phòng về nỗi lo vua giận dữ khi nghe lời đề nghị không hợp lý của bà, bà thành thực kể lại trường hợp Aladdin đã thấy mặt công chúa Badrouthoudour, tình yêu mãnh liệt nảy sinh từ sự gặp gỡ vận mệnh dó, lời chàng nói ra với bà và những gì bà đã làm để chàng từ bỏ sự say mê bất kmh đối với công chúa. Bà tiếp tục trình bày:
- Con hrai thần thay vì nghe lời khuyên và nhận biết sự ngông cuồng của mình, lại ương bướng say mê đến mức đe doạ thần sẽ có hành động tuyệt vọng nếu thần từ chối đến xin bệ hạ cho cầu hôn eông chúa và sau khi thúc ép thần quá đáng thần buộc phải làm vừa lòng nó. Thần khẩn cầu một lần nữa xin nhà vua hãy tha thứ cho không chỉ riêng thần mà cả Aladdin con trai thần đã có ý nghĩ táo tợn hy vọng vươn lên sự cầu thân cao cả như vậy.

Vua rất hiền và phúc hậu nên ngài lắng nghe toàn bộ lời trình bày không hề thể hiện một dấu hiệu giận dữ nàơ, cũng không đùa cợt về lời cầu xin. Trước khi trả lời người đàn bà, ngài hỏi bà mang gì bọc trong vải. Bà lấy ngay bình sứ để ở chân ngai vàng trước khi quỳ xuống, mở ra trình lên nhà vua.
Không thể tả hết sự kinh ngạc và lạ lùng của nhà vua khi thấy trong chiếc bình bao nhiêu viên đá quý giá, hoàn hảo, sáng loáng và kích cỡ to lớn ngài chưa từng thấy như vậy. Ngài đờ người ngắm nghía một lúc rồi bình tĩnh nhận món quà từ tay bà mẹ Aladdin, kêu lên vui sướng:
- Chà! Đẹp quá! Nhiều quá!
Sau khi nhìn ngắm, xáo trộn từng viên đá, đánh giá mỗi viên về những điểm đặc blệt, ông ngoảnh lại phía quan tể tướng và chỉ vào chiếc bình:
- Khanh xem, phải công nhận không thấy gì trên đời phong phú và hoàn hảo hơn thế.
Tể tướng tấm tắc khen ngợi. Nhà vua tiếp tục:
- Thế nào? Khanh bảo sao về một món quà như thế? Phải chăng thật xứng đáng với công chúa, con gái ta, và với giá ấy, ta có thể gả công chúa cho người đến cầu hôn.

Lời nói ấy làm tể tướng bối rối. Cách đây không lâu, ông được biết vua có ý định gả công chúa cho một con trai của ông. Ông sợ, không phải không có cơ sở, nhà vua loá mắt vì món quà phong phú và kỳ lạ đến thế sẽ thay đổi tình cảm. Ông lại gần vua nói nhỏ vào tai:
- Thưa bệ hạ, không thể phủ nhận món quà thật xứng đáng với công chúa. Nhưng thần khẩn cầu bệ hạ lùi lại ba tháng nữa sẽ quyết định. Thần hy vọng trong thời gian đó con trai thần mà bệ hạ đã có lòng tất nhìn đến sẽ có cái gì đáng giá hơn món quà của Aladdin mà bệ hạ chưa biết.
Nhà vua tuy chắc chắn tể tướng không thể tìm được cho con trai một món quà đáng giá như thế để tặng công chúa, vẫn nghe và gia ân cho ông ta điều ấy. Ngài ngoảnh lại phía mẹ Aladdin nói:
- Được rồi, bà mẹ phúc hậu. bà trở về nhà đi và nói với con trai bà ta vui lòng về đề nghị của cậu ấy nhưng ta không thể cưới con gái mà không làm cho con một toà lâu đài sẵn sàng trong ba tháng nữa. Như thế bà sẽ trở lại đây trong thời hạn ấy.
Mẹ Aladdin đi về với nỗi vui mừng càng lớn vì với hoàn cảnh mình, lúc đầu bà cho là không thể vào gặp vua nhưng đã nhận được câu trả lời tốt đẹp như vậy, thay vì bị gạt bỏ nhục nhã. Thấy mẹ bước vào nhà, Aladdin nhận thấy hai điều: một, bà về sớm hơn mọi lần và đlều kia, nét mặt bà cởi mở, vui vẻ. Chàng hỏi:
- Thế nào mẹ? Con có thể hy vọng hay phải chết vì thất vọng đây?
Bà bỏ mạng che mặt, bảo con ngồi với mình ở ghế xô- pha và nói:
- Con trai ạ, để con khỏi phải phân vân nhiều, mẹ sẽ nói là còn lâu con mới phải nghĩ đến chuyện chết, con vẫn còn có cái để hy vọng.

Bà kể lại việc bà được nhà vua cho gặp trước mọi người ra sao nên hôm nay về được sớm, cách đề phòng cơn giận của vua, lời cầu hôn công chúa Badroulboudour và câu trả lời đồng tÌnh từ miệng nhà vua. Bà kể thêm những cử chỉ của vua do món quà tác động đã đưa lại câu trả lời thuận lợi ra sao. Bà còn nói: Mẹ cũng còn hơi lo vì tể tướng đã nói nhỏ điều gì đó vào tai vua, mẹ sợ ông ấy làm vua thay đổi ý định của mình .
Aladdin nghe tin ấy cho mình là người sung sướng nhất trên đời. Chàng cám ơn mẹ đã vất vả theo đuổi việc này mà kết quả tốt đẹp rất quan trọng đôí với cuộc sống của chàng. Tuy nàng lòng mong được có đối tượng mình say mê, ba tháng đối với chàng như kéo dài vô tận, chàng cũng kiên trì chờ đợi dựa vào lời hứa của nhà vua mà chàng cho là không thể bàn cãi. Trong lúc chàng tính từng giờ, từng ngày, từng tuần lễ, vào lúc hai tháng đã qua, một buổi tối mẹ chàng muốn châm đèn, nhận ra trong nhà không còn dầu, bà đi ra ngoài phố mua, thấy khắp mọi nơi tưng bừng như ngày lễ. Các cửa hiệu mở rộng, trang trí hoa lá, đèn sáng trưng cố làm cho thật lộng lẫy, đẹp đẽ. Mọi người nhộn nhịp vui chơi, đường phố ùn tắc vì những vị quan mặc quần áo ngày lễ cưỡi ngựa thắng yên cương đẹp, kéo theo một số lớn người hầu đi đi lại lại. Bà hỏi người bán dầu vì sao có quang cảnh như thế. Ông này nói:
- Bà ở đâu ra vậy? Không biết đêm nay con trai quan tể tướng cưới công chúa Badroulboudour con gái vua ư? Nàng sắp tắm xong và các vị quan kia tập hợp để tháp tùng nàng về cung làm lễ cưới.
Mẹ Aladdin không muốn nghe thêm nữa. Bà chạy vội về nhà thở không ra hơi, tìm con trai báo tin không ngờ đó.

- Con ơỉ - Bà nói - Việc của con hỏng hết rồi. Con tin vào lời hứa đẹp đẽ của vua, không là gì đâu.
Aladdin hết hoảng về tin đó:
- Thưa mẹ, nhà vua không grữ lời hứa với con ở chỗ nào? Làm sao mẹ biết?
- Tối nay con trai tể tướng sẽ làm lễ cưới công chúa Badroulboudour trong hoàng cung.
Bà kể lại với con bà biết điều đó và những cảnh đang diễn ra không thể sai được.
Nghe tin Aladdin đứng lặng người như bị sét đánh. Một người nào khác sẽ suy sụp ngay nhưng một nỗi ghen tuông thầm kín làm chàng không đứng yên lâu được. Ngay lúc đó chàng nhớ đến chiếc đèn cho đến nay rất có ích cho mình, không giận hờn vô ích đối với nhà vua, tể tướng hoặc con trai tể tướng chàng chỉ nói với mẹ:
- Thưa mẹ, con trai tể tướng sẽ không hạnh phúc như chàng ta mong muốn tối nay đâu. Trong lúc con vào phòng một lúc, mẹ cứ chuẩn bị bữa ăn khuya đi.
Mẹ Aladdin hiểu con trai muốn sử dụng chiếc đèn để ngăn cản, nếu có thể thì thủ tiêu đám cưới của con trai tể tướng với công chúa. Bà đã không nhầm. Vào trong phòng Aladdin lấy chiếc đèn thần, tránh cho mẹ sợ khi thấy vị thần xuất hiện. Chàng xát vào chiếc đèn ở chỗ những lần trước. Vị thần xuất hiện ngay, nói với Alađdin:
- Ngươi muốn gì? Tôi sẵn sàng theo lệnh như kẻ nô lệ của Người và những ai có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng thế.
- Nghe đây, cho đến nay thần đã mang thức ăn cho tôi khi cần, bây giờ có một việc quan trọng hoàn toàn khác. Tôi đã cầu hôn công chúa Badroulboudour, con gái vua, ông đã hứa gả và hẹn trong ba tháng. Thay vì giữ lời hứa, đêm nay ông làm lễ thành hôn công chúa với con trai tể tướng. Tôi vừa được tin ấy và chắc chắn thế. Điều tôi đề nghị thần đèn là ngay khi đôi tân hôn vừa đi nằm, thần mang họ và cả giường của họ đến đây.

- Ổng chủ, tôi xin vâng lời. Người còn điều gì ra lệnh nữa không?
- Bây giờ thì không - Aladdin đáp.
Cùng lúc ấy vị thần biến mất. Aladdin ra ăn cùng với mẹ, vẫn bình lặng như thường ngày. Sau bữa ăn chàng nói chuyện một lúc về đám cưới của công chúa như không bận tâm nữa rồi vào phòng mình để mẹ đi nằm. Chàng không ngủ, chờ thần đèn thi hành lệnh trở về.
Trong thời gian ấy trong hoàng cung trang hoàng lộng lẫy cho buổi công chúa thành hôn. Lễ hội, vui chơi mãi tận khuya. Công việc xong, theo dấu hiệu của người chủ trì hôn lễ, con trai tể tuớng khôn khéo lẩn ra, ông này dẫn chàng vào giường tân hôn trong phòng công chúa đã chuẩn bị sẵn. Chàng vào nằm trước. Một lúc sau hoàng hậu, có thị nữ tháp tùng, dẫn người vợ mới đến. Nàng chống cự theo thủ tục các cô dâu. Hoàng hậu giúp công chúa cởi áo quần ngoài, đưa nàng vào giường như ép buộc và sau khi ôm hôn nàng chúc phúc, bà ra ngoài với mọi người cùng đi. Người ra sau cùng đóng cửa lại. Cửa phòng vừa đóng, thần đèn trung thành và chính xác thực hiện lệnh của những người có đèn trong tay, không để người chồng có thì giờ đụng chạm đến vợ, ông ta nâng bổng chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới trước sự kinh sợ của hai người, mang đến đặt vào phòng của Aladdin.
Aladdin nôn nóng, không muốn để con trai tể tướng nằm cùng giường với công chúa. Chàng bảo thần đèn:
- Đưa người chồng mới này nhất vào trong xó và mờ sáng ngày mai trở lại đây.

Thần đèn bế ngay con trai tể tướng ra khỏi giường, đưa vào chỗ Aladdin chỉ, thổi vào chàng ta một ngọn gió thấm từ đầu đến chân không cựa quậy được nữa.
Tuy say mê công chúa Badrouthoudour, Aladdin cũng không nói dài dòng khi còn lại một mình với nàng. Thái độ rất say mê chàng tâm sự:
- Công chúa tôn kính, nàng đừng sợ gì, ở đây an toàn cho nàng và dù tình yêu mãnh liệt tôi cảm nhận trước săc đẹp của nàng, không bao giờ tôi vượt quá giới hạn lòng kính trọng sâu sắc đối với nàng. Nếu tôi buộc phải đến mức này, không phải để xúc phạm nàng mà để ngăn cản kẻ tình địch bất công chiếm được nàng trái với lời hứa của phụ hoàng nàng đã chấp nhận tôi.
Công chúa không biết gì về những chuyện đó, và cũng chưa từng lưu tâm đến những gì Aladdin nói. Sự sợ hãi và kinh ngạc về cuộc phiêu lưu lạ lùng, bất ngờ này, đã đẩy nàng vào tình trạng Aladdin không sao moi ra được một lời nào từ miệng nàng. Chàng không dừng lại đấy, cởi áo quần ngoài nằm vào chỗ con trai tể tướng, quay lưng về phía công chúa sau khi cẩn thận đặt một thanh gươm giữa công chúa và chàng, tỏ ý chàng sẽ bị trừng phạt nếu đụng chạm đến danh dự công chúa.
Aladdin hài lòng vì đã lấy đi hạnh phúc của tình địch trong đêm tân hôn nên chàng bình tĩnh ngủ ngon. Công chúa thì không thế, trong đời nàng chưa bao giờ qua một đêm tồi tệ như vậy và con trai tể tướng người chồng mới qua một đêm ở trong xó nhà còn đáng buồn hơn nhiều. Sáng hôm sau Aladdin không cần xát vào đèn để gọi thần đèn. Thần xuất hiện theo giờ đã dặn, lúc chàng đang mặc quân áo:
- Có tôi đây, người ra lệnh gì?
- Mang con trai tể tướng từ chỗ hôm qua đến, bỏ vào giường và đem trả tất cả về hoàng cung.
Aladdin cầm lại chiếc gươm. Thần đèn lại chỗ con trai tể tướng bỏ người chồng mới vào cạnh công chúa rồi mang cả chiếc giường trở về hoàng cung, đặt vào phòng công chúa ở chỗ cũ. Nhưng trong suốt quá trình này, hai vợ chồng mới không trông thấy thần đèn, hình dạng ghê gớm của thần có thể làm họ chết vì sợ, họ cũng không nghe được gì về lời nói qua lại giữa Aladdin và thần đèn, chỉ nhận thấy chiếc giường rung chuyển, được đưa từ chỗ này đến chỗ khác và như vậy đã đủ kinh hoàng.

Thần đèn đặt chiếc giường cưới vào chỗ cũ vừa lúc nhà vua muốn biết con gái qua đêm tân hôn ra sao, vào phòng để chúc mừng công chúa. Con trai tể
tướng, lạnh cóng suốt cả đêm chưa đủ ấm người, nghe tiếng mở cửa vội đứng dậy chạy lại phía chiếc tủ tối hôm qua quần áo cởi ra vẫn treo để ở đấy.
Vua lại gần giường công chúa, hôn con gái theo tập quán, và mỉm cười hỏi tối hôm qua nàng cảm thấy ra sao. Ngẩng đầu lên và nhìn kỹ công chúa, ông rất ngạc nhiên thấy con không đỏ mặt hay có những đấu hiệu gì khác làm ông thoả tò mò. Nàng chỉ nhìn ông rất buồn thể hiện một nỗi đau sâu xa vẻ phật ý. Ông còn nói vài lời với con nhưng thấy nàng không trả lời, cho rằng do e thẹn nên ông rút lui. Tuy thế, không khỏi nghi ngờ có điều gì khác thường trong sự im lặng đó, ông đến ngay phòng hoàng hậu kể lại thái độ của công chúa.
- Thưa bệ hạ - Hoàng hậu nói - Điều đó Người đừng lấy làm lạ, không có cô dâu mới nào lại không có thái độ như vậy khi đón hoàng phụ đúng như nghĩa vụ. Để thiếp đi thăm con, nếu công chúa cũng có thái độ ấy thì thiếp đã rất lầm.
Hoàng hậu mặc quần áo xong, đến phòng công chúa ở thấy nàng vẫn chưa dậy. Bà lại gần giường chào và ôm hôn con. Nhưng bà quá ngạc nhiên, không chỉ nàng không trả lời gì mà bà con thấy rõ thần sắc của nàng sa sút nên bà nghĩ đã có điều gì không suôn sẻ. Bà hỏi:
- Con gái, do đâu con đáp lại sự ân cần của ta lơ là như vậy? Con tiếp đón mẹ mình theo cách ấy ư? Con nghĩ ta không biết những gì sẽ đến với con sao? Ta cho rằng con không có ý ấy, vậy phải có điều gì đó khác thường đã xảy ra với con, con nói thật với ta đi, đừng để nỗi lo lắng làm ta phiền muộn.

Cuối cùng công chúa Badroulboudour chấm dứt yên lặng bằng một hơi thở dài:
- Chà! Mẫu hậu tôn kính? - Nàng kêu lên - Tha thứ cho con đã thất lễ với mẹ. Tâm trí con đang hoảng loạn về những điều kỳ lạ đến với con tối hôm qua, con chưa thể hoàn hồn lại được vì quá ngạc nhiên và sợ hãi.
Nàng bèn kể lại rành mạch từ lúc nàng và chồng vừa đi nằm, chiếc giường được nâng lên, mang tới một gian phòng bẩn và tối tăm. Ớ đấy chỉ còn lại một mình nàng người chồng không biết biến đi đâu, rồi một chàng trai đến nói mấy lời với nàng mà vì sợ hãi nàng không nghe được gì. Chàng ta nằm bên cạnh nàng, thế vào chỗ của người chồng sau khi đặt giữa nàng và chàng một thanh gươm. Sáng dậy người ta đem chồng nàng trả lại và chiếc giường lại được mang về chỗ cũ trong chốc lát.
- Những việc đó vừa xong - Nàng nói thêm - thì phụ hoàng bước vào phòng. Con buồn bã đến mức không đủ sức nói với Người một lời. Do đó con chắc Người sẽ giận về cách con tiếp nhận vinh dự Người dành cho con, con mong Người tha thứ cho con khi biết được cuộc phiêu lưu đáng buồn và tình trạng của con lúc này.
Hoàng hậu bình tĩnh lắng nghe những gì công chúa đã kể lại nhưng bà không muốn tin. Bà nói:
- Con gái, con đã đúng khi không nói điều ấy với phụ hoàng. Con đừng nói gì với ai, người ta sẽ cho là con điên khi nghe con nói như vậy.
- Thưa mẫu hậu - Công chúa lại nói - Con cam đoan là con rất tỉnh táo. Mầu hậu có thể hỏi thêm chồng con. Chàng sẽ cũng nói thế.
- Ta sẽ hỏi và khi chàng cũng kể lại như con, ta có thể tin. Bây giờ con dậy đi, đừng nghĩ đến điều ấy nữa. Con đừng bối rối vì hình ảnh đó trong lúc lễ hội tổ chức nhân dịp thành hôn của con thật đẹp đẽ và sẽ tiếp tục nhiều ngày ở hoàng cung và trong cả vương quốc. Con không nghe âm thanh kèn trống não bạt vang lên rồi sao? Những cảnh đó sẽ gây cho con niềm vui thích, làm quên đi những điều vớ vẩn con vừa nói với ta.

Hoàng hậu gọi thị nữ đến đỡ công chúa dậy và khi thấy nàng đi tắm rửa bà đến phòng nhà vua. Bà bảo công chúa cớ vài ý nghĩ viển vông trong đầu nhưng không sao. Bà cho gọi con trai tể tướng để biết một ít về điều công chúa đã nói nhưng chàng trai cảm thấy vô cùng vinh dự được kết thân với hoàng gia nên giấu kín việc đó. Hoàng hậu hỏi:
- Phò mã của ta, con có tin chắc về tình cảnh đó như vợ con không?
- Thưa mẫu hậu - Con vị tể tướng nói -Cho phép con dám hỏi: Người muốn biết về chuyện gì ạ?
- Thôi đủ rồi - Hoàng hậu lại nói - Ta không muốn biết hơn nữa, con khôn ngoan hơn công chúa.
Những cuộc vui tiếp tục suốt ngày trong hoàng cung, hoàng hậu không để riêng công chúa một mình, luôn tạo nên các cuộc vui cho nàng tham gia. Tuy vậy nàng bị tác động quá mạnh về những gì xảy ra trong đêm nên luôn nghĩ về điều ấy. Con trai tể tướng cũng không kém bận tâm về một đêm tồi tệ phải trải qua nhưng tham vọng làm cậu giấu kín đi và người ta nhìn cậu như một người chồng rất hạnh phúc.
Aladdin được biết rõ những gì trong hoàng cung, tin rằng đôi vợ chồng mới cưới lại tiếp tục nằm ngủ cùng nhau tuy đã qua cuộc phiêu lưu đêm trước. Không muốn để họ nghỉ ngơi, nên đêm vừa về khuya, Aladdin nhờ đến chiếc đèn hỗ trợ. Thần đèn xuất hiện, nghẹ lệnh như những lần trước. Aladdin bảo:
- Con trai tể tướng và công chúa Badroulbaudour đêm nay lại nằm ngủ chung. Thần đến đó và khi họ đi nằm, mang cả giường đến đây như hôm qua.

Thần đèn thực hiện trung thành và chính xác như hôm trước. Con tể tướng lại qua đêm cũng lạnh lẽo, khổ sở như đêm trước, công chúa lại nhục nhã có Aladdin nằm bên cạnh, thanh gươm để giữa hai người. Theo lệnh chủ, thần đèn trở lại vào sáng hôm sau, đặt chồng bên cạnh vợ, nâng chiếc giường cùng đôi vợ chồng mới cưới mang về hoàng cung để vào chỗ cũ.
Nhà vua, sau cách tiếp đón của công chúa hôm trước,
lo ngại muốn biết qua đêm thứ hai, nàng còn thế không, lại đến phòng nàng vào sáng sớm. Con trai tể tướng, xấu hổ và nhục nhã hơn đêm trước, vừa nghe vua tới đã vội dậy chạy vào tủ áo.
Vua đến tận giường công chúa chào, âu yếm nàng như hôm đầu:
- Nào, con gái? Sáng nay có khó ở như hôm qua không? Con qua đêm thế nào?
Công chúa vẫn im lặng và nhà vua nhận thấy tâm trí nàng có vẻ chấn động và suy sụp hơn. Ông chắc có việc gì ký lạ xảy ra với con. Bực bội vì nàng giấu giếm, ông cầm lấy thanh gươm và nổi giận nói:
- Con gái, hoặc con nói đã giấu ta điều gì hoặc ta chặt đầu con ngay tức khắc.
Công chúa nhìn thấy thanh gươm tuốt trần và giịng nói đe doạ của vua cha, bèn hoảng sợ khóc lóc kêu lên:
- Thưa phụ hoàng tôn quý, xin Người tha cho con đã xúc phạm đến Người, con mong lòng tốt và sự độ lượng cảm thông thay thế sự giận dữ khi con thành thực kể lại tình trạng buồn bã đáng thương con phải chịu sụốt đêm qua và đêm trước đó.
Lời mở đầu làm dịu lòng nhà vua, công chúa trung thành kể lại những gì xảy ra qua hai đêm tồi tệ, một cách cảm động đến nỗi vua thấy đau lòng vì tình yêu và sự trìu mến của ông đối với con gái là rất lớn. Nàng kết thúc bằng những lời sau:
- Nếu bệ hạ có chút nghi ngờ về điều con kể, xin hỏi người chồng bệ hạ đã cho con; con tin chắc Người sẽ xác minh được sự thật.
Nhà vua rất phiền muộn vì đã gây một cuộc phiêu lưu kỳ lạ như thế cho công chúa. Ông nói:

- Con gái, con sai lầm vì hôm qua không giải thích cho ta rõ việc lạ lùng ấy mà ta đã rất quan tâm. Ta không gả chồng cho con với ý định làm con khổ sở mà phải sung sướng và hài lòng, để con hưởng hạnh phúc con xứng đáng được hưởng và có thể hy vọng ở một người chồng ta thấy có vẻ thích hợp với con. Con hãy xoá bỏ những ý nghĩ xấu về những gì con vừa kể. Ta sẽ sắp xếp lại mọi việc để con khỏi phải trải qua những đêm khó chịu đựng như những đêm trước nữa.
Về cung vua cho gọi ngay quan tể tướng đến hỏi:
- Khanh đã gặp con mình rồi chứ, cậu ấy có nói gì với khanh không?
Thấy vị tể tướng trả lời chưa gặp, nhà vua thuật lại cho ông ta nghe câu chuyện công chúa vừa kể. Rồi nhà vua kết luận:
- Ta chắc con gái ta đã nói thật, tuy vậy ta muốn con trai khanh xác định thêm. Khanh về hỏi cậu ấy sự việc ra sao đi.
Vị tể tướng đi gặp ngay con trai ông ta, cho biết điều vua vừa nói và bảo cậu nói rõ sự thật đừng che giấu. Cậu con trả lời:
- Thưa cha con không giấu giếm gì. Những điều công chúa trình bày với nhà vua là thật nhưng nàng còn chưa biết con bị đối xử tệ hại như thế nào. Mới hai ngày cưới con đã trải qua hai đêm ác độc không thể tưởng tượng nổi, con không đủ lời diễn tả nổi con đã chịu khổ sở trong chiếc giường mà không thấy người nâng mà bay được từ chỗ này đến chỗ khác không biết được bằng cách nào. Cha thấy đấy thật tệ hại khi con chỉ được mặc sơ mi đứng suốt hai đêm trong một xó nhà hẹp không cựa quậy được khỏi chỗ người đi ta đặt con, phải bất lực trong một thứ trói buộc vô hình. Qua đó không cần dài dòng kể lể chi tiết với cha những đau đớn con phải hứng chịu, tuy con rất yêu thương, kính trọng, biết ơn công chúa vợ con nhưng con thú nhận thực lòng với cha, thật vinh dự và tự hào vì đã cưới được con vua thật đấy, song con muốn chết đi còn hơn là được sống lâu trong cái quan hệ cao sang này nhưng lại phải chấp nhận đối xử tàn ác như con đã phải chịu đựng. Con chắc công chúa cũng có những ý tưởng như con, nàng sẽ vui vẻ chấp nhận việc chia tay nhau vì cả hai đều quá mệt mỏi. Do vậy, thưa cha, con khẩn cầu cha cùng với niềm thương mến đã muốn tạo dựng hạnh phúc cho con, mong cha xin với nhà vua hủy bỏ cuộc hôn nhân này.

Dù tham vọng của tể tướng mong con mình được là phò mã của nhà vua lớn đến đâu, nhưng thấy con mình quyết tâm chia tay với công chúa như vậy, ông thấy không nên khuyên con gắng chịu đựng thêm mấy ngày nữa làm gì. Ông để con ở lại, và đến tâu lại với vua, thú nhận việc đó rất thật sau khi được nghe con trình bày. Không chờ nhà vua bảo huỷ bỏ hôn nhân mà ông thấy rõ nhà vua đã sẵn sàng, ông xin phép vua cho con trai rời hoàng cung về nhà, lấy lý do không nên để công chúa chịu hình phạt ghê gớm ấy thêm nữa.
Quan tể tướng được vua đồng ý ngay. Sau đó nhà vua ra lệnh chấm dứt những cuộc vui chơi trong hoàng cung, trong thành phố và cả đất nước và chẳng mấy chốc những cuộc vui chơi công cộng kết thúc.
Việc thay đổi đột ngột và không ngờ ấy làm nảy sinh những bàn luận khác nhau. Người ta hỏi nhau sao lại có những lệnh trái ngược như thế nếu không thấy tể tướng và con trai buồn rầu từ hoàng cung ra về. Chỉ có Aladdin hiếu rõ điều bí mật ấy, cậu vô cùng hoan hỉ về thành công của thần đèn. Như vậy, biết chắc tình địch đã rời hoàng cung, cuộc hôn nhân đã hoàn toàn bị bãi bỏ, chàng không cần xát vào đèn nhờ thần can thiệp nữa. Điều đặc biệt là cả vua và quan tể tướng đều đã quên Aladdin và lời thỉnh cầu của bà mẹ, không có một chút ý nghĩ nào về việc chàng có thể đóng vai trò gì vào phép lạ khiến cho cuộc hôn nhân của công chúa phải hủy bỏ.
Chàng đợi hết ba tháng vua đã hứa hẹn cho đám cưới giữa công chúa và chàng. Chàng tính cẩn thận từng ngày và khi hết thời hạn đó, ngày hôm sau chàng nhờ mẹ vào hoàng cung nhắc vua nhớ lại lời hứa.
Mẹ Aladdin vào hoàng cung như con bảo, đứng ở chỗ ra vào phòng xét xử như những lần trước. Vua vừa nhìn thấy bà, nhận ra ngay đồng thời nhớ lại lời thỉnh cầu của bà và thời gian ông trì hoãn lại. Lúc ấy quan tể tướng đang tâu lại với nhà vua về một sự việc gì đó. Nhà vua ngắt lại và bảo:

- Tể tướng, ta thấy người đàn bà mấy tháng trước đây đã dâng lên ta một món quà thật đẹp. Cho bà ấy lại đây, ta sẽ nghe lời tấu của ông sau.
Tể tướng nhìn ra cửa thấy bà mẹ Aladdin, liền gọi ngay viên hầu cận chỉ vào bà ra lệnh cho đưa vào.
Mẹ Aladdin tlến đến chân ngai vàng quỳ xuống theo thủ tục. Khi bà đứng lên nhà vua hỏi bà yêu cầu gì:
- Thưa bệ hạ, thần lại xin tiếp kiến bệ hạ để nhân danh Aladdin con trai thần dám trình Người đã hết hạn ba tháng Người hoãn lời thỉnh cầu của thần được vinh dự dâng lên, xin Người nhớ lại cho.
Nhà vua hẹn ba tháng sẽ trả lời người đàn bà phúc hậu này song nhà vua đã nghĩ rằng sẽ không bao giờ phải nghe nhắc đến một cuộc hôn nhân chênh lệch đến thế cho công chúa con gái ông, chắc là họ rất nghèo hèn vì mẹ Aladdin mặc một bộ quần áo tầm thường. Tuy vậy việc nhà vua phải giữ lời hứa làm ông rất lúng túng, không biết nên trả lời sao. Nhà vua liền hỏi ý kiến quan tể tướng và tỏ ra không muốn gả công chúa cho một người vô danh mà ông cho là không có tài sản gì.
Tể tướng không ngần ngại giải thích điều mình suy nghĩ. Ông nói:
- Thưa bệ hạ, thần thấy có một cách nhất định khéo léo tránh được một cuộc hôn nhân không tương xứng như vậy mà Aladdin không phàn nàn được. Bệ hạ hãy đòi đồ sính lễ cầu hôn công chúa lớn đến mức anh ta chưa từng nghĩ đến trước khi dấn thân vào khiến cho gia sản của anh ta dù giàu có đến mức nào cũng không vươn tới được. Đây là cách làm anh ta phải từ bỏ cái tham vọng táo tợn đến thế.
Vua nghe lời khuyên của tể tướng, ngoảnh lại phía bà mẹ Aladdin và sau một lúc sủy nghĩ ông nói:

- Các vị vua phải giữ lời hứa, ta sẵn sàng giữ lời của mình, cho phép con trai ngươi sung sướng được kết hôn với con gái ta. Nhưng ta không thể gả chồng cho công chúa mà không biết rồi công chúa có được mọi điều thuận lợi không, ngươi về nói với con trai ngươi ta sẽ thực hiện lời hứa khi chàng ấy đưa đến cho ta bốn mươi chậu vàng lớn đầy những loại như ngươi đã dâng lên ta, được từng ấy nô lệ da đen mang đến, có bốn mươi nô lệ da trắng trẻ đẹp, cao lớn dẫn đường, tất cả ăn mặc thật đẹp. Đấy là những điều kiện ta sẵn sàng gả công chúa. Nhà ngươi về đi, ta chờ ngươi đưa câu trả lời của chàng ấy đến cho ta.
Mẹ Aladdin lại quỳ xuống trước ngai vàng rồi lui ra. Trên đường bản thân bà cũng cười về sự tưởng tượng điên rồ của con trai. “Thực tế nó tìm (đâu ra bấy nhiêu chậu vàng và số lượng thuỷ tinh màu nhiều đến mức đầy các chậu ấy? Nó có định trở lại căn hầm đã đóng cửa để hái những quả trên cây không? Và tìm ở đâu được những nô lệ nhừ vua đòi hỏi? Thế là ý nguyện xa vời rồi, ta nghĩ nó sẽ không hài lòng về nhiệm vụ sứ giả của ta”. Về đến nhà tâm trí bà đầy ý nghĩ Aladdin không còn gì để hy vọng. Bà bảo con:
- Con trai, mẹ khuyên con không nên nghĩ đến việc cưới công chúa Badroulboudour nữa. Nhà vua tiếp mẹ rất tử tế và mẹ nghĩ ông có ưu ái đến con nhưng quan tể tướng nếu mẹ không nhầm, đã làm ông thay đổi tình cảm. Con có thể đoán như mẹ khi nghe mẹ kể lại. Sau khi trình bày với vua ba tháng đã hết hạn và nhân danh con mẹ nhắc vua nhớ lại lời hứa, mẹ để ý Người chỉ trả lời mẹ sau khi đã trao đổi riêng với quan tể tướng.
Mẹ Aladdin thuật lại chính xác với con những gì vua nói với bà và những điều kiện cần có để nhà vua chấp nhận hôn nhân của công chúa và chàng. Cuối cùng bà nói:
- Con ạ, vua chờ con trả lời nhưng chúng ta... – Bà mỉm cười nói tiếp - Người sẽ đợi lâu đấy.

- Không lâu như mẹ tưởng đâu, thưa mẹ - Aladdin đáp - Và vua đã nhầm khi nghĩ nêu lên những đòi hỏi quá đáng ấy, Người cho rằng con không dám nghĩ đến công chúa Badroulboudour nữa sao. Con chờ đợi những điều yêu cầu khó khăn hơn hoặc Người sẽ đòi những đồ sính lễ cầu hôn cao xa hơn nữa. Bây giờ thì con hài lòng vì điều vua đòi hỏi ít ỏi hơn so với những gì con có thể làm để lấy được công chúa. Trong lúc con đi kiếm các thứ dâng lên nhà vua, mẹ tìm gì để chúng ta ăn tối và cứ mặc con xoay xở.
Khi bà mẹ đã ra phố mua thức ăn, Aladdin cầm chiếc đèn xát mạnh. Thần đèn hiện ra ngay, nói sẵn sàng đợi lệnh. Aladdin nói:
- Vua đã cho phép tôi kết hôn với công chúa con gái Người nhưng trước hết Người đòi hỏi bốn mươi chậu bằng vàng chất đầy những quả cây trong vườn tôi lấy đèn. Những chậu vàng ấy được từng ấy nô lệ da đen mang đến, có bốn mươi nô lệ da trắng đi trước, trẻ, đẹp, cao lớn và ăn mặc sang trọng. Thần đèn mang cho tôi món quà ấy thật sớm để tôi mang tới hoàng cung trước khi nhà vua ngừng thiết triều.
Thần đèn vâng lệnh rồi biến mất.
Một lúc sau thần đèn trở lại cùng bốn mươi nô lệ da đen, mỗi người đội một chậu bằng vàng rất nặng chất đầy ngọc trai, kim cương, hồng ngọc, ngọc bích, sắc đẹp và kích cỡ được chọn lựa hơn hẳn loni đã biếu nhà vua. Mỗi chậu phủ một tấm vải bạc hoa vàng. Tất cả những nô lệ vừa da đen vừa trắng, với những chậu vàng đứng chật gần hết ngôi nhà vốn tầm thường phía trước có một sân nhỏ và phía sau là mảnh vườn của gia đình Aladdin. Thần đèn hỏi Aladdin có hài lòng không và còn ra lệnh gì thêm. Aladdin trả lời không cần gì hơn nữa nên thần biến mất ngay.
Mẹ Aladdin đi chợ về, vào nhà hết sức kinh ngạc vì đông người và nhiều của cải đến thế. Khi đã sắp gọn thực phẩm mang về, bà đang định bỏ mạng che mặt thì cậu con trai ngăn lại. Chàng bảo:
- Mẹ ơi, không còn thì giờ nữa, trước khi vua kết thúc buổi thiết triều, mẹ phải trở lại hoàng cung dẫn theo đoàn người dâng quà và lễ vật cầu hôn công chúa mà nhà vua đòi hỏi để Người thấy tấm lòng nhiệt tình và thành thực của con muốn được vinh dự kết thân qua sự đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ này.

Không chờ mẹ trả lời, Aladdin mở cửa cho đoàn người nô lệ nối tiếp nhau ra, cứ một nô lệ đa trắng đi trước một nô lệ da đen đội chậu vàng trên đầu. Khi mẹ đã lên đường theo sau người nô lệ da đen cuối cùng, chàng đóng cửa ngồi yên trong phòng, hy vọng với món quà như vua đòi hỏi, cuối cùng nhà vua sẽ nhận chàng làm phò mã.
Người nô lệ da trắng đầu tiên ra khỏi nhà Aladdin làm những người qua đường trông thấy dừng lại và đến khi đoàn tám mươi người nô-lệ cả đen và trắng ra hết khỏi nhà, đường phố đã đầy một đám đông từ các nơi chạy đến xem một quang cảnh đẹp đẽ, khác thường chưa từng thấy. Quần áo của những người nô lệ đều may bằng vải đắt tiền và giắt đầy đá quý, những người sành sỏi đều phải khâm phục trước giá trị của từng cái áo. Của cải nhiều, ăn mặc đồng phục đẹp, dáng điệu trang trọng, thân hình lực lưỡng của từng nô lệ, bước đi oai nghiêm cách nhau đều đặn với ánh lấp lánh đá quý kích cỡ lớn giắt cân đối quanh thắt lưng bằng vàng, và những gia huy cũng bằng đá quý trên mũ có một thẩm mỹ riêng khlến đoàn người đến xem vô cùng thán phục, ngắm nhìn không biết mệt đoàn người. Đường quá đông người nên ai cũng đành đứng tại chỗ trông theo.

Do phải đi qua nhiều đường phố để đến hoàng cung, nên một phần lớn của thành phố với đủ loại người của mọi tầng lớp đều được chứng kiến một cảnh huy hoàng lộng lẫy Người đầu tiên trong số tám mươi nô lệ vào đến cổng sân trước của hoàng cung, những người gác cửa đã đứng thành hàng rào khi thấy đoàn người lại gần, họ nghĩ anh ta là một ông vua vì anh ta ăn mặc quá sang trọng. Họ tiến tới hôn vạt áo nhưng người nô lệ đã được thần đèn dặn dò, ngăn họ lại và nghiêm trang nói:
- Chúng tôi chỉ là những người nô lệ, chủ chúng tôi sẽ đến vào lúc thích hợp.
Đoàn nô lệ vào đến sân thứ hai, chỗ hoàng cung được trang hoàng lộng lẫy trong lúc nhà vua đang thiết triều. Những võ quan đứng đầu mỗi toán lính canh gác ăn mặc rất đẹp nhưng đều bị lu mờ trước sự có mặt của tám mươi người nô lệ mang quà tặng của Aladdin. Trong hoàng cung không có gì đẹp và lấp lánh đến thế và những phục sức của các đại thần trong triều cũng không có gì sánh được sự rực rỡ của đoàn người.
Vua đã được báo tin về đoàn nô lệ tới, ngài ra lệnh cho họ vào. Vì vậy họ bước vào phòng rất trật tự, một phần bên phải, một phần bên trái. Sau khi vào đứng thành nửa vòng tròn trước ngai vua, những nô lệ da đen đặt chậu vàng xuống, rồi cùng quỳ xuống dập trán xuống thảm. Những nô lệ da trắng cũng làm như vậy. Sau đó tất cả đứng dậy, những người da đen khéo léo bỏ vải che những chiếc chậu rồi đứng thẳng lên tay khoanh trước ngực rất từ tốn.

Mẹ Aladdin tiến lại gần ngai vua, quỳ xuống nói:
- Thưa bệ hạ, Aladdin con trai thần biết món quà tặng này còn kém xa những gì công chúa Badroulboudour đáng được hưởng. Dù sao nó cũng hy vọng bệ hạ vui long và làm vừa lòng công chúa với niềm tin tưởng cố gắng lo đủ những gì bệ hạ đã chiếu cố nêu ra cho.
Vua không còn tâm trí nghe lời của mẹ Aladdin. Ngài không ngớt thán phục khi nhìn vào bốn mươi chậu vàng đựng đầy đá quý sáng loáng quý giá nhất chưa thấy trên đời và tám mươi nô lệ như những ông vua qua dáng điệu và quần áo sang trọng. Thay vì trả lời mẹ Aladdin, ngài nói với quan tể tướng đang kinh ngạc không hiểu ở đâu ra một khối lượng của cải lớn đến vậy:
- Này! Tể tướng - Nhà vua hỏi to - Khanh nghĩ người này là ai, là người thế nào mà gửi đến cho ta món quà tặng giàu có và kỳ lạ đến thế, khi cả ta và khanh đều cùng chưa biết người đó? Khanh có tin anh ta không xứng đáng cưới công chúa Badroulboudour con gái ta chăng?
Dù ghen tỵ và đau đớn thấy một người lạ mặt sắp thay thế con trai ông trở thành rể nhà vua, nhưng tể tướng không giấu nổi sự cảm phục của mình. Rõ ràng quà tặng của Aladdin quá đủ để được nhận một sự kết thân cao quý. Ông chân thành trả lời nhà vua:
- Thưa bệ hạ, không ai dám có ý nghĩ người dâng món quà xứng đáng như thế đối với bệ hạ lại không xứng đáng với vinh dự Người muốn ban cho, thần cam đoan anh ta xứng đáng vì chắc chắn anh ta có một kho báu khá lớn trên đời để cân bằng với công chúa con gái bệ hạ.
Những quan đại thần tham dự buổi thiết triều vỗ tay đồng tình với quan tể tướng.
Vua không trì hoãn nữa, thậm chí ngài không hỏi để biết Aladdin có những đức tính gì khác phù hợp với người rể tương lai của ngài. Chỉ nhìn vào của cải nhiều đến thế và sự nhanh nhẹn đáp ứng đòi hỏi của ngài, không tỏ một chút khó khăn về những điều kiện quá sức, ngài đã dễ dàng tin chắc chàng không thiếu điều gì nếu chàng muốn. Vì vậy để bà mẹ Aladđin vui vẻ trở về, ông bảo bà:
- Người đàn bà phúc hậu, bà về nói với con trai, ta chờ chàng ấy để mở rộng tay ôm hôn chàng và chàng càng đến nhanh tiếp nhận từ tay ta công chúa con gái ta càng làm ta vui lòng.
Mẹ Aladdin vội ra về nói với niềm vui thấy con trai mình vươn tới một vị trí cao ngoài sự mong đợi, còn nhà vua cho ngừng thiết triều. Rời ngai vàng ngài ra lệnh cho các thái giám phục vụ công chúa đến mang những chậu vàng về nhà nữ chủ rồi ngài đến đấy thoả thích ngắm chung cùng con gái.

Tám mươi nô lệ da trắng, da đen cũng không bị bỏ quên; người ta đưa họ vào hậu cung và sau đó vua cho gọi họ đến để công chúa thấy sự đẹp đẽ của họ vượt xa những lời ngài đã kể lại cho nàng.
Mẹ Aladdin về nhà với dáng vẻ nói lên tin tất lành bà đưa về cho con. Bà nói:
- Con trai, con có mọi cái để hài lòng: thực hiện được mọi mong muốn ngoài điều mẹ chờ đợi. Nhà vua, với sự hoan nghênh của cả triều đình, tuyên bố con xứng đáng được có công chúa Badroulboudour. Người chờ để ôm hôn con và làm đám cưới. Con nên nghĩ đến ra mắt cho tương xứng với những gì tốt đẹp người ta đang bàn tán về con. Sau khi thấy những kỳ quan con đã tạo được, mẹ chắc chắn rồi sẽ không thiếu thứ gì con không làm được. Mẹ cũng không quên nhắc với con nhà vua đang nóng lòng chờ con cần đến gặp Người gấp.
Aladdin hân hoan vì tin ấy và cảm kích về vật đã tạo ra phép lạ, nói vài lời với mẹ rồi vào phòng mình. Cầm lấy chiếc đèn cho đến lúc ấy đã gián tiếp cung cấp cho chàng mọi điều cần thiết và mong muốn, chàng vừa xát mạnh thì thần đèn đã xuất hiện ngay thể hiện rất vâng lệnh. Aladdin nói:
- Thần đèn, tôi gọi ông để ông đưa tôi đi tắm, sau đó chuẩn bị sẵn sàng cho tôi một bộ quần áo giàu sang và đẹp nhất chưa một vua chúa nào có.
Cậu vừa bảo xong, thần đèn biến cậu thành vô hình như mình, nâng cậu lên đưa đến một nhà tắm toàn bằng đá cẩm thạch tinh khiết, nhiều màu khác nhau và rất đẹp. Không thấy ai đã phục vụ mình, nhưng cậu thấy mình được cởi quần áo trong một phòng khách tráng lệ và sạch sẽ. Từ phòng khách những bàn tay vô hình đưa cậu vào phòng tắm, độ ấm vừa phải, cậu được kỳ cọ tắm rửa với nhiều loại nước thơm. Sau khi qua nhũng độ nóng thích hợp tuỳ theo các phòng tắm khác nhau, cậu đi ra, khác hẳn khi mới vào. Nước da mát mẻ, trắng, hồng hào và người thấy nhẹ nhàng, khoan khoái hơn. Cậu bước vào phòng khách, không thấy quần áo cũ nữa, thần đèn đã cẩn thận để vào đấy bộ quần áo cậu yêu cầu. Aladdin ngạc nhiên thấy bộ quần áo đẹp chưa từng thấy, đẹp ngoài sức tưởng tượng. Xong xuôi thần mang cậu về lại trong căn phòng thần đã mang cậu đi và hỏi còn phải làm gì nữa. Có đấy, Aladdin trả lời, thần dắt đến cho tôi một con ngưa vượt xa con ngựa được ưa chuộng nhất trong chuồng ngựa của nhà vua, yên cương đáng giá trên một triệu đồng tiền vàng. Thần cũng đồng thời đưa tới hai mươi nô lệ ăn mặc sang trọng, thanh thoát như những nô lệ đưa tặng quà để đi bên cạnh và sau tôi thành toán, hai mươi người như thế đi trước tôi thành hai hàng. Đưa đến cho mẹ tôi sáu nô lệ nữ để phục vụ bà, ăn mặc, ít nhất cũng sang trọng như nữ nô lệ của công chúa, mỗi người đội thêm một bộ quần áo lộng lẫy như của hoàng hậu: Tôi cũng cần mười nghìn đồng vàng bỏ trong mười chiếc túi. Tôi ra lệnh thế đấy, thần làm chóng lên .

Aladdin vừa nói xong, thần đèn biến mất, chẳng mấy chốc trở lại với con ngựa, bốn mươi nô lệ trong đó mười người mỗi người mang một túi vải một nghìn đồng vàng và sáu nô lệ nữ mỗi người đội trên đầu một bộ quần áo khác nhau bọc trong vải bạc đành cho mẹ Aladdin. Thần đèn giao tất cả cho Aladdin.
Trong mười túi tiền cậu đưa cho mẹ bơn túi nói để dùng khi cần. Cậu giao sáu túi kia cho những nô lệ mang theo ra lệnh giữ lấy và tung từng nắm cho dân chúng trên những đường phố đi qua để tới hoàng cung, cho đi trước cậu với những nô lệ khác, ba người bên phải, ba bên trái. Cậu giới thiệu với mè sáu nô lệ nữ, nói họ thuộc về bà, có thể sử dụng như nữ chủ của họ và quần áo họ mang đến là để bà dùng.
Khi đã xếp đặt xong mọi việc, chàng nói thần đèn có thể đi và sẽ gọi lại khi cần phục vụ, thần biến ngay tức khắc. Aladdin chỉ còn nghĩ đến đáp ứng ý muốn của nhà vua mong sớm gặp chàng. Chàng cử một trong số bốn mươi nô lệ đến hoàng cung, lệnh gặp đội trưởng bảo vệ hỏi xem có được vinh dự đến quỳ trước nhà vua không. Người nô lệ hoàn thành nhiệm vụ liên lạc không lâu, mang về câu trả lời nhà vua nóng lòng chờ cậu.
Aladdin không trì hoãn lên ngựa, ra đi theo trật tự như đã sắp xếp. Tuy chưa bao giờ đi ngựa nhưng lần đầu này chàng đi không kém duyên dáng, một kỵ sĩ đày dạn kinh nghiệm cũng không cho chàng là người mới tập. Những đường phố cậu đi qua đầy ngượi hâm mộ, như cùng một lúc vang lên trên không tiếng hoan hô, khen ngợi, chúc mừng, đặc biệt khi sáu nô lệ mang túi tiền tung lên từng nắm bên phải và bên trái. Những lời hoan nghênh tuy vậy không phải do những người xô đẩy và cúi xuống nhặt tiền mà do những người tầng lớp cao hơn không ngăn được mình ca ngợi tính hào phóng của Aladdin. Không chỉ những người đã có tuổi từng thấy chàng chơi lang thang trên đường phố không nhận ra chàng nữa mà cả những người mới gặp chàng cách đây không lâu cũng vậy vì chàng đã thay đổi quá nhiều. Điều này do chính đèn tạo dần cho những người có nó với điều kiện người đó sử dụng tốt chiếc đèn. Người ta lúc ấy chú ý nhiều đến bản than Aladdin hơn là đoàn hộ tống vì phần lớn trong cùng ngày đã nhìn thấy đoàn nô lệ mang quà tặng đi qua. Con ngựa được những người sàng sỏi thán phục vì họ phân biệt được vẻ đẹp của nó mà không loá mắt vì kim cương, đá quý phủ đầy mình nó. Có tiếng đồn nhà vua gả công chúa cho chàng, nhưng không ai nghĩ đến nguồn gốc, không một người nào đố kị về tài sản và bước cao sang của chàng vì thấy rất xứng đáng.

Aladdin vào đến hoàng cung, ở đó nhà vua đã cho chuẩn bị để tiếp đón chàng. Đến cổng thứ hai chàng muốn xuống ngựa để phù hợp với nghi lễ mà từ tể tướng cho đến các tướng lĩnh những chức vụ hàng đầu đều phải tuân theo. Nhưng những đội trưởng bảo vệ chờ ở đấy theo lệnh vua, đã ngăn lại và dẫn chàng đến tận phòng thiết triều, đỡ chàng xuống tuy chàng khước từ. Đội bảo vệ đứng thành hàng rào đôi ở cửa ra vào, đội trưởng để Aladdin đi bên phải, đưa qua giữa hàng rào và đẫn đến tận ngai vua.
Khi vua nhìn thấy Aladdin, ngài rất ngạc nhiên thấy chàng ăn mặc lộng lẫy đến mức ngài chưa từng thấy bao giờ và trái với ý nghĩ của ngài, khuôn mặt tuấn tú, khổ người đẹp và có phong thái cao sang khác xa với dáng điệu thấp hèn của bà mẹ đã đến gặp. Sự ngạc nhiên không cản trở ngài nhanh nhẹn đứng dậy, bước xuống ngai vàng hai ba bậc để ngăn Aladdin quỳ dưới chân mình và ôm hôn chàng đầy tình thân mến. Sau thủ tục ngoại giao đó, Aladdin còn muốn quỳ xuống chân vua nhưng vua cầm tay buộc chàng bước lên ngồi giữa mình và tể tướng.
Aladdin bèn lên tiếng:
- Thưa bệ hạ - Chàng nói - Thần nhận những vinh dự Người ban cho vì Người có lòng tốt và thích làm thế nhưng xin cho phép thần trình bày với bệ hạ: thần sinh ra vốn là nô lệ của Người, thần biết rõ quyền lực của Người và không quên nguồn gốc của thần đặt dưới ánh hào quang rực rỡ về hàng ngũ tối cao của Người. Nếu có vài chỗ thần có thể xứng đáng với một sự tiếp đón ân huệ như thế, thần xia thú nhận là do sự táo tợn của một sự tình cờ thần đã đặt tầm nhìn, ý nghĩ và lòng mong muốn vào công chúa thánh thiện, thần ao ước của mình. Thần xĩn bệ hạ tha thứ cho sự liều lĩnh của thần nhưng thần không xoá bỏ được và sẽ chết vì đau khổ nếu thần không có hy vọng thực hiện.
- Con trai - Vua vừa ôm hôn chàng một lần nữa vừa nói - Con làm ta có lỗi nếu có lúc nghi ngờ về sự thành thực trong lời nói của ta. Từ nay cuộc sống của con than thiết với ta nên ta muốn dành cho con một niềm tin tưởng. Ta vui lòng trông thấy con và đồng ý sát nhập của cải của ta vào của con.
Nói xong ông ra hiệu lệnh và lập tức vang lên tiếng kèn, não bạt, nhà vua dẫn Aladdin vào một phòng khách rất đẹp đã chuẩn bị một bữa tiệc. Vua ăn một mình cùng Aladdin. Quan tể tướng và những người khác, cùng ngồi theo thứ tự chức vụ của họ trong bữa ăn. Nhà vua luôn để mắt đén Aladdin, thể hiện vui thích được gặp chàng, nói về nhiều đề tài khác nhau. Trong câu chuyện với nhà vua, chàng tỏ ra rất hiểu biết và thông minh làm nhà vua càng cảm thấy mình đã đúng khi đánh giá tốt về cậu.
Bữa tiệc kết thúc, vua cho gọi quan hành pháp của kinh thành ra lệnh làm ngay thủ tục kết hôn cho công chúa Badroulboudour và Aladdin. Trong lúc đó ông nói với Aladdin về nhiều chuyện trước mặt các cận thần, ai cũng khen ngợi sự vững vàng về trí tuệ, cách nói năng lưu loát và những ngôn từ tế nhị của chàng trong lời nói.
Khi quan hành pháp làm các loại thủ tục cho hôn lễ, nhà vua hỏi Aladdin có muốn ở lại hoàng cung để làm lễ cưới trong cùng ngày không.

- Thưa bệ hạ - chàng trả lời - Dù nóng lòng được tận hưởng những ân đức của bệ hạ, con xin Người cho phép con hoãn lại đến lúc con cho xây dựng một lâu đài để đón tiếp công chúa xứng đáng với danh vị của nàng. Đi làm việc đó, con xin Người ban cho một địa điểm thích hợp trước mặt hoàng cung để con tiện triều kiến. Con sẽ hết sức hoàn thành xây dựng thật nhanh.
- Phò mã của ta - Nhà vua nói - Con hãy sử dụng tất cả đất dai xét thấy cần thiết: trước hoàng cung còn quá trống trải và ta đã nghĩ phải xây dựng thêm ở đấy. Con nhớ rằng hãy khẩn trương để tăng thêm niềm vui của ta không muốn chờ đợi lâu mới thấy con gái ta thành đôi lứa.
Nói rồi ngài lại ôm hôn Alađđin, sau đó chàng xin rút lui lễ phép như đã từng sống trong triều đình.
Aladdin nhảy lên ngựa, trở về nhà theo trật tự tháp tùng như khi đến, qua đám đông cũ, được dân chúng hoan hô, chúc mừng mọi thứ hạnh phúc và thịnh vừợng. Vừa đặt chân vào nhà, chàng cầm chiếc đèn gọi thần như đã quen làm. Thần đèn không để chờ đợi, xuất hiện và sẵn sàng phục vụ. Aladdin bảo: Tôi hết lòng khen ngợi sự thực hiện chính xác những gì tôi yêu cầu cho đến nay nhờ quyền lực của đèn, chủ nhân của thần. Hôm nay tôi mong vì tình cảm với chủ nhân, nếu có thể thần thể hiện nhiệt tình và vâng lời như chưa bao giờ có. Tôi mong càng nhanh càng tốt theo khả năng của thần, xây dựng cho tôi một toà lâu đàl xứng đáng với công chúa Badroulboudour, đối diện hoàng cung với một khoảng cách vừa phải. Tôi để thần tự đo chọn nguyên vật liệu nghĩa là thần có thể tuỳ thích dùng đá vân ban, ngọc thạch anh, mã não, đá màu xanh da trời và cẩm thạch mịn nhất, nhiều màu để xây dựng nhưng trên nóc lâu đài thần cho xây một phòng khách lớn mái vòm, bốn mặt bằng nhau, những chỗ ngồi bằng vàng, bạc khối đặt cách nhau, hai mươi bốn cửa sổ, treo hai mươi bốn chiếc mành sáo được trang trí thật nghệ thuật, cân đối bằng kim cương, hồng ngọc, ngọc bích, tôi muốn để lại một tác phẩm chưa từng bao giờ toàn bích đến thế, làm cách sao mà trên đời người chưa ai từng thấy một lâu đài tương tự. Lâu đài có sân trước, một sân rộng, khu vườn và trên tất cả, có một kho báu đầy tiền vàng, bạc ở một chỗ thần sẽ nói với tôi sau. Tôi cũng muốn trong lâu đài có nhà bếp, phòng tiếp khách, kho hàng, kho đồ gỗ với bàn ghế gỗ quý cho các mùa và tương xứng với vẻ đẹp của lâu đài, có những chuồng gia súc đầy ngựa đẹp với những người huấn luyện ngựa, người chăm sóc ngựa, thần đừng quên trang bị dụng cụ săn bắn. Cũng phải có những người quản lý giao dịch, nhân viên nhà bếp, nữ nô lệ cần thiết cho việc phục vụ công chúa. Thần hiểu cho ý định của tôi, đi làm đi và trở lại khi đã hoàn tất .
(Còn tiếp...)
 
Chương 36

ALADDIN VÀ CHIẾC ĐÈN THẦN (TT)

Aladdin giao nhiệm vụ xây dựng lâu đài cho thần đèn xong thì mặt trời vừa lặn. Rạng sáng hôm sau, Aladdin vừa dậy thì thần đèn đã đến trước mặt nói: Ông chủ, lâu đài của ông đã xong, ông đến xem có hài lòng không”. Chưa trả lời được rất muốn thì thần đã mang chàng đến đấy ngay. Chàng thấy nhà vượt xa sự mong đợi của mình, không ngớt khen ngợi. Thần dẫn chàng đi khắp nơi, chỗ nào cũng chỉ thấy giàu sang, sạch sẽ và đẹp đẽ, với những nô lệ, tất cả đều ăn mặc theo thứ bậc và công việc được giao. Thần không quên, như một trong những điều chủ yếu, đưa chàng đến xem kho của cải có người trông kho : trung thành canh giữ, có nhũng túi tiền kích thước khác nhau theo lượng tiền chứa đựng, xếp cao đến trần, thứ tự trông thật thích mắt. Ra ngoài thần dẫn chàng đến những chuồng ngựa có người đang chăm sóc nhộn nhịp những con ngựa đẹp nhất trên đời, đến những kho hàng đủ mọi thứ cần thiết cho ngựa.
Khi Aladdin quan sát hết từng căn nhà, từng phòng trong lâu đài, từ trên xuống dưới đặc biệt là phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, chàng chỉ thấy toàn của cải, tráng lệ với mọi tiện nghi chàng không ngờ tới, chàng nói với thần đèn:
Thần đèn, tôi không thể nào hài lòng hơn. Còn một việc tôi chưa nói với thần vì chưa nghĩ ra, đó là trải một tấm thảm nhung tất nhất từ cửa căn phòng dành cho công chúa trong lâu đài này để nàng bước đi trên thảm khi từ hoàng cung tới.
- Tôi trở lại ngay - Thần đèn nói.
Thần biến mất và một lúc sau Aladdin thấy điều mình mong muốn đã được thực hiện, không biết bằng cách nào. Thần trở lại, đưa chàng trở về nhà trong lúc người ta mở cổng hoàng cung.
Những người gác cửa rất kinh ngạc thấy ở khu đất trống trước đây một toà lâu đài có tường bao quanh và từ phía ấy một tấm thảm nhung trải đến tận cửa nhà vua. Lúc đầu họ không phân biệt rõ nhưng cấng ngạc nhiên hơn khi nhìn kỹ toà lâu đài tráng lệ của Aladdin. Tin tức về một kỳ quan kỳ lạ chẳng mấy chốc lan khắp hoàng cung. Quan tể tướng đến tận cổng hoàng cung cũng ngạc nhiên không kém những người khác. Ông là người đưa tin đầu tiên đến vua nhưng cho việc đó là một phù thủy. Vua nói:
- Tể tướng, sao khanh lại nghĩ là một phù thủy? Khanh cũng biết rõ như ta đấy là lâu đài của Aladdin xây dựng, được ta cho phép trước mặt khanh để công chúa con gái ta ở. Sau những của cải chúng ta đã thấy, chúng ta còn lấy gì làm lạ khi chàng ấy cho xây dựng lâu đài này nhanh như thế. Chàng muốn làm chúng ta ngạc nhiên và cho thấy với tiền của trong tay người ta có thể làm nên phép lạ. Giờ thiết triều đã đến nên họ không nói về vấn đề ấy nữa.
Khi Aladdin đã được thần đèn mang trở về nhà và biến đi, chàng thấy mẹ đã dậy và bắt đầu diện một bộ trang phục chàng cho mang đến. Gần đến giờ vua thiết triều xong, Aladdin đưa cho để mẹ đến hoàng cung cùng với những nô lệ nữ thần đèn đưa tới. Chàng muốn mẹ tấu trình với vua rằng mình đến để vinh dự đi cùng công chúa vào buổi tối, sang lâu đài mới. Bà và nô lệ nữ đều ăn mặc như những bà hoàng và ra đi. Aladdin đi ngựa, không quên mang theo chiếc đèn đã đưa chàng lên hạnh phúc tột đỉnh, cùng đoàn tuỳ tùng đến hoàng cung hôm trước, đàng hoàng tiến về lâu đài của mình. Khi những người gác cổng thấy mẹ Aladdin đang tới, họ liền tâu lên vua. Nhà vua lệnh cho những toán kèn đồng, não bạt, sáo, kèn ô-boa chờ sẵn ở các gò quanh hoàng cung, lên tiếng nhạc hoà âm thông báo niềm vui vang khắp kinh thành. Các thương gia bắt đầu trang hoàng cửa hiệu và chuẩn bị ánh sáng rực rỡ cho ban đêm. Thợ thủ cống nghỉ việc, dân chúng vội vã đến tập trung ở quảng trường nằm gìữa hoàng cung và lâu đài của Aladdin. Điều làm họ hết sức kinh ngạc là không hiểu có một phép lạ nào đã cho họ thấy một lâu đài đẹp đến thế tại chỗ ngày hôm trước không có nguyên vật liệu hoặc nền móng gì.
Mẹ Aladdin đươc đón tiếp trọng thể trọng cung, có tlưởng thái giám đẫn vào căn phòng của cộng chúa Badroulboudour. Công chúa vừa nhìn thấy bà vội chạy đến ôm hôn bà, mời ngồi lên ghế xô-pha và trong lúc thị nữ chuẩn bị mặc quần áo, trang sức cho nàng những viên đá quý nhất Aladdin đã tặng, nàng thiết đãi bà một bữa ăn rất ngon. Nhà vua đến để kéo đài hơn giây phút chia tay với công chúa trước khi nàng sang lâu đài của Aladdin cũng gặp chúc mừng bà. Mẹ Aladdin đã nói nhiều lần với nhà vua giữa công chúng nhưng ngài chưa thấy bà bỏ mạng che mặt như lúc đó. Tuy bà đã có tuổi nhưng vẫn còn những nét cho biết rõ thời trẻ bà là một trong số những phụ nữ đẹp. Vua mới chỉ thấy bà ăn mặc giản đị nếu không nói nghèo nàn, nay ngài vô cùng thán phục thấy bà mặc quần ao cũng giàu sang và đẹp như của cổng chúa. Điều đã làm ngài hài lòng Aladdin vừa khôn, thông minh và biết điều trong mọi việc.
Đêm xuống, công chúa cáo biệt phụ hoàng. Sự chia tay của họ lưu luyến xen lẫn nước mắt, họ ôm hôn nhau nhiều lần không nói gì, cuối cùng công chúa ra đi cùng với mẹ Aladdin bên trái nàng, theo sau là một trăm nô lệ nữ ăn mặc thật đẹp. Các toán âm nhạc vẫn tiếp tục hoà tấu từ khi mẹ Aladdin đến, lúc ấy tập hợp nhau lại bắt đầu cùng đi phía sau là một trăm thị vệ, ngần ấy thái giám da đen bước theo hai hàng, dẫn đầu là chỉ huy của họ. Bốn trăm thị đồng trẻ của nhà vua đi thành hàng hai bên mỗi người cầm một bó đuốc hòa thêm vào ánh sáng của hoàng cung và lâu đài Aladdin làm nên nguồn ánh sáng thật đẹp trong đêm.
Theo thứ tự đó công chúa bước trên tấm thảm trải từ hoàng cung đến lâu đàì và càng tiến tới tiếng hoà nhạc của toán đi trước đoàn người càng gần lại và hoà lẫn với tiếng nhạc vang lên từ bậc thềm lâu đài, tạo nên một âm vang tuy lẫn lộn mà rất kỳ lạ, càng tăng thêm niềm vui không chỉ trên quảng trường đông người mà cả trong hai lâu đài, toàn thành phố và xa hơn nữa.
Công chúa đến lâu đài mới, Aladdin vui mừng không hình dung nổi chạy đến căn phòng dành cho nàng để đón tiếp Mẹ chàng có ý làm cho công chúa nhận rõ con trai mình trong đám người vây quanh, công chúa hân hoan nhận thấy chàng rất tuấn tú. Aladdin trông thấy công chúa, kính cẩn chào và nói:
- Công chúa đáng tôn thờ, nếu tôi bất hạnh làm nàng không vừa lòng vì cả gan mong muốn có được một nàng công chúa đáng yêu đến thế, tôi xin nói nàng phải trách cứ chính đôi mắt đẹp và sự duyên dáng của nàng chứ không phải tôi.
- Phò mã, bây giờ đây thiếp có quyền xử sự như thế này đây - Công chúa trả lời - Thiếp vâng lệnh phụ hoàng và chỉ mong gặp chàng để nói thiếp đã vâng lệnh mà không ân hận.
Aladdin phấn khởi vì câu trả lời êm dịu và làm chàng hài lòng, không để công chúa đứng lâu sau khi đi đường, nàng vốn không quen, chàng cầm lấy tay công chúa hôn rất tươi vui, dẫn nàng vào một phòng khách lớn được vô số ngọn nến chiếu sáng và thần đèn đã sắp sẵn một bữa tiệc tuyệt vời. Các đá đều bằng vàng khối đựng đầy thịt ngon. Bát đĩa, cốc chén và tủ thức ăn chất đầy đều bằng vàng và được chế tạo công phu. Những trang trí khác cũng hoàn toàn phù hợp với của cải dồi dào. Công chúa vui thích thấy bao nhiêu của cải tập trung vào một chỗ như thế, nói với Aladdin:
- Phò mã, thiếp đã nghĩ trên đời không có gì đẹp hơn hoàng cung của phụ hoàng thiếp nhưng chỉ nhìn riêng phòng khách này thiếp nhận thấy mình đã nhầm.
- Công chúa - Aladdin trả lời và đưa nàng ngồi vào chỗ dành cho nàng - rất thành thực mà nói ta biết mình phải tin vào điều gì.
Công chúa Badroulboudour, Aladdin và bà mẹ cùng ngồi vào bàn ăn và bỗng một bản hoà tấu thật du dương, cảm động nhất kèm theo những giọng hát rất mê ly của phụ nữ kéo dài tận hết bữa ăn. Công chúa say mê đến mức nàng nói chưa bao giờ được nghe đàn hát như thế ở lâu đài của phụ hoàng. Nàng không biết những nhạc sĩ, ca sĩ ấy là những tiên nữ do thần đèn chọn.
Bữa ăn khuya kết thúc, người ta dọn dẹp nhanh chóng và một toán nam nữ nghệ sĩ múa tiếp theo các nhạc công. Họ múa nhiều điệu vũ khác nhau hình dung theo phong tục trong nước, kết thúc bởi một nam và một nữ nhảy riêng với nhau nhẹ nhàng lạ kỳ, mỗi người đều thể hiện sự duyên dáng, khéo léo của họ trong điệu nhảy. Đã gần nửa đêm, theo phong tục thời ấy, Aladdin đứng dậy đưa tay cho công chúa mời nàng cùng nhảy và như vậy kết thúc lễ cưới của họ. Họ nhảy rất đẹp được cả cử toạ khen ngợi. Cuối điệu nhảy, Aladdin không buông tay công chúa, họ cùng nhau qua gian phòng đã chuẩn bị giường tân hôn. Thị nữ cởi quần áo cho công chúa, đưa nàng lại giường, hầu cận của Aladdin cũng làm thế và mọi người rút lui. Như vậy là kết thúc lễ cưới và những vui chơi trong hôn lễ của Aladdin và công chúa Badroulboudour.
Sáng hôm sau, Aladdin vừa thức dậy những người hầu phòng đã đến mặc quần áo cho chàng một bộ khác bộ ngày cưới cũng sang trọng và đẹp như vậy. Sau đó họ dắt đến một trong những con ngựa dành riêng. Chàng lên ngựa đi tới hoàng cung giữa một toán đông nô lệ đi trước, đi sau và bên cạnh. Nhà vua tiếp đón chàng với những vinh dự như lần đầu, ôm hôn, cho ngồi bên cạnh ông và ra lệnh chuẩn bị bữa ăn trưa. Aladdin nói:
- Thưa phụ hoàng, con xin bệ hạ hôm nay miễn cho con vinh dự đó. Con đến đề nghị Người đến ăn một bữa trong lâu đài của công chúa cùng tể tướng và các cận thần của Người.
Vua vui lòng ban ân huệ đó. Ngài đứng dậy ngay và vì đường không xa, ngài muốn đi bộ. Như vậy là ngài ra khỏi cung, Aladdin bên phải tể tướng bên trái, các cận thần theo sau, đi trước là các thị vệ và những võ quan chủ yếu trong cung.
Càng đến gần lâu đài của Aladdin vua càng thấy đẹp. Vào trong nhà càng khác hẳn, ông không ngớt khen từng phòng một. Nhưng lên đến phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, thấy sự trang trí nhất là những chiếc mành sáo giắt kim cương, ngọc bích, hồng ngọc tất cả đều hoàn hảo tuyệt mỹ về cả số lượng và nghệ thuật, ông ngạc nhiên sững người. Sau một lúc đứng lm lặng, ông nói với. tể tướng đang đứng gần ông:
- Tể tướng, có thể nào trong vương quốc ta và gần ngay hoàng cung vẫn có một lâu đài đẹp đến thế mà đến nay ta không biết.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời - bệ hạ có thể nhớ lại ngày hôm kia Người cho phép Aladdin vừa được chấp nhận làm rể, xây dựng một lâu đài đối diện với hoàng cung. Ngay ngày ấy lúc mặt trời lặn còn chưa có lâu đài ở chỗ này và hôm qua thần được vinh dự đầu tiên báo cáo với Người lâu đài đã xây dựng xong.
- Ta nhớ nhưng còn đang nghĩ lâu đài ấy là một kỳ quan trên đời. Dưới bầu trời này tìm đâu ra nền nhà toàn bằng vàng, bạc khối thay vì đá hoặc cẩm thạch, cửa sổ thì giắt đầy kim cương, hồng ngọc và ngọc bích? Không bao giờ trên đời làm được vật như vậy.
Vua thích thú ngắm nghía hai mươi bốn chiếc cửa sổ. Đêm lần lượt mành cửa ông thấy chỉ có hai mươi ba chiếc cùng trang trí lộng lẫy quý giá như nhau, chiếc thứ hai mươi bốn đang dở dang. Ông bảo tể tướng (vì ông này có nhiệm vụ luôn ở bên cạnh vua):
- Tể tướng, ta rất lạ vì một lâu đài như thế này mà chưa hoàn tất vì một chỗ này.
- Thưa bệ hạ - Tể tướng trả lời, - có vẻ Aladdin vội quá, không đủ thì gỉờ trang trí cửa sổ này như những cái khác nhưng tin rằng cậu đủ đá quý để bổ sung vào ngày đầu tiên.
Aladdin ra ngoài sai bảo người hầu một lát, lúc đó đã trở lại.
- Phò mã - Nhà vua nói - phòng khách này là chỗ đáng thán phục nhất. Có điều ta lấy làm lạ là chiếc màn cửa này chưa hoàn thành. Phải chăng vì quên, lơ là hoặc thợ không đủ thì giờ làm nất cho xong một mảnh kiến trúc đẹp như vậy?
- Thưa bệ hạ, không phải vì những lý do đó đâu ạ. Đây là thợ làm theo kế hoạch của con. Con muốn để bệ hạ ra lệnh cho hoàn thành phòng khách này và đồng thời là hoàn thành lâu đài. Xin bệ hạ vui lòng chấp nhận ý định của con để con luôn nhớ đến ân đức của Người.
- Nếu con có ý định đó, ta rất sẵn lông và sẽ cho lệnh làm việc đó ngay.
Thực vậy ông ra lệnh triệu tập những nhà kim hoàn nhiều đá quý nhất và những thợ trang sức giỏi nhất trong kinh thành. Vua xuống khỏi phòng khách, Aladdin dẫn ông đến phòng mở tiệc trong ngày cưới. Một lúc sau công chúa đến, đón tiếp vua cha với thái độ làm ông vui mừng biết nàng rất hài lòng về cuộc hôn nhân. Hai bàn đầy thức ăn ngon trên bát đĩa bằng vàng. Nhà vua ngồi vào bàn trước tiên, cùng ăn với công chúa, Aladdin và tể tướng. Các cận thần khác của triều đình được chiêu đãi ở chiếc bàn thứ hai rất dài. Vua thấv thức ăn rất ngon, thú nhận chưa bao giờ được thưởng thức ngon hơn. Ngài cũng nói như thế về rượu, đó cũng là loại hảo hạng. Ngài khen ngợi nhất là bốn chiếc tủ búp phê đầy chai lọ, bát đĩa bằng vàng khảm ngọc. Ngài cũng rất thích những bản nhạc hoà tấu trong phòng khách trong lúc tiếng vang những kèn, trống, não bạt ở một khoảng cách vừa phải bên ngoài, bổ sung cho nhau đầy thi vị.
Lúc vua vừa ăn xong, người ta tâu lên rằng các nhà kim hoàn và thợ trang sức được gọi đã tới. Ngài trở lên phòng khách hai mươi bơn cửa sổ, chỉ cho thợ kim hoàn đi theo mình chiếc cửa chưa xong:
- Ta cho gọi các ngươi đến để các ngươi hoàn thành chiếc cửa này, cũng tinh xảo như những cửa sổ khác. Hãy quan sát kỹ đi và làm thật giống cho ta. Những người thợ kim hoàn quan sát rất kỹ hai mươi ba mành cửa và sau khi trao đổi với nhau, xác nhận mỗi người đóng góp được phần việc nào, họ đến trình diện trước vua và người thường phụ trách trang sức trong hoàng cung trình bày
- Thưa bệ hạ, chúng thần sẵn sàng đem khả năng kỹ nghệ ra để vâng theo lời Người nhưng dù chúng thần hành nghề đã lâu, chúng thần vẫn không có đá quý và nhiều đến nhừ thế để làm công trình lớn này.
- Ta có - Vua nói - và nhiều hơn số lượng cần thiết đấy. Đến hoàng cung ta đưa cho mà chọn.
Về cung, vua cho đem một lượng rất lớn đá quý đặc biệt từ số Aladdin đưa tặng. Họ đưa tới làm nhưng không đủ, trở lại lấy thêm nhiều lần và trong một tháng chưa hoàn thành một nửa công trình. Họ dùng tất cả những đá quý của vua và cả số đá quý mà tể tướng cho mượn, tất cả cũng chỉ làm được một nửa tấm mành.
Aladdin biết vua cố gắng cho làm cũng không giống được và không bao giờ hoàn thành, liền gọi thợ kim hoàn đến không những bảo họ không làm nữa mà còn gỡ ra hết những gì đã làm, đưa trả lại tất cả những đá quý của vua và của vị đại thần.
Công trình thợ kim hoàn ra sức trong sáu tuần lễ chỉ phá ra trong mấy giờ. Họ ra về để một mình Aladdin trên phòng khách. Chàng lấy chiếc đèn xát mạnh, thần hiện ra ngay Aladdin bảo:
- Tôi ra lệnh cho thần để lại một tấm mành chưa hoàn thành, thần đã làm thế, bây giờ tôi gọi thần đến cho làm nốt giống như những tấm kia.
Thần đèn biến mất, Aladdin xuống dưới nhà, ít lâu sau trở lên thấy tấm mành cửa đã như chàng mong muốn và giống hệt những tấm kia.
Trong lúc đó thợ kim hoàn về cung, được đưa vào gặp vua. Trưởng toán thợ đưa ra những viên đá quý mang trả lại và thay mặt anh em trình bày:
- Thưa bệ hạ, chúng thần đã bỏ ra biết bao nhiêu thời gian, đưa kỹ nghệ tinh xảo vào để thực hiện công việc Người giao cho. Công trình đã tiến hành khá kết quả nhưng Aladdin không những bảo thôi làm mà còn phá bỏ hết đưa trả lại bệ hạ và tể tướng tất cả những viên đá quý.
Vua hỏi lý do, họ bảo Aladdin không nói gì. Ông ra lệnh thắng ngựa ra đi, chỉ có hầu cận đi bộ theo hộ tống. Ngài tới lâu đài con gái, xuống ngựa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, không báo tin cho Aladdin biết, nhưng vừa lúc Aladdin có mặt đúng lúc đón nhà vua ở cửa.
Không để Aladdin phân trần, ngài nói:
- Phò mã, ta đến hỏi con vì lý do gì lại muốn để dở dang một phòng khách đẹp và đặc biệt đến thế như phòng khách của lâu đài con.
Aladdin giấu lý do thực sự là vua không đủ đá quý để tiêu tốn như vậy nhưng để ông biết lâu đài này không chỉ vượt hẳn hoàng cung mà hơn mọi lâu đài trên đời và không phải chàng không thể hoàn tất, trả lời:
- Bệ hạ, đúng là Người đã thấy phòng khách chưa trang trí xong hẳn nhưng bây giờ xin Người xem lạl có thiếu gì không.
Nhà vua lại thẳng cửa sổ trước đó có tấm mành bỏ dở thấy nó cũng giống hệt nhũng tấm khác, đã ngỡ mình nhầm. Ngài quan sát hai cửa sổ bên cạnh và lần lượt từng cái khác công nhận tấm mành ngài cho làm trong bao nhiêu thời gian, tốn nhiều công thợ vừa mới hoàn tất không mấy chốc. Ngài hết sức ngạc nhiên ôm lấy Aladdin hôn vào trán và nói:
- Phò mã, con là ai mà làm những việc kỳ lạ đến thế trong nháy mắt? Con không giống ai trên đời; càng biết rõ con, ta càng thán phục.
Aladdin rất khiêm tốn đáp lời khen của nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thật vinh dự lớn cho con được nhận lòng tốt và lời khen của bệ hạ. Con cam đoan sẽ không quên điều gì để ngày càng xứng đáng với hai ân huệ đó.
Vua trở về hoàng cung theo cách ngài đến, không cần Aladdin tháp tùng. Ngày thấy tể tướng đang chờ ngài ở đấy Nhà vua còn hoan hỉ về kỳ quan vừa chứng kiến, kể lại mọi điều làm tể tướng tin vào lời vua và càng khẳng định lại mối nghi ngờ lâu đài của Aladdin do phù phép mà có như ông đã nói với vua ngay lúc lâu đài xuất hiện. Ông muốn nhắc nhở lại vua điều ấy. Nhà vua ngắt lời ông:
- Tể tướng, khanh cũng đã nói với ta như thế, ta thấy rõ là ông chưa quên việc kết hôn của con gái ta yà con trai ông.
Vị tể tướng cho là nhà vua đang thoả lòng, nên không muốn cãi lại nhà vua. Hàng ngày như thành lệ, khi vua ngủ dậy đã không quên đến một căn phòng có thể thấy rõ toàn bộ lâu đài Aladdin và trong ngày cũng tới đó ngăm nghía và thán phục.
Aladdin không khép mình trong lâu đài, môi tuần ra phố một vài lần, đi dọc kinh ở nhà thờ hoặc đến thăm tề tướng hoặc những cận thần chính của nhà vua mà chàng thường đãi tiệc. Mỗi lần chàng ra ngoài, chàng cho vài nô lệ đi kèm bên ngựa tung những nắm tiền vàng trên đường phố đi qua hoặc ở những quảng trường đông đân chúng. Vả lại không một người nghèo nào đến trước lâu đài Alađdin không hài lòng trở về với sự hào phóng người ta đối xử theo lệnh chàng.
Tuần lễ nào Alađdin cũng đi săn ít nhất một lần, lúc thì xung quanh thành phố, đôi lúc xa hơn, bao giờ trên đường đi chàng cũng hào phóng. Xu hướng độ lưòng đó được dân chúng hàm ơn nhiều có thể nói với thái độ dễ mến và hào phóng, chàng được dân chúng mến mộ hơn cả vua, tuy không che lấp vua mà chàng triều kiến rất đều đặn. Với những đức tính vốn có chàng nhiệt tình, đề cao quyền lợi quốc gia làm người ta không ngớt khen ngợi. Chàng lại chứng tỏ sốt sắng nhân dịp một cuộc nổi loạn xảy ra ở biên giới vương quốc. Vừa nghe vua thành lập một toàn quân đi tiễu trừ, chàng xin nhận việc chỉ huy. Nhà vua chấp thuận dễ dàng. Đứng đầu đoàn quân chàng mau lẹ dẹp tan cuộc nổi loạn. Việc đó làm tên tuổi chàng vang khắp vương quốc rộng lớn nhưng lòng chàng không thay đổi, vẫn hiền lành dễ mến như trước đây.
Đã nhiều năm Aladdin sinh sống như vậy cho đến lúc lão phù thuỷ kẻ đã vô tình tạo điều kiện cho chàng giàu sang cao độ, đã trở về châu Phi bỗng nhớ đến chàng. Tuy luôn nghĩ Aladdin đã chết dưới hầm đất từ khi lão chôn sống chàng, lão cũng muốn biết cụ thể kết cục ra sao. Vốn giỏi bói toán, lão lấy trong tủ ra một hộp vuông dùng để bói toán. Ngồi trên ghế xô-pha đặt chiếc hộp mở ra trước mặt, với ý định xem Aladdin có chết dưới long đất không, lão san bằng cát trong hộp, vẽ hình, tính toán vị trí các sao theo cách tính tử vi. Quan sát các sao trong tử vi để phán đoán, thay vì thấy Aladdin chết trong long đất, lão thấy chàng đã ra khỏi đó, sống một cuộc đời cực kỳ tốt đẹp, rất giàu, chồng một công chúa, được kính trọng, tôn vinh.
Nhờ ma thuật biết được điều đó xong lão phù thủy bèn nổi giận điên người tự nhủ:
- Thằng con trai thợ may khốn kiếp đã phát hiện ra bí mật của chlếc đèn thần. Ta tưởng nó chết nhưng nó lại đang hưởng thành quả công sức và mong ước của ta. Ta thà chết chứ không thể để nó hưởng thụ lâu hơn nữa.
Không đắn đo gì về việc phải làm nữa, ngay sang hôm sau lão lên ngựa sẵn có trong chuơng ra đi. Qua thành phố này đến thành phố khác, tỉnh này đến tỉnh khác, không ngừng lại trừ khi cần thiết cho ngùa khỏi mệt, lão đến Trung Hoà và vào ngay kinh thành Aladdin đang sống với con gái nhà vua. Lão xuống ngựa vào một nhà trọ, thuê phòng ở lại qua đêm cho lại sức.
Hôm sau, trước hết, lão phù thuỷ châu Phi thăm dò xem người ta nói về Aladdin như thế nào. Đi trong thành phố lão vào những chỗ thường những người có danh tiếng lui tới, chỗ người ta tập hợp uống một chén nước nóng lão đã quen lần đến tlước. Vừa ngồi xuống chỗ người ta mời lão một chén nước. Vùa nhấm nháp lão vừa lắng nghe xung quanh mọi người nói chuyện về lâu đài Aladdin. Uống xong lão đến gần một trong bọn họ, hỏi về lâu đài nào mà người ta nói sôi nổi như vậy. Người này nói:
- Ông ở đâu tới thế? Phải mới đến đây cho nên mới chưa thấy hoặc được nghe nói về lâu đài của phò mã Aladdin (Người ta gọi chàng như thế từ khi cưới công chúa Badrouthoudour). Tôi chưa nói với ông đấy là một trong những kỳ quan mà còn chưa từng có một kỳ quan nào trên đời, to lớn, giàu sang và lộng lẫy đến thế. Chắc ông đến từ xa lắm mới chưa biết. Từ khi lâu đài ấy xây dựng đến nay người ta chỉ nói về nó. Ông đến xem và sẽ thấy là tôi không nói sai sự thật.
- Thứ lỗi cho tôi - Lão phù thuỷ lại nói- Tôi từ tận cùng châu Phi vừa đến hôm qua, lúc tôi đi thì tiếng tăm về lâu đài chưa tới đó. Đi đường vì công việc gấp, tôi chắng thấy gì khác và không dừng lại để tìm hiểu, nên không biết điều ông vừa nói. Nóng lòng thoả tính tò mò, tôl sẽ đi ngay bây giờ, nhờ ông chỉ đường cho.
Người kia sẵn lòng hướng dẫn lão phù thủy phải đi qua con đường nào. Để thấy lâu đài Aladdin lão phù thuỷ đứng dậy đi ngay. Đến nơi, lão quan sát các mặt của lâu đài, chắc chắn Aladdin dùng chiếc đèn dựa vào những nô lệ thần đèn để cho xây dựng những kỳ công như thế. Căm tức vì Aladdin hạnh phúc và đã trở nên tôn quý không khác gì nhà vua, lão trở về nhà trọ suy tính kế hoạch.
Phải biết chiếc đèn ở đâu, Aladdin có mang trong người không hay để một chỗ nào đó và lão phù thuỷ phát hiện nhờ bói toán. Lão lấy hộp vuông và cát mang theo, vẽ hình tính toán, biết rõ chlếc đèn để trong lâu đài, lão vui mừng tự nhủ: Ta sẽ lấy lại chiếc đèn, thách Aladdin ngăn cản được ta và sẽ đẩy nó xuống đến đáy vực vì dám bay cao .
Thật không may cho Aladdin là chàng vừa đi khỏi lâu đài ba ngày, để săn bắn trong tám ngày. Lão phù thuỷ sau khi bói toán biết chiếc đèn vẫn ở trong lâu đài, liền đến lân la chuyện trò với người gác cổng nhà trọ. Lão nói đã thấy lâu đài Aladdin, khuếch trương những gì kỳ lạ nhất, đã làm mọi người phải ngưỡng mộ:
- Tôi tò mò nhìn ngắm rất kỹ nhưng chưa thoả mãn vì không thấy ông chủ toà lâu đài tuyệt vời ấy.
- Gặp ông ấy không khó đâu, hầu như không ngày nào không có dịp nếu ông ở trong thành phố nhưng ông đã đi vắng ba ngày nay, để dự một cuộc săn bắn tám ngày.
Lão phù thuỷ châu Phi không muốn biết gì hơn, lão chào người gác cổng về phòng, và tự nhủ: Đúng lúc phải hành động rồi, không được bỏ lỡ dịp. Lão ra một hiệu làm và bán đèn, bảo:
- Ông chủ, tôi cần một tá đèn bằng đồng, ông có làm được không?
- Người bán nói hiện còn thiếu mấy chiếc nếu chịu khó chờ đến ngày mai sẽ có đủ. Lão phù thuỷ đồng ý, dặn dò phải thật cẩn thận đẹp đẽ lão sẽ trả giá cao và về nhà trọ.
Ngày hôm sau lão đến nhận mười hai chiếc đèn, trả theo giá người bán đòi hỏi không bớt, bỏ vào chiếc giỏ mang theo đi về hướng lâu đài Aladdin. Khi lại gần lâu đài lão rao to:
- Ai đổi đèn cũ lấy đèn mới đây?
Đi trên đường, trẻ con đang chơi nghe tiếng rao chạy tới đi theo, nhìn lão cho là người điên. Những người qua đường cười nhạo về trò ngốc nghếch của lão. Ông ấy phải mất trí, - họ nói, - mới đổi đèn mới lấy đèn cũ .
Lão phù thủy không ngạc nhiên về đám trẻ con cũng như những gì người ta nói về lão, để đổi hết hàng tiếp tục rao to:
- Ái muốn đổi đèn cũ lấy đèn mới nào?
Lão luôn rao như thế, đi đi lại lại trên quảng trường, trước lâu đài và quanh đó. Công chúa Badroulboudour đang ở trên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ nghe tiếng người, không phân biệt rõ vì trẻ con đi theo và người đông ồn ào, bảo một nữ nô lệ gần đấy xuống xem có việc gì.
Nữ nô lệ chẳng mấy chốc lên phòng khách cười không dứt khiến công chúa cũng cười theo.
- Này! Đồ điên - Công chúa bảo - Sao em cười đến thế?
- Thưa công chúa, em không ngăn được cười khi thấy một người điên, giỏ đèn mới trên tay không bán mà chỉ đổi lấy đèn cũ. Trẻ con bao quanh rất đông làm ồn lên đấy ạ.
Nghe nói thế một nữ nô lệ khác nói:
- Về đèn cũ không biết công chúa có để ý chúng ta có một chiếc đèn cũ để ở gờ tường không? Đổi lấy chiếc đèn mới cũng hay đấy. Nếu công chúa đồng ý, Người sẽ biết ngay kẻ điên kia có thật điên không khi cho một chiếc đèn mới lấy chiếc cũ mà không đòi hỏi thêm gì.
Chiếc đèn người nữ nô lệ nói đó là chiếc đèn thần Aladdin sử dụng để lên đến mức cao sang hiện nay, trước khi đi cậu đã đề lên gờ tường sợ đem theo bị mất. Ngoài những buổi đi săn bao giờ cậu cũng mang trong người mình. Không nô lệ, thái giám nào kể cả công chúa để ý đến nó khi cậu đi vắng. Việc Aladdin đề phòng như vậy là tốt, nhưng ít nhất cậu cũng nên cho vào chỗ khoá cẩn thận mới phải. Đây là một trong những sơ suất mà người ta thường mắc phải.
Công chúa Badroulboudour không biết chiếc đèn quý giá và Aladdin cũng không nói nó quan trọng đến mức không được sờ vào và phải giữ gìn rất cẩn mật chiếc đèn nên trong lúc vui đùa nàng bảo một thái giám lấy đem đi đổi Vâng lời, thái giám đưa đèn ra khỏi lâu đài, gặp ngay lão phù thuỷ bảo:
Nào, đưa đèn mới đổi chiếc đèn cũ này đi.
Lão phù thuỷ châu Phi biết chắc chắn đó là chiếc đèn mình đang tìm. Không thể có cái nào khác như thế trong lâu đài vì đồ dùng toàn bằng vàng bạc. Lão lấy ngay chiếc đèn tròng tay người thái giám giắt vào người, đưa giỏ đèn mới cho thái giám chọn một chiếc đưa về cho công chúa. Trẻ con cười ồ lên, chế nhạo lão già ngu ngốc.
Lão mặc cho trẻ con la hét, im lặng đi khỏi vùng quanh lâu đài, nghĩa là không rao đổi đèn cũ nữa: không muốn những đèn khác ngoài chiếc lão đã lấy được. Trẻ con giải tán dần và để lão đi.
Ra khỏi quảng trường giữa hoàng cung và lâu đài, lão phù thuỷ đi vào những đường vắng người, vứt giỏ đèn ở một con đường không ai qua lại. Lão sang một con đường khác đi gấp về phía cổng thành. Ra đến đồng ruộng lão đến một chỗ khuất, đừng lại đó cho đến lúc thấy phù hợp để thực hiện ý đồ của mình.
Chờ đến một giờ đêm, xung quanh tối đặc, lão lấy chiếc đèn bọc trong người ra xát mạnh. Thần đèn xuất hiện.
Người muốn gì? Tôi sản sàng theo lệnh Người và những người có đèn trong tay, tôi và những nô lệ khác của đèn cũng thế.
- Ta ra lệnh - Lão phù thuỷ nói - Ngay lúc này thần bưng lâu đài mà thần hoặc những nô lệ khác đã xây dựng trong thành phố, mang nguyên cả khối và tất cả những người sống ở đó, cùng với ta nữa sang một nơi ở châu Phi. Không trả lời, thần đèn và nhũng thần nô lệ khác của đèn mang lão và toàn bộ lâu đài đến một chỗ lão chỉ dẫn,
Nhà vua thức dậy, theo thói quen vào trong gian phòng trống để thích thú ngắm nhìn và thán phục lâu đài của Aladdin. Ngài nhìn về phía thường ngắm lâu đài, chỉ thấy một khoảng trống trải như trước đây chưa xây dựng. Ngỡ mình nhầm, ngài dụi mắt nhưng không thấy gì hơn lấn trước tuy trời trong xanh, bình minh lên soi sáng mọi vật. Hết sức kinh ngạc, ngài sững người tại chỗ, nhìn về phía lâu đài trước đây, không thể hiểu vì sao một lâu đài to lớn, thực tại như lâu đài Aladdin, hàng ngày ngài vẫn thấy từ khi ngài cho phép xây đựng và vừa mới hôm trước còn đấy, đã biến mất không còn một dấu vết. Ta không nhầm đâu, - ngài tự nhủ lâu đài vẫn ở đấy. Nếu nó đổ, nguyên vật liệu phải thành đống ở đấy và nếu bị nhấn chìm trong đất cũng để lại vài dấu vết!. Dù đã xảy ra việc gì, tuy công nhận lâu đài không còn, ngài vẫn để chờ ít lâu xem mình có nhầm không. Ngoái lại nhìn phía sau trước khi trở về phòng mình, ngồi trong phòng tâm trí ngài rối loạn không biết nên làm thế nào, đành cho gọi quan tể tướng đến thật gấp.
Tể tướng tới vội vã, đến nỗi cả ông và hầu cận không ai để ý đến lâu đài chẳng còn. Những người gác cổng mở cửa nhưng cũng không nhận thấy.
Tể tướng hỏi nhà vua:
- Thưa bệ hạ, Người cho gọi thần gấp nên thần cho là có việc gì khác thường lắm vì Người cũng biết hôm nay là ngày thiết triều và lát nữa như thường lệ thần phải đến chầu.
- Việc xảy ra là điều rất khác thường như khanh nói. Ta hỏi khanh, lâu đài của Aladdin đâu rồi?
- Thưa bệ hạ! Thần vừa đi ngang qua, lâu đài hình như vẫn ở đấy. Những kiến trúc vững chắc như thế không dễ dàng đổi chỗ được.
- Lên phòng trống ngó xem rồi xuống nói với ta khanh còn thấy lâu đài ấy không.
Tể tướng lên phòng trống cũng sửng sốt như nhà vua. Khi chắc chắn lâu đài Aladdin đã biến mất, ở đấy không còn dấu vết, ông xuống trình điện trước mặt nhà vua.
- Thế nào, khanh có thấy lâu đài không?- Vua hỏi.
- Thưa bệ hạ, xin nhớ lại thần đã có vinh dự nói với Người, lâu đài ấy được Người khen ngợi với bao của cải vô biên chỉ là công trình phù phép của một phù thuỷ nhưng bệ hạ không lưu ý cho.
Nhà vua vốn không chịu nghe điều tể tướng đã nhắc nhở, nay phải thừa nhận sự nghi ngại của ông ta là đúng. Ngài liền nổi giận dữ dội. Nhà vuạ quát:
- Tên lừa bịp bỉ ổi ấy đâu để ta eho chặt đầu?
- Thưa bệ hạ, cách đây mấy ngày Aladdin tới xin bệ hạ nghỉ đi san, phải cho người đến hỏi xem lâu đài đâu rồi, hắn phải biết.
- Như vậy quá đại lượng - Vua lại nói - Ra lệnh cho ba mươi kỵ sĩ trói dẫn hắn về đây cho ta.
Tể tướng đi ban lệnh của vua cho kỵ sĩ, dặn dò viên chỉ huy cẩn thận không để thoát kẻ có tội. Họ ra đi và gặp Aladdin cách thành phố năm, sáu dặm. Viên chỉ huy bảo vua nóng lòng mụốn gặp, cử họ đi đưa tin rồi cùng nhau trở về.
Aladdin không một chút nghi ngờ về lý do thực sự của việc cử toán cận vệ đi tìm, vừa săn bắn vừa đi về cung. Nhưng khi cách thành phố nửa dặm, toán kỵ sĩ vây quanh chàng và viên chỉ huy lên tiếng:
- Phò mã Aladdin, rất tiếc phải tuyên bố lệnh của nhà vua bắt ông và dẫn về như tội phạm quốc gia. Chúng tôi đề nghị đừng nghĩ chúng tôi làm nhiệm vụ là sai trái và tha lỗi cho.
Lời tuyên bố ấy làm Aladdin hết sức ngạc nhiên, hỏi viên chỉ huy mình bị kết tội gì, ông này trả lờị ông và người của ông không biết gì hết.
Aìaddin thấy người của mình ít hơn toán quân nhiều tuy họ ở đàng xa, chàng xuống ngựa và nói:
- Tôi đây, các ông cứ làm theo mệnh lệnh. Tôi chỉ có thể nói mình chẳng phạm một tội gì đối với nhà vua cũng như đối với quốc gia.
Người ta quàng vào cổ chàng một dây xích khá to và dài quấn vào quanh người bó cả hai tay. Khi viên chỉ huy bước lên đi đầu, một kỵ sĩ cầm đầu dây xích, đi bên cạnh chỉ huy dẫn Aladdin phải đi bộ về thành phố.
Khi đoàn kỵ sĩ vào đến ngoại ô, những người đầu tiên thấy người ta dắt Aladdin như tội phạm quốc gia, nghĩ rằng triều đình sẽ chặt đầu chàng. Dân chúng vốn mến mộ chàng, nhiều người cầm gươm và vũ khí khác, những người không có vũ khí cầm đá, cùng ào theo toán ky sĩ. Chẳng mấy chốc đám đông dân chúng lấn át cả toán kỵ sĩ, rất may họ có thể về đến hoàng cung không bị dân chúng cướp mất Aladdin. Họ cẩn thận lúc nói rộng hàng, lúc khép chặt choán hết bề rộng đường đi. Đến quảng trường hoàng cung tất cả dân chúng có vũ khí đứng thành một hàng ngang ngoảnh mặt về phía hoàng cung cho đến khi chỉ huy dẫn Aladdin vào trong hoàng cung và những người gác đóng chặt cửa.
Aladdin bị dẫn đến trước nhà vua đang đứng chờ trên ban công cùng quạn tể tướng. Vừa thấy chàng ngài ra lệnh cho đao phủ chờ sẵn ở đấy chặt đầu phạm nhân, không muốn nghe một lời thanh minh nào.
Đao phủ nắm lấy Aladdin, bỏ dây xích ở cổ và quanh người, trải trên đất một tấm đa đầy máu những người bị hành hình, bắt chàng quỳ xuống và bịt mắt chàng. Ông ta rút gươm, lấy đà, múa gươm lấp lánh ba vòng và chờ lệnh vua để hạ thủ.
Trong lúc đó quan tể tướng thấy đám đông đân chúng trên quảng trường dồn toán kỵ sĩ vào và trèo lên nhiều chỗ tường hoàng cung để xông vào. Trước khi vua ra hiệu xử tử, tể tướng vội ngăn nhà vua lại:
- Thưa bệ hạ, xin Người nghĩ kỹ về việc sắp làm. Hoàng cung có thể bị phá và mọi chuyện sẽ trở nên nguy hiểm.
- Hoàng cung của ta bị phá? Kẻ nào có gan như vậy?
- Thưa bệ hạ, xin Người nhìn vào những bức tường hoàng cung và quảng trường, Người sẽ thấy rõ điều thần nói là đúng.
Vua thấy kinh thành của mình náo động mạnh mẽ như thế, vội sợ hãi, ra lệnh ngay cho đao phủ bỏ gươm xuống, bỏ vải bịt mắt và để Aladdin được tự do. Ngài cũng ra lệnh cho quân cận vệ hô lớn nhà vua đã gia ân cho Aladdin và mọi người lui ra ngoài.
Những người đã trèo lên tường hoàng cung thấy như vậy, từ bỏ ý đồ tấn công. Họ nhảy xuống vui mừng vì đã cứu được người họ thực sự yêu mến, và thông báo điều đó với những người vây quanh. Tin được truyền đến dân chúng ở quảng trường cùng tiếng loan báo của quân thị vệ được loa báo rộng. Vua vừa trả tự do cho Aladdin làm nguôi dân chúng, việc náo động chấm đứt và rồi ai về nhà nấy.
Aladdin được cởi trói, ngẩng đầu nhìn lên nhà vua cao giọng với thái độ xúc động:
- Thưa bệ hạ con khẩn cầu Người gia ân cho them một điều là cho biết con phạm tội gì?
- Tội gì à, kẻ phản trắc? Ngươi không biết sao? – Vua nói - Lên đây và ta cho ngươi biết rõ.
Aladdin đi lên.
- Đi theo ta - Vua bảo và quay lưng đi trước không nhìn đến chàng. Ngài dẫn chàng đến cửa sổ gian phòng trống: - Vào đi, ngươì phải biết lâu đài của ngươi ở đâu, nhìn mọi phía và cho ta biết nó ra sao rồi.
Aladdin nhìn không thấy gì. Chàng nhìn khắp vùng đất đã xây dựng lâu đài, không đoán được vì sao nó biến mất. Tình huống khác thường và kỳ lạ này làm chàng lung túng, ngạc nhiên hết sức không thể trả lời nhà vua một lời. Nhà vua sốt ruột nhắc lại:
- Ngươi hãy nói lâu đài của ngươi ở đâu, con gái ta ở đâu?
Aladdin lên tiếng nói:
Thưa bệ hạ, con thấy rõ, xin thú thực, lâu đài con cho xây dựng không còn ở chỗ cũ; con thấy nó đã biến mất và cũng không thể nói nó ở đâu nhưng con cam đoan với bệ hạ con không làm gì trong hiện tượng này.
- Ta không cần biết lâu đài của ngươi ra sao rồi. Ta lo về con gái ta hàng triệu lần hơn. Ta muốn ngươi tìm lại cho được con ta, nếu không ta chặt đầu ngươi không gì cản trở ta được.
- Thưa bệ hạ - Aladdin lại nói - Con cầu xin bệ hạ cho con bốn mươi ngày để cấp tốc đi tìm. Nếu trong thời gian ấy con không tìm được con xin hứa sẽ đưa đầu mình đến trước chân Người. Người muốn làm gì con cũng thoả lòng.
- Ta cho ngươi bốn mươi ngày theo yêu cầu nhưng đừng lạm dụng sự gia ân của ta, đừng hy vọng thoát khỏi cơn giận dữ của ta. Bất cứ ngươi trốn chỗ nào trên mặt đất ta cũng tìm được ngươi.
Aladdin rút lui ,rất nhục nhã trong tình trạng đáng thương. Chàng qua các sân hoàng cung đầu cúi xuống, không dám ngẩng mặt nhìn, những võ quan trong sân quay lưng lại nên không thấy chàng và chàng cũng không muốn gặp họ nữa. Nhưng nếu họ lại gần để an ủi hoặc giúp đỡ, họ sẽ không nhận ra Aladdin nữa: bản thân chàng cũng không nhận ra mình, không còn tỉnh táo gì nữa. Điều ấy thể hiện rất rõ khi ra khỏi hoàng cung, không nghĩ đến việc mình làm, chàng đi gõ cửa từng nhà và hỏi những người gặp trên đường có thấy lâu đài của chàng ở đâu không hoặc có biết tin gì về nó không.
Những lời hỏi đó làm mọi người nghĩ Aladdin mất trí. Một số chỉ cười nhưng những người biết điều hơn đặc biệt những người có quan hệ bạn bè hoặc buôn bán với cậu thực sự thông cảm. Chàng ở trong thành phố ba ngày, lúc chỗ này lúc ehỗ khác, chỉ ăn khi người ta mang cho và không biết làm gì khác.
Cuối cùng không thể sống trong tình trạng khốn khổ như vậy trong thành phố trước đây mệnh danh giá thế, chàng ra khỏi thành phố đi về đồng ruộng, qua nhiều cánh đồng với tình trạng không ổn định khổ sở và đến tối thì nghĩ tới một bờ sông. Chàng tuyệt vọng: Ta tìm lâu đài ở đâu bây giờ? Đến tỉnh nào, nước nào, phần đất thế giới nào để tìm ra nó và công chúa thân yêu của ta? Không bao giờ có kết quả được, phải giải thoát bao mệt nhọc và buồn tủi đang hành hạ ta thì hơn . Chàng sắp nhảy xuống song nhưng nghĩ là một người Hồi giáo trung thành, phải rửa tay trước khi chết. Chàng lại bờ sông rửa mặt, rửa tay theo tập quán. Chỗ này hơi dốc và ẩm ướt,chàng trượt chân và rơi xuống sông nếu không kịp bám vào một hòn đá gần chỗ đứng. May mắn cho chàng đang đeo chiếc nhẫn lão phù thuỷ đưa cho lúc xuống hầm ngài lấy chiếc đèn thần. Để giữ mình ,khỏi rơi xuống sông, chàng Xát mạnh chiếc nhẫn vào đá Ngay lúc ấy thần nhẫn đã xuất hiện trước đây dưới hang lại có mặt, hỏi chàng:
- Người muốn gì? Tôi sẵn sàng vâng lệnh Người như kẻ nô lệ của Người và tất cả những ai đeo nhẫn trên tay, tôi và những nô lệ khác của nhẫn đều thế.
Aladđin phấn khởi vì sự xuất hiện bất ngờ trong tình thế tuyệt vọng của mình, trả lời:
- Thần nhẫn cứu tôi một lần nữa bằng cách cho biết lâu đài tôi xây dựng ở đâu và đưa nó về lại chỗ cũ cho tôi.
- Điều Người yêu cầu - Thần nhẫn nói - Không thuộc phạm vi của tôi, Người phải đề nghị với thần đèn.
- Nếu vậy, theo quyền lực của nhẫn, ta ra lệnh thần mang tôi đến chỗ lâu đài, bất cứ ở đâu trên quả đất, và đặt tôi dưới cửa sổ công chúa Badroulboudour.
Aladđin vừa dứt lời, thần nhẫn ôm lấy chàng đưa sang châu Phi giữa một bãi cỏ có lâu đài, không xạ một thành phố lớn và đặt chàng đứng dưới cửa sổ căn phòng công chúa. Mọi việc đó chỉ xảy ra trong giây lát.
Mặc dù đêm tối, Aladdin nhận rõ lâu đài của mình và phòng công chúa Badroulboudour. Đêm đã khuya, chàng lui ra một đoạn, đến ngồi dưới gốc một cây to. Chứa chan hy vọng nghĩ về hạnh phúc của mình nhờ một sự tình cờ, cậu cảm thấy bình tâm lại sau khi bị bắt, dẫn tới trước nhà vua và được trả tự do với nguy cơ mất mạng sống. Suy nghĩ một lúc về triển vọng tốt đẹp, qua, năm sáu ngày không ngủ, chàng không cưỡng đựợc giấc ngủ vì mỏi mệt, chàng thiếp đi dưới gốc cây.
Hôm sau bình minh vừa lên Aladdin thoải mái tỉnh giấc vì tiếng hót của chim trên cây chàng nằm ngủ đứới gốc và những cây rậm rạp quanh lâu đài. Chàng nhìn ngay về phía lâu đài tráng lệ, cảm thấy vui mừng không tả nổi vì sắp trở lại là ngựời chủ và một lần nữa có công chúa bên mình. Trong lúc chờ đợi, chàng suy nghĩ do đâu xảy ra tai hoạ và nhớ ra đã bỏ lại chiếc đèn ở nhà lúc đi săn. Điều làm cậu bối rối hơn là không hình dung ra ai là kẻ ghen tức với hạnh phúc của chàng. Trước hết chàng hiểu ra cậu và lâu đài đang ở châu Phi gợi lên trong trí chàng về lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù cố hữu của chàng.
Công chúa Badroulboudour từ khi bị bắt cóc đưa sang châu Phi ngủ dậy sớm hơn thường lệ. Cho đến nay nàng buộc phải mỗi ngày gặp lão phù thuỷ một lần nhưng mỗi lần nàng đối xử rất nghiêm khắc nên lão chưa dám liều ở lại Nàng mặc quần áo xong thì một thị nữ nhìn qua mành cửa, trông thấy Aladdin, chạy đi báo tin với chủ. Công chúa không thể tin vào điều ấy, chạy tới cửa sổ và nhận ra chồng mình. Nàng kéo mạnh cửa. Nghe tiếng động Aladdin ngẩng đầu lên, thấy công chúa và vui mừng khôn xiết chào nàng. Công chúa bảo:
- Để khỏi mất thì giờ, thị nữ sẽ mở cánh cửa bí mật chàng vào và lên đi.
Cánh cửa bí mật phía dưới phòng công chúa được mở ra, Aladdin lên phòng công chúa. Không thể tả hết nỗi vui mừng hai vợ chồng gặp lại nhau khi đã tưởng phải xa cách nhau vĩnh viễn. Họ ôm hôn nhau nhiều lần, thể hiện với nhau tình yêu và trìu mến sau cuộc chia cắt đáng buồn và bất ngờ của. họ. Sau những vồn vã thắm đượm nước mắt vui mừng, họ ngồi lại với nhau và Aladdin lên tiếng trước:
- Công chúa, trước khi kể mọi chuyện, ta khẩn cầu vì quyền lợi của chính nàng, của phụ hoàng kính mến và của riêng ta, nàng cho biết chiếc đèn cũ trước khi đi săn ta để ở gờ tường bây giờ ra sao rồi?
- Chà? Chàng thân yêu - Công chúa trả lời- Thiếp đã ngờ tai hoạ của chúng ta đến từ chiếc đèn và thiếp rất buồn lại chính do thiếp gây ra.
- Công chúa, nàng đừng nhận lỗi về mình, tất cả là do ta, đáng lẽ phải giữ gìn nó cẩn thận hớn. Chúng ta chỉ nên nghĩ cách sửa chữa sự mất mát ấy, muốn thế nàng làm ơn kể lại sự việc xảy ra thế nào và đèn mất vào tay ai?
Công chúa Badroulboudour kể lại việc đổi chiếc đèn cũ lấy đèn mới và đêm sau đó nàng nhận thấy lâu đài bị chuyển đi. Sáng dậy thấy mình ở một đất nước xa lạ này, được biết từ miệng tên phản trắc là đang ở châu Phi và bị mang tới do bùa phép.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời - Nàng đã cho ta biết tên phản trắc. Hắn là kẻ xảo trá nhất thiên hạ nhưng không phải lúc kể lại với nàng nhiều hơn về sự độc địa của hắn. Chỉ xin nàng nói hắn đã làm gì với chiếc đèn và để nó ở đâu?
- Hắn bọc chiếc đèn rất kỹ bỏ trong người, em đã chứng kiến hắn lấy ra khoe với em như một kỳ công.
- Công chúa của ta, đừng giận vì ta yêu cầu nhiều điều làm nàng mệt mỏi. Những điều đó rất quan trọng đối với nàng và với ta, Để đi tới việc ta đặc biệt quan tâm, xin nàng nói rõ nàng thấy cách đối xử của một kẻ gian ác, xảo trá ấy hàng ngày ra sao?
- Từ khi thiếp đến đây, mỗi ngày hắn đến gặp thiếp một lần và chắc rằng không được thoả mãn vì những cuộc viếng thăm nên hắn ít quấy rối thiếp thường xuyên. Mọi câu chuyện hắn nói với thiếp nhằm làm mất lòng tin của thiếp đối với chàng và lấy hắn làm chồng, muốn làm cho thiếp không hy vọng gặp lại chàng, rằng chàng đã bị phụ hoàng chặt đầu chết rồi. Hắn còn giải thích thêm rằng chàng là một kẻ vô ơn, mọi của cải của chàng do hắn mà có và hang nghìn điều nữa nhưng em cứ mặc hắn nói. Do thiếp chỉ đáp lại bằng những kêu van khổ sở và nước mắt, hắn buộc phải rút lui không hài lòng như khi mới đến. Tuy thế thiếp chắc hắn có ý định chờ những đau khổ qua đi thiếp sẽ thay đổi tình cảm và cuối cùng nếu thiếp kiên trì chống đối hắn sẽ dùng sức mạnh. Bây giờ, chàng thân yêu, có mặt chàng em không còn lo ngại nữa.
- Công chúa - Aladdin ngắt lời nàng - Ta tin tưởng những lo ngại của nàng mất đi không vô ích, ta nghĩ đã tìm được cách giải thoát nàng khỏi tay kẻ thù.
Muốn thế ta phải ra phố, buổi trưa trở lại đây, sẽ trao đổi với nàng ý đồ như thế nào và nàng phải làm gì để góp phần thành công. Xin báo trước với nàng đừng ngạc nhlên khi ta mặc quần áo khác và nàng nhớ lệnh cho người chờ ta ở cửa bí mật, mở ngay khi ta gõ lần đầu.
Công chúa hứa sẽ có người chờ ở cửa và mở cửa ngay.
Khi Aladdin vẫn theo cánh cửa bí mật ấy ra ngoài, nhìn bốn phía thấy một nông dân đang đi về đường làng. Người nông dân đi ngược phía lâu đài và lúc đã xa, chàng bước vội cho kịp, đề nghị đổi bộ quần áo đang mặc chàng nói khéo nên người nông dân đồng ý.
Việc thay đổi quần áo tiến hành sau bụi rậm và chia tay nhau Aladdin đi vào thành phố. Qua cổng thành, chàng đến những đường phố sầm uất, vào một cửa hàng, hỏi mua một loại bột mê. Người bán nhìn vào quần áo nghĩ chàng nghèo, nói có loại ấy nhưng rất đắt. Aladdin biết ý nghĩ của chủ hàng, liền rút túi tiền ra để lộ vàng, bảo bán cho nửa đồng cân. Người bán gói bọt mê lại đưa cho chàng, đòi giá một đồng vàng. Aladdin cầm gói bột trả tiền, dừng lại trong thành phố một lát để ăn uống rồi trở lại lâu đài. Cửa bí mật mở ngay không làm chàng phải chờ, chàng bước thẳng lên phòng công chúa Badrouthoudour. Chàng nói với công chúa:
- Nàng đã thể hiện sự ghê tởm đối với kẻ cướp đoạt, có lẽ nàng sẵn sàng làm theo lời ta khuyên. Cho phép ta nói với nàng đã đến lúc cần giấu kín ý nghĩ mình, thậm chí phải dùng bạo lực nếu nàng muốn thoát khỏi sự hành hạ của kẻ thù và làm phụ vương hài lòng được gặp lại nàng. Nếu nghe theo lời ta, ngay từ bây giờ nàng hãy mặc bộ quần áo đẹp nhất và khi lão phù thuỷ đến thăm nàng nên tiếp đón hết sức tử tế, thật tự nhiên, nét mặt cởi mở, bởi nếu còn vài nét ưu tư hắn cũng nhận thấy hắn sẽ làm cho tất cả cùng biến mất đi vĩnh viễn. Trong lúc trò chuyện nàng cho hắn biết nàng sẽ cố gắng để quên ta đi hãy làm hắn tin chắc nàng thực lòng. Nàng mời hắn ở lại ăn khuya với nàng,và bảo nàng muốn uống loại rượu tốt nhất trong nước. Hắn nhất định sẽ đi kiếm rượu. Trong lúc chờ hắn trở lại, khi bữa ăn đã chuẩn bị xong, nàng bỏ loại bột này vào một chiếc cốc nàng vẫn thường dùng uống để riêng ra, báo trước với thị nữ phục vụ rượu chú ý đừng nhầm lẫn. Lão phù thuỷ trở lại và cùng ngồi vào bàn ăn, sau khi ăn uống một lúc, thấy thích hợp, nàng ra hiệu đưa cốc rượu có bột ra và đổi cốc của nàng với cốc của hắn. Hắn sẽ thấy tình cảm ưu ái của nàng quá lớn nên không từ chối, sẽ uống cạn cốc rượu và ngã vật ra ngay. Nếu nàng ghê tởm uống vào cốc của hắn thì chỉ giả vờ uống, nàng đừng ngại. Tác động của loại bột rất nhanh chóng, hắn không đủ thì giờ nghĩ xem nàng có uống hay không uống.
Aladdin nói xong, công chúa bảo:
- Thiếp thú nhận với chàng làm như thế đối với lão phù thuỷ là em đã dùng bạo lực. Nhưng đối với một kẻ thù độc ác thì có giải pháp nào ta không làm được? Thlếp sẽ làm như chàng khuyên vì sự yên bình của thiếp cũng như của chàng.
Dặn đò công chúa xong, Aladdin tạm biệt nàng ra vùng gần lâu đài chờ đến tối lại gần cánh cửa bí mật. Công chúa Bađdoulboudour buồn khôn nguôi không chỉ vì phải xa Aladdin, người chồng nàng đã yêu thực sự mà còn vì phụ hoàng thân yêu vốn yêu thương trìu mến nàng hết mực, từ lúc xa cách đau đớn này nàng không chăm sóc được. Có thể nói nàng đã quên cả việc trang điểm theo bản tính. Đặc biệt khi lão phù thuỷ đến gặp nàng lần đầu, được thị nữ cho biết chính hắn là người rao đổi chiếc đèn, nàng ghê sợ về sự lừa lọc nguy hại ấy. Cơ hội trả thù đáng giá này nàng chưa từng đám hy vọng khiến nàng càng quyết tâm nghe theo lời Aladdin. Nên khi chàng đã rút đi, nàng tắm rửa bảo thị nữ mặc quần áo cho nàng, chọn bộ sang trọng và phù hợp nhất, kèm với thắt lưng là chiếc vòng mười ba viên ngọc trai, mỗi bên cân đối sáu viên, viên giữa to nhất và quý nhất mà những hoàng hậu, công nương sung sướng có được một bộ đầy đủ độ lớn chỉ bằng hai viên nhỏ nhất của công chúa. Những vòng tay lẫn lộn kim cương và hồng ngọc phù hợp tuyệt vời với chiếc thắt lưng và chiếc vòng giàu có.
Mặc quần áo đầy đủ xong, công chúa Badroulboudour soi gương bảo các thị nữ ngắm sửa sang và khi đã thấy không còn thiếu vẻ đẹp nào có thể ìàm say mê lão phù thuỷ châu Phi, nàng ngồi trên ghế xô-pha chờ lão tới.
Lão phù thuỷ không quên đến theo giờ thường lệ. Khi công chúa thấy lão bước vào phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, nơi nàng đang ngồi chờ, nàng liền đứng dậy với mọi vẻ đẹp và duyên dáng, giơ tay chỉ chỗ danh dự và chờ lão cùng ngồi một lần, cử chỉ giao tiếp đặc biệt chưa bao giờ nàng đối xử với lão.
Lão phù thuỷ choáng ngợp về ánh mắt đẹp của công chúa hơn là màu sắc lóng lánh của đá quý nàng trang điểm, và hết sức ngạc nhiên. Phong thái oai nghiêm và nét duyên dáng nàng đón tiếp trái ngược với những lần đón tiếp từ trước tới nay làm lão bối rối. Lúc đầu lão muốn ngồi trên thành ghế xô-phạ nhưng thấy công chúa không muốn ngồi vào chỗ của mình nếu lão không ngồi vào chỗ nàng mời nên lão vâng theo.
Khi lão phù thuỷ châu Phi đã ngồi xuống, để lão khỏi lúng túng như nàng thấy, nàng lên tiếng với cách nhìn làm lão nghĩ mình không còn ghê tởm như trước đây nàng tỏ ra với lão. Nàng nói:
- Ông ngạc nhiên thấy tôi khác hẳn như đã thấy tôi cho đến nay, nhưng sẽ không lạ gì nữa khi tôi nói với ông tính tình của tôi trái ngược với sự buồn rầu, chán nản, với những lo buồn mà tôi tìm cách rũ bỏ từ khi tôi thấy vấn đề đã qua đi. Tôi suy nghĩ điều ông nói về số phận của Aladdin, tôi biết tính phụ hoàng, chắc chắn chàng không thoát khỏi sự giận dữ của Người. Do vậy dù có than khóc suốt dời tôi cũng không làm chàng sống lại được. Vì thế sau khi đã làm trọn nhiệm vụ với chàng, kể cả cho đến lúc chàng xuống mồ, tôi thấy phải tìm mọi cách để khuây khoả. Đó là những lý do ông thấy tôi thay đổi. Để bắt đầu rũ bỏ mọi chuyện phiền muộn, nhất định rũ bỏ đi hoàn toàn và tin chắc ông muốn làm bạn với tôi, tôi đã bảo chuẩn bị một bữa khuya chúng ta cùng ăn uống với nhau. Nhưng tôi chỉ có rượu Trung Quốc mà đang ở châu Phi, tôi muốn thử nếm rượu ở đây làm ra và tôi nghĩ, nếu có, ông sẽ tìm được loại tốt nhất.
Lão phù thuỷ châu Phi không nghĩ hạnh phúc có thể đến mau lẹ và dễ dàng được công chúa Badroulboudour gia ân cho như thế, lão giãi bày rằng không có đủ lời để nói lên sự cảm động của lòng mình trước lòng tốt của công chúa. Lão nói đến rượu châu Phi công chúa vừa gợi ra, ca tụng trong những thế mạnh châu Phi có thể tự hào, việc sản xuất rượu ngon là một trong những mặt chính đặc biệt trong vùng này có loại bảy năm chưa đùng đến và không đánh giá quá đáng, là loại rượu vượt hẳn những rượu ngón nhất trên thế giới. Lão nói thêm:
- Nếu công chúa cho phép, tôi sẽ đi kiếm hai chai và trở lại ngay.
Tôi không muốn làm phiền ông việc ấy, có lẽ cử một người nào đó đi thì hơn.
- Tôi cần thiết phải tự mình đi. Không ai ngoài tôi biết chủ hiệu ở đâu và mở được chỗ chứa bí mật.
- Nếu thế - Công chúa nói - Ông cứ đi và chóng trở lại. Càng lâu tôi càng nóng lòng gặp lại ông và nên nhớ chúng ta ăn cùng nhau ngay khi ông trở về.
Lão phù thuỷ tràn đầy hy vọng, không phải chạy mà đúng hơn là bay đi lấy rượu bảy năm và nhanh chóng trở về Công chúa chắc lão sẽ vội vã, tự mình bỏ loại bột Aladdin đưa cho vào một chiếc cốc để riêng. Họ ngồi đối diện nhau ở bàn ăn, lão phù thuỷ quay lưng về phía tủ buýp-phê. Công chúa nói:
- Nếu ông muốn, tôi sẽ cho biểu diễn ca nhạc nhưng chỉ ông và tôi với nhau, tôi nghĩ chúng ta nói chuyện thích thú hơn.
Lão thấy việc chọn lựa ấy của công chúa lại là một ân huệ mới.
Sau khi ăn một lúc, công chúa đòi uống. Nàng chúc sức khoẻ lão phù thuỷ mà uống xong nàng nói:
- Ông đúng thật khi ca tụng rượu của các ông, tôi chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến thế.
- Công chúa xinh đẹp - Lão vừa nói vừa cầm lên chiếc cốc người ta đưa - Rượu chúng tôi nhận được một vị ngọt mới vì công chúa đã khen.
- Hãy uống chúc sức khoẻ tôi, ông sẽ thấy tôi cũng biết thưởng thức rượu.
Lão uống chúc sức khoẻ công chúa và nhìn vào cốc rượu nói:
- Thưa công chúa, tôi rất sung sướng đã đánh loại rượu này vào một dịp tốt như thế, tôi tự thú nhận trong đời chưa bao giờ uống loại rượu ngon đến vậy và trong trường hợp vui vẻ như bây giờ.
Họ tiếp tục ăn và uống ba lần nữa, công chúa bằng sự chiều chuộng làm lão phù thuỷ say mê, ra hiệu cho thị nữ rót rượu đầy cốc cho mình và cũng rót vào cốc của lão phù thuỷ. Khi mỗi người đã cầm một cốc rượu, công chúa nói với lão:
- Tôi không biết ở nước ông khi ngườị ta yêu nhau người ta uống rượu với nhau như thế nào? ớ Trung Quốc chúng tôi, trai gái yêu nhau đổi cốc cho nhau và uống chúc sức khoẻ nhau.
Đồng thời nàng đưa cốc rượu nàng đang cầm và giơ tay kia nhận cốc rượu của lão.
Lão phù thuỷ vội vã đổi cốc, vui vẻ nhìn nhận việc này là biểu hiện chắc chắn nhất đã chinh phục được trái tim công chúa nên thấy hạnh phúc tột độ. Trước khi uống lão cầm cốc rượu trên tay nói:
- Thưa công chúa, người châu Phi chúng tôi cũng tinh tế trong nghệ thuật yêu đương với mọi khía cạnh của nó, học được cách này tôi cũng phải thể hiện để biết nhạy cảm với ân huệ tôi được đón nhận. Công chúa đáng mến, không bao giờ tôi quên, khi uống cốc rượu của nàng, đã tìm lại được cuộc sống mà sự lạnh nhạt của nàng làm mất hết hy vọng.
Công chúa Badroulboudour chán ngấy lời nói bất tận của lão phù thuỷ, liền ngắt lời lão:
- Chúng ta uống đi, sau đó ông nói tiếp với tôi.
Nàng đưa cốc rượu lên miệng chỉ đụng vào môi trong lúc lão phù thuỷ vội vàng tỏ cho nàng thấy lão thành tâm uống một hơi không để lại giọt nào. Lão ngả đầu về phía sau uống cạn cốc rượu, cho chóng hết. Lão đứng một lúc như thế rồi công chúa thấy đôi mắt đảo ngược, lão ngã đập lưng xuống bất tỉnh.
Công chúa không cần bảo đi mở cửa bí mật cho Aladdin. Thị nữ đã được bố trí đúng cách nhau từng đoàn từ phòng khách đến dưới cầu thang nên lão phù thuỷ vừa ngã xuống thì cánh cửa vừa mở.
Aladdin bước vào, lên phòng khách. Thấy lão phù thuỷ nằm ngửa trên ghế xô-pha, chàng ngăn công chúa vừa đứng lên, mừng rỡ đến ôm hôn mình:
- Công chúa - Chàng nói - Chưa phải lúc này, ta buộc phải đề nghị công chúa hãy đi về phòng, bảo mọi người để ta ở lại một mình để làm việc đưa nàng trở về Trung Quốc cũng nhanh như khi đến.
Khi công chúa đã ra ngoài cùng các thị nữ và thái giám, Aladdin đóng cửa, lại gần xác lão phù thuỷ mở rộng áo lấy chiếc đèn bọc kín trong đó như công chúa bảo. Cậu xát mạnh vào đèn, thần đèn xuất hiện nói như thường lệ. Aladdin bảo:
- Thần đèn, tôi gọi thần để ra lệnh nhân danh cây đèn, chủ nhân của thần, đưa ngay lâu đài này trở lại Trung Hoa đặt vào đúng chỗ, đúng vùng đã bị mang đi.
Thần gật đầu vâng lệnh rồi biến đi. Việc chuyển dịch lâu đài chỉ trong một thời gian rất ngắn, người ta chỉ cảm thấy hai chấn động rất nhẹ, một nhấc lên ở châu Phi và một đặt xuống ở Trung Hoa đối điện với hoàng cung như trước.
Aladdin xuống phòng công chúa, lúc ấy mới ôm hôn nàng:
- Công chúa - Chàng nói - Ta có thể đảm bảo niềm vui của nàng và của ta sẽ trọn vẹn vào sáng mai.
- Công chúa chưa ăn khuya xong và Aladdin cũng cần ăn, nàng cho đưa thức ăn đã chuẩn bị nhưng chưa đụng tới lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Hai người ngồi ăn với nhau, uống loại rượu của lão phù thuỷ, thoả mãn hàn huyên rồi đi về phòng ngủ.
Từ khi lâu đài và công chúa Badroulboudour bị bốc đi, vua cha buồn bã không nguôi, cho rằng con mình đã mất. Hầu như đêm ngày ông cũng không ngủ và thay vì tránh nhắc tới những điều có thể làm mình buồn, ông lại càng hay tìm đến hơn. Trước đây chỉ buổi sáng ông mới lên gian phòng trống để ngắm không chán lâu đài, nay ông lên đấy nhiều lần mỗi ngày, khóc than, đắm sâu hơn và đau khổ với ý nghĩ không thấy điều mình thích nữa và mất đi người ông thân thiết nhất trên đời. Trời vừa sáng nhà vua lên căn phòng bỏ trống cùng ngày lâu đài Aladdin vủa được mang trở lại. Vào phòng trong lòng đau khổ, ông buồn bã nhìn về chỗ quen thuộc nghĩ vẫn trống không. Thấy không còn chỗ trống, lúc đầu ông cho vì sương mù nhưng nhìn kỹ hơn ông thấy đúng là lâu đài của Aladdin. Niềm vui và lòng phấn khởi thay cho buồn rầu. Ông vội vã trở về phòng mình, ra lệnh thắng một con ngựa đi ngay sang lâu đài Aladdin.
Aladdin dự kiến những việc có thể xảy ra, dậy từ bình minh và sau khi mặc một bộ quần áo đẹp nhất, lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ thì thấy nhà vua đang đi đến. Chàng xuông nhà, vừa đúng lúc để đón vua ở cuối bậc thang, giúp ông xuống ngựa. Vua bảo:
- Aladdin, ta chỉ có thể nói chuyện với anh sau khi gặp và hôn con gái ta.
Aladdin đưa nhà vua lên phòng công chúa Badroulboudour. Nàng lúc dậy đã được Aladdin báo là không còn ở châu Phi nữa mà đang ở Trung Hoa, trong kinh thành, trước mặt hoàng cung. Nàng vừa mặc quần áo xong thì vua cha vào, nước mắt dàn dụa ôm hôn nàng nhiều lần. Công chúa vô cùng vui sướng được gặp lại cha mình.
Vua không thể mở miệng nói ngay vì khóc và nghĩ con gái đã bị mất hẳn còn công chúa khóc vì vui sướng được trở về bên cạnh vua cha.
Cuối cùng nhà vua nói:
- Con gái, ta nghĩ niềm vui gặp lại ta làm con có vẻ ít thay đổi như đã không gặp điều gì xấu. Tuy vậy ta biết con đã đau khổ nhiều. Bị mang đi trong cả một lâu đài, gấp gáp như vậy hẳn phải rất lo sợ. Ta muốn con kể lại sự việc ra sao và đừng giấu ta điều gì.
Công chúa vui sướng trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu con ít thay đổi, xin bệ hạ biết cho là con mới bắt đầu thở được từ sáng hôm qua khi có mặt Aladdin, ngườí chồng thân yêu đã giải phóng cho con, người mà con tưởng đã mất đi cùng hạnh phúc, được ôm hôn chàng con hồi phục được sắc thái như trước.
Thực ra mọi khổ cực của con là bị tách khỏi bệ hạ và chồng thân yêu của con, không chỉ riêng về tình nghĩa vợ chồng mà còn mối lo chàng bị bệ hạ nóng giận xử oan. Con đau khổ ít hơn vì tên cướp đoạt với những lời nói trái tai của hắn nhưng con biết cách ngăn chặn hắn. Về việc con bị bắt cóc Aladdin không biết gì hết: chính vì con đã rất vô tư.
Để vua cha tin nàng kể lại tỷ mỷ chuyện tên phù thuỷ trá hình làm người bán đèn rao đổi đèn mới lấy đèn cũ và để vui đùa nàng cho đưa xuống đổi chiếc đèn của Aladdin mà nàng không biết nó là vật linh thiêng liên quan tới việc di chuyển lâu đài sang châu Phi. Sau khi đổi đèn, nhận ra tên phù thuỷ xảo trá lúc hắn đến gặp và tán tỉnh lấy nàng làm vợ, nàng thực sự đau đớn về tâm trí cho đến khi Aladdin đến. Rồi họ bày mưu để lấy lạI chiếc đèn thần bằng cách nàng phẩi giả vờ thân thiện, mời hắn ăn khuya và đầu độc hắn. Phần còn lại, nàng nói để Aladdin kể tiếp.
Aladdin kể nốt đoạn cuối cho nhà vua:
- Thưa bệ hạ, khi người ta mở cửa bí mật, con lên phòng khách thấy tên phản trắc đã nằm chết trên ghế vì uống phải thuốc độc. Để công chúa ở lại không tiện, con bảo công chúa về phòng cùng thị nữ. Còn một mình, con lấy chiếc đèn
trong người lão phù thuỷ ra, bí mật ra lệnh như hắn đã làm để di chuyển toà lâu đài. Con đưa lâu đài về đúng chỗ cũ, dẫn công chúa về với bệ hạ như Người đã ra lệnh. Con không dám giấu giếm gì bệ hạ, xin Người lên phòng khách sẽ thấy tên phù thuỷ đã bị trừng phạt thật đúng tội.
Để tin được tất cả là sự thật, nhà vua đứng dậy đi lên tầng trên và khi thấy lão phù thuỷ châu Phi đã chết mặt trắng bệch vì thuốc độc. Ngài trìu mến ôm hôn Aladdin và nói:
- Phò mã, đừng trách ta về cách xử sự đối với con, tình cảm cha con buộc ta phải thế và ta đáng được con tha lỗi vì đã làm quá với con.
- Thưa bệ hạ, con không hề dám phàn nàn về cách đối xử của bệ hạ, Người chỉ làm việc cần phải làm. Tên phù thuỷ, bất nhân, kẻ tệ hậi nhất trong thiên hạ là nguyên nhân độc nhất về sự bất hạnh của con. Khi bệ hạ rảnh con sẽ kể một thủ đoạn khác hắn đã làm đối với con, không kém đen tối như việc vừa rồi mà nhờ Trời con thoát được.
- Ta sẽ dành một buổi rảnh rang sau này. Bây giờ chúng ta vui mừng hàn huyên đã và cho đưa vật bẩn thỉu này đi.
Aladdin ra lệnh lấy xác lão phù thuỷ châu Phi vứt vào đống rác làm mồi cho chim và thú vật. Nhà vua cho nổi trống kèn và các nhạc cụ khác, tổ chức lễ hội trong mười ngày mừng công chúa, Aladdin và toà lâu đài đã trở về.
Như vậy là Aladdin lần thứ hai thoát khỏi cái chết hầu như không tránh khỏi, nhưng không phải đã hết, chàng còn phải trải qua nguy hiểm thứ ba nữa.
Lão phù thuỷ châu Phi có một người em không kém lão về bùa phép phù thuỷ, có thể nói còn hơn lão về độc ác và mưu mẹo. Hai anh em không luôn chung với nhau ngay cả trong cùng một thành phố, thường một người ở đầu mặt trời mọc thì người kia ở đầu mặt trời lặn nhưng hàng năm qua bói toán họ vẫn biết tin tức của nhau, tình trạng thế nào, có cần giúp đỡ nhau không.
Ít lâu sau khi lão phù thuỷ bị thảm bại vì việc quấy rối hạnh phúc của Aladdin, em lão không ở châu Phi mà ở tại một đất nước rất xa, qua một năm không được tin và muốn biết anh ở đâu, sức khoẻ ra sao và đang làm gì. Em lão vẫn luôn mang theo hộp bói toán, lấy hộp ra, san cát vẽ hình, lập bản tử vi đoán số, nhận thấy anh đã bị đầu độc chết ngay trong một ngôi nhà ở Trung Quốc, tại một địa điểm trong kinh thành do một người nguồn gốc thấp kém nhưng lấy được công chúa đầu độc.
Biết được như thế, em lão phù thuỷ không mất thì glờ khóc lóc thương tiếc chẳng làm anh hắn sống lại được. Hắn quyết định ngay phải báo thù và lên ngựa sang Trung Quốc. Qua bao nhiêu đồng bằng, sông, núi, sạ mạc và sau một hành trình dài, vất vả không tưởng được, cuối cùng hắn đến Trung Quốc và vào kinh thành hắn đã tìm ra trong bói toán. Chắc chắn mình đã không lầm lẫn về cả kinh thành và vương quốc, hắn tìm một chỗ ở.
Ngày hôm sau hắn ra phố, bỏ qua mọi thú vui cảnh đẹp, quyết tâm thực hiện một ý đồ nham hiểm. Hắn lui tới những nơi đông người và chú ý lắng nghe những điều người ta nói chuyện. Ỏ một nơi tổ chức nhiều trò chơi, trong lúc một số người chơi, thì có những người ngồi trò chuyện về những tin tức vừa xảy ra, rồi chuyện trong gia đình. Hắn nghe kể về đạo đức lòng thương người của một phụ nữ ẩn đật tên là Fatime và những phép lạ của bà. Hắn nghĩ người phụ nữ này có thể có ích gì đó cho việc làm của mình. Hắn lân la làm bạn với một người trong bọn, xin cho biết rõ về người đàn bà thánh thiện ấy và bà có những phép lạ gì. Người ấy nói:
Sao? Ông chừa bao giờ thấy và nghe nói về bà ư? Bà là niềm thán phục của toàn thành phố nêu gương tết cho mọI người về sự chay tịch hà khắc. Trừ ngày thứ hai, thứ sáu bà không rời khỏi nơi ân dật, những ngày ra phố bà làm những điều tốt lành vô cùng, không có ai đau đầu mà không được chữa khỏi do bàn tay bà đặt lên đầu.
Không mong muốn gì hơn, hắn hỏi chỗ ở của người phụ nữ thánh thiện ấy.
Dù đã được ngườI ta chỉ, nhưng để nắm rõ hơn hắn theo dõi những việc làm của bà ngay ngày đầu tiên bà ra phố và theo sát đến chíều tối khi bà về nơi ẩn dật. Biết rõ địa điểm rồi hắn trở lại chỗ cũ, nơi ngườI ta uống một chén nước nóng và nếu muốn, có thể ngủ qua đêm, nhất là những ngày nóng nực ở địa phương này người ta thích nằm trên một chiếc chiếu hơn trên giường.
Tên phù thuỷ trả một ít tiền, nằm lại đó và nửa đêm dậy đi thẳng đến chỗ ẩn dật của người phụ nữ thánh thiện, Fatime như cả thành phố gọi bà. Cửa mở chẳng khó khăn gì vì chỉ đóng bằng một cái chết. Hắn bước vào, khẽ khép cửa lại, thấy Fatime đang ngủ dưới ánh trăng, trên một chiếc ghế xô-pha tựa lưng vào vách nhà. Hắn lại gần bà, rút ngọn dao găm ra và đánh thức bà dậy.
Mở mắt, Fatime khốn khổ rất ngạc nhiên thấy một người đàn ông sắp đâm mình. Dí dao vào ngực bà, hắn nói:
- Nếu bà kêu lên hoặc làm một tiếng động nào, tôi giết ngay. Bà hãy dậy đi và làm như tôi bảo.
Fatime đang mặc cả quần áo ngoài nằm ngủ, sợ run rẩy đứng dậy. Hắn nói:
- Đừng sợ, tôi chỉ muốn mặc bộ quần áo của bà, cởi ra đưa cho tôi và bà mặc quần áo tôi.
Họ đổi cho nhau và sau khi mặc quần áo của Fatime xong, lão phù thuỷ bảo:
- Bà tô mặt cho tôi giống như của bà và màu không được phai.
Thấy bà còn run và để bà yên tâm làm theo lời mình hắn nói:
- Bà đừng sợ, tôi nhắc lại, nhân danh Chúa, tôi không giết bà đâu.
Fatime đưa hắn vào phòng, châm đèn, lấy một loại nước trong lọ dùng bàn chải xát vào mặt hắn, khiến cho mặt hắn cùng màu với mặt bà. Sau đó bà đội mũ với tấm mạng của bà lên đầu hắn, hướng dẫn hắn làm thế nào để che mặt khi đi ra phố. Cuối cùng, sau khi quàng vào cổ hắn vòng tràng hạt xuống đến nửa người, bà đặt vào tay hắn chiếc gậy bà thường dùng và đưa gương soi cho hắn xem:
- Ông nhìn đi, ông giống tôi đến mức không làm hơn thế được.
Lão phù thuỷ thấy mình đã như mong muốn nhưng không giữ lời như đã trịnh trọng hứa với Fatime phúc hậu. Để khỏi có máu vì đâm dao, hắn bóp cổ bà, khi thấy bà đã chết, hắn nắm chân kéo vứt vào góc nơi ẩn dật của bà.
Lão phù thuỷ cải trang thành Fatime, người đàn bà thánh thiện ở lại trong nơi ẩn dật suốt đêm còn lại sau khi làm một vụ giết người ghê tởm. Sáng hôm sau, tuy không phải là ngày người phụ nữ thánh thiện ra ngoài, hắn vẫn đi, tin chắc người ta không hỏi về điều ấy và dù có hỏi hắn cung vẫn có cách để trả lời. Vì việc đầu tiên hắn đến đây là để thăm dò về toà lâu đài và chính muốn thực hiện ý đồ mà hắn đi ngay về hướng đó.
Khi người ta thấy người phụ nữ thánh thiện như họ nghĩ, lão phù thuỷ đội lất đã được nhiều người vây quanh. Những người này xin cầu nguyện, những người khác hôn. tay. Một số dè dặt hơn chỉ hôn vạt áo, một số hoặc đau đầu hoặc muốn được chiếu cố, cứ quỳ xuống trước mặt để đọc kinh, hắn bắt chước người phụ nữ thánh thiện khéo đến nỗi mọi người nhầm hắn là bà ấy. Sau khi phải dừng lại nhiều lần để thoả mãn những người dân muốn được bà Fatime đặt bàn tay lên đầu, hắn đến chỗ quảng trường trước lâu đài Aladdin. Ở đây nhiều người dồn lại quanh hắn. Những người mạnh khoẻ hơn chen vào đám đông lấy chỗ nên cãi cọ nhau tiếng ồn lên tận phòng khách hai mươi bốn cửa sổ đang có công chúa Badroulboudour ở đấy.
Công chúa hỏi vì sao có tiếng ồn ào như vậy và bảo người xuống xem rồi lên báo cho nàng biết. Không ra khỏi phòng khách, một trong số thị nữ vén mành cửa nhìn xuống và trở lại nói với nàng: tiếng ồn ào do một đám người chen lấn nhau bao quanh người đàn bà thánh thiện để bà đặt tay vào đầu chữa bệnh.
Công chúa từ lâu đã nghe nói về người đàn bà làm nhiều việc thiện nhưng chưa thấy mặt, nàng tò mò muốn gặp và nói chuyện với bà. Một thái giám thấy công chúa tỏ ý thích liền tâu với nàng nếu cần thì cho lệnh gọi bà ấy lên. Công chúa lệnh cho ông ta cử ngay bốn thái giám dẫn người họ nghĩ là người đàn bà thánh thiện lên lâu đài.
Lúc nhũng người thái giám ra khỏi lâu đài, đám đông thấy họ đi lại phía lão phù thuỷ cải trang, liền giải tán dần. Được tự do và thấy các thái giám đến, tên phù thủy vui mừng vì trò lừa đảo của mình đã có hiệu quả. Một thái giám nói với hắn: Người đàn bà thánh thiện, công chúa muốn gặp bà, hãy theo chúng tôi”.
- Công chúa làm cho tôi rất vinh dự- Fatime giả trả lời - Tôi xin sẵn sàng vâng lệnh Người.
Hắn liền theo thái giám đi về phía lâu đài.
Lão phù thuỷ che giấu con tim ma quỷ dưới lốt thánh thiện được đưa lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ. Thấy công chúa, hắn bắt đầu ngay bằng một tràng cầu nguyện cho sức khoẻ và sự thịnh vượng, nguyện vọng của nàng, và chúc cho mọi nguyện ước của nàng đều trở thành sự thực. Hắn thả hết mọi huênh hoang lừa bịp và đạo đức giả gieo vào tâm trí công chúa dưới vỏ bọc một người kính tin. Hắn đã đạt được kết quả vì công chúa bản chất phúc hậu, nghĩ rằng mọi người đều tốtt như nàng, đặc biệt những người ẩn dật phụng sự Chúa.
Khi Fatime giả chúc tụng dài dòng xong, công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, xin cám ơn những lời cầu nguyện của mẹ, tôi rất tin tưởng và mong Chúa ban phát cho. Mẹ lại gần ngồi bên cạnh tôi đây - Fatime giả vờ khiêm tốn ngồi và công chúa lại nói: - Mẹ phúc hậu, tôi đề nghị một điều đừng từ chối: mẹ ở lại đây với tôi để giữ gìn sức khoẻ và để tôi học được ở mẹ những gương tốtt phải phụng sự Chúa như thế nào.
- Thưa công chúa, tôi cầu xin công chúa đừng buộc tôi điều tôi không dám chấp nhận vì phải bỏ những buổi lễ cầu nguyện và hành lễ kính tin.
- Việc đó chẳng khó khăn gì. Tôi có nhiều căn phòng để trống, mẹ chọn một phòng thích hợp nhất có thể hành lễ tự do như nơi ẩn dật của mẹ.
Lão phù thuỷ không có mục đích nào khác là chui được vào lâu đài Aladdin để dễ dàng thực hiện âm mưu của mình, ở đó dưới sự bảo trợ của công chúa tốt hơn là đi đi về yề từ lâu đài đến chỗ ẩn dật, hắn không để công chúa nài nỉ nhiều lần vội nhận lời ngay.
- Thưa công chúa- Hắn nói - Dù đã muốn dứt bỏ khỏi những sinh hoạt thế tục, nhưng một người đàn bà khốn khổ như tôi, đâu dám táo tợn từ chối ý muốn và sự sai bảo của một công chúa có đức tin và nhân ái đến thế.
Nghe trả lời thế, công chúa đứng,dậy nói:
- Mẹ cùng tôi đi xem những căn phòng trống và tự chọn lấy.
Hắn đi theo công chúa Badroulboudour, xem tất cả những phòng công chúa đẫn tới, tất cả đều sạch sẽ và trang bị tốtt, chọn một căn phòng có vẻ kém nhất, vờ nói nó đã quá rất tốtt đối với mình và hắn chọn lựa chỉ để làm vừa lòng công chúa.
Công chúa muốn dẫn hắn lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ để cùng ăn trưa. Lúc ăn thì phải bỏ mạng hắn vẫn che mặt cho đến lúc đó, sợ công chúa biết hắn không phải người đàn bà thánh thiện như nàng nghĩ, hắn khẩn nài miễn việc ấy cho nói hắn chỉ ăn bánh và mấy quả cây, xin để hắn ăn trong phòng mình. Công chúa chấp thuận nói:
- Mẹ phúc hậu, mẹ tự do như ở nơi ẩn đật, tôi cho người đem bữa ăn đến nhưng nhớ rằng tôi chờ mẹ sau khi ăn xong đấy.
Công chúa đi ăn trưa. Fatime đến gặp nàng khi được thái giám báo nàng đã ăn xong. Công chúa nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, tôi rất hân hoan có một phụ nữ thánh thiện như mẹ chúc phúc cho lâu đài này. Nhân tiện, mẹ thấy lâu đài này ra sao? Trước khi đưa mẹ đi xem từng phòng, trước hết xin mẹ hãy nói xem mẹ nghĩ gì về phòng khách này?
Nghe hỏi, Fatime giả, cho đến lúc đó chỉ luôn cúi đầu thậm chí không nhìn quanh để đóng tốtt trò lừa bịp, ngẩng nhìh phòng khách khắp lượt rồi nói:
- Thưa công chúa, phòng khách này đúng là rất đẹp. Tuy nhiên, theo ý riêng của tôi có thể thấy không có gì trên đời đẹp hơn thế, tôi thấy hình như vẫn còn thiếu mất một thứ.
- Thứ gì vậy, mẹ phúc hậu Mẹ nói cho biết đi. Tôi vẫn nghĩ và tôi cũng nghe nói thế, ở đây chẳng còn thiếu gì nếu thiếu mất thứ gì đó, tôi sẽ cho làm thêm.
- Thưa công chúa - Fatime giả lại nói rất dè dặt – Xin tha lỗi cho lời nói bộc phát của tôi. Theo tôi nghĩ thật quan trọng nếu trên cao, giữa mái vòm treo một quả trứng đại bàng thì không có gì trên thế giới sánh bằng, lâu đài của công chúa sẽ là một kỳ quan trong vũ trụ.
- Mẹ phúc hậu, đại bàng là loại chim gì và có thể tìm một quả trứng ở đâu?
- Thưa công chúa, đó là một con chim to lớn thần kỳ ở trên ngọn núi cao nhất vùng Caucase, kiến trúc sư lâu đài này có thể tìm được một quả trứng cho công chúa.
Sau khi cám ơn Fatime giả, công chúa Badroulboudour trao đổi những chuyện khác nhưng nàng không quên quả trứng đại bàng, dự định sẽ nói với Aladdin khi chàng đi săn về. Chàng đi săn đã sáu ngày và lão phù thuỷ biết thế muốn lợi dụng thời gian chàng vắng nhà. Ngay tối hôm ấy chàng trở về trong lúc Fatime giả vừa xin phép công chúa rút lui về phòng mình. Aladdin lên ngay phòng công chúa bưôc vào, chào và ôm hôn công chúa nhưng hình như nàng tiếp còn hơi lạnh nhạt.
- Công chúa - Chàng nói - Ta thấy nàng không vui như mọi lần. Trong lúc ta đi vắng có điều gì làm nàng buồn và không bằng lòng chăng? Nàng đừng giấu ta: không có gì ta không làm theo sức mình để nàng hết buồn.
- Việc nhỏ thôi - Công chúa trả lời - Thiếp không lo gì về chuyện đó nên không nghĩ đã thể hiện lên nét mặt để chàng nhận thấy. Nhưng trái lại vì chàng thấy có suy nghĩ gì đó nên thiếp không giấu nguyên nhân tuy rất không đáng kể. Thiếp vẫn nghĩ như chàng lâu đài chúng ta đẹp nhất, hoàn hảo nhất trên đời. Tuy thế em chợt nghĩ sau khi quan sát kỹ phòng khách hal mươl bốn cửa sổ, chàng có thấy như thiếp, không có gì tuyệt vời hơn nếu có một quả trứng đại bàng treo giữa nóc vòm?
- Công chúa, chỉ cần nàng thấy thiếu một quả trứng đại bàng treo ở đấy, ta sẽ nhanh chóng cho làm thêm ngay; không có điều gì ta không làm vì tình yêu đối với nàng.
Ngay lúc đó Aladdin lên phòng khách hai mươi bốn cửa sổ, lấy ra chiếc đèn mà từ khi có mối nguy hiểm vì thiếu gìn giữ chàng mang luôn trong người và xát mạnh. Thần đèn hiện ra, Aladdin bảo:
- Thần đèn, trên vòm này thiếu một quả trứng đại bàng treo ở giữa. Tôi cầu mong, nhân danh đèn, thần làm thế nào để bổ sung vào.
Aladdin nói chưa dứt câu, thần đèn thét lên một tiếng rất to và đáng sợ khiến gian phòng rung lên và Aladdin loạng choạng suýt ngã nhào.
Thế nào? Khốn nạn - Thần đèn quát làm run cả người vững vàng nhất - Tôi và các bạn tôi đã làm mọi việc cho Người vẫn chưa đủ sao mà còn vô ơn khôn cùng, đòi hỏi tôi mang chủ tôi đến và treo lên giữa vòm này? Việc xúc phạm đó đáng thiêu huỷ tất cả thành tro ngay, Người vợ Người và toà lâu đài. Người còn may không phải chính Người trực tiếp nghĩ ra lời cầu xin đó. Người cần biết kẻ xúi bẩy: em lão phù thuỷ châu Phi, kẻ thù của Người, đang ở trong lâu đài đội lốt Fatime người đàn bà thánh thiện mà hắn đã giết. Hắn đã gợi ý cho vợ Người lời thỉnh cầu nguy hại Người vừa nói. Ý đồ của hắn là giết Người, phải chú ý cẩn thận - Nói xong thần đèn biến mất.
Aladdin không để mất thì giờ. Chàng đã nghe nói về người đàn bà thánh thiện, cách bà chữa bệnh đau đầu như người ta đồn đại. Chàng xuống phòng công chúa, không nói gì về việc xảy ra, ngồi xuống than phiền cảm thấy rất đau đầu, đưa tay lên bóp trán. Công chúa bảo người đi mời người đàn bà thánh thiện đến và trong lúc chờ đợi nàng kể lại với chồng trường hợp bà ấy có trong lâu đài, và nàng đã cho bà ta ở một gian phòng.
Fatime giả bước vào phòng, Aladdin nói:
- Mẹ phúc hậu của tôi, mẹ lại gần đây. Tôi rất sung sướng được gặp mẹ và hạnh phúc được mẹ ở lại đây. Tôi vừa bị một cơn đau đầu dữ dội. Tôi cầu xin mẹ cho những lời cầu nguyện và hy vọng mẹ không từ chối làm ơn giúp tôi chữa khỏi bệnh ấy.
Dứt lời chàng đứng dậy, đầu cúi xuống nhăn nhó. Fatime giả tiến đến bên cạnh nhưng tay để vào đầu dao găm mang trong mình dưới tà áo. Aladdin để ý thấy, liền nắm lấy tay trước khi hắn rút ra và dùng dao của mình đâm vào tim hắn, vứt xác hắn trên sàn.
- Chàng thân yêu, chàng làm gì vậy? - Công chúa rất ngạc nhiên kêu lên - Chàng giết chết người đàn bà thánh thiện rồi.
- Không, công chua của ta - Aladdin không hề cảm động trả lời - Ta không giết Fatime mà là một tên bất nhân sẽ ám hại ta nếu ta không được báo trước: Tên gian ác này - Chàng vừa nói thêm vừa lật mạng che mặt hắn - Hắn đã bóp cổ Fatime mà nàng thương tiếc và cải trang dưới lốt của bà để đến giết ta: Ta nói để nàng biết rõ hơn, hắn chính là em lão phù thuỷ đã bắt cóc nàng.
Aladdin kể lại nhờ ai mình biết những chi tiết ấy và cho người mang xác chết đi. Như vậy Aladdin thoát khỏi hai anh em lão phù thuỷ làm hại mình. Ít năm sau nhà vua già quá mất đi. Vì không có con trai, với tư cách thừa kế chính thống, công chúa Badroulboudour nối ngôi cha trị vì san sẻ quyền lực tối cao cùng Aladdin. Hai vợ chồng trị vì đất nước trong nhiều năm, để lại một đàn con đông vui và vững mạnh.

***​


Thưa bệ hạ, hoàng hậu Scheherazade nói khi kết thúc những cuộc phiêu lưu về chiếc đèn thần, bệ hạ chắc nhận thấy trong bản chất lão phù thuỷ châu Phi một con người say mê quá đáng của cải bằng những con đường tội lỗi, phát hiện ra nhiều nhưng không được hưởng thụ vì không xứng đáng. Ỏ Aladdin Người thấy ngược lại, một người có nguồn gốc thấp hèn đã vươn lên đến địa vị các vua chúa vì biết sử dụng đủ mức cần thiết những của cải vô tình rơi và tay mình. Trong con người nhà vua, bệ hạ đã biết đó là một đấng quân vương phúc hậu, công bằng và chính trực đã trải qua nguy hiểm như thế nào, thậm chí suýt bị lật đổ chỉ vì một mệnh lệnh bất công quá phi lý, trái với mọi nguyên tắc công minh, vội vã kết tội tử hình một người vô tội không thèm nghe thanh minh. Cuối cùng chắc bệ hạ ghê tởm hành động tồi tệ... của hai lão phù thuỷ bỉ ổi, một lão hy sinh đời mình để có của cải và lão kia đem cuộc sống và tôn giáo của mình báo thù cho một kẻ cũng bỉ ổi như lão và cũng như kẻ ấy, bị trừng phạt vì việc làm độc ác của mình.
Vua Ấn Độ cho hoàng hậu Scheherazade, vợ mình biết ông rất hài lòng về những điều kỳ diệu vừa được nghe về chiếc đèn thần và những chuyện mỗi đêm bà kể làm ông rất vui thích. Thực vậy chúng rất thú vị và hầu như luôn luôn thấm đậm đạo đức. Ông thấy rõ hoàng hậu khéo léo tiếp nối những chuyện này với chuyện khác và không giận vì cách đó nàng làm ông trì hoãn lời thề long trọng chỉ giữ một người đàn bà trong một đêm và sáng hôm sau cho đem hành hình. Thậm chí ông hầu như không có ý nghĩ nào khác để xem cuối cùng ông có làm cho nàng cạn kiệt nguồn chăng.
Với ý định ấy, sau khi nghe hết câu chuyện Aladdin và Badroulboudour, khác hẳn những chuyện cho đến lúc đó, sau khi thức dậy, ông hỏi hoàng hậu cũng vừa thức dậy đã hết chuyện kể chưa.
- Hết chuyện kể ư, thưa bệ hạ? -Hoàng hậu trả lời và xin đề nghị tiếp - Còn lâu thiếp mới hết: số lượng lớn quá đến nỗi thiếp cũng không tính được chính xác với bệ hạ. Điều thiếp sợ là cuối cùng Người thấy buồn, mệt mỏi không muốn nghe nữa chứ không phải thiếp không còn gì kể.
- Nàng đừng sợ thế - Vua lại nói - Xem nàng có gì mới kể cho ta nghe nào.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top