Sự dễ hiểu của thông tin
Chúng ta phải viết theo như cách chúng ta nói, nhưng tốt hơn (Ernest Hemingway).[4]
Chất lượng mặt hàng làm nên uy tín cho thương hiệu của một doanh nghiệp. Thương hiệu của một tờ báo cũng vậy, được xây dựng từ chất lượng của sản phẩm chính: các bài viết. Một trong những yếu tố đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo vệ, nâng cao chất lượng các bài báo là sự rõ ràng trong thông tin. Về nguyên tắc, văn báo là loại văn ai cũng hiểu được, từ người học lớp sáu cho đến sinh viên đại học hoặc cao hơn. Hoặc nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ Hoàng Anh: “…ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi.”[4]
Cách thức tốt nhất để có được những bài báo rõ ràng, dễ hiểu là viết hoặc biên tập bài theo lời khuyên của William Strunk và E. B. White, trong cuốn sách gối đầu giường của nhiều cây bút: không viết thừa. Theo hai ông, “Văn sinh động là văn cô đúc. Câu không thể có từ thừa, đoạn không thể có câu thừa, giống như bức tranh không thể có các đường nét không cần thiết và cỗ máy không thể có các chi tiết chẳng dùng đến. Điều này không đòi hỏi người cầm bút phải viết mọi câu văn một cách ngắn gọn, hoặc dọn sạch mọi chi tiết và chỉ xử lý chủ đề bằng một dàn bài, mà mỗi từ đều phải nói lên cái gì đó.” [4]
Bạn đọc không còn dễ dãi
Trước đây, bạn đọc khá vị tha. Họ sẵn sàng bỏ qua những thông tin, từ ngữ được sử dụng theo kiểu đánh đố, và mua báo của mình. Ngày nay, tình hình đã khác. Sự cạnh tranh của các phương tiện truyền thông để giành giật thời gian, sự chú ý của bạn đọc đã trở nên khốc liệt. Muốn có người đọc, bài viết phải rõ ràng (để có thể được hiểu ngay, không cần phải suy nghĩ nhiều). Nếu phóng viên không làm được điều đó, chính bạn phải làm, vì cơ quan và vì độc giả - bạn đại diện cho họ soát xét trước các bài báo.
Rõ ràng không đồng nghĩa với đơn giản. Trên thế giới này có rất ít những điều đơn giản; bạn đọc cũng không chờ được nhà báo nhai lại những điều phức tạp rồi mớm cho ăn. Nhưng họ có quyền mong đợi các nhà báo viết cho dễ đọc hơn so với các văn bản kỹ thuật phức tạp. Họ muốn đọc báo mà không cần có những kiến thức gì đặc biệt (trừ báo dành cho một giới chuyên môn kiểu như Thời báo Vi tính Sài Gòn).
The Wall Street Journal là nhật báo dành cho bạn đọc trình độ học vấn cao. Tờ báo này chuyên viết về kinh tế, tài chính cũng như các xu hướng văn hóa và các sự kiện chính trị ảnh hưởng đến giới kinh doanh. Nghe thế cứ tưởng tờ báo sẽ khô khan, đặc biệt đối với người không quan tâm nhiều đến kinh tế, tài chính. Thực tế không phải vậy. Tuy viết về các vấn đề phức tạp, nhưng chữ nghĩa và cách viết của The Wall Street Journal lại giản dị, sinh động và lắm khi hài hước nữa. Và sự rõ ràng là tiêu chuẩn được phóng viên, biên tập viên đặt lên hàng đầu.[4]
Vậy nhà báo chuyên nghiệp cần giải thích về kinh tế cho những người không biết kinh tế, giải thích về khoa học cho những người không đủ kiến thức khoa học, quan hệ quốc tế cho người không làm ngành ngoại giao, và chính trị cho những công dân bình thường.
Thường phóng viên hay cãi, cho rằng những người có chuyên môn sẽ hiểu những điều họ viết. Nếu vậy họ đã hạn chế số lượng bạn đọc của mình rồi (không muốn cho số đông đọc). Đó cũng chỉ là một kiểu chống chế. Lại nữa, phóng viên thường chép lại báo cáo của các ban ngành, nhiều khi để luôn lối diễn đạt dài dòng, từ ngữ không mấy dễ hiểu là đặc trưng của văn bản hành chánh. Có khi phóng viên ghi lại cả cách nói cầu kỳ với các từ ngữ cũng không mấy dễ hiểu của một số người làm việc trong các cơ quan công quyền
Ngày nay, báo chí không thiếu những sự phi truyền thông như thế, có thể do các nhà báo cho rằng bạn đọc hiển nhiên là của mình rồi, không cần phải quan tâm tới cảm thụ của họ nữa. Chuyện này không gì mới, nhưng đang có xu hướng gia tăng, làm cho những người chuyên nghề biên tập lo âu. Gia tăng vì xuất hiện những lĩnh vực mới như công nghệ thông tin, v.v. mà ngôn ngữ Việt Nam không đủ từ để diễn tả, định danh, (CADCAM là gì ?) mà người viết thì không buồn giải thích và nhiều biên tập viên sẵn sàng cho qua.
Nhưng thôi, hẳn bạn không muốn trở thành loại biên tập viên như nói ở trên. Vậy hãy tìm cách sửa tất cả những sự lộn xộn, rối rắm, tối nghĩa trong bài vở. Bạn nên suy xét kỹ càng khi gặp các từ trừu tượng, từ khoa học, kỹ thuật hoặc tiếng lóng. Cũng nên tìm cách hạn chế từ viết tắt, lối viết khoa trương, sáo rỗng; cố gắng làm cho bài chữ ít, nghĩa nhiều. Và nên cẩn thận với từ nước ngoài và không dễ dãi để cho người viết sáng tác từ mới. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ thảo luận các vấn đề vừa nêu.
Gạch bỏ từ trừu tượng hoặc biến chúng thành từ cụ thể. Trừu tượng liên quan đến tâm trí. Từ trừu tượng diễn tả ý tưởng chứ không diễn tả thực thể chắc chắn. Không có sự trừu tượng, không có nền văn minh. Và chúng ta sẽ không thể xử lý được những sự phức tạp mà chỉ có thể giao tiếp bằng từ ngữ về sự vật chúng ta nhìn thấy: « cây giáo », « hòn đá », « con ngựa », « cái cây ». Như thế, chúng ta sẽ không thoát ra khỏi thời kỳ hang động. Nhưng lạm dụng các từ như « quy trình », « hiện trạng », « thân phận », « cơ sở vật chất », « bất cập », « chế định » có thể làm cho bài báo trở nên khó hiểu.
Từ Hán Việt thường là trừu tượng. Khi có thể, nên tìm cách thay chúng bằng từ thuần Việt. Nhưng đừng máy móc. Không nên thay « Thủ tướng đi cùng phu nhân » thành «Thủ tướng đi cùng vợ », chẳng hạn. Và có lúc phải dùng chúng thay cho từ thuần Việt để chỉ các bộ phận cơ thể, các hoạt động sinh lý của cơ thể hay những việc làm khiếm nhã: « phân », « hạ bộ », « tiểu tiện », v.v.[4]
Cẩn thận với từ khoa học, kỹ thuật. Ưu điểm của chúng là sự chính xác, nhưng thường chỉ những chuyên gia trong ngành đó mới hiểu. Vậy đừng quên giải thích, khi phải sử dụng loại từ này. Đừng để cho phóng viên đánh đố bạn đọc với các từ y học như thế này trong một bài báo: đặt « nội khí quản », có « tiên lượng » rất xấu, « phác đồ điều trị bệnh viêm phổi cấp do virus », « dung dịch diệt phổ rộng ».
The Wall Street Journal, báo của giới kinh doanh, quy định rằng khi từ chuyên môn xuất hiện lần đầu tiên trong bài, người viết phải giúp bạn đọc hiểu từ đó. Kể cả những thuật ngữ tưởng chừng thông dụng như GNP. Tờ báo giải thích GNP, gross national product, là « tổng giá trị thị trường của sản phẩm và dịch vụ do một quốc gia làm ra. »[4]
Gạch bỏ hoặc diễn dịch tiếng lóng. Mỗi ngành nghề, tổ chức, ngành học, mỗi giới và cả mỗi địa phương đều có tiếng lóng mà chỉ người ở trong đó mới hiểu. Thí dụ, trong các tòa soạn, từ « sapô » được dùng một cách thông dụng. Đây là từ trong tiếng lóng của báo chí Pháp (từ gốc: chapeau hoặc chapô) có nghĩa là phần mào đầu, dẫn nhập vào bài báo dài.[4] Người học tiếng Pháp bình thường chỉ biết « chapeau » là cái mũ.
Tổng vốn từ tiếng lóng thường chỉ vài chục từ cho đến trăm từ; ít khi vượt quá hai trăm từ. Phần lớn bạn đọc không quen thuộc với loại từ này. Ngay cả từ điển cũng không giải thích hết vì chỉ đưa vào những từ của tiếng lóng đã trở nên phổ thông.
Sau một thời gian theo dõi một lĩnh vực, phóng viên trở thành người trong nhà của vài cơ quan trong lĩnh vực đó. Người phóng viên hiểu ngôn ngữ đặc biệt của những người làm việc các cơ quan đó và sử dụng nó để tiếp cận với họ. Khi viết bài, nếu không chú ý, loại ngôn ngữ này sẽ vào bài và bạn đọc sẽ cảm thấy khó chịu hoặc không hiểu bài. Bổn phận của bạn là đòi phóng viên viết theo ngôn ngữ thông thường. Nếu súng thì gọi là súng (giỏi hơn nữa thì cho biết đó là loại súng gì), đừng dùng « hàng nóng » như trong một bài báo về một người đang bị công an truy nã: Theo tài liệu của cơ quan điều tra, Hùng là đối tượng có tiền án tiền sự, chuyên xài « hàng nóng » mỗi khi gây án.
Hạn chế từ viết tắt. Chỉ để lại các từ viết tắt khi thấy cần thiết. Một số lãnh đạo báo chí cho phép phóng viên và biên tập viên tùy tiện viết tắt mà không biết rằng độc giả rất mệt, rất mất công vì phải xem ngược lại lên đầu bài - nơi có các từ đầy đủ - mới hiểu. Đừng làm cho bạn đọc mất hết hứng thú vì phải đọc quá nhiều các từ viết tắt. Nhiều khi viết tắt chỉ tồn tại chỉ trong một bài báo. Đây là kiểu viết lợi mình hại bạn đọc. Tốt hơn hết là cắt bớt từ thừa, những câu, đoạn lòng thòng trong bài để có chỗ viết nguyên các từ mà mình định viết tắt.
Chỉ nên viết tắt những gì đã được viết tắt ổn định và thông dụng như TPHCM. Đừng để xuất hiện những từ được viết tắt kiểu như thế này: THA (thi hành án), RAT (rau an toàn) vì bạn đọc sẽ đọc là « tha » và « rác ».
Giảm nhẹ lối viết khoa trương. Một số phóng viên có xu hướng viết thái quá lên để đánh bóng sự kiện hoặc nhân vật. Họ thổi phồng tầm quan trọng của sự kiện hoặc nhân vật bằng cách tạo ra những lối nói trông hấp dẫn nhưng rỗng. Cần nhớ rằng bạn đọc đến với tờ báo chủ yếu vì thông tin, không vì câu chữ.
Một thí dụ của lối viết khoa trương - ngay trong lời mào đầu của một bài báo - thậm chí vì thế nên sai nghĩa: Dù bằng cách này, hay cách khác, ngọn lửa nhiệt huyết, sáng tạo, tinh thần đột phá và cả sự rắn rỏi, kiêu bạc như một kẻ sĩ trong ông đã từng tỏa sáng và cháy lan trong nhiều thế hệ học trò của trường … Nhiều thế hệ sinh viên Đại học …đã không thể quên GS … - người hiệu trưởng đầu tiên sau giải phóng cùng ngôi sao màu đỏ lung linh trên nền trời nơi ngôi trường của họ.[4]
Chống sáo rỗng. Đây cũng là một loại bệnh: người viết lặp lại các từ ngữ, cách nói năng mà người khác đã dùng đến mòn đi rồi, bất kể chúng có còn hữu ích hay không.
Theo nhà giáo Bùi Minh Toán, “bệnh sáo rỗng, thường dẫn đến những lời nói, câu văn ‘đao to búa lớn’ hay rất văn hoa bóng bẩy (hoa hòe hoa sói) nhưng nội dung lại rất chung chung, thậm chí rỗng tuyếch”.[4] Sáo rỗng còn chứng tỏ tư duy chữ nghĩa của mình nghèo nàn.
Khi bạn đọc từ đầu tiên hoặc vài từ đầu của một cụm từ mà người khác có thể buộc miệng nói tiếp các từ còn lại thì đích thị là sáo rỗng: chuyện nhỏ, biết bao nước đã chảy qua cầu, im như thóc, câm như hến, mọc lên như nấm sau mưa, đường thông hè thoáng… Gần đây, có một cụm từ đang trở thành sáo rỗng vì được xuất hiện liên tục trong các bài báo về nhà đất: Tay không bắt giặc (chỉ các doanh nghiệp bất động sản không có vốn nhưng vẫn làm dự án nhà đất).
Đương nhiên, không thể nào tránh tất cả các sự sáo rỗng. Người viết nhiều kinh nghiệm cũng mắc bệnh sáo rỗng khi phải chạy đua với thời gian, gõ bàn phím máy tính dưới áp lực của giờ lên khuôn. Nhưng bạn phải chú ý để sửa theo kiểu bớt được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Đừng để cho bài nhiều chữ quá. Biên tập viên phải hà tiện « đất », tức diện tích các trang báo; sử dụng đất một cách khôn ngoan và đúng đắn. Như vậy phải gạch bỏ những từ thừa, lặp lại và tất cả những hình thức phung phí diện tích khác.
Tìm và sửa được những chỗ chữ nhiều, nghĩa ít là tài năng đáng giá nhất của một người biên tập. Chữ thừa chiếm chỗ; gạt bỏ được chúng đồng nghĩa với việc thêm thông tin, bớt chi phí cho tờ báo. Giảm từ cũng là giảm thời gian đọc, hỗ trợ cho những người hay than phiền không có thời giờ đọc báo.
Không dùng từ vay mượn của tiếng nước ngoài chưa đi vào vốn từ phổ thông. Hiện nay, một số người hay dùng tiếng Anh một cách không căn cứ. Dường như họ muốn khoe chữ, làm sang, trong khi vốn liếng tiếng Anh không nhiều (người hiểu sâu một ngoại ngữ lại ít khi khoe). Đề cập đến thực đơn của một nhà hàng, chẳng hạn, một nhà báo đã viết sai mà không biết: « poster menu » (poster là tấm bích chương… và menu là thực đơn; hai từ này không dùng chung với nhau). Có nhà báo viết « nhà đầu tư » xong, lại chua thêm tiếng Anh - « investor room », tức là « phòng đầu tư », biến người thành đồ vật!
Không nên chấp nhận lối viết ba rọi như thế này: “hàng hot”, hoặc “một view quá lý tưởng …” Nên đề nghị phóng viên diễn tả ra: hàng gì được bán chạy; góc nhìn ra đường đó như thế nào. Cũng không cần thiết phải dùng “đi shopping”. Tại sao không viết “đi mua sắm” nhỉ?
Cẩn thận với từ mới. Trong một cuộc họp nhằm tìm cách thức gỡ khó cho các công ty xây nhà, kinh doanh đất, một quan chức cho biết chính quyền thành phố sẽ mua lại nền đất hoặc căn hộ của các doanh nghiệp này. Phóng viên tường thuật lại lời ông, nói rằng đó là hướng “xuyên băng” của thị trường bất động sản. Người ta hay nói “đóng băng”, và ngược lại, “tan băng”, không ai nói “xuyên băng”. Có nên sáng tác từ mới kiểu như vậy không ?
Có một số từ khác được tạo ra, cũng không theo nguyên tắc nào, như « đinh tặc » (người rải đinh cho thủng bánh xe gắn máy của người khác rồi vá hoặc bán ruột xe ăn tiền - nhiều) ; « ngói hóa » (nhà tranh chuyển thành nhà ngói).
Nhà báo phải là một lực lượng - bên cạnh các thầy cô giáo và những người hành nghề viết lách khác - quảng bá và bảo vệ sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ.[4] Cần nhớ: ngôn ngữ viết luôn có tính bảo thủ. Không giống với văn nói, nó không chấp nhận những lối diễn đạt luông tuồng, cẩu thả.
Ngoài việc làm cho các bài báo trở nên rõ ràng, dễ hiểu, biên tập viên còn phải tìm cách sửa chữa các chỗ phóng viên đã để cho sự thiên lệch xuất hiện.
TÌM HIỂU VÀ THỰC HÀNH ẢNH BÁO CHÍ
Ảnh báo chí có những nguyên tắc mà nhà nhiếp ảnh làm báo phải tuân thủ, không thể lầm lẫn. Đây cũng là lằn ranh bắt buộc để phân biệt với ảnh sáng tác hoặc các ngành ảnh khác, trên bình diện nghệ thuật.
1. TÍNH TƯ TƯỞNG
Ảnh báo là một đặc trưng “tiếng nói bằng ảnh” trên mặt báo, nhưng phải là “một binh chủng hợp thành” của báo chí, đồng bộ với các loại hình ngôn ngữ văn hóa khác “hợp xướng, đồng ca” tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Và trên hết, nhắm vào mục đích văn hóa – tư tưởng xã hội.
Ảnh báo chí là ngành ảnh thực hiện rõ nhất bản chất của nhiếp ảnh: chụp cái hiện hữu, đang vận động. Từ vật chụp bộc lộ một định hướng tư tưởng. Thực ra, bất kỳ một tấm ảnh nào cũng có chủ ý nhất định.
Tính tư tưởng – linh hồn của ảnh báo chí – được thể hiện qua:
Nội dung của ảnh: Là sự nỗ lực của con người và tập thể trong lao động xây dựng đất nước thông qua trạng thái tinh thần vươn tới lý tưởng chân – thiện – mỹ. Thông qua chủ quan, ảnh báo chí còn luôn đi tìm bản chất, trung tâm của sự kiện. Từ đó khai quật cái hay, cái tốt của sự thật hoặc cái đẹp của tâm hồn. Dễ thấy nhất : đồng lúa chín vàng biểu hiện của sự no đủ, được mùa; nghệ sĩ thường “hớt ngọn” bề mặt đồng lúa với những bông lúa trĩu hạt; phóng viên ảnh đi vào tìm hiểu, khai thác “tầng sâu” nước –phân –cần –giống và năng suất, nguyên nhân làm nên cánh đồng lúa chín, biểu dương những nhân tố tích cực. Phóng viên cũng xúc động trước trời, mây, sông, núi nhưng biết tìm đến công việc của người đánh bắt cá, người trồng rừng. Ảnh báo chí dựng nên những bức lao động hoành tráng của con người. Chỉ phóng viên ảnh báo chí mới nhìn ra giọt mồ hôi trên khuôn mặt vị bác sĩ trong ca giải phẫu.
Ngôn ngữ của ảnh báo chí là chính luận; hình tượng ảnh báo chí là chính diện.
Mối quan hệ tay ba: hiện thực –phóng viên –bạn đọc liên hệ mật thiết và tác động qua lại. Hiện thực khách quan qua sàng lọc của phóng viên sẽ định hướng cho bạn đọc, đem đến cho họ tri thức mới, giúp nâng cao tư duy và dẫn đến hành động. Đến lượt hành động thúc đẩy lại hiện thực tiến bước. Và vòng tuần hoàn này góp phần phát triển xã hội.
2. LƯỢNG THÔNG TIN THỊ GIÁC
Tin tức là gì? Đó là bất cứ thứ gì trước đây chưa biết hoặc mới xảy ra. Những gì được nghe nói, được rỉ tai, được kể bằng lời, báo chí dùng phương tiện nhiếp ảnh “kể” bằng tận mắt nhìn để mọi người mục sở thị. Quan niệm mới về thông tin là bất cứ hoạt động nào tham gia vào mặt trận truyền thông đại chúng, tìm mọi cách để sớm đến với bạn đọc. Thật đơn giản: mọi người nghe nói có con vật lạ đầu tiên được nhìn thấy ở gần Quảng Bình, được gọi là con Hươu Sao La, thì nhiều người và cả một số nhà sinh vật học thế giới đã bay đến Quảng Bình tìm hiểu, đánh giá khoa học, xếp giống loại, quay phim, chụp ảnh đăng quảng bá hiểu biết về con vật mảnh mai, mình hươu, đầu nai, tai ngựa.
Cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền dài hàng ngàn mét, nghe nói được áp dụng kỹ thuật làm cầu hiện đại nhất khu vực, mà bằng dây treo, cầu treo dây văng là thế nào? Thì đây, ảnh cây cầu đã được in trên báo. Mỗi tờ báo đem đến cho bạn đọc một cái nhìn cụ thể, chi tiết nhìn cây cầu ban ngày, nhìn cây cầu ban đêm chiếu sáng như trong mơ, này các bộ phận dây văng, này dải ngăn cách, này độ cao chiếc cầu mà con tàu đang rẽ sóng dưới bóng của nó … Và đây, ảnh lễ khánh thành, ảnh chân dung những con người lao động xây dựng nên cây cầu lịch sử, …v.v….Lợi ích của thông tin bằng mắt là vậy.
Đối với nhà báo, câu hỏi vẫn luôn đặt ra: Tin gì? Ở đâu ra? Các biên tập viên tin tức thế giới tìm nguồn tin toàn cầu, ghi chép, chọn lọc... trên cơ sở lao động của động nghiệp bốn phương. Còn tin tức trong nước? Phải bằng chính công sức cuốc xới trên mảnh đất của mình để tìm ra những vỉa kim loại mang nội dung tin tức. Thế giới đối tượng của phóng viện được chia làm hai loại sự việc: sự việc bất thường nảy ra tin tức và sự việc thường ngày –vốn chiếm nhiều nhất những điều tai nghe mắt thấy của biên tập viên, phóng viên, nhưng phải sục sạo, tìm tòi, phân tích, lý giải mới tìm ra được yếu tố tin tức.
Phóng viên ảnh tham gia vào công việc báo chí là công việc có định hướng. Chụp gì? Tại sao, (việc đó) như thế nào ? Đó là những câu hỏi mà phóng viên đặt ra cho mình hằng ngày, trong khi không ngưng nghỉ việc đưa ảnh lên báo. Các nhà quản lý báo thường xuyên nhắc nhở phóng viên của mình và những cộng tác viên đắc lực: Chụp gì? Tại sao? Như thế nào? Để đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc và cũng vì lợi ích sống còn của tờ báo. Qua điều tra của các tổ chức báo chí thế giới, có một kết luận được đưa ra: tờ báo nào có ảnh giải đáp chặt chẽ, phong phú thì tờ báo đó giành được nhiều bạn đọc hơn.
Đến đây, điều quyết định chất lượng thông tin là nội dung phải chụp trở thành yếu tố hàng đầu của ảnh báo chí. Lãnh vực báo chí khai thác tình trạng động, biến động ở trong đó, về những gì quan hệ đến đời sống con người. Đứng hàng đầu những điều quan tâm là những vụ việc cấp bách trực tiếp đến sinh mệnh của số đông: chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, nạn đói. Thứ đến là những thành tựu do con người làm ra: hòa bình, hữu nghị, sinh hoạt chính trị của toàn dân, những công trình to lớn ích nước lợi dân, những thành tựu kinh tế, những phát minh và sáng tác biểu hiện tài năng trí tuệ con người, những biểu tượng về đức tính tốt đẹp truyền thống của dân tộc …
Phương tiện nhiếp ảnh có khá nhiều thuận lợi để báo tin cấp kỳ, trình làng bộ mặt của sự kiện lúc xảy ra. Đồng thời những nhà báo nhiếp ảnh tinh thông nghề chụp ngay lấy hành động cùng bộ mặt con người trong sự kiện. Thái độ vui buồn hay lo âu, rạng rỡ hay thảm cảnh cũng như mối quan hệ giữa người với người trong sự kiện. Trong những công trình do con người làm nên, chủ đạo vẫn là hành động và bộ mặt con người đang xây dựng. Cũng như con người trong phát minh, sáng tác, sản xuất, thu hoạch mùa vụ, học hành …Bên cạnh những cỗ máy to lớn, những phương tiện tinh xảo thì điều ảnh báo chí truyền đạt vẫn phải là mặt, hành động, cử chỉ con người.
Vấn đề con người là trung tâm miêu tả, tái hiện của báo chí – và do đó, xác lập trong nghệ thuật nhiếp ảnh – là một quan điểm hình thành qua tranh luận, đấu tranh tư tưởng và ý thức lâu dài mới đạt được. Có một số người chủ trương: thảm cảnh, tai họa, sáng chế, phát minh, …nó đã xảy ra, anh là nhà báo hãy chụp nó như nó vốn có, ảnh càng ác liệt, giật gân càng thu được nhiều tiền.
Nhưng chúng ta chủ trương: sự việc đương nhiên đã và đang xảy ra, nhưng con người có thể chế ngự thảm họa, cưu mang nhau vượt qua thảm họa; những thành tựu, những điều tốt lành trong đời mà con người coi là đạo lý có thể nhân ra. Lập luận này tích cực chứng minh luận điểm: con người là trung tâm của thế giới, là chủ thể hưởng thụ cũng là chủ thể cải tạo và xây dựng thế giới; chiến tranh không phải là định mệnh của loài người. Điều phân định này lý giải: ảnh báo chí nói riêng và báo chí nói chung của nước ta không coi sản phẩm của mình là thương phẩm đơn thuần, mà coi đây là công cụ làm chủ của nhân dân; và qua đó nói lên phẩm chất đạo đức của nhà báo.
Có một thực tế: Trong cơ quan báo, hầu hết biên tập viên, phóng viên viết đều được học về nhiếp ảnh. Nhưng phần lớn trong họ không phải là phóng viên ảnh. Bởi việc chuyên viết, chuyên chụp có những ngón nghề riêng biệt. Nhà nhiếp ảnh làm báo –phóng viên ảnh có đặt trưng về tư duy hình ảnh, có khả năng làm mọi chuyện mà mình gặp thành thứ nhìn thấy được. Robert Kerns, nhà nhiếp ảnh người Mỹ (trong sách Photo Journalism) đưa ra kết luận: nghề nghiệp phóng viên ảnh phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc (giống như nhà xây dựng mà xây dựng một cái nền vững chắc, sao cho ngôi nhà khỏi đổ). Nền tảng vững chắc của phóng viên ảnh dựa trên cấu trúc hợp thành thống 3 yếu tố: Suy nghĩ, Hình dung trước, Thể hiện, gọi là bộ ba truyền thông tin thị giác.
Suy nghĩ là năng lực làm việc của mọi người, mọi nghề. Ở báo chí, sự sung sức của cơ thể (phóng viên) làm khuếch đại suy nghĩ thị giác. Suy nghĩ thị giác dựa vào tri thức và khát vọng. Tri thức chính xác, đầy đủ của phóng viên ảnh nhằm xem xét chọn lọc, phân tích, tổng hợp, đánh giá đối tượng tái hiện và khát vọng hành động, hành động tức thì, hành động vì mục đích truyền tải nhận thức của mình tới bạn đọc.
Hình dung trước tác phẩm mà mình sắp sửa (hoặc sẽ) bấm máy. Đây là năng lực rất riêng biệt của nhà nhiếp ảnh, ở đây là phóng viên ảnh. Ansel Adams là người đầu tiên khai sinh khái niệm sự hình dung trước, sự tưởng tượng rõ ràng trong trí óc (Visualization) trong sách The Negative (âm bản). Theo nhà tự nhiên học kiêm nhiếp ảnh gia này, sự hình dung trước, từ chỗ tìm tòi ý nghĩa, bản chất đến hình thể tái hiện, bố cục, sắc độ, hiệu quả tương phản, sáng chói như nó sẽ xuất hiện trên tấm ảnh được làm tấm âm bản. Hình dung trước giúp nhà nhiếp ảnh thay đổi cả một bố cục lý tưởng nhất. Khả năng hình dung trước giúp nhà nhiếp ảnh thay đổi và quyết định các biện pháp thu hình tại chỗ, thậm chí đến cả một bố cục lý tưởng nhất. Có người có khả năng hình dung trước những ý tưởng chụp ảnh lâu dài, có tư duy hình tượng hóa.
Thể hiện là giai đoạn sử dụng công nghệ thích hợp và tốt nhất nhằm truyền tải hình ảnh đã được suy nghĩ và hình dung trước. Lúc này, phóng viên ảnh phải giải đáp những câu hỏi đặt ra.
-Mục đích chụp (tấm ảnh này) là gì ?
- Ai là người xem ảnh ?
BA THÀNH PHẦN CỦA ẢNH BÁO CHÍ
1. CHỦ ĐỀ ẢNH
Trong xã hội mênh mông, bát ngát, dàn “ăngten của báo chí” buộc phải chia thành những “cửa tiếp xúc” và phản ánh để khỏi sót bất cứ một diễn biến nào. Đó là các sự kiện chính trị đối nội và đối ngoại, ngoại giao và hữu nghị quốc tế, kinh tế (công nghiệp – nông – lâm - thuỷ - hải sản), văn hoá, giáo dục, khoa học, xã hội, quân sự - quốc phòng – an ninh. Mỗi một cửa tiếp xúc lại bao quát nhiều lĩnh vực, như công nghiệp có công nghiệp nặng (hầm mỏ, luyện thép, dầu khí, điện lực, cơ khí, hoá chất…), công nghiệp nhẹ (giấy, vải, đường sữa, chế biến nông sản, thực phẩm, đồ nhựa, may mặc…), tiểu thủ công, mỹ nghệ, hàng truyền thống dân gian.
Ngay cả lĩnh vực nông lâm thuỷ hải sản lại cũng có thể chia nhỏ như sau: nông dân, nông thôn, mùa vụ, sản phẩm nông nghiệp, xuất nhập khẩu, phương tiện đánh bắt, nuôi sống … giao thông vận tải (cầu đường, hàng không, hàng hải…)
Khi đã có đề tài thể hiện, giữa những ngổn ngang, đan chồng của tình hình, phóng viên phải sàng lọc, phân tích, đánh giá, tìm ra những điểm hội tụ có khả năng nảy sinh thông tin và cần thông tin, để thành chủ đề, rồi tìm cách tái hiện bằng được. Trước đây, giới ảnh báo chí phân tích làm hai khái niệm: chủ đề và tư tưởng chủ đề. Thực ra, thuật ngữ chủ đề đã bao hàm: “Vấn đề chủ yếu được quán triệt trong nội dung một tác phẩm trong văn học nghệ thuật, theo một khuỵnh hướng nhất định” (Từ điển tiếng Việt). Vậy chủ đề đã khẳng định tính tư tưởng mà phóng viên muốn đề cập từ đề tài.
Ở đâu ra những chủ đề có lượng thông tin đối với nhà báo? Trước hết, ở tầm vĩ mô quốc gia, những vấn đề về chính trị - xã hội, liên quan đế quốc kế, dân sinh: hoạt động của trung ương Đảng và Nhà nước, những sinh hoạt chính trị, ngoại giao, quốc sách kinh tế, an ninh và quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh, tình trạng chiến tranh,… Những nội dung này, đối với nhà báo, có cái được biết trước, có cái đột xuất, có cái phải tìm hiểu, điều tra để phát hiện.
Thứ đến, hằng ngày, thường xuyên, từng phút, từng giờ, luôn có sự việc mới xảy ra hoặc đang xảy ra trên các địa bàn lãnh thổ, trong tất cả các lãnh vực của đời sống. Nhà báo nhờ thường trú, túc trực tại chỗ hoặc thông qua cộng tác viên, thông tin viên mà nắm được thông tin rồi có mặt tại hiện trường. Tuy ở mức độ sự việc mà anh ta quyết định phương tiện giao thông, để có mặt ở nơi cần phản ánh thành ảnh.
Một loạt sự việc khác cũng đến với phóng viên: các tổ chức, đơn vị, địa phương, người chủ trì công việc mời tới thực hiện phóng sự về việc làm của mình. Tại những nơi này, thường có những bộ phận hoặc nhân sự chuyên trách công tác tuyên truyền, văn hoá đứng ra mời và làm việc với phóng viên. Họ giúp phóng viên rút ngắn được thời giờ thâm nhập thực tế, mau chóng tìm ra những đối tượng và các tình tiết thông tin cần thiết. Tuy nhiên, phóng viên vẫn phải bằng tư cách độc lập công tác, thẩm tra khéo léo, khuôn lại những vấn đề chủ yếu, tránh sự chủ quan của “chủ nhà”.
Đến đây, phóng viên đã có cơ sở để lấy in. Nhưng trên cơ sở tiếp xúc đó, xác định chủ đề của ảnh như thế nào?
Từ mô hình con người mới, báo chí đã tìm đến những con người thật, việc thật, người tiên tiến, việc tiên tiến và người tốt, việc tốt.
Phóng viên ảnh thường thông qua phương pháp phóng sự, vận dụng thể loại chân dung, sinh hoạt… khai thác khía cạnh đưa tin từ những tấm gương đó, làm đòn bẩy thúc đẩy xã hội đổi mới và tiến tới. Với một tỷ lệ ít hơn, phóng viên ảnh đến nơi những người, những việc chưa tốt, bằng phương pháp tìm hiểu của nhà báo nhân dân, trò chuyện cùng họ, lắng nghe tâm tư, bàn biện pháp tháo gỡ, trân trọng những diễn biễn hướng thượng để phản ánh về họ.
Tóm lại, xây dựng đề tài theo hướng tích cực xã hội là lương tâm và trách nhiệm của nhà báo nói chung và nhà báo chụp ảnh nói riêng
2. HÌNH TƯỢNG ẢNH
Người ta nói một tấm ảnh tốt có thể thay cho hàng ngàn lời nói là nhờ vào tính cô đọng của hình tượng trong ảnh. Cả một sự kiện nhiều diễn biến, nhiều tình tiết, nhiều hướng phát triển, vậy mà chỉ cần cô đọng vào một tấm ảnh (hoặc một nhóm ảnh). Khi đã có chủ đề rồi thì đến miêu tả tái hiện lượng thông tin. Thời cơ bấm máy là đáp án của cả một bài toán nghề nghiệp (góc độ bao quát, ánh sáng tối ưu, mối quan hệ cận – trung – toàn cảnh?, mối quan hệ vật chính - vật phụ?...). Thứ đến là phán đoán, quyết định thời điểm tiêu biểu nhất của cảnh hoạt động trước mắt, săn đón, chờ đợi cái chớp nhoáng kỳ diệu ấy. Sự kỳ diệu chỉ có thể tìm thấy ở động tác hành động của nhân vật, hoặc các nhân vật, tư thế - động thái – tình cảm ở thời điểm tiêu biểu nhất, giàu chất biểu hiện và thuyết phục làm thành sự cô đọng của hình tượng trong ảnh. Thời cơ, dẫu do khách quan hoặc do chủ quan phóng viên thúc đẩy, khi đã đến đỉnh điểm, anh ta phải biết chớp lấy.
Henry Cartier – Bresson, với tư cách là một phóng viên xông xáo, đã rút ra kết luận: tôi không, và không thể sáng tác ra ảnh, nhưng tôi làm giàu khả năng biểu hiện của ảnh.
Thực tiễn hoạt động của bất cứ phóng viên nào sành kỹ thuật nhiếp ảnh đều thấy những cách thức làm giàu sức biểu hiện của ảnh là đều nằm trong tầm tay: ánh sáng, góc đứng chụp, cắt cảnh, bố cục… Và, mãi mãi thấy lời của Bresson là chân lý của ảnh báo chí: điểm của cú bấm máy. Cú bấm máy bao hàm hai lĩnh vực: tính quy luật của máy ảnh “nhìn thấy cùng lúc” mọi thứ trước mắt và tính chủ động thu hình của nhà nhiếp ảnh vào lúc điển hình, cao trào. Tính chủ động của nhà nhiếp ảnh còn biểu hiện ở tài năng tạo hình, biết nhấn mạnh, tô đậm chủ đề vừa đưa xuống hàng thứ yếu - thậm chí gạt bỏ - những tình tiết phụ, những chi tiết thừa.
Ảnh báo chí được phép gia công thẩm mỹ nhằm tăng cường giá trị mỹ cảm, nhưng lại không được sa đà vào phương pháp này, thường rất dễ thấy ở những nhà nhiếp ảnh không chuyên, những người cầm máy thẻ đang đứng trước “ngã ba đường: ảnh báo chí và ảnh sáng tác”.
Hình tượng nghệ thuật mang tính khái quát cao phản ánh những nét tiêu biểu, bản chất của hiện thực được biểu hiện trong cái cá thể - con người và sự việc riêng biệt – sinh động, không lầm lẫn với bất kỳ nhân vật hoặc tác phẩm nào đã có. Nói như trong phương pháp hiện thực: phản ánh con người điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Lấy làm ví dụ: Phóng viên Đức Như xây dựng tác phẩm THU HOẠCH VỤ MÙA. Anh tìm đến hợp tác xã Vũ La (Thái Bình), một hợp tác xã tiên tiến điển hình về sản xuất nông nghiệp đạt sản lượng cao, hoàn thành các nghĩa vụ về lương thực và quốc phòng, nhờ tổ chức lực lượng sản xuất tốt và cải thiện đời sống nông dân: anh chọn thời điểm lúc thu hoạch một vụ lúa được mùa.
Ở đấy, anh làm phóng sự báo chí về mùa thu hoạch, nêu diện tích, năng suất, biện pháp kỹ thuật gieo trồng và chăm sóc, biểu dương tổ khoa học kỹ thuật của thanh niên nông dân, đồng thời chú tâm xây dựng hình tượng nhân vật phụ nữ mới. Trong ảnh là một phụ nữ tiêu biểu cho lớp nữ thanh niên nông thôn mới, bộc lộ tinh thần làm chủ được giải phóng khỏi những tàn dư phong kiến cũ, ôm những lượm lúa chín nặng hạt nói lên ý nghĩa được mùa, riêng cô thợ gặt nét mặt sảng khoái, cơ thể cường tráng, trong tư thế bước đi sinh động. Tác phẩm tạo hình thanh thoát, một ánh sáng bên trên cao chiếu xuống làm rạng sáng khuôn mặt, tạo phần sáng tối khuôn mặt, tạo phần sáng tối lập thể trên thần hình giàu sức biểu cảm; bộ quần áo nông dân ngày mùa, những lượm lúa, mặt cánh đồng lúa đang gặt, khắc hoạ nên một cảnh tượng hiện thực.
Tác phẩm của Đức Như đã toát ra hiệu quả điển hình hoá và cá thể hoá của hình tượng nghệ thuật.
Tác giả Lê Tú, một tay máy chụp dịch vụ văn hoá, quyết tâm xách máy… dấn thân đi chụp người thật việc thật. Anh nói: “Tôi xem truyền hình và tình cờ thấy anh – thương binh thương tật ¼ Nguyễn Nam Quốc - cụt cả hai tay. Tôi cùng một số đồng nghiệp sang Quận 8 (TP.HCM) tìm anh để xin chụp ảnh. Nhưng anh hẹn mấy tháng sau, khi nào thu hoạch cá sẽ nhắn sang chụp luôn thể. Hôm sang chụp, tôi bấm luôn một hơi 4 cuộn phim. Hơn 120 ảnh, tôi chỉ chọn được một ảnh gửi dự thi…”. Và tác phẩm MƯU SINH ra đời. Tác giả đã chọn từ trong xấp ảnh chụp nhiều cảnh sống, làm việc của nhân vật; dùng đôi chân thay tay khoát cặp mái chéo xuống, lội nước giăng lưới, xua gom cá… để chắt lọc lấy tấm ảnh anh thương binh dùng hai cài tay giữ chặt mép lưới, cười khoái trá trước một mẻ cá lớn, dầy đặc, quẫy nước.
Tác phẩm miêu tả một nhân vật “tàn mà không phế”, mang phẩm chất của con người mới, người tiên tiến - nạn nhân của chiến tranh - để khẳng định con đường mưu sinh và đạt tới thành công. Tác phẩm cũng nói lên tấm lòng của tác giả, cảm phục và xúc động trước ý chí của con người, một biểu hiện của nhân sinh quan tích cực. Tính cách nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã giúp tác giả xây dựng nên một hình tượng nghệ thuật điển hình hoá, cá thể hoá. Tác phẩm đã đoạt giải Grand Prix của ACCU năm 1998.
3. CHÚ THÍCH ẢNH
Ảnh báo chí coi chú thích ảnh là bộ phận hợp thành, không thể thiếu. Nói cách khác, ảnh báo chí có hai kênh: kênh hình ảnh và kênh ngôn từ. Ở ảnh một tấm, ngôn từ là chú thích ảnh. Ở ảnh nhóm (tường thuật, tổng hợp, phóng sự, ký sự…), ngôn từ trở thành bài viết công phu.
Ở ảnh báo chí, hình tượng là yếu tố truyền đạt hàng đầu. Tuy nhiên, hình tượng không nói hết được những chi tiết thông tin như thời gian, địa điểm, tên người, quá trình công việc và hiệu quả. Lại nữa, đề phòng tính nhiều nghĩa của hình tượng có thể làm nhiễu thẩm định của bạn đọc, phóng viên khuôn lại chỉ một định hướng mà thôi. Trong trường hợp này, ngôn từ của ảnh là chìa khoá giúp bạn đọc khám phá, suy ngẫm, tự rút ra kết luận.
Giới báo chí đã đưa ra các yêu cầu cho lượng thông tin trên báo, gọi là 5 yếu tố tin tức, viết tắt bằng 5 W + H. Đó là
- Ai (Who)
- Cái gì (What)
- Ở đâu (Where)
- Tại sao (Why)
- Khi nào (When)
- Như thế nào (How)
Với 6 yếu tố tin tức, nhà báo đã nói được nhiều. Nhưng chưa phải là tất cả. Và, chẳng ai hạn chế nhà báo khi cần thêm thắt những điều anh ta thấy cần thiết cung cấp cho bạn đọc. Ví dụ: số liệu so sánh với cùng kỳ năm trước, dự báo trước mắt… và cả những lời bình.
Ở ảnh báo chí, một tấm ảnh khi đứng độc lập, chú thích ảnh cần được chăm sóc chu đáo. Trong trường hợp này, thường nảy sinh một mâu thuận nhỏ: sự việc cần đưa tin thì bao quát rộng mà tấm ảnh chỉ chụp được một tình huống cụ thể. Phóng viên ảnh viết chú thích làm hai đoạn: đoạn tin bao quát để bạn đọc hiểu được sự việc và tiếp theo, đoạn tin cụ thể liên quan đến cảnh được bấm máy ra thành ảnh.
Ảnh thời sự hôm nay là ảnh tư liệu của ngày mai, chú thích được sử dụng hôm nay là chú thích nguyên thuỷ, được lưu giữ mãi cho sau này. Nó được làm căn cứ cho việc truy cứu khoa học về sau.
Về sau, ảnh được đem ra dùng cho nhiều nhu cầu (báo chí sử dụng tư liệu, biên tập bộ ảnh triển lãm, giao lưu quốc tế, đưa vào bảo tàng, nhà truyền thống, chọn thi “nghệ thuật”, xuất bản tuyển ảnh …). Mỗi lần sử dụng lại, tuỳ yêu cầu mà chú thích nguyên thuỷ có thể được rút gọn, biên tập lại,… nhưng vẫn cần thiết giữ những giá trị gốc (người, địa điểm, thời gian, công việc). Về sau, thời gian càng xa, những giá trị gốc giúp ích nhiều cho nhà xã hội học, lịch sử học trong tương lai.
Bài viết kèm những nhóm ảnh, tuỳ thể tài ảnh nhóm mà viết thì sẽ linh hoạt. Có thể được coi như văn bản văn học, giúp bạn đọc soi sáng, gợi mở nhiều khía cạnh, có thể nhận xét, đánh giá, cổ vũ …Tuy nhiên, bài viết không nên dài, không lặp lại những gì mà ảnh đã nói lên được.
Khi sử dụng ngôn từ, phóng viên gặp một số khó khăn: nhân vật phải có đủ tên họ và chức vụ, hàm, vị, tước hiệu phải rất chính xác, biểu hiện sự nghiêm túc. Gặp khi chụp những nội dung khoa học kỹ thuật chuyên sâu, các phương pháp công nghệ, tên máy móc, phương tiện, công suất, tên sản phẩm, công dụng, hiệu quả… dẫu phóng viên có học vấn và kinh nghiệm từng trải, nhưng đòi hỏi nghe – tiếp nhận - viết ra - truyền đạt sao cho vừa đúng vừa dễ hiểu đối với bạn đọc là một việc không đơn giản. Nếu không được tìm hiểu, ghi chép đầy đủ khi lấy tin, bấm máy, ỷ lại vào trí nhớ sẽ thất bại.
Nhiều khi phải nhờ cơ sở hoặc nhân vật được chụp ảnh xem lại giúp mình sửa chú thích và bài viết. Chụp ảnh lãnh tụ, các nhân vật lớn trong xã hội, do ý muốn của các vị ấy hoặc do lòng kính trọng của phóng viên (hoặc do quy chế của toà soạn báo quyết định), ảnh chụp các vị trước khi in lên báo đều trình lên, xin ý kiến chọn lựa. Bác Hồ lúc sinh thời, văn phòng Chủ Tịch có thông lệ đệ trình ảnh chụp dược lên Chủ tịch duyệt. Mỗi khi chuẩn bị đi công tác nước ngoài, tự Người chọn ảnh chân dung làm ảnh chính thức công bố ở nước bạn; trong tập chân dung của Người trước chuyến thăm Ấn Độ, Người chọn một tấm mặt hơi gầy với bộ râu dài.
Thông tấn xã Việt Nam có quy chế xác định: những phim ảnh của phóng viên chụp về, sau khi viên tập xử lý, những phim, ảnh đạt yêu cầu được sử dụng và đưa vào kho tư liệu lưu trữ; những phim, ảnh không đạt yêu cầu (do lỗi kỹ thuật hoặc động thái của nhân vật) đều phải huỷ bỏ, để tránh những hiểu lầm trong tương lai.
KỸ THUẬT NHIẾP ẢNH BÁO CHÍ
Khi vào hoạt động báo chí, nhà nhiếp ảnh hoàn thiện dần kỹ năng nhiếp ảnh của mình. Kỹ năng đó trở thành bản năng như người ta mở miệng là nói ra lời, cầm bút là viết ra chữ, cầm …máy ảnh là chụp thành ảnh. Nhờ có:
a. Điểm nhìn. Nói cách khác là góc độ chụp: nhìn bao quát hay nhìn trọng điểm, nhìn đề cao hay nhìn hạ thấp, nhìn vào trung điểm (tiêu biểu) của đối tượng hay nhìn tản mạn “chẳng thấy cái gì”. Nhìn có định hướng là nguyên tắc của bất kỳ phóng viên ảnh ở bất kỳ quốc gia nào. Quan sát lối làm việc của họ, thấy mỗi người khi “vào cuộc” là tìm ngay được một góc đứng chụp tối ưu, sắc sảo.
Không ở đâu bằng trong ảnh báo chí, thấy tỷ lệ ảnh sử dụng góc độ thấp nhất lên cao chiếm tỷ lệ lớn, đấy là góc nhìn cao nhân vật đối ngoại. Tác phẩm Nguyễn Văn Trỗi trước giờ hành hình được chụp bằng một góc độ trân trọng như vậy. “Người ta lớn bởi ta quỳ xuống” (thơ Aragông –Tố Hữu).
b. Máy ảnh sẵn sàng. Lời khuyên của các nhà nhiếp ảnh lớp trước là ra khỏi nhà, anh hãy mang theo máy ảnh bên mình và máy ảnh luôn ở tư thế sẵn sàng. Cần đặt một chỉ số bắt sáng gần đúng với hoàn cảnh trước mắt cũng như cần đặt một cự ly máy “chung chung”, ví dụ đặt sẵn f/8-1/125-vạch 5 mét (là đã có thể chụp một cảnh tương đối đủ ánh sáng và rõ nét từ 2 mét đến vô cực), đương nhiên sẽ dễ dàng căn chỉnh chi tiết hơn khi “vào cuộc”.
c. Bố cục qua khung ngắm phải là sở trường của phóng viên. Đây là điều rất nhiều nhà sư phạm nhiếp ảnh hoặc mỹ học nhấn mạnh với các nhà nhiếp ảnh: phải tập luyện để có thể hình dung trước tấm ảnh sắp sửa bấm máy. Phóng viên ảnh phải quá thành thục điểu này. Qua khung ngắm, đã xác định đâu là nhân vật trung tâm, cái gì sẽ đưa lên tiền cảnh và cái gì đưa xuống hậu cảnh. Chính là do điểm nhìn quyết định đối tượng chính – phụ, chi tiết lớn nhỏ, khoảng cách gần xa…cắt cảnh thực tiễn đưa vào tấm ảnh của tương lai. Tuy nhiên, sự quyết đoán của phóng viên hoàn toàn dựa vào phản ứng nhanh nhạy trước tình huống khách quan.
d. Tạo trạng thái động trong ảnh. Hình tượng nghệ thuật báo chí là sự cô đọng (nhà văn Nguyễn Tuân từng ví phóng viên ảnh chụp “cú một” giống như lính bộ binh sử dụng súng trường vắn phát một ….mà bách phát bách trúng). Hình tượng “ cắt” một cảnh, sao cho người xem hình dung được điều gì đã xảy ra trước đó. Diễn biến nét mặt, hướng cử động, tình tiết được tập trung vào chủ đề; chiếu theo thói quen và tâm lý thị giác (ví dụ : thói quen đọc hàng chữ từ trái sang phải sinh ra thói quen nhìn chuyển động từ trái sang phải và mặt ảnh nằm ngang, đôi khi phim âm bản được phóng trái để được hiệu chỉnh hình ảnh phù hợp với thói quen đó). Với một số ảnh hoạt động, thời chụp châm hơn một, hai nấc để tạo nét nhòe, mờ hoặc chao động nhẹ của động thái. Chụp chậm một vận động hoặc chụp lia máy, kỹ xảo “chơi zoom” với ống kính zoom cũng là nhằm biểu hiện động thái trong ảnh.
e. Tạo hiệu quả căng trong ảnh. Điều vừa nói tới, thể hiện trạng thái động/tĩnh, tĩnh/động là một ví dụ làm ra tình thế căng trong ảnh. Tương tự, các kỹ thuật chọn những bộ phận sáng/tối, tối/sáng, trắng/đen, đen/trắng, rõ nét/mờ nhòa, màu đỏ-màu cam/màu xanh-màu đen, không gian bị chặn lại sau lưng/không gian mở rộng ra trước mặt nhân vật, …v..v…làm cho độ căng trên ảnh hấp dẫn mắt nhìn củ bạn đọc.
Ảnh báo chí đạt tới kịch tính khi thể hiện tình trạng mâu thuẫn, hợp nhất trong ảnh. Tác phẩm TỪ THẦN SẤM XUỐNG XE TRÂU (Văn Bảo) nêu lên một màn kịch gây cấn : giặc lái Mỹ trong sắc phục phi công lỡ dở bị thương, (rời bỏ chiếc máy bay hiện đại có tên Thần sấm đâu đó trên trời cao) để ngồi bẹp xuống chiếc xe quyệt miền núi Bắc Giang trâu kéo và do người nông dân áo vải, chân đất dắt đi. Một cảnh khác: giữa cảnh khói lửa chiến tranh, người chiến sĩ quân đội nhân dân nâng tù binh băng bó đầu máu, uống ngụm nước từ chiếc bi đông đặt nghiêng. Giữa cảnh sông nước lầy lội, ngổn ngang thuyền bè đang dựng nên một công trường làm cầu. Những hình ảnh đối chọi nhau trong ảnh hàm chứa ý nghĩa lớn.
f. Thời cơ bấm máy quan trọng đối với phóng viên trong thành ngữ GIÂY PHÚT QUYẾT ĐỊNH. Đúng là ứng vào mỗi hoạt động có một cái nháy mắt đáng giá nhất mà phóng viên không chớp đúng lúc thì sẽ trở thành một tấm ảnh vô hồn. Tuy nhiên, có một sự suy ngẫm sâu sắc: nếu một việc đã tới đỉnh điểm, đã được phơi bầy đầy đủ nhất, hà cớ gì bạn đọc phải suy nghĩ nữa cho mệt! Nên chăng, trước khi đối tượng đến đỉnh điểm, một phần nhỏ của cái nháy mắt, được thể hiện, để bắt buộc bạn đọc phải tự mình kết luận điều gì đã qua. Máy ảnh loại chuyên nghiệp bấm một mạch 5-7 kiểu giúp phóng viên đạt được sự diễn tả đó.
Liên quan đến việc chụp (và đăng tải) ảnh trước khi tới đỉnh điểm của sự việc đơn lẻ nói riêng hoặc chuỗi các sự kiện, người ta ứng dụng hiệu ứng Zeigarnik (do nhà nữ tâm lý học Nga Zeigarnik chỉ ra): hành động chưa kết thúc thì dễ gây ấn tượng, còn khi nhiệm vụ đã hoàn thành thì bạn đọc báo không còn quan tâm tới nữa. Đây là thái độ tích cực muốn giải quyết công việc hoặc nhiệm vụ còn dở dang của người xem ảnh.
Ảnh báo chí, trong trường hợp này, giúp bạn đọc vẽ nốt “bức tranh bỏ dở, suy nghĩ tiếp và kết luận lấy”.
g. Phóng viên là người nắm bắt nhanh, cập nhật phương tiện kỹ thuật nhiếp ảnh mới xuất hiện. Họ dùng máy ảnh ống kính Zoom, tiêu cự cực dài.
Thêm một phương thức nhiếp ảnh báo chí nữa. Nguyên tắc ảnh báo chí là không can thiệp, không dàn dựng, chỉ có thể thực hiện với người thật, việc thật. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của ảnh báo chí. Và, người phóng viên ảnh làm việc với tư cách nhà báo. Phương thức này chiếm lĩnh phần lớn thời giờ và công việc của người phóng viên. Tuy nhiên, bên cạnh phương thức “nguyên tắc ảnh báo chí” này, phóng viên cũng thực hiện những đề tài cho phép dàn dựng. Nói chung đó là phương thức sáng tác, phương thức phòng chụp –chân dung các nhân vật nổi tiếng, ảnh tĩnh vật, ảnh thương mại (quảng cáo) các mặt hàng và ảnh sáng tác. Những loại ảnh này cũng buộc phóng viên tiếp xúc nhiều phương tiện kỹ thuật nhiếp ảnh khác nhau.
THỂ TÀI ẢNH BÁO CHÍ
Ảnh trên trang báo thường xuất hiện dưới dạng đơn lẻ hoặc một nhóm. Trong mỗi dạng ảnh, tuỳ giá trị thông tin hoặc ý định chụp và sử dụng trên báo mà nhà báo có những phương pháp làm việc khác nhau.
Các thể tài thuộc dạng ảnh đơn lẻ
- Ảnh tin
- Ảnh phóng sự
- Ảnh thể thao
- Ảnh tài liệu
- Ảnh bình luận
Ảnh tin được coi là “cơm bữa” của báo chí, bởi nó nuôi dưỡng sự sống của tờ báo. Từ cuối thế kỷ 19, thuyết “đưa tin có ảnh kèm” đã ăn sâu vào lòng bạn đọc. Tất cả một lượng thông tin nhà báo muốn truyền đạt đến bạn đọc có thể được gói gọn trong một ảnh. Ưu thế của ảnh một tấm là đủ một nội dung, chiếm một vị trí khiêm tốn – mà độc tôn trên trang nhất - ấn loát bớt tốn kém, lại truyền đi nhanh và do đó dễ được phổ biến rộng. Nếu nội dung ảnh đáng được quan tâm, lập tức các hãng thông tấn, các cơ quan truyền thông truyền tiếp tấm ảnh đi xa. Ảnh tin một tấm buộc phóng viên (và biên tập viên, toà soạn) khi chọn ảnh để phổ biến phải kiếm tìm tấm ảnh đặc sắc nhất trong số các ảnh sự kiện, các nhà báo quen gọi là “ảnh chốt”.
Phóng viên trước một sự kiện, cố gắng chăm sóc vào thời điểm tiêu biểu chụp lấy một (hoặc một số ảnh để rồi chọn lấy một) ảnh chốt. Nếu là thời sự cấp bách, thường tổ chức phát ngay về trung tâm, rồi sau đó tiếp tục chụp tiếp theo hướng thời sự và hướng tài liệu. Không có gì hạn chế việc chụp ảnh của phóng viên về những điều mà anh ta quan tâm, thích thú. Rất nhiều ảnh trong số anh ta chụp được, tiếp tục có mặt trên báo ngày (báo nhà và báo bạn), báo tuần, báo tháng, để triển lãm, để trao đổi văn hoá với nước ngoài….
Tuỳ vào nội dung truyền tải mà có ảnh tin chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, văn hoá, giáo dục… Mỗi loại tin có lối viết khác nhau và ảnh cũng có lối chụp khác nhau. Có điều, trong bất cứ trường hợp nào, phóng viên ảnh cũng cần quan sát, phân tích chọn lọc nhằm hướng ống kính của mình vào chính con người, chủ nhân của tác phẩm. Con người trong công việc. Con người lớn hơn cả máy móc, lớn hơn cả hoàn cảnh vì tác giả cần tái hiện được nét mặt, sắc thái, cử chỉ, đến cả nội tâm nhân vật cũng có thể bộc lộ ra. Trên trang báo, bạn đọc đặt mắt nhìn đầu tiên là tấm ảnh lớn, rồi mới đọc đến các tít lớn. Những cuộc điều tra về bạn đọc, ở nhiều nước, nhiều nơi, với máy móc tinh xảo và giấu kín, cho nhận xét như vậy và kết luận: Đặt mắt nhìn vào ảnh, người ta chú ý ngay vào mặt nhân vật rồi từ đó mới theo các ý đồ bố cục của tác giả mà nhìn ra xung quanh, quan sát tổng thể; tiếp theo, đọc chú thích để lĩnh hội hết ý nghĩa của tấm ảnh.
Ảnh tin về nhân vật liên quan hai hình thức của thể loại chân dung: chân dung chính khách và những người nổi tiếng (nghệ sĩ, trí thức, doanh nghiệp ) được chụp như chân dung của phòng chụp, có dàn đèn chiếu sáng. Và, chân dung những người chưa được biết đến, thường có khuôn mặt với động tác tay và một phần công việc
Ảnh phóng sự, thực chất là một dạng ảnh tin, thường “cắt” lấy một cảnh trong chuỗi vận động, có trạng thái động, làm như bất chợt nhìn thấy, gây nên cảm xúc ngạc nhiên.
Ảnh thể thao, bằng vào kiến thức và kinh nghiệm chuyên ngành thể thao (mỗi môn thể thao có những thể thức riêng) và máy ảnh có ống kính zoom tiêu cự cực dài, phóng viên săn ảnh trong các cuộc thi tài. Tất cả hoạt động đều diễn ra rất nhanh, cơ hội không bao giờ lặp lại, kỷ lục được lập và tiếp tục bị phá, hoàn cảnh chụp thay đổi luôn luôn. Phóng viên ảnh không chỉ có niềm đam mê của người đi xem, mà còn phải bám sát, theo dõi sít sao từng diễn biến, máy ảnh đã được phục kích ở vị trí được cân nhắc cho thích hợp, rà theo hoạt động của đối tượng, căn chỉnh nét theo, điều chỉnh độ trập trong chỉ số bắt sáng, cắt hình trong khung ngắm. Năng động của phóng viên cũng năng động như diễn biến thể thao.
Trong các môn thi đấu, phóng viên quan tâm đến tất cả các vận động viên, những tình huống thách thức mà con người gặp phải và vượt qua, tinh thần thượng võ và tình hữu nghị, những gương mặt nhìn gần của niềm vui chiến thắng và nỗi thất vọng. Ảnh có thể phát hiện những kỷ lục mới được lập. Phóng viên cần tiếp xúc trước với các “siêu sao”, những thành tựu đã có và mục tiêu trước mắt, kiên nhẫn phục kích, đợi chờ, săn đón, nhanh tay nhanh mắt và chồm người lên chộp bắt thời cơ.
Ảnh tài liệu chụp sự vật một cách chỉnh thể, trọn vẹn như trong tự nhiên giúp bạn đọc nhìn nhận một cách đầy đủ, ảnh chính thức của các nhà nghiên cứu, lưu trữ quốc gia và đưa vào sách giáo khoa. Cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền là một cây cầu được chụp nguyên hình với các số liệu độ dài, độ cao tĩnh không, đường dẫn hai đầu, vốn đầu tư, thời gian làm cầu (ngày khởi công và ngày làm lễ hoàn thành). Hình ảnh con Sao La mới phát hiện ở rừng Quảng Bình, con cá mập sa lưới ở Gò Công, con rùa cổ nổi lên một sáng tháng năm ở Hồ Gươm, con tàu đổ bộ xuống Sao Hoả, kho vũ khí bí mật của quân đội KLA do KFOR phát hiện được ở Kosovo, là tính tài liệu nổi trội hơn tính thời sự. Nhà nhiếp ảnh “tỉnh” Bùi Bé Tư, nhà nhiếp ảnh tài tử - bác sĩ Đoàn Hồng, phóng viên ảnh TTXVN Minh Lộc trong số hàng chục nhà nhiếp ảnh trong nước và quốc tế tìm mọi điều kiện để đến cánh đồng Tràm Chim Đồng Tháp Mười đón chờ đàn Sếu đầu đỏ di cư (mùa khô hàng năm) để chụp sinh hoạt của họ hàng nhà Sếu này, với những máy ảnh chuyên dùng, với lều lá dựng làm việc từ trước lúc rạng sáng, để trước hết đạt được những ảnh tài liệu.
Một nhóm làm việc khác là các nhà khảo cứu Việt Nam và quốc tế. Họ muốn xác minh rừng Cát Tiên có còn thú rừng Tê giác hay không, nếu còn thì Tê giác Cát Tiên thuộc giống loài gì. Vì thế họ đã phải lập bẫy điện tử tự động chụp các con vật đi qua. Trải qua nhiều tháng ròng rã, máy chụp ảnh tự động mới cho những ảnh tài liệu về con Tê giác Cát Tiên công bố báo chí và đưa vào Sách đỏ thế giới.
Ảnh tư liệu, là khi tất cả những ảnh nói trên, sau khi sử dụng cho báo chí rồi, được xếp vào kho tư liệu lưu trữ. Sự vật thuộc quá khứ… càng xa xưa càng quý. “Ôn cố tri ân”, ấy là khi nhân ngày lễ, đem ảnh cũ ra nhắc lại truyền thống. Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh kỷ niệm 300 năm ra đời. Thành phố Hà Nội kỷ niệm 990 năm thành lập. Mặc dù nhiếp ảnh mới du nhập hơn 100 năm nhưng đã có kho tư liệu im lặng hàng nghìn ảnh của quá khứ về sinh hoạt “nhìn thấy được” của thế hệ ông cha. Những gánh hàng rong, bộ quần áo và đầu tóc quấn.. gợi cho những nhà xã hội học nghiên cứu, tư liệu cho những nhà điện ảnh dựng cảnh xưa và những nhà ẩm thực khôi phục hình thức những gánh gồng bầy món ăn cổ truyền cho các tua du lịch.
Ảnh tư liệu góp phần vào các chứng cứ pháp lý: những người Pháp đã chụp được ảnh sinh hoạt và phong cảnh ở Hoàng Sa, Trường Sa từ những thập kỷ 60, 70 của thế kỷ trước, để đến nay khẳng định chủ quyền Việt Nam ở những nơi ấy. Ảnh cuộc sống mới của đồng bào các dân tộc miền núi và cảnh tín đồ các đạo giáo thực hành tự do tín ngưỡng… làm câm miệng những kẻ xuyên tạc chế độ ta về nhân quyền, về đàn áp tôn giáo.
Ảnh bình luận từ sự kiện thời sự để xét đoán phải, trái, đưa ra những số liệu đấu tranh chống tệ nạn xã hội và những biện pháp kiên quyết bài trừ. Ảnh thời sự của công trình xây đê, lấn biển của Rạch Giá (Kiên Giang),… bình luận hướng tới của một đô thị mới. Coi trọng hình ảnh – giá trị của bằng chứng thị giác – nhà báo đưa ra từng cặp ảnh cũ/mới (chiều dọc thời gian), nơi này/ nơi kia (chiều ngang không gian) và ta/địch (đối kháng).
Ví dụ về xưa/nay: TTXVN đưa ra hai ảnh cùng một chứng tích cột cây số “Thái Bình, 3Km”, ảnh chụp của Võ An Ninh (bên cạnh cột cây số đó) là hai em nhỏ ốm yếu trong nạn đói Ất Dậu năm 1945 và ảnh cũng bên cạnh cột cây số đó là những em đội viên thiếu niên khăn quàng đỏ xách cặp đi học bên một dãy phố lầu, được chụp sau ảnh kia mười mấy năm. Và như thế tự người đọc cũng bình luận được.
Báo chí Pháp đưa ra cặp ảnh: viên tướng Pháp chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ làm tù binh của Quân đội nhân dân Việt Nam cặp đôi với ảnh người vợ của ông ta tại nhà ở Paris, khi nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ. Báo chí Mỹ đưa ra cặp ảnh: cảnh lính Mỹ khốn đốn trên đồi Thịt Băm (Khe Sanh 1968) với ảnh lính Mỹ ở Washington dùi cui – matrắc chống chọi với đồng bào đang chống chiến tranh. Báo chí Việt Nam đưa ra cặp ảnh đôi: cảnh hoang tàn của bệnh viện Bạch Mai do B52 Mỹ đánh sập với ảnh bộ đội phòng không – không quân Việt Nam tiêu diệt B52 trên bầu trời Hà Nội.
Từ những cặp ảnh đối chứng làm phong phú công luận bình luận của bạn đọc và phóng viên ảnh bất cứ nơi nào, ở đâu cũng có thể chụp được những tấm ảnh gợi ra bình luận của bạn đọc và những người chụp ảnh kế tiếp.