Lý thuyết về Flo

BútTre

New member
Xu
0
FLO


I. Trạng thái tự nhiên và điều chế:
1. Trạng thái tự nhiên:
- Nguyên tố Flo tồn tại trong tự nhiên ở dạng hợp chất (thường có trong men răng của người và động vật, trong lá của một số loài cây). Phần lớn Flo tập trung trong hai khoáng vật là florit \[(CaF_2)\] và criolit \[(Na_3AlF_6\] hay \[AlF_3.3NaF)\]. Flo không tồn tại ở dạng đơn chất bởi halogen này hoạt động hoá học rất mạnh nên nó dễ dàng phản ứng với các chất khác để tạo hợp chất.
2. Điều chế:
- Vì có tính oxi hoá mạnh nhất nên phương pháp điều chế duy nhất là dùng dòng điện để oxi hoá ion \[F^-\] trong florua nóng chảy.
- Trong công nghiệp, người ta điện phân hỗn hợp \[KF + 2HF\] (nhiệt độ nóng chảy \[70^0C\]). Nếu hỗn hợp không chứa \[KF\] thì khi điện phân sẽ gây nổ rất mạnh.
untitled.jpg


II. Tính chất vật lý:
- Flo là một khí màu lục nhạt có tính ăn mòn do nó là một chất oxi hóa mạnh, có mùi dễ gây kích thích và rất độc nên không được sử dụng trong các phòng thí nghiệm ở trường học.
- Nhiệt độ nóng chảy: \[-363,32^0F\]
- Nhiệt độ sôi: \[-306,62^0F\]

III. Tính chất hóa học:
- Độ âm điện: 3,98 \sr Flo là phi kim mạnh nhất.
- Flo oxi hoá được tất cả các kim loại kể cả vàng và platin.
nmmm.jpg

ghghghh.jpg

- Flo cũng tác dụng trực tiếp với hầu hết các phi kim, trừ oxi và nitơ, thậm chí còn tạo ra các hợp chất với một số khí trơ như Xenon và Radon. Phản ứng của Flo với Hidro xảy ra ngay cả trong bóng tối, nổ mạnh ngay ở nhiệt độ rất thấp \[-252^0C\].
ghgh.jpg

bbb.jpg

- Khi đun nóng nước bốc cháy trong Flo, giải phóng khí oxi. Như vậy, Flo oxi hóa được Oxi từ số oxi hóa -2 lên 0:
bnbnnn.jpg


IV. Một số hợp chất của Flo:
1. Hidro florua và axit flohidric:
- Khí \[HF\] tan vô hạn trong nước tạo ra dd axit flohidric, đây là một axit yếu. Để điều chế axit này, phương pháp duy nhất là cho canxi florua tác dụng với axit sunfuric đặc ở \[250^0C\]
bbbbbb.jpg

- Axit flohidric có tính chất đặc biệt là tác dụng với Silic đioxit có trong thành phần thuỷ tinh. Chính đặc điểm này mà người ta thường không đựng axit flohidric trong bình thuỷ tinh như các axit thông thường khác. Ngoài ra, người ta còn ứng dụng nó để khắc chữ lên thuỷ tinh:
------
Chưa xong! Sẽ bổ sung tiếp!
 
Flo (từ tiếng Latinh Fluere, có nghĩa là "luồng chảy") là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu F và số nguyên tử bằng 9. Nó là một halôgen có hóa trị -1, nằm trong nhóm 17 của bảng tuần hoàn. Ở dạng khí, nó có màu vàng lục nhạt và là chất độc cực mạnh. Nó là một chất ôxi hóa và hoạt động hóa học mạnh nhất trong tất cả các nguyên tố. Ở dạng nguyên chất, nó cực kỳ nguy hiểm, có thể tạo ra những vết bỏng hóa học trên da cực kỳ nguy hiểm.

qsal0uhq0qsq21tpwdr3.png
mcz9zrlaaawyda4xt5yp.png


Tính chất vật lý

Flo nguyên chất là một khí màu vàng nhạt có tính ăn mòn do nó là một chất ôxi hóa mạnh. Flo thậm chí còn tạo ra các hợp chất với một số khí trơ như xenon và radon. Ngay trong bóng tối và ở nhiệt độ thấp, flo phản ứng mãnh liệt với hiđrô. Trong luồng khí flo, thủy tinh, các kim loại, nước và các chất khác cháy với ngọn lửa sáng chói. Nó hoạt động quá mạnh nên không thể tìm thấy ở dạng đơn chất và có ái lực đối với phần lớn các nguyên tố khác, đặc biệt là silic, vì thế nó không thể được điều chế hay bảo quản trong các bình thủy tinh. Trong không khí ẩm nó phản ứng với hơi nước để tạo ra axít flohiđric rất nguy hiểm.

Trong dung dịch nước, flo thông thường xuất hiện dưới dạng ion florua F-. Các dạng khác là phức chất gốc flo (như [FeF[SUB]4[/SUB]][SUB2]-[/SUB2]) hay H[SUB]2[/SUB]F[SUB2]+[/SUB2].

Các muối florua là hợp chất của flo với các gốc tích điện dương, thường là các ion. Các hợp chất của flo với kim loại nằm trong số các muối ổn định nhất.

Lịch sử

Flo ở dạng fluorspar (fluorit) được Georgius Agricola miêu tả năm 1529 như là một chất gây chảy, là một chất được sử dụng để làm giảm nhiệt độ nóng chảy của kim loại hay khoáng chất. Năm 1670 Schwandhard đã phát hiện thấy thủy tinh bị fluorspar ăn mòn khi được xử lý bằng axít. Karl Scheele và nhiều nhà nghiên cứu sau này như Humphry Davy, Gay-Lussac, Antoine Lavoisier và Louis Thenard đã từng thực nghiệm với axít flohiđric, dễ dàng thu được bằng cách xử lý florua canxi với axít sulfuric đậm đặc.

Cuối cùng người ta nhận ra rằng axít flohiđric chứa một nguyên tố chưa được biết. Nguyên tố này đã không được cô lập trong nhiều năm vì độ hoạt động hóa học rất cao của nó - nó được cô lập từ các hợp chất của nó rất khó khăn và ngay lập tức hóa hợp với các phần vật chất còn lại của hợp chất. Cuối cùng vào năm 1886 flo đã được cô lập bởi Henri Moissan sau gần như 74 năm cố gắng liên tục. Nó là những cố gắng mà một số các nhà nghiên cứu đã phải trả giá bằng sức khỏe hay cuộc sống của họ, và đối với Moissan, nó đã làm cho ông đoạt giải Nobel năm 1906 về hóa học.

Sản xuất flo thương mại lần đầu tiên là do nhu cầu để chế tạo bom nguyên tử của dự án Manhattan trong Đại chiến thế giới lần thứ hai khi hợp chất hexaflorua uran (UF6) được sử dụng để tách các đồng vị U[SUB2]235[/SUB2] và U[SUB2]238[/SUB2] của urani. Ngày nay cả hai công nghệ khuyếch tán và ly tâm khí sử dụng khí UF[SUB]6[/SUB] để sản xuất urani giàu cho các ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Ứng dụng

Flo được sử dụng trong sản xuất các chất dẻo ma sát thấp như Teflon, và trong các halon như Freon. Các ứng dụng khác là:

* Axít flohiđric (công thức hóa học HF) được sử dụng để khắc kính.
* Flo đơn nguyên tử được sử dụng để khử tro thạch anh trong sản xuất các chất bán dẫn.
* Cùng với các hợp chất của nó, flo được sử dụng trong sản xuất urani (từ hexaflorua) và trong hơn 100 các hóa chất chứa flo thương mại khác, bao gồm cả các chất dẻo chịu nhiệt độ cao.
* Các floroclorohiđrôcacbon được sử dụng trong các máy điều hòa không khí và thiết bị đông lạnh. Các cloroflorocacbon (CFC) đã bị loại bỏ trong các ứng dụng này vì chúng bị nghi ngờ là tạo ra các lỗ hổng ôzôn. Hexaflorua lưu huỳnh là một khí rất trơ và không độc (không phổ biến đối với các hợp chất của flo). Các loại hợp chất này là các khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh.
* Hexafloroaluminat kali, còn gọi là cryôlit, được sử dụng trong điện phân nhôm.
* Florua natri được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu, đặc biệt để chống gián.
* Một số các florua khác thông thường được thêm vào thuốc đánh răng và (đôi khi gây tranh cãi) vào hệ thống cung cấp nước sạch để ngăn các bệnh nha khoa (răng, miệng).
* Nó được sử dụng trong quá khứ để trợ giúp kim loại dễ nóng chảy hơn, vì thế mà có tên của nó.

Một số các nhà nghiên cứu - bao gồm cả các nhà khoa học vũ trụ của Mỹ trong những năm đầu thập niên 1960 đã nghiên cứu khí flo đơn chất như là một nhiên liệu cho tên lửa đẩy vì lực đẩy cực kỳ cao của nó. Các thực nghiệm đã thất bại vì flo rất khó để điều khiển và sử dụng. Các sản phẩm cháy của nó có độc tố và ăn mòn cực kỳ mạnh

Lưu ý

Cả flo và HF cần phải được sử dụng với một yêu cầu rất nghiêm ngặt và phải tránh mọi sự tiếp xúc với da và mắt. Mọi thiết bị phải được thụ động hóa trước khi phơi nhiễm bởi flo.

Cả flo đơn chất và các ion florua là những chất độc mạnh. Khi ở dạng đơn chất, flo là một khí có mùi hăng đặc trưng có thể dễ dàng phát hiện ở nồng độ rất thấp (khoảng 20 nL/L). Nồng độ cho phép tối đa của sự phơi nhiễm hàng ngày (8 giờ làm việc) là 1 µL/L (một phần triệu theo thể tích), thấp hơn cả của xyanua hiđrô

Sưu tầm​
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top