Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Lý thuyết nhân cách ẩn
1. Khái niệm “nhân cách”, “nhân cách ẩn”
Nhân cách là một khái niệm được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt trong ngành nghiên cứu tâm lý học xã hội. Để có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về lý thuyết nhân cách ẩn, nhóm xin đưa ra một số định nghĩa nhân cách tiêu biểu của các nhà tâm lý học xã hội.
Theo Sigmud Freud: nhân cách đó là những tình cảm, những cố gắng và những tư tưởng phát sinh từ những mâu thuẫn giữa tính hiếu chiến của chúng ta, động cơ thúc đẩy việc tìm kiếm để thỏa mãn nhu cầu một cách sinh học và sự kiềm chế xã hội chống lại chúng.
Một số nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như: Miashiev, Smirnov, Malưsev… cho rằng nhân cách như là hệ thống của các mối quan hệ. Một số khác như Ananhiev, Platônnốp, Merlin khẳng định nhân cách không phải là tất cả con người mà chỉ là những phẩm chất xã hội. Họ không coi nhân cách là chủ thể của hoạt động.
Dựa trên quan điểm của Rubinshtein nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nhân cách là tập hợp các điều kiện bên trong qua chúng các tác động bên ngoài được khúc xạ. Platônnốp đưa ra khái niệm: nhân cách là con người có nhận thức.
Hai nhà tâm lý học Predcetrnui và Sherkhôvina: nhân cách là con người chủ thể của hoạt động là nhân tố cải tạo thế giới, là chủ thể của nhận thức và tự nhận thức.
Dựa vào nguyên tắc hoạt động các nhà tâm lý học xô viết đưa ra một định nghĩa chung về nhân cách: là con người chủ thể của hoạt động xã hội và nhờ vào hoạt động mà con người có một vị trí nhất định giữa những người khác.
Theo từ điển tâm lý bác sĩ Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: nhân cách như là tổng hòa tất cả những gì hợp thành một con người, một cá nhân, với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất, tài năng, phong cách, ý chí đạo đức, vai trò xã hội. Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân, đã tự khẳng định được, giữ được phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.
=>Từ định nghĩa về nhân cách ta có thể hiểu: nhân cách ẩn là đã xác định tất cả các hình thức xếp loại cho phép chúng ta nắm bắt được những đặc trưng của người khác, nắm bắt được phản ứng của chúng ta mà không sợ mắc quá nhiều sai lầm và quyết định những hành vi sắp tới của chúng ta tùy theo những ý niệm định trước sẽ được hình thành trong quá trình đó. Các lý luận nhân cách ẩn tác động như những hình thái đã học được, chúng phụ thuộc vào nhiều nhân tố: kinh nghiệm, động cơ, và bối cảnh xã hội.
Kinh nghiệm
Những ý niệm mà chúng ta có về người khác trước hết được hình thành từ những trao đổi xã hội. Chúng ta cảm nhận những ứng xử của người khác một cách tích cực hoặc tiêu cực tùy theo các quy tắc mà chúng ta tự mình học được để hiểu chúng. Lý thuyết nhân cách ẩn trở thành những quy tắc đối tượng hóa nghĩa là mô tả hiện thực trong chừng mực quá trình này được thực hiện theo lẽ thông thường.
Ví dụ: Trong một công ty doanh nghiệp được mô tả là một tổ chức gồm có tổng giám đốc các cán bộ, các nhân viên, các thủ trưởng trung gian và công nhân. Ở đây có sự phân loại ra như một hoàn cảnh hoạt động bình thường của một tổ chức.
Các động cơ
Lý thuyết nhân cách ẩn cũng phụ thuộc vào các động cơ của chúng ta. Những động cơ ấy có thể gắn liền với sự theo đuổi thông thường những mục tiêu cá nhân và đóng vai trò tăng cường một tri giác.
Thí nghiệm của Pepitone (1949) xác định mối liên hệ giữa động cơ và những thay đổi tri giác. Thí nghiệm được tổ chức như một trò chơi cho nhiều thiếu niên, cho phép chúng giành chỗ ngồi xem một trận đấu bóng rổ. Các đối tượng được chia thành hai nhóm. Người ta đưa cho nhóm thứ nhất thông tin sau: trận đấu này chẳng thú vị gì cả vì đó chỉ là của một đội học sinh trung học. Nhóm thứ hai được bảo cho biết đây là một trận đấu quan trọng. Để giành được một chỗ, mỗi đối tượng phải qua một ban giám khảo gồm có ba huấn luyện viên đặt một loạt câu hỏi cho mọi đối tượng. Sau khi xem xét những câu trả lời của đối tượng ban giám khảo đánh giá anh ta có được cuộc không. Trên thực tế các huấn luyện viên là những gã cò mồi, mỗi người dữ một thái độ khá độ khá rõ: người thứ nhất đáng yêu, người thứ hai trung lập, và người thứ ba có thái độ phê phán. Cuối cuộc thí nghiệm mỗi đối tượng phải nói lên cảm giác của mình về kiểu tán thưởng mỗi thành viên trong ban giám khảo bày tỏ với mình. Những đối tượng rất muốn giành được một chỗ ngồi trong trận đấu đã đánh giá thành viên đáng yêu là người có thái độ tán thưởng hơn là những đối tượng có động cơ yếu.
Từ nghiên cứu này làm rõ một thực tế là những sự mong đợi của các cá nhân quy định tri giác của họ về hiện thực, trong chừng mực họ đi tìm thông tin trong môi trường xung quanh và ở ngoài khác để vững tin hơn.
Bối cảnh xã hội
Tác động đến nhân cách ẩn là cái quy định một hoạt động nhận thức đặc biệt: thiên hướng bỏ qua thông tin về các khả năng. Như từ những chỉ dẫn đã học được các cá nhân thiết lập những quan hệ giữa các dữ kiện của một sự kiện hoặc giữa các đặc điểm của một ứng xử nhằm đi tới một phán xét hay một ý niệm. Nó thường được đánh giá khi có hoàn cảnh chuẩn xác. Các cá nhân không đưa những đánh giá đó lên một cấp nhận thức cho phép nắm xác suất chung của sự xuất hiện các sự kiện hay cách ứng xử vì thông tin không phải bao giờ cũng có sẵn và không nhất thiết được các cá nhân tính đến. Người ta không thật sự biết được phán xét ấy là điển hình hay khác thường. Như vậy sự hiểu biết của chúng ta về hoàn cảnh thường tập trung cao nhất vào những sự kiện tức thời mà coi nhẹ việc sử dụng những thông tin về xác suất chung.
Lý thuyết nhân cách ẩn đưa ra một quá trình nhận thức phức tạp, qua đó một số phạm trù trong chúng ta tăng lên trong khi chúng ta tìm cách với tới hoặc hiểu các sự kiện và người khác.
2. Lý thuyết nhân cách ẩn
Lý thuyết nhân cách ẩn của Asch Solomon - nhà tâm lý học người Mỹ đã chứng minh con người thường phát triển những quan điểm cực kỳ phức tạp về người khác chỉ bằng cách ngoại suy từ một, hai mẫu thông tin.
Lý thuyết nhân cách ẩn của Asch đã đề cập đến một số nội dung như sau:
2.1 Đặc điểm chính và ngoại vi:
Ở phần này tác giả nhấn mạnh một số đặc điểm quan trọng hơn số đặc điểm khác trong việc ảnh hưởng đến cách nhận thức về người khác của chúng ta. Mỗi cá nhân đều có những đặc điểm tính cách thể hiện ra bên ngoài khác nhau. Ở những lần tiếp xúc ban đầu ta thường đánh giá cá nhân qua những đặc điểm đó. Tuy nhiên chỉ có một vài đặc điểm của cá nhân là thu hút được sự chú ý của chúng ta và qua đó chúng ta đánh giá về con người họ. Theo như nghiên cứu của Asch thì đặc điểm nhân cách “nồng nhiệt” hay “ lãnh đạm” dường như là tâm điểm đối với nhận thức của chúng ta về người khác.
2.2 Khía cạnh đặc điểm
Rosenberg, Nelson và Vivekanathan (1968) chứng minh lý thuyết nhân cách ẩn có hai khía cạnh chính. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến khả năng suy nghĩ. Thứ hai liên quan đến tính hòa đồng. Một người được cho là tốt thì họ được gắn với các đặc điểm khác như: khéo léo, kiên trì, khôi hài, vui vẻ… Ngược lại một người được minh họa xấu thì họ được xem như là người khó tính, ít giao du. Các ông cho rằng từ hai khía cạnh này cung cấp cho chúng ta những yếu tố cần thiết để tìm hiểu những nhân cách khác.
2.3 Suy nghĩ rập khuôn
Suy nghĩ rập khuôn bao gồm việc phân loại người theo một số đặc điểm bên ngoài như màu da hay định hướng tình dục. Suy nghĩ rập khuôn là việc đặt cá nhân vào một nhóm thích hợp bất kể những gì họ giống một cá nhân trong thực tế.
Chúng ta thường quy kết nhân cách của một cá nhân vào nhóm này hay nhóm khác chỉ qua một số đặc điểm của cá nhân đó giống với nhóm. Những nhóm này là những nhóm có những nét đặc trưng riêng mà mọi người đều nhận thấy được. Những nét đặc trưng đó có thể có sẵn trong nhóm hoặc cũng có thể bị xã hội gán cho.
Ví dụ: Nhóm người da đen là đặc điểm có sẵn nhưng xã hội thường gán cho họ thêm một số đặc điểm khác như ngu dốt, lạc hậu, và một số đặc điểm về nhân cách xấu… mặc dù không phải tất cả những người da đen đều như vậy.
Suy nghĩ rập khuôn về định hướng tình dục và dân tộc phổ biến nhất trong xã hội. Ngoài ra một số đặc điểm bên ngoài khác nhiều khi cũng tạo ra cho chúng ta suy nghĩ rập khuôn. Ví dụ khi nhìn thấy một thanh niên mặc một bộ vec, bước đi mạnh mẽ, tay xách một chiếc vali ta thường cho anh ta vào nhóm doanh nhân trẻ, tài giỏi, tính tình lãnh đạm… Nhưng cũng có khi đó chỉ là phong cách ăn mặc của thanh niên đó chứ anh ta không phải là một doanh nhân.
2.4 Dự đoán tự hiện thực
Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng mong đợi của chúng ta có ảnh hưởng lớn đối với nhận thức và hành vi cũng như làm nổi bật nguy cơ gán tên hay suy nghĩ rập khuôn về người khác. Rosenthal và Jacobsen ( 1968) nghiên cứu dự đoán tự thực hiện tại một trường học ở Mỹ. Hai ông đã nhận thấy một số học sinh mà được giáo viên mong đợi kết quả học tập cao thì sau đó một năm những em đó kết quả học tập tiến bộ rõ rệt mặc dù chỉ số IQ của các em trước đây không phải ở loại cao. Dường như giáo viên đã có những thái độ tích cực đối với những em này và điều đó đã kích thích tinh thần học tập của các em.
Điều này đã chứng minh rằng khi mà chúng ta mong đợi một kết quả nào đó ở cá nhân thì mong đợi đó có thể dự đoán tự thực hiện và ảnh hưởng đến kết quả mà chúng ta mong đợi.
2.5 Xây dựng cá nhân
Chúng ta thường áp dụng những suy nghĩ riêng của mình dựa vào kinh nghiệm để đánh giá người khác.
Ví dụ: chúng ta thấy rằng hiện nay giám đốc các doanh nghiệp đều có một thư ký riêng trông rất xinh đẹp.Vì vậy khi ta thấy một người có mong muốn là một thư ký và ngoại hình của cô ấy cũng đẹp, ta thường đánh giá là cô gái đang lợi dụng ngoại hình của mình để gần gũi những ông giám đốc có nhiều tài sản. Nhưng có thể cô gái ấy muốn làm công việc đó để học tập kinh nghiệm quản lý và ngoại giao của ông giám đốc để sau này cô ấy thành lập một công ty riêng.
Như vậy việc chúng ta đánh giá nhân cách của một người khác không chỉ dựa vào những đặc điểm bên ngoài của người đó mà nó còn chịu ảnh hưởng từ phía chủ quan của chúng ta.
2.6 Tác dụng gần đây
Thứ tự các thông tin mà chúng ta nghe nói về người khác có ảnh hưởng đáng kể đến việc chúng ta đánh giá nhân cách của cá nhân đó. Những thông tin nào mà chúng ta nhận được ở vào thời điểm gần nhất sẽ có tác động nhiều nhất đến đánh giá của chúng ta. Trong thực tế chúng ta có thể lý giải lý thuyết này trong việc tạo ra ấn tượng ban đầu. Những ấn tượng ban đầu chúng ta tạo ra cho người đối diện tốt thì họ sẽ ít quan tâm đến những đặc điểm khác của chúng ta.
2.7 Hiệu ứng quầng sáng
Một cá nhân đã từng tạo cho chúng ta những ấn tượng tốt đẹp hoặc cá nhân đó trước đây đã có những hành động tích cực thường được chúng ta nhận xét tốt hơn thực tế. Đối với những cá nhân như vậy chúng ta thường đánh giá họ rất cao và sẵn sàng bỏ qua những khuyết điểm của họ mặc dù ta không thể chấp nhận được ở cá nhân khác. Chúng ta cũng đánh giá họ cao hơn mặc dù công việc của họ tương tự như người khác.
Điều này lí giải tại sao một cá nhân chỉ bằng sự cố gắng ban đầu để dành được địa vị xã hội nào đó thì sau đó họ là người rất dễ dàng thăng tiến trên con đường công danh mặc dù họ không cần phải cố gắng nhiều nữa là vì họ đã gây được những ấn tượng rất tốt cho người khác. Ngược lại những cá nhân đã ít để lại những ấn tượng về thành tích trong quá khứ thì dù họ có cố gắng nhiều hơn cá nhân kia nhiều lần thì họ cũng sẽ khó được đánh giá cao.
Tóm lại các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng lý thuyết nhân cách ẩn là để nói tới việc chúng ta nhìn nhận đánh giá nhân cách của một cá nhân chỉ thông qua một vài đặc điểm bên ngoài của cá nhân đó, cũng có khi chúng ta dùng chính những ý nghĩ chủ quan của chúng ta để xây dựng nhân cách của một người khác.
3. Sơ đồ và chữ viết
Chúng ta thường lưu trữ thông tin để hướng dẫn hành động một cách thích hợp. Và chúng ta sắp xếp hiểu biết của mình thành những hình thức giúp chúng ta áp dụng chúng khi đối mặt với tình huống xa lạ trước đây chưa hề gặp. Vậy chúng ta phải có khả năng khái quát hóa, cũng như lưu trữ thông tin dưới dạng khả năng có thể và chiến lược hành động cũng như hiểu biết thực tế hay trí nhớ kinh nghiệm bằng sơ đồ và chữ viết để lưu trữ.
3.1 Sơ đồ
Sơ đồ thường được cho là khung nhận thức mà chúng ta hình thành qua kinh nghiệm dùng để hướng dẫn định hướng hành động của mình.
Ví dụ từ khi đi học chúng ta có nhận thức là đến lớp thì phải lắng nghe cô giáo giảng bài, ghi chép đầy đủ, thực hiện các hoạt động ứng xử theo nội quy của lớp học, trường học. Đó là những kinh nghiệm được trải qua của mỗi học sinh, sinh viên và là mong đợi của mỗi người học sinh khi cắp sách tới trường.
Vì có mong đợi của chúng ta định hướng hành vi nên chúng ta thường lập ra những chu kỳ hành vi tự thực hiện, cuối cùng hoàn toàn khẳng định điều chúng ta tin tưởng. Chẳng hạn nhận xét một người là “ngạo mạn” thì chắc chắn chúng ta sẽ chọn những khía cạnh hành vi của họ giải thích theo cách ấy và hoàn toàn bỏ qua bất kỳ dấu hiệu cho thấy họ không phải là người ngạo mạn.
Mong đợi có thể ảnh hưởng đến mức nào do sơ đồ chúng ta tạo ra, ảnh hưởng đến đánh giá xã hội của chúng ta. Dĩ nhiên nếu hiểu một hành động là gây hấn thì chúng ta có khả năng phản ứng bằng thái độ gây hấn hơn là xem hành động ấy chỉ là vô tình. Sagar và Schofield ( 1980) tiến hành thí nghiệm trong số nam sinh da đen và da trắng ở 4 trường học khác nhau nghe kể chuyện và nhìn thấy ảnh chụp những loại hành động khác nhau có thể hiểu là gây hấn hoặc không gây hấn. Sau khi nghe mô tả các em này được yêu cầu đánh giá hành vi bằng việc chọn tính từ thích hợp để mô tả. Hành vi mơ hồ được số nam sinh da đen lẫn da trắng hiểu là ở học sinh da đen mang tính đe dọa nhiều hơn học sinh da trắng, cho dù ảnh chụp đều giống hệt nhau trong mọi khía cạnh khác.
Fiske và Linville (1980) cho rằng khái niệm sơ đồ rất hữu ích với suy nghĩ ở con người vì chúng giúp ta đơn giản hóa thế giới xã hội. Bằng cách cung cấp cho chúng ta cách phác họa cùng lúc một dải rộng thông tin và trích lấy nguyên tắc chung để định hướng hành động. Sơ đồ giúp chúng ta giải quyết nhiều tình huống khác nhau hơn mức có thể nếu phải giải quyết riêng từng tình huống. Sơ đồ liên tục được bổ sung, điều chỉnh khi kinh nghiệm xã hội phát triển, giúp chúng ta làm cho hành vi của mình thích nghi với yêu cầu xã hội phức tạp và đang thay đổi nhanh chóng.
3.2 Chữ viết xã hội
Cũng là một loại sơ đồ, được sử dụng ảnh hưởng đáng kể với những gì chúng ta nhớ, như nhớ nhiều loại thông tin khác nhau khi áp dụng những chữ viết khác nhau trong cùng một sự kiện.
Schank và Abelson (1977) mô tả hiểu biết xã hội của chúng ta dựa vào chữ viết xã hội, nên hiểu rõ điều gì và bao gồm những thông tin nào để hiểu biết thích hợp cũng như kế hoạch và một chuỗi hành động cho một hay nhiều vấn đề.
Zandny và Geard (1974) tiến hành thí nghiệm trong đó người tham gia nghiên cứu xem băng video quay cảnh hai sinh viên đi dạo quanh một tòa nhà, bàn chuyện ma túy và tội ăn cắp. Nhóm một người tham gia nghiên cứu cho biết hai sinh viên định ăn trộm trong tòa nhà. Nhóm thứ hai cho biết họ đang tìm ma túy. Nhóm 3 cho biết họ đang chờ bạn đến. Sau khi hỏi người tham gia nghiên cứu nhớ điều gì, họ nhớ lại thông tin liên quan đến chữ viết mà họ áp dụng. Như những người nghĩ sinh viên là kẻ ăn trộm, nhớ nơi dễ bị tấn công trong tòa nhà như thẻ tín dụng.
Như vậy chữ viết để chúng ta lưu trữ, ghi lại những thông tin mà chúng ta thấy để lưu lại khi cần sử dụng chúng ta không phải nhớ lại, nhiều khi sự nhớ không chính xác khi mà thông tin diễn ra khá lâu rồi.
3.3 Các loại sơ đồ
Có nhiều loại sơ đồ nhưng chúng được phân ra làm các loại khác nhau. Sau đây là 4 loại sơ đồ cụ thể:
Sơ đồ sự kiện
Liên quan đến chuỗi hành động thích hợp trong một sự kiện hay một loại sự kiện cụ thể. Ví dụ vào trong một nhà hàng chúng ta khái quát được mình mong đợi được có món ăn ngon và nhà hàng phải phục vụ ta chu đáo. Và trên bàn có thực đơn theo loại chữ viết để ta chọn món ăn. Những nếu chữ viết không có thì có thể là nhân viên mang sai thực đơn cho chúng ta khi anh ta nhớ sai món ăn.
Sơ đồ vai trò
Liên quan đến hành vi và hoạt động thích hợp khi đảm nhiệm vai trò xã hội cụ thể. Sơ đồ vai trò là khuôn khổ sử dụng khi quan hệ với người khác trong những mối quan hệ xã hội đặc biệt. Sơ đồ vai trò gồm cách chúng ta suy nghĩ về hành vi có thể có cũng như nhân cách của người giữ công viên như là anh ta dễ tính, cởi mở với mọi người, hay cô giáo nhiệt tình giảng dạy cho học sinh. Sơ đồ vai trò giúp chúng ta rút ra nguyên tắc chung liên quan đến các nhóm xã hội rộng, hay nhiều nhóm người trong xã hội.
Sơ đồ cá nhân
Liên quan đến hiểu biết và dự đoán về một cá nhân nhóm người cụ thể. Ví dụ khi quen biết một người chúng ta phát triển nhận xét rõ hơn về người ấy để ta có thể dự đoán về người ấy và định hướng hành vi của người đó. Khi mua quà tặng sinh nhật cho người bạn có thể dự đoán là bạn ấy thích món quà nào qua sơ đồ cá nhân. Chúng ta tương tác với người khác nhiều hơn khi hiểu biết của ta về họ càng tinh vi hơn. Sơ đồ của chúng ta về người khác tích lũy nhiều thông tin hơn qua thời gian.
Sơ đồ cá nhân nhiều khi mang tính chung chung. Như khi quyết định rằng “một phụ nữ có sự nghiệp tiêu biểu” thì sơ đồ cá nhân phát triển tập trung vào những đặc điểm cụ thể mà mình nghĩ về một người như thế chắn phải có, và không để ý đến hành vi của họ rất khác nhau.
Sơ đồ cái tôi
Liên quan đến hiểu biết và đánh giá của chúng ta về bản thân. Có người cho rằng mình có khái niệm ổn định về cái tôi trong khi người khác cho rằng khó nhận dạng nhưng tất cả chúng ta đều suy luận mình là ai và người như thế nào từ những nhận xét về hành vi của mình. Từ sơ đồ cái tôi cho chúng ta dự đoán rằng chắc chắn mình sẽ có hành động gì. Ví dụ như trong một ngày nghỉ ta dự đoán sẽ ở nhà quét dọn nhà, hay đi chơi.
Như vậy các loại sơ đồ cho chúng ta dự đoán về mình, về người khác thông qua sơ đồ cá nhân, và các vai trò của chúng ta cũng như các sự kiện liên quan đến ta để chúng ta có hướng hành động một cách đúng đắn nhất.
II. Thuyết suy luận quy kết
Học thuyết này được khái quát dựa trên cơ sở quy luật quy gán xã hội. Trong đời sống thường ngày, trong sự giao tiếp với các cá nhân khác, chúng ta luôn tìm cách lý giải những hành vi của họ. Tại sao người ta lại làm như thế, tại sao sự việc đó lại diễn ra như thế, mực đích của việc làm đó là gì… là những câu hỏi thường trực nhằm tìm hiểu những nguyên nhân đằng sau sự việc. Trong tri giác xã hội, cách mà con người dung để nhận định người khác gọi là quy gán xã hội, hay có thể gọi là sự quy kết.
Thuyết suy luận quy kết là một trong nhiều hình thức của thuyết quy kết, tìm hiểu những yếu tố khác nhau góp phần vào những suy luận của chúng ta về trách nhiệm xã hội.
1. Suy luận tương ứng
Jones và Davis (1965) cho rằng quy kết chủ ý là giai đoạn đầu trong việc phát triển lý do giải thích tại sao sự việc diễn ra. Một khi hành động được đánh giá là có cân nhắc, khi ấy chúng ta mới tìm đặc điểm hay đặc tính cá nhân tạo ra chủ ý ấy. Như thế chúng ta đang thực hiện những gì mà Jones và Davis gọi là suy luận tương ứng - là quá trình chúng ta suy luận về nhân cách hay khuynh hướng tương ứng trực tiếp với hành vi cá nhân.
Thuyết suy luận tương ứng (theo Heider) dựa trên 3 khái niệm: tính ổn định, chủ ý, khuynh hướng.
Tính ổn định:
Heider cho rằng chúng ta mong muốn tìm hiểu ý nghĩa những gì đang diễn ra trong thế giới có nghĩa rằng chúng ta thích nguyên nhân ổn định hơn là sự bất ổn.
Nguyên nhân ổn định là nguyên nhân chắc chắn xảy ra thêm lần nữa, vì thế chúng ta dự đoán dự đoán điều gì có khả năng xảy ra trong lần sau. Nguyên nhân bất ổn thường không cho chúng ta biết hướng dẫn nào về tương lai.
Chủ ý:
Là hành vi mang mục đích của cá nhân. Ví dụ như việc chúng ta tập trung nghe giảng trên lớp, mục đích là để thu được kiến; hành vi giết người cướp tài sản…
Heider nhấn mạnh rằng đối với chúng ta điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt giữa hành vi chủ ý và vô tình, vì nếu không chúng ta không thể đánh giá liệu một người có trách nhiệm đối với hành động cuả mình hay không. Chúng ta không thể hiểu hành động xã hội trừ khi chúng ta biết (hay cho rằng mình biết) liệu một người hành động có cân nhắc hay không. Ví dụ như khi nhìn nhận hành động giết người của một phạm nhân chúng ta phải xem xét xem hành vi đó là do cố ý hay chỉ vô tình. Điều này sẽ liên quan đến việc tuyên án của tòa án.
Khuynh hướng
Quy kết khuynh hướng xảy ra khi chúng ta kết luận rằng một người chính họ là nguyên nhân khiến cho sự việc xảy ra – vì khả năng, chủ ý hay nổ lực của họ. Phân biệt với khái niệm quy kết khuynh hướng chúng ta có khái niệm quy kết tình huống. Quy kết tình huống là việc chúng ta đưa ra kết luận cho chính tình huống hay tình huống bên ngoài là nguyên nhân khiến cá nhân hành động theo cách ấy.
=>Liên kết 3 khái niệm này, Jones và Davis cho rằng chúng ta có khuynh hướng quy kết khuynh hướng so với quy kết tình huống. Khi quy kết chủ ý chúng ta suy luận về hiểu biết của cá nhân khả năng họ có thể làm gì và về khả năng của họ khi tiến hành hành động. Nói chung chúng ta thường cho rằng họ hành động có cân nhắc hơn là vô tình trừ khi chúng ta có một số lý do đánh giá một người là không có khả năng – chẳng hạn vì họ quá trẻ hay trí năng không phù hợp. Một khi đánh giá hành động là do chủ ý, chúng ta tìm các đặc điểm cá nhân có thể tạo ra chủ ý ấy. Đây là suy luận tương ứng dùng để đặt tên cho lý thuyết.
2. Một số những quan điểm khác
Eiser (1983) đã phủ nhận quan niệm cho rằng quy kết chủ ý tự động dẫn đến quy kết khuynh hướng. Ông nêu rõ khuynh hướng và chủ ý không hẳn là như nhau. Chẳng hạn quy kết tính cẩu thả là một giải thích khuynh hướng nhưng quy kết về tiền bồi thường không hề có ngụ ý cá nhân đó cố ý làm hỏng. Eiser cho rằng thuyết suy luận tương ứng chỉ áp dụng trong những tình huống có một số yếu tố lựa chọn hơn là khả năng xảy ra mang tính vô tình hay tình cờ.
Một số chứng cứ cho thấy khuynh hướng quy kết khuynh hướng nhiều hơn là quy kết tình huống có thể thay đổi bằng kinh nghiệm. Guimond và Palmer (1990) so sánh giải thích sự nghèo đói và thất nghiệp của sinh viên khi họ qua nhiều khóa học. Ở năm thứ nhất không có sự khác nhau giữa sinh viên khoa học xã hội, thương mại và kỹ thuật. Tuy nhiên cuối năm thứ nhất bắt đầu xuất hiện sự khác nhau đáng kể, sinh viên khoa học xã hội chỉ trích hệ thống nhiều hơn các ngành khác.
Năm 1976, Jones và McGillis đưa ra một phiên bản sửa đổi thuyết suy luận tương ứng. Theo đó các yếu tố xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc quy kết khuynh hướng của cá nhân. Chẳng hạn như địa vị xã hội, vị thế xã hội… cùng một vấn đề nhưng những người mà có uy tín nói thì tính hiệu quả bao giờ cũng cao hơn, được mọi người hưởng ứng nhiều hơn so với những cá nhân mà không có sự ảnh hưởng lớn đối với các cá nhân khác.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy kết khuynh hướng của cá nhân
Thuyết suy luận tương ứng nhận dạng ba yếu tố chính ảnh hưởng đến khả năng quy kết khuynh hướng của cá nhân là: Nguyên tắc tác dụng không phổ biến, Thuyết nhân cách, Sự có liên quan đến hưởng lạc.
Nguyên tắc tác dụng không phổ biến
Liên quan đến dãy hậu quả xảy ra do kết quả của hành động. Jones và Davis chứng minh rằng nếu chúng ta làm việc gì đó có một dãy rộng hậu quả (chẳng hạn như việc trượt trong kì thi đại học) thì con người có khả năng nghĩ tới các yếu tố tình huống, xem đó là nguyên nhân nhiều hơn khi có kết quả hạn chế hơn và chỉ có một dãy hẹp hậu quả. Vì thế chúng ta có khả năng nhận dạng những nguyên nhân khuynh hướng đối với sự kiện có kết quả hạn chế.
Thuyết nhân cách:
Thuyết nhân cách có liên quan liệu một kết quả có tác động đến người nhận thức hay không (người đang quy kết). Cá nhân có khả năng đánh giá một hành động là chủ ý, vì thế nó mang tính khuynh hướng nếu ảnh hưởng cá nhân bạn: nếu một người làm gẫy bút của người khác thì bạn xem hành động ấy là vô tình nhiều hơn khi người khác làm gẫy bút của bạn khiến bạn không có gì để viết.
Sự liên quan đến hưởng lạc
Liên quan đến việc liệu kết quả của hành động có kết quả thú vị hay khó chịu với người quy kết hay không. Nếu hành động có kết quả tiêu cực hay tích cực (so với kết quả trung tính) thì có thể suy luận tương ứng nhiều hơn – nói cách khác hành động được cân nhắc là đánh giá nhiều hơn
Sự liên quan đến hưởng lạc và thuyết nhân cách độc lập với nhau. Chẳng hạn việc giảm mức thuế thu nhập nhìn chung là đem lại lợi ích cho nhiều người, liên quan đến sự hưởng lạc cao đối với nhiều cá nhân. Tuy nhiên đối với một số cá nhân nó không có sự tác động lớn lắm, thậm chí là không ảnh hưởng gì.
1. Khái niệm “nhân cách”, “nhân cách ẩn”
Nhân cách là một khái niệm được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt trong ngành nghiên cứu tâm lý học xã hội. Để có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về lý thuyết nhân cách ẩn, nhóm xin đưa ra một số định nghĩa nhân cách tiêu biểu của các nhà tâm lý học xã hội.
Theo Sigmud Freud: nhân cách đó là những tình cảm, những cố gắng và những tư tưởng phát sinh từ những mâu thuẫn giữa tính hiếu chiến của chúng ta, động cơ thúc đẩy việc tìm kiếm để thỏa mãn nhu cầu một cách sinh học và sự kiềm chế xã hội chống lại chúng.
Một số nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như: Miashiev, Smirnov, Malưsev… cho rằng nhân cách như là hệ thống của các mối quan hệ. Một số khác như Ananhiev, Platônnốp, Merlin khẳng định nhân cách không phải là tất cả con người mà chỉ là những phẩm chất xã hội. Họ không coi nhân cách là chủ thể của hoạt động.
Dựa trên quan điểm của Rubinshtein nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nhân cách là tập hợp các điều kiện bên trong qua chúng các tác động bên ngoài được khúc xạ. Platônnốp đưa ra khái niệm: nhân cách là con người có nhận thức.
Hai nhà tâm lý học Predcetrnui và Sherkhôvina: nhân cách là con người chủ thể của hoạt động là nhân tố cải tạo thế giới, là chủ thể của nhận thức và tự nhận thức.
Dựa vào nguyên tắc hoạt động các nhà tâm lý học xô viết đưa ra một định nghĩa chung về nhân cách: là con người chủ thể của hoạt động xã hội và nhờ vào hoạt động mà con người có một vị trí nhất định giữa những người khác.
Theo từ điển tâm lý bác sĩ Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: nhân cách như là tổng hòa tất cả những gì hợp thành một con người, một cá nhân, với bản sắc và cá tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất, tài năng, phong cách, ý chí đạo đức, vai trò xã hội. Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân, đã tự khẳng định được, giữ được phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.
=>Từ định nghĩa về nhân cách ta có thể hiểu: nhân cách ẩn là đã xác định tất cả các hình thức xếp loại cho phép chúng ta nắm bắt được những đặc trưng của người khác, nắm bắt được phản ứng của chúng ta mà không sợ mắc quá nhiều sai lầm và quyết định những hành vi sắp tới của chúng ta tùy theo những ý niệm định trước sẽ được hình thành trong quá trình đó. Các lý luận nhân cách ẩn tác động như những hình thái đã học được, chúng phụ thuộc vào nhiều nhân tố: kinh nghiệm, động cơ, và bối cảnh xã hội.
Kinh nghiệm
Những ý niệm mà chúng ta có về người khác trước hết được hình thành từ những trao đổi xã hội. Chúng ta cảm nhận những ứng xử của người khác một cách tích cực hoặc tiêu cực tùy theo các quy tắc mà chúng ta tự mình học được để hiểu chúng. Lý thuyết nhân cách ẩn trở thành những quy tắc đối tượng hóa nghĩa là mô tả hiện thực trong chừng mực quá trình này được thực hiện theo lẽ thông thường.
Ví dụ: Trong một công ty doanh nghiệp được mô tả là một tổ chức gồm có tổng giám đốc các cán bộ, các nhân viên, các thủ trưởng trung gian và công nhân. Ở đây có sự phân loại ra như một hoàn cảnh hoạt động bình thường của một tổ chức.
Các động cơ
Lý thuyết nhân cách ẩn cũng phụ thuộc vào các động cơ của chúng ta. Những động cơ ấy có thể gắn liền với sự theo đuổi thông thường những mục tiêu cá nhân và đóng vai trò tăng cường một tri giác.
Thí nghiệm của Pepitone (1949) xác định mối liên hệ giữa động cơ và những thay đổi tri giác. Thí nghiệm được tổ chức như một trò chơi cho nhiều thiếu niên, cho phép chúng giành chỗ ngồi xem một trận đấu bóng rổ. Các đối tượng được chia thành hai nhóm. Người ta đưa cho nhóm thứ nhất thông tin sau: trận đấu này chẳng thú vị gì cả vì đó chỉ là của một đội học sinh trung học. Nhóm thứ hai được bảo cho biết đây là một trận đấu quan trọng. Để giành được một chỗ, mỗi đối tượng phải qua một ban giám khảo gồm có ba huấn luyện viên đặt một loạt câu hỏi cho mọi đối tượng. Sau khi xem xét những câu trả lời của đối tượng ban giám khảo đánh giá anh ta có được cuộc không. Trên thực tế các huấn luyện viên là những gã cò mồi, mỗi người dữ một thái độ khá độ khá rõ: người thứ nhất đáng yêu, người thứ hai trung lập, và người thứ ba có thái độ phê phán. Cuối cuộc thí nghiệm mỗi đối tượng phải nói lên cảm giác của mình về kiểu tán thưởng mỗi thành viên trong ban giám khảo bày tỏ với mình. Những đối tượng rất muốn giành được một chỗ ngồi trong trận đấu đã đánh giá thành viên đáng yêu là người có thái độ tán thưởng hơn là những đối tượng có động cơ yếu.
Từ nghiên cứu này làm rõ một thực tế là những sự mong đợi của các cá nhân quy định tri giác của họ về hiện thực, trong chừng mực họ đi tìm thông tin trong môi trường xung quanh và ở ngoài khác để vững tin hơn.
Bối cảnh xã hội
Tác động đến nhân cách ẩn là cái quy định một hoạt động nhận thức đặc biệt: thiên hướng bỏ qua thông tin về các khả năng. Như từ những chỉ dẫn đã học được các cá nhân thiết lập những quan hệ giữa các dữ kiện của một sự kiện hoặc giữa các đặc điểm của một ứng xử nhằm đi tới một phán xét hay một ý niệm. Nó thường được đánh giá khi có hoàn cảnh chuẩn xác. Các cá nhân không đưa những đánh giá đó lên một cấp nhận thức cho phép nắm xác suất chung của sự xuất hiện các sự kiện hay cách ứng xử vì thông tin không phải bao giờ cũng có sẵn và không nhất thiết được các cá nhân tính đến. Người ta không thật sự biết được phán xét ấy là điển hình hay khác thường. Như vậy sự hiểu biết của chúng ta về hoàn cảnh thường tập trung cao nhất vào những sự kiện tức thời mà coi nhẹ việc sử dụng những thông tin về xác suất chung.
Lý thuyết nhân cách ẩn đưa ra một quá trình nhận thức phức tạp, qua đó một số phạm trù trong chúng ta tăng lên trong khi chúng ta tìm cách với tới hoặc hiểu các sự kiện và người khác.
2. Lý thuyết nhân cách ẩn
Lý thuyết nhân cách ẩn của Asch Solomon - nhà tâm lý học người Mỹ đã chứng minh con người thường phát triển những quan điểm cực kỳ phức tạp về người khác chỉ bằng cách ngoại suy từ một, hai mẫu thông tin.
Lý thuyết nhân cách ẩn của Asch đã đề cập đến một số nội dung như sau:
2.1 Đặc điểm chính và ngoại vi:
Ở phần này tác giả nhấn mạnh một số đặc điểm quan trọng hơn số đặc điểm khác trong việc ảnh hưởng đến cách nhận thức về người khác của chúng ta. Mỗi cá nhân đều có những đặc điểm tính cách thể hiện ra bên ngoài khác nhau. Ở những lần tiếp xúc ban đầu ta thường đánh giá cá nhân qua những đặc điểm đó. Tuy nhiên chỉ có một vài đặc điểm của cá nhân là thu hút được sự chú ý của chúng ta và qua đó chúng ta đánh giá về con người họ. Theo như nghiên cứu của Asch thì đặc điểm nhân cách “nồng nhiệt” hay “ lãnh đạm” dường như là tâm điểm đối với nhận thức của chúng ta về người khác.
2.2 Khía cạnh đặc điểm
Rosenberg, Nelson và Vivekanathan (1968) chứng minh lý thuyết nhân cách ẩn có hai khía cạnh chính. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến khả năng suy nghĩ. Thứ hai liên quan đến tính hòa đồng. Một người được cho là tốt thì họ được gắn với các đặc điểm khác như: khéo léo, kiên trì, khôi hài, vui vẻ… Ngược lại một người được minh họa xấu thì họ được xem như là người khó tính, ít giao du. Các ông cho rằng từ hai khía cạnh này cung cấp cho chúng ta những yếu tố cần thiết để tìm hiểu những nhân cách khác.
2.3 Suy nghĩ rập khuôn
Suy nghĩ rập khuôn bao gồm việc phân loại người theo một số đặc điểm bên ngoài như màu da hay định hướng tình dục. Suy nghĩ rập khuôn là việc đặt cá nhân vào một nhóm thích hợp bất kể những gì họ giống một cá nhân trong thực tế.
Chúng ta thường quy kết nhân cách của một cá nhân vào nhóm này hay nhóm khác chỉ qua một số đặc điểm của cá nhân đó giống với nhóm. Những nhóm này là những nhóm có những nét đặc trưng riêng mà mọi người đều nhận thấy được. Những nét đặc trưng đó có thể có sẵn trong nhóm hoặc cũng có thể bị xã hội gán cho.
Ví dụ: Nhóm người da đen là đặc điểm có sẵn nhưng xã hội thường gán cho họ thêm một số đặc điểm khác như ngu dốt, lạc hậu, và một số đặc điểm về nhân cách xấu… mặc dù không phải tất cả những người da đen đều như vậy.
Suy nghĩ rập khuôn về định hướng tình dục và dân tộc phổ biến nhất trong xã hội. Ngoài ra một số đặc điểm bên ngoài khác nhiều khi cũng tạo ra cho chúng ta suy nghĩ rập khuôn. Ví dụ khi nhìn thấy một thanh niên mặc một bộ vec, bước đi mạnh mẽ, tay xách một chiếc vali ta thường cho anh ta vào nhóm doanh nhân trẻ, tài giỏi, tính tình lãnh đạm… Nhưng cũng có khi đó chỉ là phong cách ăn mặc của thanh niên đó chứ anh ta không phải là một doanh nhân.
2.4 Dự đoán tự hiện thực
Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng mong đợi của chúng ta có ảnh hưởng lớn đối với nhận thức và hành vi cũng như làm nổi bật nguy cơ gán tên hay suy nghĩ rập khuôn về người khác. Rosenthal và Jacobsen ( 1968) nghiên cứu dự đoán tự thực hiện tại một trường học ở Mỹ. Hai ông đã nhận thấy một số học sinh mà được giáo viên mong đợi kết quả học tập cao thì sau đó một năm những em đó kết quả học tập tiến bộ rõ rệt mặc dù chỉ số IQ của các em trước đây không phải ở loại cao. Dường như giáo viên đã có những thái độ tích cực đối với những em này và điều đó đã kích thích tinh thần học tập của các em.
Điều này đã chứng minh rằng khi mà chúng ta mong đợi một kết quả nào đó ở cá nhân thì mong đợi đó có thể dự đoán tự thực hiện và ảnh hưởng đến kết quả mà chúng ta mong đợi.
2.5 Xây dựng cá nhân
Chúng ta thường áp dụng những suy nghĩ riêng của mình dựa vào kinh nghiệm để đánh giá người khác.
Ví dụ: chúng ta thấy rằng hiện nay giám đốc các doanh nghiệp đều có một thư ký riêng trông rất xinh đẹp.Vì vậy khi ta thấy một người có mong muốn là một thư ký và ngoại hình của cô ấy cũng đẹp, ta thường đánh giá là cô gái đang lợi dụng ngoại hình của mình để gần gũi những ông giám đốc có nhiều tài sản. Nhưng có thể cô gái ấy muốn làm công việc đó để học tập kinh nghiệm quản lý và ngoại giao của ông giám đốc để sau này cô ấy thành lập một công ty riêng.
Như vậy việc chúng ta đánh giá nhân cách của một người khác không chỉ dựa vào những đặc điểm bên ngoài của người đó mà nó còn chịu ảnh hưởng từ phía chủ quan của chúng ta.
2.6 Tác dụng gần đây
Thứ tự các thông tin mà chúng ta nghe nói về người khác có ảnh hưởng đáng kể đến việc chúng ta đánh giá nhân cách của cá nhân đó. Những thông tin nào mà chúng ta nhận được ở vào thời điểm gần nhất sẽ có tác động nhiều nhất đến đánh giá của chúng ta. Trong thực tế chúng ta có thể lý giải lý thuyết này trong việc tạo ra ấn tượng ban đầu. Những ấn tượng ban đầu chúng ta tạo ra cho người đối diện tốt thì họ sẽ ít quan tâm đến những đặc điểm khác của chúng ta.
2.7 Hiệu ứng quầng sáng
Một cá nhân đã từng tạo cho chúng ta những ấn tượng tốt đẹp hoặc cá nhân đó trước đây đã có những hành động tích cực thường được chúng ta nhận xét tốt hơn thực tế. Đối với những cá nhân như vậy chúng ta thường đánh giá họ rất cao và sẵn sàng bỏ qua những khuyết điểm của họ mặc dù ta không thể chấp nhận được ở cá nhân khác. Chúng ta cũng đánh giá họ cao hơn mặc dù công việc của họ tương tự như người khác.
Điều này lí giải tại sao một cá nhân chỉ bằng sự cố gắng ban đầu để dành được địa vị xã hội nào đó thì sau đó họ là người rất dễ dàng thăng tiến trên con đường công danh mặc dù họ không cần phải cố gắng nhiều nữa là vì họ đã gây được những ấn tượng rất tốt cho người khác. Ngược lại những cá nhân đã ít để lại những ấn tượng về thành tích trong quá khứ thì dù họ có cố gắng nhiều hơn cá nhân kia nhiều lần thì họ cũng sẽ khó được đánh giá cao.
Tóm lại các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng lý thuyết nhân cách ẩn là để nói tới việc chúng ta nhìn nhận đánh giá nhân cách của một cá nhân chỉ thông qua một vài đặc điểm bên ngoài của cá nhân đó, cũng có khi chúng ta dùng chính những ý nghĩ chủ quan của chúng ta để xây dựng nhân cách của một người khác.
3. Sơ đồ và chữ viết
Chúng ta thường lưu trữ thông tin để hướng dẫn hành động một cách thích hợp. Và chúng ta sắp xếp hiểu biết của mình thành những hình thức giúp chúng ta áp dụng chúng khi đối mặt với tình huống xa lạ trước đây chưa hề gặp. Vậy chúng ta phải có khả năng khái quát hóa, cũng như lưu trữ thông tin dưới dạng khả năng có thể và chiến lược hành động cũng như hiểu biết thực tế hay trí nhớ kinh nghiệm bằng sơ đồ và chữ viết để lưu trữ.
3.1 Sơ đồ
Sơ đồ thường được cho là khung nhận thức mà chúng ta hình thành qua kinh nghiệm dùng để hướng dẫn định hướng hành động của mình.
Ví dụ từ khi đi học chúng ta có nhận thức là đến lớp thì phải lắng nghe cô giáo giảng bài, ghi chép đầy đủ, thực hiện các hoạt động ứng xử theo nội quy của lớp học, trường học. Đó là những kinh nghiệm được trải qua của mỗi học sinh, sinh viên và là mong đợi của mỗi người học sinh khi cắp sách tới trường.
Vì có mong đợi của chúng ta định hướng hành vi nên chúng ta thường lập ra những chu kỳ hành vi tự thực hiện, cuối cùng hoàn toàn khẳng định điều chúng ta tin tưởng. Chẳng hạn nhận xét một người là “ngạo mạn” thì chắc chắn chúng ta sẽ chọn những khía cạnh hành vi của họ giải thích theo cách ấy và hoàn toàn bỏ qua bất kỳ dấu hiệu cho thấy họ không phải là người ngạo mạn.
Mong đợi có thể ảnh hưởng đến mức nào do sơ đồ chúng ta tạo ra, ảnh hưởng đến đánh giá xã hội của chúng ta. Dĩ nhiên nếu hiểu một hành động là gây hấn thì chúng ta có khả năng phản ứng bằng thái độ gây hấn hơn là xem hành động ấy chỉ là vô tình. Sagar và Schofield ( 1980) tiến hành thí nghiệm trong số nam sinh da đen và da trắng ở 4 trường học khác nhau nghe kể chuyện và nhìn thấy ảnh chụp những loại hành động khác nhau có thể hiểu là gây hấn hoặc không gây hấn. Sau khi nghe mô tả các em này được yêu cầu đánh giá hành vi bằng việc chọn tính từ thích hợp để mô tả. Hành vi mơ hồ được số nam sinh da đen lẫn da trắng hiểu là ở học sinh da đen mang tính đe dọa nhiều hơn học sinh da trắng, cho dù ảnh chụp đều giống hệt nhau trong mọi khía cạnh khác.
Fiske và Linville (1980) cho rằng khái niệm sơ đồ rất hữu ích với suy nghĩ ở con người vì chúng giúp ta đơn giản hóa thế giới xã hội. Bằng cách cung cấp cho chúng ta cách phác họa cùng lúc một dải rộng thông tin và trích lấy nguyên tắc chung để định hướng hành động. Sơ đồ giúp chúng ta giải quyết nhiều tình huống khác nhau hơn mức có thể nếu phải giải quyết riêng từng tình huống. Sơ đồ liên tục được bổ sung, điều chỉnh khi kinh nghiệm xã hội phát triển, giúp chúng ta làm cho hành vi của mình thích nghi với yêu cầu xã hội phức tạp và đang thay đổi nhanh chóng.
3.2 Chữ viết xã hội
Cũng là một loại sơ đồ, được sử dụng ảnh hưởng đáng kể với những gì chúng ta nhớ, như nhớ nhiều loại thông tin khác nhau khi áp dụng những chữ viết khác nhau trong cùng một sự kiện.
Schank và Abelson (1977) mô tả hiểu biết xã hội của chúng ta dựa vào chữ viết xã hội, nên hiểu rõ điều gì và bao gồm những thông tin nào để hiểu biết thích hợp cũng như kế hoạch và một chuỗi hành động cho một hay nhiều vấn đề.
Zandny và Geard (1974) tiến hành thí nghiệm trong đó người tham gia nghiên cứu xem băng video quay cảnh hai sinh viên đi dạo quanh một tòa nhà, bàn chuyện ma túy và tội ăn cắp. Nhóm một người tham gia nghiên cứu cho biết hai sinh viên định ăn trộm trong tòa nhà. Nhóm thứ hai cho biết họ đang tìm ma túy. Nhóm 3 cho biết họ đang chờ bạn đến. Sau khi hỏi người tham gia nghiên cứu nhớ điều gì, họ nhớ lại thông tin liên quan đến chữ viết mà họ áp dụng. Như những người nghĩ sinh viên là kẻ ăn trộm, nhớ nơi dễ bị tấn công trong tòa nhà như thẻ tín dụng.
Như vậy chữ viết để chúng ta lưu trữ, ghi lại những thông tin mà chúng ta thấy để lưu lại khi cần sử dụng chúng ta không phải nhớ lại, nhiều khi sự nhớ không chính xác khi mà thông tin diễn ra khá lâu rồi.
3.3 Các loại sơ đồ
Có nhiều loại sơ đồ nhưng chúng được phân ra làm các loại khác nhau. Sau đây là 4 loại sơ đồ cụ thể:
Sơ đồ sự kiện
Liên quan đến chuỗi hành động thích hợp trong một sự kiện hay một loại sự kiện cụ thể. Ví dụ vào trong một nhà hàng chúng ta khái quát được mình mong đợi được có món ăn ngon và nhà hàng phải phục vụ ta chu đáo. Và trên bàn có thực đơn theo loại chữ viết để ta chọn món ăn. Những nếu chữ viết không có thì có thể là nhân viên mang sai thực đơn cho chúng ta khi anh ta nhớ sai món ăn.
Sơ đồ vai trò
Liên quan đến hành vi và hoạt động thích hợp khi đảm nhiệm vai trò xã hội cụ thể. Sơ đồ vai trò là khuôn khổ sử dụng khi quan hệ với người khác trong những mối quan hệ xã hội đặc biệt. Sơ đồ vai trò gồm cách chúng ta suy nghĩ về hành vi có thể có cũng như nhân cách của người giữ công viên như là anh ta dễ tính, cởi mở với mọi người, hay cô giáo nhiệt tình giảng dạy cho học sinh. Sơ đồ vai trò giúp chúng ta rút ra nguyên tắc chung liên quan đến các nhóm xã hội rộng, hay nhiều nhóm người trong xã hội.
Sơ đồ cá nhân
Liên quan đến hiểu biết và dự đoán về một cá nhân nhóm người cụ thể. Ví dụ khi quen biết một người chúng ta phát triển nhận xét rõ hơn về người ấy để ta có thể dự đoán về người ấy và định hướng hành vi của người đó. Khi mua quà tặng sinh nhật cho người bạn có thể dự đoán là bạn ấy thích món quà nào qua sơ đồ cá nhân. Chúng ta tương tác với người khác nhiều hơn khi hiểu biết của ta về họ càng tinh vi hơn. Sơ đồ của chúng ta về người khác tích lũy nhiều thông tin hơn qua thời gian.
Sơ đồ cá nhân nhiều khi mang tính chung chung. Như khi quyết định rằng “một phụ nữ có sự nghiệp tiêu biểu” thì sơ đồ cá nhân phát triển tập trung vào những đặc điểm cụ thể mà mình nghĩ về một người như thế chắn phải có, và không để ý đến hành vi của họ rất khác nhau.
Sơ đồ cái tôi
Liên quan đến hiểu biết và đánh giá của chúng ta về bản thân. Có người cho rằng mình có khái niệm ổn định về cái tôi trong khi người khác cho rằng khó nhận dạng nhưng tất cả chúng ta đều suy luận mình là ai và người như thế nào từ những nhận xét về hành vi của mình. Từ sơ đồ cái tôi cho chúng ta dự đoán rằng chắc chắn mình sẽ có hành động gì. Ví dụ như trong một ngày nghỉ ta dự đoán sẽ ở nhà quét dọn nhà, hay đi chơi.
Như vậy các loại sơ đồ cho chúng ta dự đoán về mình, về người khác thông qua sơ đồ cá nhân, và các vai trò của chúng ta cũng như các sự kiện liên quan đến ta để chúng ta có hướng hành động một cách đúng đắn nhất.
II. Thuyết suy luận quy kết
Học thuyết này được khái quát dựa trên cơ sở quy luật quy gán xã hội. Trong đời sống thường ngày, trong sự giao tiếp với các cá nhân khác, chúng ta luôn tìm cách lý giải những hành vi của họ. Tại sao người ta lại làm như thế, tại sao sự việc đó lại diễn ra như thế, mực đích của việc làm đó là gì… là những câu hỏi thường trực nhằm tìm hiểu những nguyên nhân đằng sau sự việc. Trong tri giác xã hội, cách mà con người dung để nhận định người khác gọi là quy gán xã hội, hay có thể gọi là sự quy kết.
Thuyết suy luận quy kết là một trong nhiều hình thức của thuyết quy kết, tìm hiểu những yếu tố khác nhau góp phần vào những suy luận của chúng ta về trách nhiệm xã hội.
1. Suy luận tương ứng
Jones và Davis (1965) cho rằng quy kết chủ ý là giai đoạn đầu trong việc phát triển lý do giải thích tại sao sự việc diễn ra. Một khi hành động được đánh giá là có cân nhắc, khi ấy chúng ta mới tìm đặc điểm hay đặc tính cá nhân tạo ra chủ ý ấy. Như thế chúng ta đang thực hiện những gì mà Jones và Davis gọi là suy luận tương ứng - là quá trình chúng ta suy luận về nhân cách hay khuynh hướng tương ứng trực tiếp với hành vi cá nhân.
Thuyết suy luận tương ứng (theo Heider) dựa trên 3 khái niệm: tính ổn định, chủ ý, khuynh hướng.
Tính ổn định:
Heider cho rằng chúng ta mong muốn tìm hiểu ý nghĩa những gì đang diễn ra trong thế giới có nghĩa rằng chúng ta thích nguyên nhân ổn định hơn là sự bất ổn.
Nguyên nhân ổn định là nguyên nhân chắc chắn xảy ra thêm lần nữa, vì thế chúng ta dự đoán dự đoán điều gì có khả năng xảy ra trong lần sau. Nguyên nhân bất ổn thường không cho chúng ta biết hướng dẫn nào về tương lai.
Chủ ý:
Là hành vi mang mục đích của cá nhân. Ví dụ như việc chúng ta tập trung nghe giảng trên lớp, mục đích là để thu được kiến; hành vi giết người cướp tài sản…
Heider nhấn mạnh rằng đối với chúng ta điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt giữa hành vi chủ ý và vô tình, vì nếu không chúng ta không thể đánh giá liệu một người có trách nhiệm đối với hành động cuả mình hay không. Chúng ta không thể hiểu hành động xã hội trừ khi chúng ta biết (hay cho rằng mình biết) liệu một người hành động có cân nhắc hay không. Ví dụ như khi nhìn nhận hành động giết người của một phạm nhân chúng ta phải xem xét xem hành vi đó là do cố ý hay chỉ vô tình. Điều này sẽ liên quan đến việc tuyên án của tòa án.
Khuynh hướng
Quy kết khuynh hướng xảy ra khi chúng ta kết luận rằng một người chính họ là nguyên nhân khiến cho sự việc xảy ra – vì khả năng, chủ ý hay nổ lực của họ. Phân biệt với khái niệm quy kết khuynh hướng chúng ta có khái niệm quy kết tình huống. Quy kết tình huống là việc chúng ta đưa ra kết luận cho chính tình huống hay tình huống bên ngoài là nguyên nhân khiến cá nhân hành động theo cách ấy.
=>Liên kết 3 khái niệm này, Jones và Davis cho rằng chúng ta có khuynh hướng quy kết khuynh hướng so với quy kết tình huống. Khi quy kết chủ ý chúng ta suy luận về hiểu biết của cá nhân khả năng họ có thể làm gì và về khả năng của họ khi tiến hành hành động. Nói chung chúng ta thường cho rằng họ hành động có cân nhắc hơn là vô tình trừ khi chúng ta có một số lý do đánh giá một người là không có khả năng – chẳng hạn vì họ quá trẻ hay trí năng không phù hợp. Một khi đánh giá hành động là do chủ ý, chúng ta tìm các đặc điểm cá nhân có thể tạo ra chủ ý ấy. Đây là suy luận tương ứng dùng để đặt tên cho lý thuyết.
2. Một số những quan điểm khác
Eiser (1983) đã phủ nhận quan niệm cho rằng quy kết chủ ý tự động dẫn đến quy kết khuynh hướng. Ông nêu rõ khuynh hướng và chủ ý không hẳn là như nhau. Chẳng hạn quy kết tính cẩu thả là một giải thích khuynh hướng nhưng quy kết về tiền bồi thường không hề có ngụ ý cá nhân đó cố ý làm hỏng. Eiser cho rằng thuyết suy luận tương ứng chỉ áp dụng trong những tình huống có một số yếu tố lựa chọn hơn là khả năng xảy ra mang tính vô tình hay tình cờ.
Một số chứng cứ cho thấy khuynh hướng quy kết khuynh hướng nhiều hơn là quy kết tình huống có thể thay đổi bằng kinh nghiệm. Guimond và Palmer (1990) so sánh giải thích sự nghèo đói và thất nghiệp của sinh viên khi họ qua nhiều khóa học. Ở năm thứ nhất không có sự khác nhau giữa sinh viên khoa học xã hội, thương mại và kỹ thuật. Tuy nhiên cuối năm thứ nhất bắt đầu xuất hiện sự khác nhau đáng kể, sinh viên khoa học xã hội chỉ trích hệ thống nhiều hơn các ngành khác.
Năm 1976, Jones và McGillis đưa ra một phiên bản sửa đổi thuyết suy luận tương ứng. Theo đó các yếu tố xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc quy kết khuynh hướng của cá nhân. Chẳng hạn như địa vị xã hội, vị thế xã hội… cùng một vấn đề nhưng những người mà có uy tín nói thì tính hiệu quả bao giờ cũng cao hơn, được mọi người hưởng ứng nhiều hơn so với những cá nhân mà không có sự ảnh hưởng lớn đối với các cá nhân khác.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy kết khuynh hướng của cá nhân
Thuyết suy luận tương ứng nhận dạng ba yếu tố chính ảnh hưởng đến khả năng quy kết khuynh hướng của cá nhân là: Nguyên tắc tác dụng không phổ biến, Thuyết nhân cách, Sự có liên quan đến hưởng lạc.
Nguyên tắc tác dụng không phổ biến
Liên quan đến dãy hậu quả xảy ra do kết quả của hành động. Jones và Davis chứng minh rằng nếu chúng ta làm việc gì đó có một dãy rộng hậu quả (chẳng hạn như việc trượt trong kì thi đại học) thì con người có khả năng nghĩ tới các yếu tố tình huống, xem đó là nguyên nhân nhiều hơn khi có kết quả hạn chế hơn và chỉ có một dãy hẹp hậu quả. Vì thế chúng ta có khả năng nhận dạng những nguyên nhân khuynh hướng đối với sự kiện có kết quả hạn chế.
Thuyết nhân cách:
Thuyết nhân cách có liên quan liệu một kết quả có tác động đến người nhận thức hay không (người đang quy kết). Cá nhân có khả năng đánh giá một hành động là chủ ý, vì thế nó mang tính khuynh hướng nếu ảnh hưởng cá nhân bạn: nếu một người làm gẫy bút của người khác thì bạn xem hành động ấy là vô tình nhiều hơn khi người khác làm gẫy bút của bạn khiến bạn không có gì để viết.
Sự liên quan đến hưởng lạc
Liên quan đến việc liệu kết quả của hành động có kết quả thú vị hay khó chịu với người quy kết hay không. Nếu hành động có kết quả tiêu cực hay tích cực (so với kết quả trung tính) thì có thể suy luận tương ứng nhiều hơn – nói cách khác hành động được cân nhắc là đánh giá nhiều hơn
Sự liên quan đến hưởng lạc và thuyết nhân cách độc lập với nhau. Chẳng hạn việc giảm mức thuế thu nhập nhìn chung là đem lại lợi ích cho nhiều người, liên quan đến sự hưởng lạc cao đối với nhiều cá nhân. Tuy nhiên đối với một số cá nhân nó không có sự tác động lớn lắm, thậm chí là không ảnh hưởng gì.