Vungtroi_binhyen
New member
- Xu
- 0
LUẬN VĂN TIÊN1 SỸ - BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Vùng cát ven biển Quảng Bình nằm trong miền đồng bằng chịu tác
động bởi nhiều yếu tố tự nhiên khắc nghiệt như nền nhiệt cao, bão, lốc, cát
bay, cát chảy, thảm thực vật kém phát triển v.v...tạo nên một đơn vị lãnh
thổ địa lý có nhiều đặc điểm riêng biệt trong cả dải ven biển miền Trung.
Với thành phần chủ yếu là đất cát phân bố dưới dạng dải hẹp về chiều
ngang nhưng trải dài suốt phần phía đông của tỉnh. Tuy vùng nghiên cứu có
ít lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nhưng nước nhạt dưới đất được xem như
nguồn tài nguyên đặc biệt, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội (KT - XH) của địa phương.
Kết quả điều tra, đánh giá về nguồn nước nói chung tại khu vực chưa
nhiều, trong đó mức độ tìm kiếm, thăm dò nước dưới đất (NDĐ) chỉ mới
được thực hiện ở những phạm vi hẹp và phân tán với mức độ chi tiết khác
nhau, nguồn thông tin, số liệu về các đơn vị chứa NDĐ trong khu vực còn
nhiều hạn chế.
Việc khai thác và sử dụng NDĐ của nhân dân trong vùng còn mang
tính tự phát, thiếu sự quy hoạch, quản lý cụ thể và chưa có các giải pháp bảo
vệ thích hợp, nên đã xảy ra các hiện tượng suy thoái nguồn nước bởi sự
xâm nhập mặn, nhiễm bNn và thất thoát, nhiều nơi đã có dấu hiệu thiếu hụt
nguồn nước cấp, nhất là vào mùa khô hạn.
Vùng cát ven biển Quảng Bình nằm trong miền đồng bằng chịu tác
động bởi nhiều yếu tố tự nhiên khắc nghiệt như nền nhiệt cao, bão, lốc, cát
bay, cát chảy, thảm thực vật kém phát triển v.v...tạo nên một đơn vị lãnh
thổ địa lý có nhiều đặc điểm riêng biệt trong cả dải ven biển miền Trung.
Với thành phần chủ yếu là đất cát phân bố dưới dạng dải hẹp về chiều
ngang nhưng trải dài suốt phần phía đông của tỉnh. Tuy vùng nghiên cứu có
ít lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nhưng nước nhạt dưới đất được xem như
nguồn tài nguyên đặc biệt, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội (KT - XH) của địa phương.
Kết quả điều tra, đánh giá về nguồn nước nói chung tại khu vực chưa
nhiều, trong đó mức độ tìm kiếm, thăm dò nước dưới đất (NDĐ) chỉ mới
được thực hiện ở những phạm vi hẹp và phân tán với mức độ chi tiết khác
nhau, nguồn thông tin, số liệu về các đơn vị chứa NDĐ trong khu vực còn
nhiều hạn chế.
Việc khai thác và sử dụng NDĐ của nhân dân trong vùng còn mang
tính tự phát, thiếu sự quy hoạch, quản lý cụ thể và chưa có các giải pháp bảo
vệ thích hợp, nên đã xảy ra các hiện tượng suy thoái nguồn nước bởi sự
xâm nhập mặn, nhiễm bNn và thất thoát, nhiều nơi đã có dấu hiệu thiếu hụt
nguồn nước cấp, nhất là vào mùa khô hạn.
Tải luận văn TẠI ĐÂY
Nguồn thư viện số