CUỐN BIÊN NIÊN SỬ CỦA TRÁI ĐẤT
Các giai đoạn phát triển :
Thái cổ: Tiền Cambri
Cổ sinh: Cambri – Ordovit – Silua – Devon – Carbon
Trung sinh: Permi – Trias – Jura – Creta
Tân sinh – Đệ tam: Paleoxen – Eoxen – Oligoxen – Mioxen – Plioxen
-- Đệ tứ : Pleistoxen – hiện nay
I. ☻ Thái cổ- Tiền Cambri.
Con người được sinh ra muộn mằn hơn nhiều so với những gì đã từng có mặt trên Trái Đất. Song có lé do điều đó, con người đã kế thừa tinh hoa của các bậc “tiền bối”, những kẻ đã từng vật lộn với bao nhiêu biến cố khốc liệt xảy ra trong lịch sử phát triển của Trái Đất, để trở thành loài động vật tiến hóa cao nhất , thành “chúa tể” trong sinh giới, có đầy đủ uy quyền và sức mạnh như thần Dớt chế ngự mọi hành vi của chính mình và cai quản muôn loài trong cõi thế gian này. Bao năm qua , con người cứ khắc khoải muốn tìm lại nguồn cội trực tiếp của mình và xa hơn . là nguồn gốc của chính nơi mình đang sống và lập nên bao kì tích , kể cả việc khám phá ra những điều bí mật còn cất dấu trong các hành tinh, những anh em “song sinh” đang làm nên các cuộc hành trình bất tận xung quanh Mặt Trời . May thay, từ khi xuất hiện như một hành tinh trong hệ Mặt trời, mỗi biến cố, mỗi sự kiện đã từng xảy ra trên bề mặt Trái Đất này hầu như được ghi chép lại một cách khá cẩn thận trong cuốn biên niên sử Trái Đất để lưu giữ các “ngăn kéo” đất đá lớp lớp dưới đáy biển hay trên lục địa.
Trái Đất ra đời cách đây 4,6 tỉ năm . Đương nhiên, lúc này sự sống chưa xuất hiện, còn nằm ở “bờ tre, bụi chuối” đâu đó. Tuổi trái Đất được xác định bằng tuổi các lớp đất đá. Sau khi sự sống ra đời , sinh vật phát triển và tiến hóa , trước tiên trong các biển nông, ấm nóng thuộc các đại dươngcoor thuộc vào những thời kì địa chất khác nhau. Lúc chết đi như “trâu chết để lại da”, chúng được lưu lại bằng các di chỉ của mình dưới dạng hóa thạch (tức là những cơ thể bị hóa đá ở điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất xác định ), trong các lớp đất đá trầm đọng dưới đáy đại dương hay một phần trong các lớp đất, đá khác nhau trên lục địa. Đấy là những “văn tự” quan trọng, cung cấp cho con người nhiều hiểu biết mới mẻ về một quá khứ dài đằng đẵng, đầy bí ẩn với bao chao đảo khủng khiếp đã từng xảy ra với vỏ Trái Đất :
Lục địa xuất hiện rồi tan rã, trôi dạt, những mảng riêng biệt va vào nhau làm cho nơi này chìm xuống dưới mực nước biển , nơi kia lại gồng lên đẻ dựng thành núi non chất ngât, đồ sộ như những bức bình phong khổng lồ, án ngữ cả nửa lục địa. Núi lửa khi thì âm ỉ, khi thì hoạt động nơi nơi, bùng lên những cột lửa màu vàng và tung vào bầu khí quyển nào ddatss đá, tro bụi mù mịt, ohur kín góc trời; nhiều lần các chóp băng 2 cực trùm xuống tận xích đại, lục địa được mở rộng xua đuổi nước đại dương rút chạy nơi rất xa; nhiều lần khí hậu trở nên ấm nóng, đẩy các cách đồng rêu, những dải rừng thông, rừng tùng , bách về tận Bắc cực, nước đại dương dâng cao, thu hẹp các lục địa thành từng mảng , từng mảng.
Các di chỉ của sinh giới đương nhiên có mặt sớm nhất trong các trầm tích đại dương. Tuy nhiên , phần lớn các di vật của buổi ban đầu bị mai một, vì các sinh vật thời ấy có cấu tạo còn quá đơn sơ, dễ dàng bị phá hủy bởi sự tàn phá của thời gian. Muộn hơn, nhờ sự ra đời của hàng loạt cơ thể vỏ, xương bằng đá vôi nên khi chết đi chúng đã để lại cho chúng ta những kho tàng văn tự đa dạng và phong phú, rõ ràng và bền chắc hơn nhiều. Nhiều vùng trên cạn cũng chứa vô vàn di chỉ khác nhau của các đại dương cổ, bởi vì, chính nơi đây qua bao năm tháng thăng trầm của vỏ Trái Đất đã thoát khỏi vòng cương tỏa của thần biển, vượt lên thành núi non trùng điệp hay những cao nguyên mênh mông hoặc những hẻm vực sâu thẳm của lục địa . Các hóa thạch ở bất kì nơi nào được phát hiện trên hành tinh này đều là những “nhân chứng, vật chứng” đáng tin cậy để con người tìm lại diện mạo xưa của Trái Đất và sinh giới học trong suốt chặng đường dài phát triển , tiến hóa.
Ta hãy hình dung , khi Trái Đất được hình thành còn là một hành tinh chết . Bao quanh nó là bầu khí quyển đầy ni tơ, hydro, cacbon dioxit, amoniac, clo, oxit, lưu huỳnh, hơi nước….do núi lửa phun lên. Từ Mặt Trời. các chùm tia cực tím chiếu tràn trề xuống bề mặt hành tinh và trong không trung , từ những đám mây đen vần vũ , sấm sét xé tai, những tia chớp xanh lè liên hồi lóe sáng, rạch nát bầu trời và như những thanh kiếm lửa đâm thẳng xuống đại dương. Nhờ đó , công cuộc tiến hóa hóa học được khởi đầu. Dưới ảnh hưởng của tia cực tím và những dòng điện cực mạnh của các tia chớp trong giông tố , hơi nước được phân ly, tạo ra 1 lượng oxy rất không đáng kể , rồi khí ozon cũng ra đời.
Cùng với điều ấy, các hợp chất vô cơ và chất hữu cơ được hình thành , nhất là các chất hữu cơ phức tạp như axit amin, một thành phần quan trọng để cấu tạo nên các hệ thống sống nguyên thủy . Lớp ozon bấy giờ tuy còn rất mỏng , nhưng cùng với tầng nước đại dương đã dệt nên bức màn kì diệu, che chở và nâng niu cho sự sống lọt lòng.
Những mầm sống nguyên sơ là những thể kị khí, chưa có cấu tại tế bào đã ra đời cách chúng ta khoảng 3,8 tỷ năm trong các đại dương nguyên thủy. Muộn hơn, chừng 3,5 tỉ năm , cơ thể sống đã xuất hiện dưới dạng các tế bào thực sự. Đó là những cơ thể vi bào hình cầu, những vi khuẩn mà di chỉ của chúng được tìm thấy trong các trầm tích ở phần ohias tây Oxtraylia hay ở Xoadilen thuộc Nam Phi . Chúng cũng là những sinh vật dị dưỡng, tức là phải sống dựa vào nguồn chất hữu cơ có sẵn trong đại dương bằng con đường lên men. Dù cách dinh dưỡng này còn rất nguyên thủy , nhưng chúng đã đem đến cho Trái Đất 1 bước ngoặt có tính chất lịch sử, chuyển từ giai đoạn tiến hóa hóa học sang giai đoạn tiến hóa sinh học, mà tiến hóa dị dưỡng được xem là chặng đường đầu.
Tiến hóa dị dưỡng của Trái Đất gắn liền với sự ra đời của sinh vật có sắc tố màu xanh , là bước thứ 2 sau tiến hóa dị dưỡng và kéo dài tới tận ngày nay. Sự xuất hiện của các sắc tố xanh và những sinh vật có khả năng quang hợp còn nằm trong bức màn bí mật của tạo hóa chưa được vén lên. Đến nay, các nhà sinh học chỉ mới đoán rằng, trong các đại dương nguyên thủy tuy giàu chất hữu cơ, song những cơ thể sống dù đơn giản đến mấy cũng ngày trở nên đông đúc. “Miệng ăn, núi lở”, chúng đã khai thác làm cho nguồn thức ăn hữu cơ sẵn có trở nên cạn kiệt dần. Và đến thời điểm xác định , do “sức ép về dân số”, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa những sinh vật chỉ biết ăn bám, đã xuất hiện những loài sinh vật có sắc tố xanh, những anh hùng “chọc trời, khuấy nước”, dám vượt cả không gian và thời gian lên tận thần Mặt Trời để “đánh cắp lửa Mặt Trời”, giúp thế gian này “chế tạo” được thức ăn từ những chất vô cơ để tự nuôi sống muôn vật. Quang hợp đã ra đời như thế và chính nó làm nên cuộc cách mạng xanh kì diệu trên Trái Đất bước sang trang sử mới, giai đoạn tiến hóa tự dưỡng, chấm dứt những năm tháng dài đằng đẵng đến nghẹt thở của một thời “ấu thơ” đầy giống tố phũ phàng của Trái Đất với biệt danh là thời Tiền Cambri.
Sinh vật mang màu của thời đại nguyên sơ này là những cơ thể vi bào tương tự như khuẩn lam hiện nay. Chúng được phát hiện trong các trầm tích có tuổi 2,8 tỷ năm cách chúng ta, còn khuẩn lam thực sự (Cyanobacteriophyta) đã xuất hiện với 2,3 tỉ năm . Nhờ sắc tố xanh (clorophin). Chúng có khả năng tổng hợp các chất hữu cơ từ các chất vô cơ như cacbon dioxit và muối khoáng , đồng thời giải phóng vào khí quyển oxy phân tử. Khí này đầu tiên được cố định trong các loại đá , trước hết tạo nên quặng sắt với tuổi cổ nhấtđược phát hiện khoảng 2 tỷ năm, sau đó phát tán vào khí quyển ngày một nhiều hơn để đạt được 10% thể tích khí quyển vào thời gian cách chúng ta 550 triệu năm về trước.
Mãi cho đến kỉ Devon, khoảng 400 triệu năm trước đây , hàm lượng oxy mới đạt được đến trên 20% như hiện nay . Sự gia tăng oxy chậm chạp ở buổi ban đầu giúp cho “nàng Bân” cóp nhặt dần những sợi tơ vàng để “đan áo cho chồng”, dệt nên bức màn oxy đủ dầy , có khả năng ngăn chặn 90% các chùm bức xạ cực tím rất nguy hiểm, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện và tiến hóa của hàng loạt các nhóm loài sinh vật dưới nước và trên cạn cho các nguyên đại tiếp theo.
II. ☻ Cổ sinh
- 1. Kỉ Cambri
- 2. Kỉ Ordovit
- 3. Kỉ Silua
- 4. Kỉ devon
Những loại động vật đa dạng và phong phú trong thời kì này có được là nhờ sự đỡ đầu đáng tin cậy của các nhóm thực vật, nhất là các loài quyết, những cơ thể đã thích nghi được với lối sống trên cạn nhờ vào sự phân hóa cao về cấu trúc và các hoạt động chức năng như: có thân với các mô nâng đỡ để “đứng vững” được trên mặt đất, mô dẫn truyền để dẫn nước và muối khoáng từ rễ , còn lá đảm nhiệm chức năng tổng hợp các chất hữu cơ đầu tiên. Đây là bước khởi đầu chẳng kém gian nan cho sự phát triển hưng thịnh của thực vật ở những kỉ tiếp theo.
- 5. Kỉ Carbon (kỉ than đá)
III. ☻ Trung sinh
- 1. Kỉ Permi
Trứng của các loài bò sát được bọc trong lớp vỏ đá vôi đã không còn dính dáng gì đến nước, khác xa so với bào tử của rêu , dương xỉ, thạch tùng, trứng của lưỡng cư…rất cần nước cho sự phát triển và nảy mầm và phát triển. Trong điều kiện khô nóng, nhiều vùng là những hoang mạc nguyên thủy , sự sống trở nên nghèo nàn. Trên lục địa đã có những thằn lằn ăn thực vật (Pareiasaurus) và bò sát răng thú (Teriodontia), bò sát ăn thịt, có thể là tổ tiên xa xưa của động vật có vú sau này. Khô hạn kéo dài đến nỗi nhiều loài lưỡng cư đành phải “từ dã lá phổi” mới kiếm được để lấy lại cái mang cổ truyền, trở về với đời sống dưới nước, quê hương của thuở ban đầu. Nhiều loài bò sát, nếu chưa kịp “khoác trên mình” chiếc áo dát vẩy sừng thì cũng theo gót mấy chàng ếch nhái xuống làm con dân vua thủy tề, để sau này trở thành rắn biển, những Triton với chiếc tù và kêu sóng, gọi gió, cảnh báo dưới chốn thủy cung. Lục địa bị thiêu đốt, đại dương cũng không tránh khỏi những chao đảo. Giai đoạn uốn nếp Hecxini đã nâng vùng rìa lục địa lên và cướp đi các vành đai biển nông kề liền, đưa đến sự hủy diệt của các rạn san hô cùng với bao nhóm loài sinh vật chúng sống với chúng như rong, tảo, thân lỗ, giun nhiều tơ, thân mềm, các loài động vật ruột khoang, cá…Người ta tính rằng, biến cố ở thời kì chuyển tiếp Permi – Triat cách đây từ 250 – 270 triệu năm , “đêm giao thừa” giữa nguyên đại cổ sinh và Trung sinh, đã cướp đi sinh mạng của 95% tổng số loài động vật bao gồm trong đó 73% Lưỡng cư và bò sát tren mặt đất và 50% số của động vật biển. Biến cố của thời kì này là sự kiện bí hiểm nhất trong 5 sự kiện lớn đã từng xảy ra với hành tinh, kết thuchs nguyên đại Cổ sinh kéo dài 305 triệu năm, từ kỉ Cambri đến kỉ Permi và cũng để lại tai họa khủng khiếp nhất trong suốt quá trình 600 triệu năm hình thành và phát triển của sinh giới.
- 2. Kỉ Triat
- 3 Kỉ Jura
- 4. Kỉ Creta
IV. ☻ Tân sinh
- 1. Kỉ Đệ tam
Vào cuối Đệ tam, khí hậu lại trở lạnh đột ngột và khô hanh, nhiều khu rừng tươi tốt trước đây bị tàn lụi , nhiều trảng cỏ và cây bụi được mở rộng , vượn người được tiến hóa từ tổ tiên xa xưa là 1 loài linh trưởng nguyên thủy , 1 nhóm thú đã có mặt vào thế Oligoxen, cũng ra đời. Bước sang thế Cánh tân ( Pleistocene) , thuộc kỉ Đệ tứ, Trái Đất trải qua những thử thách khắc nghiệt : Bán cầu Bắc đã xảy ra ít nhất 4 lần phủ băng và tan băng. Đó là đêm “trở dạ” để khai sinh ra 1 loài thú mới nữa, 1 thiên thần – con người!!! Con người cổ nhất thuộc giống Homo được tìm thấy trong các lớp đất đá ở Châu Phi đã ra đời cách đây 3 triệu năm để mãi cho đến 200.000 năm cách đây , người thông minh Homo sapiens sapiens mới lọt lòng trong cái “nôi” đầy hoa thơm, trái ngọt mà tạo hóa đã chuẩn bị rất sớm , cách đây 4,6 tỉ năm .
- 2. Kỉ Đệ tứ
- Kết luận
Tuổi của Trái Đất được xác định là 4,6 tỉ năm và muộn hơn , 600 triệu năm sau , đại dương cổ ra đời , còn sự sống đã xuất hiện với tuổi già nhất được biết đến hiện nay là 3,5 tỉ năm . Song “văn tự” chạm khắc trên các “tấm bia đất đá” đã chỉ ra rằng sinh giới bùng nổ và trở nên sinh động chỉ diễn ra thực sự trong vòng gần 600 triệu năm lại đây. 600 triệu năm không là mấy thời gian so với năm tháng lê thê của lịch sử Trái Đất. Cho dễ hình dung , ta hãy dồn 4,6 tỉ năm thành 1 ngày (= 24h) của Trái Đất và Trái Đất ra đời vào lúc 0h trong vũ trụ. Đến 5h sáng , khi Đâì tiếng nói Việt Nam bắt đầu phát sóng thì mầm sống đầu tiên ra đời. Và 15 tiếng muộn hơn . mãi tới tận 8h chiều , loài thân mềm cổ nhất mới xuất hiện. Đến 23h , khi Đài tiếng nói Việt Nam vừa kết thúc bản tin cuối cùng trong ngày, cũng là lúc khủng long bước lên vũ đài. Chúng là chúa tể , thống trị suốt cả nguyên đại Trung sinh trong vòng 40 phút. Sau thời gian trị vì đằng đẵng ấy, các triều đại bò sát khổng lồ ấy cũng bị lật đổ và những bạo chúa khủng long rơi vào thảm cảnh “chu di tam tộc” đúng vào hôi 23h40’ do biến cố kỉ Creta. Sau tai họa khủng khiếp này, đến 23h55’ , khi những lớp mây mù tan đi , trời đất trở nên quang quẻ, cây trái xum xuê đầy hương sắc và tưng bừng tiếng chim hót, vượn kêu cũng là lúc chủ nhân mới của sinh quyển, 1 loài động vật “đầu đội trời, chân đạp đất” có chung tổ tiên với loài khỉ đã cất tiếng khóc chào đời. Đó là con người . Con người – 1 kiệt tác của thiên nhiên đã và đang lập nên biết bao kì tích trên con đường chinh phục đất trời, song cũng đang làm ra những việc kinh thiên động địa “ đại náo cả thiên cung” , gây ra bao nhiêu lỗi lầm tày đình trong cuộc sống chung với muôn loài.
Ngày nay, ta cũng hiểu được rằng, để có được diện mạo và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển hưng thịnh của sinh giới đặc sắc và kì diệu nhất chưa hề gặp trên các hành tinh khác trong hệ Mặt trời, Trái Đất đã bao lần thay da đổi thịt để tiến hóa . Sự tiến hóa đó diễn ra theo 1 vòng tròn xoắn ốc với bao biến cố lớn lao, đầy kịch tính. Đó là những bước ngoặt lịch sử vĩ đại ; chúng thường xảy ra vào những “đêm giao thoa” giữa các thời kì có tính chất xác định như các biến cố Ordovit, Devon, Permi, Triat, Creta; kéo theo là những bước phát triển nhảy vọt của sinh giới với phương thức là hủy diệt một số nhóm sinh vật này để cho ra đời nhiều nhóm sinh vật khác hoàn thiện hơn, ưu thế hơn, đủ khả năng thích nghi cao hơn với điều kiện mới để lấp đầy mọi nơi sống trên khắp hành tinh . Hơn thế nữa, sự ra đời của các mầm sống nguyên thủy và sự phát triển phong phú của các nhóm loài sinh vật tiến hóa cao, nhất là sau cuộc “Cách mạng xanh” với sự ra đời của quang hợp, đã làm cho Trái Đất trở nên sống động và nhanh chóng vượt xa khỏi các hành tinh hoang vắng khác trong hệ Mặt Trời .
Sống hạnh phúc trên hành tinh này, điều luôn nhắc nhở chúng ta rằng, số phận Trái Đất trong vũ trụ mong manh như tơ nhện trong gió, như hạt cát trên sa mạc, hạt muối trong đại dương. Trái Đất đang lao mình trong khoảng không vũ trụ với tốc độ 170.000 km/h, trong hằng hà, sa số thiên thạch và các ngôi sao chổi , những vật thể đang vun vút lao trong không gian bao la, tạo nên những đường bay ngang, bay dọc như đan vào nhau và dường như đang hướng về Trái Đất. Năm 1998, các nhà thiên văn học đã phát hiện 1 tiểu hành tinh Erous với đường kính khá lớn , cách Trái Đất không xa. Họ đang lo rằng trong tương lai, dù thời gian có thể tính bằng đơn vị năm tháng vũ trụ , tiểu hành tinh này có thể sẽ đụng phải Trái Đất. Song mối đe dọa gần hơn hiện treo trên đầu nhân loại là 1 thiên thạch và dự báo rằng , vào năm 2028 nó có thể va vào Trái Đất . Do vậy, các cơ quan vũ trụ của nhiều nước đang quan tâm theo dõi và đang tìm biện pháp ngăn ngừa tránh thảm họa có thể xảy ra.
Chuyện là thế, nhưng con người lại qên phắt 1 điều, chính mình – 1 thành viên trong hệ sinh thái , kí sinh vào sinh quyển cũng đang đă Trái Đất và sinh giới tiến đến gần 1 “biến cố thứ 6”, biến cố nhân sinh , do con người khai thác tài nguyên đến mức cạn kiệt và làm cho môi trường trở nên ô nhiễm nặng nề. Ô nhiễm môi trường không khí là thủ phạm làm cho hiệu ứng nhà kính ngày 1 gia tăng, thúc đẩy nhiệt độ của Trái Đất tăng nhanh gấp 10 – 50 lần so với nhịp điệu biến đổi của nó đã từng xảy ra ở cuối kỉ băng hà lần cuối , và lớp ozon của tầng bình lưu ngày 1 mỏng dần và thủng ra thành những lỗ lớn .
Nhân loại hỡi , hãy cảnh giác với chính mình!!!
( Vũ Trung Tạng)
Phong Cầm-diendankienthuc.net*
Phong Cầm-diendankienthuc.net*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: