Lão Hạc – bi kịch bảo tồn thiên lương

Thandieu2

Thần Điêu
Lão Hạc – bi kịch bảo tồn thiên lương

1.1-Xung đột bi kịch:

Xung đột bi kịch trong “ Lão Hạc” là xung đột giữa ý thức bảo tồn thiên lương của lão Hạc với cái đói. Trong truyện nhà văn không trực tiếp tả cái đói như ông đã từng tả trong “Một bữa no” hoặc như Thạch Lam, Nguyễn Thị Vịnh từng làm nhưng cái đói dưới ngòi bút Nam Cao có một sức mạnh vô hình ghê gớm luôn rình chực bẻ gãy thiên lương, quật ngã con người.

Hoàn cảnh khách quan của lão Hạc: Từ ngày đứa con đi phu “lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu, lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc”. Sau trận ốm, số tiền chắt chiu bao nhiêu năm tháng của lão hết nhẵn, sức lực con người lão cũng cạn kiệt. Lại gặp cảnh khủng hoảng chung của làng xóm khi “ Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào họ tranh nhau làm mất cả” ,“ Rồi lại bão. Hoa màu bị phá sạch sành sanh…Gạo cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt”.



Thiên lương là đức tính , phẩm chất tốt đẹp mà ông trời phú cho con người. Nó là cốt lõi trong đạo đức cá nhân mỗi người. Thông thường đạo đức cá nhân bao gồm hai loại quan hệ đạo đức: quan hệ đạo đức cá nhân với cộng đồng và quan hệ đạo đức cá nhân với chính bản thân mình. Loại quan hệ trước, mọi thiết chế xã hội đều ra sức cổ vũ, rèn cặp theo tư tưởng của giai cấp cầm quyền ( Vì trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng thống trị là tư tưởng của giai cấp thống trị). Loại quan hệ thứ hai thể hiện nỗ lực của bản thân mỗi con người- cá nhân, nó được thể hiện qua những đức tính: tự lực, tự lập, tự tín, tự trọng , tự ái,..Ý thức về nhân cách chính là cơ sở triết học của loại đức tính này. Không có loại quan hệ thứ hai đủ mạnh , con người ta có thể giàu có, thành đạt , thành danh nhưng không thể có nhân cách đẹp. Những tấm gương nhân cách “vằng vặc như sao Khuê” trong lịch sử Việt Nam là một minh chứng. Họ hầu hết đâu có xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng đạo đức , nhân cách của họ, người bình dân vẫn mãi mãi tôn vinh, noi dấu.



Lão Hạc- trong truyện ngắn cùng tên- bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm, thậm chí có lúc còn bị nghi là đánh bả chó nữa; thế nhưng, mặc cho cái vẻ bề ngoài có phần lẩn thẩn của nhân vật, Nam Cao đã “cố tìm mà hiểu” để nhìn thấu cái bề sau, bề sâu, bề xa, để thấy được bản chất nhất mực lương thiện, nhân hậu, tuyệt vời tự trọng và vị tha của lão. Có nghĩa lão Hạc là con người có ý thức sâu sắc về đạo đức cá nhân, kiên quyết giữ cho bằng được thiên lương lành sạch. Thiên lương của lão Hạc là ở chỗ lão “ luôn luôn tự xoá mình đi trong tương quan chồng vợ, cha con: mảnh vườn thì do vợ tậu, con chó thì của con mua. Lão không tự cho mình sở đắc một cái gì cả, và sự xoá mình có ý thức ấy là một đặc điểm quan trọng nhất quán trong tính cách lão Hạc để dẫn đến sự chọn lựa cuối cùng của đời lão. Một đức hi sinh lớn lao trong từng nếp nghĩ, đã thành lẽ sống ở đời” [13 ;282]



1.2- Đặc điểm của nhân vật bi kịch- lão Hạc:

Truyện Lão Hạc thực chất là một cuộc đối thoại liên tục giữa các luồng suy nghĩ khác nhau: con chó của lão Hạc là quý hay hòm sách của một người “ nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận” như ông giáo- nhân vật người kể chuyện trong truyện- là quý? Ông lão là một người ki bo “ có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ”( theo cách nghĩ của vợ ông giáo) và là một con người “ làm bộ..chỉ tẩm ngẩm thế nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu” (theo suy luận của Binh Tư) hay là một con người thiên lương mát trong như mạch suối nguồn ? Lão có lỗi vì “ già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó” ( theo cách nghĩ của lão) hay là lão làm như vậy chẳng qua cũng là một cách hóa kiếp cho nó ( theo cách nghĩ của ông giáo)? Và có cả một câu hỏi còn bỏ lửng, xót xa nhưng chạm đến cái “sơn cùng thuỷ tận “ của kiếp người: Kiếp con chó là khổ hơn kiếp người như kiếp của lão chăng?

Thế đấy , hành trình làm người của lão Hạc thật nhọc nhằn.



Mở đầu truyện, từ điểm nhìn của nhân vật Tôi - ông giáo- người kể chuyện : “Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã thông điếu và bỏ thuốc rồi. Tôi mời lão hút trước…”, Nam Cao đã khéo léo dẫn dắt cuộc đối thoại ngầm giữa hai ý thức: ý thức của lão Hạc và ý thức của ông giáo. Lão Hạc phải dềnh dàng mãi mới nói ra cái dự định mà ông không hề muốn làm: “ Có lẽ tôi bán con chó đấy , ông giáo ạ!” . Nghe câu đó, ông giáo rất “ dửng dưng” vì biết “ Lão nói là nói để đó thế thôi; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật đi nữa thì đã sao? Làm quái gì một con chó mà lão có vẻ boăn khoăn quá thế! ”. Ông giáo mặc nhiên muốn bác lão Hạc: Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi…”. Tục ngữ Việt Nam vốn có câu : “ Nhà giàu cưng chó, nhà khó cưng con”. Có nghĩa là tuỳ theo đối tượng, tuỳ theo gia sự mà con người ta quan tâm đến cái gì. Nói như tục ngữ, không phải nhà giàu không cưng con , mà chỉ cưng chó thôi, sự thực thì nhà giàu họ thừa khả năng để cưng con, vấn đề là họ nhiều của nả nên cưng chó để chó giữ tài sản cho họ , mà cũng là cho con. Nhà nghèo chỉ có lưng vốn để đời là các đứa con, mà mai sau “ may ra ông trời cho khá vì “ không ai giàu ba họ , không ai khó ba đời”. Ông giáo quý mấy cuốn sách cũng là vì sách là kỉ vật về một thời đầy mơ ước. Chứ thực ra thì ông giáo khổ ấy thừa hiểu “ Sách vở ích gì cho buổi ấy”. Mặt khác vì - cũng theo cách nói của chính Nam Cao - khi một người bị đau chân thì chỉ nghĩ đến cái chân đau của mình , hơi sức đâu nghĩ đến cái đau của người khác. Nhưng rồi sau đó, đương nhiên, ông giáo cũng hiểu ra cái lí do khiến lão Hạc khổ tâm khi phải bán chó chính là vì lão thương thằng con , cốt nhục duy nhất của lão giờ trôi dạt không biết tận đẩu tận đâu, không khéo cả đời nó sẽ sa vào kiếp vong gia thất thổ. Do đó tuy mầm mống bi kịch của lão Hạc bắt đầu từ một tình yêu bất thành nhưng bi kịch nội tâm của lão Hạc thật sự khởi động khi lão có ý định bán “cậu vàng”, trong nỗi tuyệt vọng vì ngay cả cái tử tế cuối cùng, cái niềm hi vọng cuối cùng của lão lão cũng đánh mất “tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”

Làm cha , lão Hạc không lo nổi cho con trai cưới vợ, để cho con phải phẫn chí bỏ xứ ra đi làm phu đồn điền cao su cho Pháp trong niềm ám ảnh hãi hùng . Không có con bên cạnh, lão Hạc bầu bạn cùng con chó mà lão âu yếm gọi bằng Cậu Vàng, và gán ghép con trai mình là bố cậu vàng. Cậu Vàng như thế đã có tư cách của một đứa cháu! Nặng nề biết bao khi lão quyết dứt tình để bán cậu Vàng. Không bán cậu vàng, làm sao lão nuôi nổi nó mà không để nó bị ốm đói? Vì lão cũng đang đói dài ! Không bán cậu Vàng làm sao lão có đủ chút tiền để khi nhắm mắt xuôi tay mà không mấy “liên lụy đến hàng xóm láng giềng” ? Thế chẳng đặng đừng, lão phải bán chó, nhưng việc làm chẳng đặng đừng đó thật sự làm lão đau đớn. Hãy nghe lời ông giáo: “ Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước.(…) Mặt lão bỗng nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Chứng kiến cảnh đó, ông giáo cũng muốn “ ôm choàng lấy lão mà òa lên khóc và … không xót xa năm quyển sách quá như trước nữa” vì cuộc đời là một sự bị tước đoạt dần dần những cái mình quý mình yêu. Ông giáo nói với lão Hạc như với người “ đồng bệnh tương liên”: “ Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?.



Nhiều năm, lão Hạc gắng sống, hay lam hay làm , không phải lão ham hố mà vì đứa con trai duy nhất của lão. Lão Hạc cố giữ cái vườn cũng là vì con . Lão lòng tự nhủ lòng: “Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu(… ) Của mẹ nó tậu thì nó hưởng. Lớp trước nó đòi bán ta không cho, là ta có ý giữ cho nó chứ có phải giữ để ta ăn đâu. Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”.

Lão Hạc , suốt bấy nhiêu năm đã làm đúng như tâm nguyện ấy . Nhưng một trận ốm thập tử nhất sinh đúng “ hai tháng mười tám ngày” ( cần chú ý đến cách tính rành rọt tỉ mỉ từng ngày này của lão, rất giống với Rôbinxơn Cruxô trênn đảo hoang;’ rất khác với dạng ‘ thời gian cũng quên ngày quên tháng” của Chí Phèo sau ngày ra tù hay của Mị từ ngày về làm vợ A Sử) đã vắt kiệt chút sức lực sau cùng của lão . Rồi thất nghiệp cả làng, rồi bão, hoa màu bị phá sạch sành sanh! Tâm nguyện của lão giờ đây phải đối diện với nguy cơ phá sản, lão phải đối diện với sự chết đói. Lão trăn trở không yên và bí mật sắp đặt một kế hoạch mới.

Bước thứ nhất trong kế hoạch ấy là tìm người tâm phúc để uỷ thác. Lão tâm sự cùng ông giáo: “ lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào; con không có nhà; lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó là ba mươi đồng bạc (….) để lỡ có chết thì (…) gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả”

Bước thứ hai, lão đơn thương độc mà dấn thân. Trao trọn ba mươi đồng cùng với văn tự giao vườn cho ông giáo - để giữ vườn lại cho con và khỏi liên lụy xóm làng vì hậu sự của mình- lão không còn một trinh một chữ. Lão chế tạo mọi thứ có thể để nhét và dạ dày quen lép kẹp của lão mà nào đâu có đủ cầm hơi. Miệng ăn núi lở kia mà ! Kết cục, lão đã chọn cái chết bằng bả chó đầy vật vã thương tâm để đi trọn hành trình làm người lương thiện. Lão Hạc hơn ai hết là một con người ham sống nhưng phải chọn cái chết để bảo tồn thiên lương. Sự ham sống của lão Hạc thể hiện qua nhiều chi tiết: đinh ninh thằng con lão sẽ về, lão cố nuôi cậu vàng để giết thịt làm cỗ cưới ; lão làm lụng nuôi thân , không phạm vào số tiền bòn vườn; ngày đói lão chế biến, vận dụng mọi cách để sống và luôn luôn hi vọng vào ngày sau. Nhưng sự thật giản dị ấy không phải ai cũng hiểu.

Chứng kiến cái chết vật vã của lão Hạc, ông giáo xúc động như mới lần đầu phát hiện ra một tâm hồn cao cả, một nhân cách trong sáng ẩn chứa trong một con người bình thường. Cái chết của lão Hạc như một lời phủ chính đối với những ý kiến chưa thấu nhẽ đời, ngộ nhận , thiên lệch về lão. Trong đó có ý kiến của chính người vợ tảo tần, túng khó của ông giáo. Nhưng không thể trách bà ấy vì như ông giáo nhận xét “ Vợ tôi không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có bao giờ quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?....”. Lại có cả ý kiến của Binh Tư, làm nghề ăn trộm, láng giềng của lão Hạc. Lão Hạc dễ dàng lừa binh Tư để xin bả chó và binh Tư dễ nhầm tưởng lão Hạc vì bí đường nên phải “ ngưu tầm ngưu” với hắn, người vốn lão Hạc không ưa. Có ngờ đâu!... Chúng ta cảm nhận cái chết của lão Hạc có chút gì đó giống với sự tuần tiết của một bậc trượng phu “ chết trong hơn sống đục”. Lão Hạc! Vâng , chính lão Hạc là một bức tượng đài - người -cha -cao -cả trong một môi trường mà sự sống bị dồn đến chân tường! Kết truyện người đọc được nâng cao mình lên bởi ý thức tự do của nhân vật, “tự do trong sự lựa chọn bi đát của mình. Đó là điều bí mật sau cùng mà Nam Cao tìm thấy ở người nông dân này” [13 ;284]



Đọc Lão Hạc chúng ta có thể liên tưởng đến Lão Gôriô ( Ban dăc) để nghĩ bi kịch làm cha. Nhưng cái chết của lão Gôriô vạch mặt chỉ tên cho ta thấy những con người mà ta cần phải căm ghét, phỉ nhổ. Trước hết là hai cô con gái quý và hai chàng rể thuộc giới thượng lưu của lão. Còn cái chết của lão Hạc thì không. Không có ai cụ thể để ta căm ghét, oán giận. Không phải là gia đình cô gái “ thách cưới nặng quá” năm nào, cũng không phải vợ ông giáo, cũng không phải Binh Tư. Nhân vật phản diện thực sự ở đây là chế độ thực dân – phát xít- phong kiến trong cơn giãy chết của nó.

Truyện được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 484, ngày 23/10/1943. Chỉ hơn một năm sau thôi, trên toàn cõi Bắc Kì chế độ ấy sẽ đẩy hơn hai triệu người dân nghèo Việt Nam ta vào cảnh chết đói. Trong bài “Lep Tônxtôi, tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga”, Lênin đã khẳng định: “Nếu đứng trước chúng ta là một nghệ sĩ vĩ đại thực sự, thì ông ta phải phản ánh được trong tác phẩm của mình ít ra là vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng”. Nam Cao là một nghệ sĩ vĩ đại ngay từ thời tiền khởi nghĩa.



3- Về nghệ thuật:


Qua Lão Hạc, Nam Cao đã chứng tỏ sức bùng nổ nghệ thuật của cái hằng ngày. Nam Cao “ viết về cái tầm thường mà làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường” [13 ;276] qua chân dung lão Hạc. Nhân vật hiện ra tự nhiên như tác giả chẳng hề gia công, sắp đặt gì thế nhưng nhìn sâu vào đó ta thấy lão Hạc hiện lên qua một chùm tương quan vi diệu. Mỗi tương quan như một luồng sáng hội tụ để làm bật lên một nhân cách. Lão được miêu tả song song với ông giáo để đối sánh, làm bật lên cái tâm lí nông dân bên cạnh cái tâm lí trí thức-xuất thân từ nông dân. Trong tương quan với binh Tư để tạo ra sự đối chọi giữa chết-lương thiện với sống- lưu manh. Tương quan với vợ ông giáo để nổi bật một sự phân lập khác: Một người dù khổ thế nào cũng không suy suyển lòng nhân hậu , vị tha; người kia vì quá khổ đã sinh ra vị kỉ. Hai tương quan lớn nhất quyết định chân dung lão Hạc là tương quan lão với đứa con trai biệt xứ mà lão nóng ruột mong về và tương quan với “cậu vàng” mà lão đành ‘ phụ rẫy”. Lí luận cho rằng, phát hiện tính cách nhân vật thì quan trọng nhất là đặt nhân vật trong mối tương quan với các nhân vật khác. Ở đây lão Hạc là một ví dụ tiêu biểu.

Ta thấy ở Lão Hạc, nhân vật được chiếu rọi từ nhiều điểm nhìn, góc nhìn trần thuật khác nhau: Cái nhìn của ông giáo ( nhân vật người trần thuật) với ý thức đi tìm “cái bản tính tốt của người bị nỗi buồn đau ích kỉ che lấp mất”, cái nhìn của bà giáo, cái nhìn của Binh Tư, và cả cái nhìn bên trong của chính lão Hạc.. Chính nhờ cách dựng truyện từ những quan điểm khác nhau ấy- khi thì phủ nhận nhau, khi thì điều chỉnh, bổ sung, đào sâu thêm - đã làm hiện rõ hơn bao giờ hết một lão Hạc bề ngoài tưởng như gàn dở, lẩm cẩm, thậm chí còn có khi còn bị nghi là “ đạo đức giả” nhưng kỳ thực là một người nông dân nhất mực lương thiện, một nhân cách đáng trọng, một người tử vì đạo- đạo làm người.

Điểm khác biệt của Lão Hạc so với Chí Phèo, Đời thừa là ở chỗ nhân vật xưng tôi – người dẫn chuyện. Loại nhân vật này cùng lúc đóng hai vai trò: vai trò người dẫn chuyện đang đối thoại với độc giả và vai trò của một người tham dự vào những biến cố của câu chuyện, đối thoại trực tiếp với các nhân vật, sẽ góp phần gây ấn tượng về một câu chuyện như thật. Ở đây nhân vật người kể chuyện đã đóng vai trò nối liền tác giả - nhân vật và độc giả. Khoảng cách giữa nhân vật và người đọc được rút ngắn lại, hầu như bằng không. Tác giả , nhân vật, và người đọc hầu như bình đẳng. Đó là dấu hiệu của một thi pháp tự sự hiện đại. Tính đa giọng điệu bắt nguồn từ kết cấu này. Vì đã là “ tôi” thì phải là một cái “tôi” cụ thể, có số phận , tâm tư, nỗi niềm…đang tham dự, chứng kiến, chia sẻ, đối thoại với các nhân vật trong truyện, khi thì hoà nhập hẳn vào các nhân vật, các biến cố đầy bất ngờ , không hề được biết trước. Kết cấu nhân vật như vậy giúp việc khai thác mâu thuẫn bi kịch “ chuyển vào bên trong” của nhân vật lão Hạc càng có sức ám ảnh hơn.

Tấn bi kịch của lão Hạc đến bây giờ vẫn còn khả năng đối thoại về tình thương, nhân cách, lẽ sống với chúng ta nhiều lắm . Lão Hạc thể hiện sâu sắc tài năng của Nam Cao trong nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật khắc họa đời sống nội tâm của nhân vật, có khả năng lay động sâu xa, đánh thức mạnh mẽ sự đồng cảm của người đọc. Viết như thế là do sự lão luyện của nghề văn hay do tư tưởng nhân đạo sâu sắc của người cầm bút? Có lẽ là cả hai!

Nguồn: Blog của Đinh Hà Triều
GV THPT Xuân Diệu
"Hợp ý khách lai tâm bất yếm
Tri âm nhân thính thoại thiêm trường"

 
Những phẩm chất của nhân vật Lão Hạc

Những phẩm chất của nhân vật Lão Hạc

Lão Hạc là người cần cù, chăm chỉ. Lão cũng như bao người nông dân khác sinh ra và lớn lên sau lũy tre làng. Cuộc đời gắn liền với ruộng lúa mảnh vườn, suốt đời đầu tắt mặt tối. Mặc dù già rồi nhưng lão vẫn tự kiếm sống bằng sức lao động của mình. Lão còn dùng sức lao động ấy để chắt chiu dành dụm tiền cho con.

Lão Hạc là người giàu tình yêu thương. Lão thương con nên từ khi vợ mất, lão một mình ở vậy trong cảnh gà trống nuôi con. Lão nuôi con khôn lớn trưởng thành, mong mỏi mai này khi con lớn sẽ là nơi nương tựa lúc tuổi già. Khi con đến tuổi trưởng thành có yêu một cô gái con nhà giàu, không có tiền để cưới, con lão thất tình. Lão lại là chỗ dựa tinh thần cho con. Lão đã khuyên con “làng này thiếu gì con gái, không lấy đám này thì lấy đám khác”. Khi con lão phẫn chí bỏ làng đi làm đồn điền cao su, lão đã khóc. Lão ở nhà một mình nuôi con chó vàng. Lão hi vọng khi con trai lão trở về thì lão thịt chó để làm đám cưới. Vì vậy khi lão bán con chó thì nước mắt lão ầng ậng vì niềm hi vọng về đứa con ngày càng mai một. Khi ốm dậy mặc dù vẫn yếu nhưng lão vẫn tằn tiện chắt bóp để dành dụm cho con. Cuối cùng vì sợ ăn vèn vào số tiền để dành cho con, lão đã gửi số tiền ấy nhờ ông lão giữ hộ cho con trai mình rồi tự lão kết thúc cuộc đời một cách đau đớn nhất.

Lão quý con chó như một bà hiếm muộn quý đứa con cầu tự, lão cho con chó vàng ăn bằng bát như nhà giàu, lão gọi nó là cậu vàng và quý nó như một đứa cháu nội. Khi mất mùa lão kêu không còn đủ điều kiện để nuôi và đành phải bán. Bán chó xong lão sang nhà ông giáo kể rồi khóc.
Lão là người có lòng tự trọng cao. Mặc dù nghèo nhưng lão từ chối sự giúp đỡ của người khác một cách hách dịch. Mặc dù nghèo nhưng lão không làm bậy như Binh Tư mà lão Hạc thà chết trong còn hơn sống đục.

* Đánh giá về Lão Hạc:

Lão Hạc là hình ảnh tượng trưng cho biết bao người nông dân cùng thời. Cuộc sống dù vất vả gian nan khổ cực bởi sưu cao thuế nặng và cổ tục nhưng lão Hạc vẫn ngời lên bao phẩm chất đáng trân trọng và đáng kính. Những phẩm chất cao quý ấy đến hôm nay vẫn thấy ở người nông dân Việt Nam.

Một số điều cần lưu ý khác:


- Nguyên nhân cái chết của Lão Hạc:
+ Lão Hạc chết một cách đau thương, quần quại, một cái chết đầy thương tâm. Cái chết ấy đã tố cáo tội ác của xã hội đương thời, cổ tục đã chia lìa cha con lão, đã đẩy lão vào cái chết bi thảm, đã cắt đi con đường sống của lão.

- Kết cấu câu chuyện theo kiểu từ giữa đi ra(có nhiều cách kết cấu câu chuyện)
+ Kết cấu thời gian có nghĩa là câu chuyện được kể theo thứ tự thời gian, cái có trước kể trước, cái có sau kể sau.
+ Kết cấu từ giữa đi ra có nghĩa là câu chuyện được kể từ đoạn hấp dẫn nhất, sau đó người kể lại hồi tưởng lại những đoạn trước đó rồi kể tiếp phần diễn biến của câu chuyện.
+ Kết cấu đầu cuối tương ứng có nghĩa là người kể kể phần cuối của câu chuyện trước sau đó hồi tưởng lại các sự việc tiếp theo.
 
NAM CAO VÀ TÁC PHẨM LÃO HẠC

A. Cuộc đời, con người Nam Cao

1. Cuộc đời
Ông xuất thân trong gia đình trung nông . Ông là người con trai cả trong gia đình đông anh em, ông là người duy nhất được học hành chu đáo. Học xong trung học, ông vào Sài Gòn kiếm sống 3 năm. chuyến đi này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc sáng tác của nhà văn . Vì ốm đau, ông trở về quê dạy học , rồi sống vất vưởng bằng nghề viết văn. Cuộc đời của một giáo khổ trường tư, của một nhà văn nghèo đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách viết văn của Nam cao. Sau cách mạng, Nam Cao tiếp tục sáng tác phục vụ kháng chiến. Năm 1951, trên đường đi công tác, nhà văn đã hi sinh.

2. Con người Nam Cao
Hiền lành, ít nói, lạnh lùng. Là nhà văn luôn gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nghèo khổ. Mỗi trang viết của nhà văn là trang viết đày cảm động về con người quê hương.

3. Quan điểm sáng tác:


4. Phong cách viết truyện ngắn của Nam Cao.

Truyện của Nam Cao rất mực chân thực , thẫm đẫm chất trữ tình, đậm đà chất triết lý . Nam cao đặc biệt sắc sảo trong việc khám phá và diễn tả những quá trình tâm lý phức tạp của nhân vật . Ngôn ngữ của Nam cao gần với ngôn ngữ người nông dân Bắc bộ

B. Luyện tập:

Đề số 1
:
Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp em hiểu gì về tình cảnh của người nông dân trước cách mạng?
Hướng dẫn:

I. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu về tình cảnh thống khổ của người nông dân trước cách mạng?

1. Lão Hạc
a. Nỗi khổ về vật chất
Cả đời thắt lưng buộc bụnglão cũng chỉ có nổi trong tay một mảnh vườn và một con chó. Sự sống lay lắt cầm chừng bằng số tiền ít ỏi do bòn vườn và mà thuê. Nhưng thiên tai, tật bệnh chẳng để lão yên ổn. Bao nhiêu tiền dành dụm được, sau một trận ốm đã hết sạch sành sanh, lão đã phải kiếm ăn như một con vật . Nam Cao đã dung cảm nhìn thẳng vào nôic khổ về vật chất của người nông dân mà phản ánh.
b. Nỗi khổ về tinh thần.
Đó là nỗi đau cả người chồng mát vợ, người cha mất con. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì thương nhớ con, vì chưa làm tròn bổn phận của người cha . Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời lão phải sống trong cô độc . Không người thân thích, lão phải kết bạn chia sẻ cùng cậu vàng.
Nỗi đau, niềm ân hận của lão khi bán con chó . Đau đớn đến mức miệng lão méo xệch đi .... Khổ sở, đau xót buộc lão phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát . Lão đã chọn cái chết thật dữ dội . Lão Hạc sống thì mỏi mòn, cầm chừng qua ngày, chết thì thê thảm. Cuộc đời người nông dân như lão Hạc đã không có lối thoát.

2. Con trai lão Hạc

Vì nghèo đói, không có được hạnh phúc bình dị như mình mong muốn khiến anh phẫn chí, bỏ làng đi đồn điền cao su với một giấc mộng viển vông có bạc trăm mới về. Nghèo đói đã đẩy anh vào tấn bi kịch không có lối thoát.
Không chỉ giúp ta hiểu được nỗi đau trực tiếp của người nông dân. Truyện còn giúp ta hiểu được căn nguyên sâu xa nỗi đau của họ. Đó chính là sự nghèo đói và những hủ tục phong kiến lạc hậu.

II. Truyện ngắn Lão Hạc giúp ta hiểu được vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nông dân

1. Lòng nhân hậu

Con đi xa, bao tình cảm chất chứa trong lòng lão dành cả cho cậu vàng. Lão coi nó như con, cưu mang, chăm chút như một đứa cháu nội bé bỏng côi cút : lão bắt rận, tắm , cho nó ăn bàng bát như nhà giầu, âu yếm, trò chuyện gọi nó là cậu vàng, rồi lão mắng yêu, cưng nựng . Có thể nói tình cảm của lão dành cho nó như tình cảm của người cha đối với người con.
Nhưng tình thế đường cùng, buộc lão phải bán cậu vàng. Bán chó là một chuyện thường tình thế mà với lão lại là cả một quá trình đắn đo do dự. Lão cói đó là một sự lừa gạt, một tội tình không thể tha thứ. Lão đã đau đớn, đã khóc, đã xưng tội với ông giáo , mong được dịu bớy nỗi dằng xé trong tâm can.
Tự huỷ diệt niềm vui của chính mình, nhưng lại sám hối vì danh dự làm người khi đối diện trước con vật. Lão đã tự vẫn. Trên đời có bao nhiêu cái chết nhẹ nhàng, vậy mà lão chọn cho mình cái chết thật đau đớn, vật vã...dường như lão muốn tự trừng phạt mình trước con chó yêu dấu.

2. Tình yêu thương sâu nặng

Vợ mất, lão ở vậy nuôi con, bao nhiêu tình thương lão đều dành cho con trai lão . Trước tình cảnh và nỗi đau của con, lão luôn là người thấu hiểu tìm cách chia sẻ, tìm lời lẽ an ủi giảng dải cho con hiểu dằn lòng tìm đám khac. Thương con lão càng đauđớn xót xa khi nhận ra sự thực phũ phàng : Sẽ mất con vĩnh viễn “Thẻ của nó .............chứ đâu có còn là con tôi ”. Nhữn ngày sống xa con, lão không nguôi nỗi nhó thương, niềm mong mỏi tin con từ cuối phương trời . Mặc dù anh con trai đi biền biệt năm sáu năm trời, nhưng mọi kỷ niệm về con vẫn luôn thường trực ở trong lão. Trong câu chuyện với ông giáo , lão không quyên nhắc tới đứa con trai của mình.
Lão sống vì con, chết cũng vì con: Bao nhiêu tiền bòn được lão đều dành dụm cho con. Đói khát, cơ cực song lão vẫn giữ mảnh vườn đến cùng cho con trai để lo cho tương lai của con.
Hoàn cảnh cùng cực, buộc lão phải đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã : Nếu sống, lão sẽ lỗi đạo làm cha. Còn muốn trọn đạo làm cha thi phải chết . Và lão đã quyên sinh không phải lão không quý mạng sông, mà vì danh dự làm người, danh dự làm cha. Sự hy sinh của lão quá âm thầm, lớn lao.

3. Vẻ đẹp của lòng tự trọng và nhân cách cao cả

Đối với ông giáo người mà Lão Hạc tin tưởng quý trọng , cung luôn giữ ý để khỏi bị coi thường . Dù đói khát cơ cực, nhưng lão dứt khoát từ chối sự giúp đỡ của ông giáo , rồi ông cố xa dần vì không muốn mang tiếng lợi dụng lòng tốt của người khác. Trước khi tìm đến cái chết, lão đã toan tính sắp đặt cho mình chu đáo. Lão chỉ có thể yên lòng nhắm mắt khi đã gửi ông giáo giữ trọn mảnh vườn, và tiền làm ma. Con người hiền hậu ấy, cũng là con người giầu lòng tự trọng. Họ thà chết chứ quyết không làm bậy. Trong xã hội đầy rẫy nhơ nhuốc thì tự ý thức cao về nhân phẩm như lão Hạc quả là điều đáng trọng.


III. Truyện giúp ta hiểu sự tha hoá biến chất của một bộ phận tầng lớp nông dân trong xã hội đương thời : Binh Tư vì miếng ăn mà sinh ra làm liều bản chất lưu manh đã chiến thắng nhân cách trong sạch của con người . Vợ ông giáo vì nghèo đói cùng quấn mà sinh ra ích kỷ nhỏ nhen, tàn nhẫn, vô cảm trước nỗi đau của người khác .



Đề số 2
Phân tích cách nhìn người nông dân của Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc?

Hướng dẫn:

1. Xuất phát từ quan điểm “Nghệ thuật vị nhân sinh”: Cách nhìn của nhà văn là cách nhìn của một con người luôn thấu hiểu , đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác . Nhà văn luôn thấu hiểu nỗi khổ về vật chất và tinh thầnh của người nông dân. Là người sống gần gũi , gắn bó với người nông dân Nam Cao đã nhìn sâu hơn vào nỗi đau tinh thần của nhà văn.

2. Bằng cái nhìn yêu thương trân trọng, Nam Cao đã nhận ra vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của lão Hạc trong cuộc sống không phải giành cho con người.

a. Nhà văn nhận thấy từ thẳm sâu tâm hồn lão Hạc tấm lòng nhân hậu thật đáng quý
Nam Cao đã nhận ra tình cảm thân thiết máu thịt của con người dành cho con người.
Nam Cao còn phát hiện ra nỗi ân hận cao thượng và đức tính trung thực của Lão Hạc qua việc bán con chó
Nhà văn càn nhận thấy ở người cha còm cõi xơ xác như lão Hạc tình yêu thương con sâu nặng

b. Với phương chấm cố tìm mà hiểu, Nam Cao đã phát hiện ra đằng sau vẻ ngoài xấu xí gàn dở của Lão Hạc là lòng tự trọng và nhân cách trong sạch của lão Hạc

Mở rộng
: Có thể so sánh cách nhìn trân trọng đối với người nông dân của Nam Cao và cách nhìn có phần miệt thị, khinh bỉ người nông dân của Vũ Trọng Phụng. Trong tiểu thuyết Vỡ đê, Vũ Trọng Phụng tả người nông dân như những con người không có ý thức không cảm xúc, coi họ như những bọn người xấu xa, đểu cáng. Thấy được cái nhìn của Nam Cao là cái nhìn tiến bộ và nhân đạo sâu sắc.

3. Là cách nhìn có chiều sau tràn đầy lạc quan tin tưởng.

Nam Cao nhìn người nông dân không phải bằng thứ tình cảm dửng dưng của kẻ trên hướng xuống dưới, càng không phải là hời hợt phiến diện.
Nam Cao luôn đào sâu, tìm tòi khám phá những ẩn khuất trong tâm hồn của lão Hạc, từ đó phát hiện ra nét đẹp đáng quý :Đó là cái nhìn đầy lạc quan tin tưởng vào phẩm hạnh tốt đẹp của người nông dân.
Trước cách mạng, không ít nhân vật của Nam cao đều bị hoàn cảnh khuất phục, làm thay đổi nhân hình lẫn nhân tính. Vậy mà kì diệu thay hoàn cảnh khắc nghiệt đã không khiến một lão Hạc lương thiện thay đổi được bản tính tốt đẹp .....
Lão đã bảo toàn nhân cách cao cả của mình để tìm đến cái chết : “Không cuộc đời chưa hẳn đã đấng buồn.........” thể hiện niềm tin của nhà văn vào nhân cách vào sự tồn tại kiên cường vào cái tốt .
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top