KHÍ QUYỂN
1.1. Khái niệm
Khí quyển là lớp không khí bao quanh Trái đất.
Khí quyển có độ dày hơn 20000 km. Khí quyển có tác dụng bảo vệ Trái đất, duy trì môi trường sống và tạo điều kiện cho sự phát triển của sinh vật. Thông qua các quá trình trao đổi vật chất và năng lượng khí quyển thường xuyên có tác động đến mọi hoạt động trên Trái đất.
1.2. Thành phần của không khí
Khí quyển bao gồm hỗn hợp các chất khí có thành phần hầu như không đổi, trong đó chủ yếu là khí ni-tơ chiếm 78,1% và khí ôxy chiếm 20,9% thể tích. Các chất khí còn lại chiếm 1%. Ngoài ra, trong khí quyển còn lẫn nhiều tạp chất như: hơi nước, khí CO2, bụi.
1.3. Cấu trúc khí quyển
Căn cứ vào những đặc tính khác nhau của lớp vỏ khí, người ta chia khí quyển thành năm tầng.
1.3.1. Tầng đối lưu
Tiếp giáp với bề mặt Trái đất là tầng đối lưu, là nơi diễn ra mọi hiện tượng khí tượng. Tầng đối lưu có độ dày khác nhau giữa các khu vực. Ở xích đạo dày khoảng 16 km nhưng ở cực chỉ khoảng 8 km, 80 % khối lượng không khí của khí quyển tập trung ở tầng đối lưu. Ở tầng này không khí chủ yếu chuyển động theo chiều thẳng đứng. Hơi nước tập trung ở dưới thấp khoảng 3/4 khối lượng hơi nước nằm từ 4 km trở xuống. Nhiệt của Trái đất hấp thụ từ Mặt trời rồi toả vào không khí được hơi nước giữ lại tới 60%. Ban đêm mặt đất sẽ lạnh đi nhiều nếu không có hơi nước. Khí CO2 chỉ chiếm 0,03% trong thành phần khí quyển, nhưng chúng đã giữ lại 18% lượng nhiệt mà bề mặt Trái đất toả vào không gian. Không có CO2 thì nhiệt độ trung bình Trái đất giảm đi, tuy nhiên nếu tỷ lệ CO2 tăng cao, nhiệt độ Trái đất nóng lên sẽ gây tác hại cho sức khỏe con người.
Trong tầng đối lưu còn có các phần tử vật chất rắn như: tro, bụi, các loại muối, các vi sinh vật. Các phần tử này hấp thụ một phần bức xạ Mặt trời, nhờ đó mà ban ngày mặt đất đỡ nóng, ban đêm đỡ lạnh, đồng thời chúng còn là hạt nhân ngưng tụ để hơi nước đọng lại xung quanh tạo thành sương mù, mây mưa. Vì vậy các phần tử vật chất rắn này cũng là nguyên nhân làm cho nhiệt độ ở tầng đối lưu giảm theo độ cao 0,5 - 0,6 o C/100m (ở đỉnh tầng đối lưu nhiệt độ xuống tới -80 o C).
Đỉnh tầng đối lưu: là lớp trung gian giữa tầng đối lưu và tầng bình lưu có độ dày khoảng 1 km. Điểm nổi bật của đỉnh tầng đối lưu là có hiện tượng nghịch nhiệt (nhiệt độ tăng theo độ cao). Khí áp, nhiệt độ và các dòng khí ở đây dao động rất mạnh, làm cho không khí hội tụ và phân kì.
1.3.2. Tầng bình lưu
Giới hạn từ đỉnh tầng đối lưu đến độ cao khoảng 50 - 60 km.
Đặc điểm của tầng này là không khí khô, loãng và chuyển động thành luồng ngang. Tầng bình lưu tập trung phần lớn khí ô-zôn, nhất là độ cao khoảng 22 đến 25 km. Do tia nắng Mặt trời đốt nóng trực tiếp và ô-zôn hấp thụ bức xạ Mặt trời nên nhiệt độ ở đỉnh tầng bình lưu tăng lên đến +10oC. Màng ô-zôn có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ sự sống trên Trái đất.
1.3.3. Tầng giữa
Giới hạn từ giới hạn trên của tầng bình lưu đến độ cao 75 - 80 km.
Đặc điểm của tầng này là nhiệt độ giảm mạnh theo độ cao và xuống còn khoảng -70oC đến – 80oC. Ở đỉnh tầng, không khí rất loãng, từ mặt đất đến hết tầng khí quyển giữa tập trung hơn 99,5% khối lượng của khí quyển.
1.3.4. Tầng ion (tầng nhiệt)
Giới hạn: từ giới hạn trên của tầng giữa đến độ cao khoảng 1000 km
Ở đây nhiệt độ rất cao, ở độ cao 600 km nhiệt độ lên đến 1500oC. Dưới tác dụng của bức xạ tử ngoại và bức xạ hạt của Mặt trời cấu tạo phân tử và nguyên tử của các khí bị phá vỡ, một số vỏ điện tử tách ra khỏi vỏ điện tử. Do đó trong không gian có những nguyên tử nguyên lành, những nguyên tử mất điện và những nguyên tử riêng biệt. Trạng thái vật chất như vậy gọi là trạng thái siêu khí hoặc vật chất ở trạng thái này gọi là Plas-ma. Qúa trình tách ra của các nguyên tử để tạo nên các điện tử mang điện gọi là quá trình ion hoá. Vì thế tầng nhiệt còn gọi là tầng điện li, quá trình ion hoá cực đại diễn ra ở độ cao 100 km.
Tầng nhiệt có vai trò bảo vệ sinh quyển, vì nó hấp thụ tia Rơn-ghen không cho tia này xâm nhập đến tầng đối lưu.
1.3.5. Tầng ngoài (tầng khuyếch tán)
Giới hạn: từ trên 1000 km đến dưới 20000 km
Tầng khí quyển ngoài chủ yếu là khí hê-li và hi-đrô, không khí ở tầng này rất loãng. Có khả năng khuyếch tán các chất khí vào không gian, vũ trụ với tốc độ lớn.
1.4. Cấu trúc ngang - các khối khí
Trên bề mặt đất, trong tầng đối lưu, không khí cũng không đồng nhất. Tuỳ theo vĩ độ và bề mặt Trái đất là lục địa hay đại dương mà hình thành các khối khí khác nhau.
Ở mỗi bán cầu đều có 4 khối khí chính:
Khối khí địa cực (Bắc và Nam) rất lạnh (mùa hè lạnh, mùa đông rét buốt), phát sinh ở vùng địa cực, vùng cao áp nhiệt lực, gió thịnh hành theo hướng Đông. Thường thu hẹp về mùa hè, mở rộng ra vào mùa Đông. Ký hiệu là A.
Khối khí ôn đới lạnh phát sinh từ khu vực ôn đới (khu vực áp thấp động lực), lạnh, gió chủ yếu theo hướng Tây. Ký hiệu là P.
Khối khí chí tuyến rất nóng, khô phát sinh từ vùng cao áp động lực, gió thịnh hành theo hướng Đông. Ký hiệu là T.
Khối khí xích đạo nóng ẩm phát sinh từ vùng áp thấp xích đạo (áp thấp nhiệt lực), gió hướng Đông. Ký hiệu là E.
Từng khối khí lại phân biệt thành kiểu hải dương (ẩm), ký hiệu là m và lục địa (khô), ký hiệu là c. Riêng khối khí xích đạo chỉ có kiểu hải dương, ký hiệu là Em.
Các khối khí không đứng yên tại chỗ, chúng luôn di chuyển và làm thay đổi thời tiết của những nơi chúng đi qua. Đồng thời, chúng cũng chịu ảnh hưởng của mặt đệm ở những nơi ấy mà thay đổi tính chất (biến tính).
1.5. Frông
Frông khí quyển (ký hiệu là F) là mặt tiếp xúc giữa 2 khối khí có nguồn gốc khác nhau. Hai khối khí nằm ở hai bên Frông có sự khác biệt với nhau về tính chất vật lý (độ ẩm, hướng, nhiệt độ). Vì thế, khi Frông đi qua một nơi sẽ dẫn tới sự biến đổi đột ngột của thời tiết ở nơi đó.
Trên mỗi bán cầu có 2 Frông cơ bản:
Frông địa cực (FA).
Frông ôn đới (FP).
Giữa hai khối khí chí tuyến và xích đạo không tạo nên Frông thường xuyên và liên tục bởi chúng đều nóng và thường xuyên có cùng một chế độ gió.
Ở khu vực xích đạo, các khối khí xích đạo ở bán cầu Bắc và bán cầu Nam tiếp xúc với nhau đều là các khối khí nóng ẩm, chỉ có hướng gió khác nhau. Vì thế, chỉ tạo thành dải hội tụ nhiệt đới chung cho cả 2 bán cầu.
(Sưu tầm)
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: