Sông Ngòi
Nước Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều, nên có rất nhiều sông rạch, lưu lượng vào mùa mưa rất cao, chở nhiều phù sa bồi đắp cho các vùng bình nguyên. Hai sông lớn là Hồng Hà và Cửu Long có thượng nguồn phát nguyên từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, các sông còn lại thường hẹp và ngắn, phát nguyên từ nội địa. 1. Hệ thống sông Hồng
1. Sông Hồng phát nguyên từ Vân Nam, Trung Hoa, dài 1.200 cây số nhưng chỉ có 510 cây số chảy qua các tỉnh Lào Kay, Yên Báy, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Nam Định và đổ ra biển Việt Nam ở cửa Ba Lạt. Sông Hồng có lưu lượng không đều, khoảng 700 thước khối một giây vào mùa nắng, lên đến 30.000 thước khối một giây vào mùa mưa, trung bình một thước khối nước chứa khoảng 1 kí-lô phù sa màu đỏ. Phụ lưu Tây Nam của Hồng Hà là sông Đà, còn gọi là Hắc Giang, chảy qua các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, rồi vòng lên Phú Thọ và đổ vào sông Hồng ở Việt Trì.
Phụ lưu Đông Bắc của Hồng Hà là sông Lô, chảy qua Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, rồi đổ vào sông Hồng cũng ở Việt Trì. Sông Lô có hai phụ lưu là sông Chảy ở hữu ngạn và sông Gầm ở Tả ngạn. Sông Chảy dẫn ngang qua các tỉnh Lào Kay, Yên Báy, Tuyên Quang và nhập vào sông Lô ở Đoan Hùng. Sông Gầm chảy từ Cao Bằng ngang qua gần suốt chiều Bắc-Nam của tỉnh Tuyên Quang, nhập vào sông Lô ở phía Bắc thị trấn Tuyên Quang. Sông Gầm có một nhánh nhỏ ăn thông với hồ Ba Bể.
Từ Việt Trì ra biển, Hồng Hà có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Lại và sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Châu. Hai sông này nối Hồng Hà thông với sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang) Nối thông Hồng Hà và sông Đáy là hai sông Phủ Lý và Nam Định.
2. Hệ thống sông Thái Bình
Hệ thống sông Thái Bình hợp bởi Sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam. Sông Cầu phát nguyên từ Bắc Kạn chảy qua Chợ Chu tỉnh Thái Nguyên và trở thành ranh giới hai tỉnh Bắc Giang-Bắc Ninh. Sông Thương phát nguyên từ Lạng Sơn chảy qua Phủ Lạng Thương tỉnh Bắc Giang. Sông Lục Nam phát nguyên từ cao nguyên An Châu tỉnh Bắc Giang, chảy qua Lục Nam cũng thuộc Bắc Giang. Cả ba sông này hợp nhau tại Phả Lại thành sông Thái Bình, chảy qua tỉnh Hải Dương và đổ ra biển bằng cửa Thái Bình.
Các phân lưu chảy ra biển của hệ thống này còn được gọi là Lục Đầu Giang, tất cả đều nằm về phía tả ngạn sông Thái Bình: Sông Văn Úc, một đoạn tên sông Hương, một đoạn tên sông Rang, đổ ra cửa Văn Úc. Sông Lạch Tray, nối sông Văn Úc chảy ngang qua Hải Phòng, ra biển bằng cửa Rạch Tray. Sông Kinh Thầy, thoát lưu của sông Thái Bình từ Phả Lại, đến Thạch Liên chia thêm một nhánh nhỏ là sông Kinh Môn, hai nhánh này nhập lại trước khi đổ ra biển ở cửa Cấm. Phân lưu sau cùng của sông Thái Bình là sông Đà Bạch, tức Bạch Đằng Giang, cửa sông là một vùng đồng lầy rộng lớn.
3. Hệ thống sông Kỳ Cùng
Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ vùng núi cực đông tỉnh Lạng Sơn, theo hướng núi, chảy ngược về phía Tây-Bắc, qua Kỳ Lừa, Đồng Đăng, đến Thất Khê lại đổi sang hướng Đông, chảy qua Bi Nhì hướng về thị trấn Lung Ching tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa. Một phụ lưu của sông Kỳ Cùng là sông Bắc Giang, phát nguyên là sông Na Rì, chảy qua huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn, huyện Vân Mít tỉnh Lạng Sơn, rồi đổ vào sông Kỳ Cùng ở Thất Khê. Trong hệ thống này còn có sông Bằng Giang, phát nguyên từ cao nguyên Nguyên Bình chảy qua thị trấn Cao Bằng rồi đổ vào sông Kỳ Cùng ở Lung Ching, tạo thành Tây Giang của Trung Hoa.
4. Hệ thống sông ngòi Thanh-Nghệ-Tĩnh
* Sông Mã, phát nguyên từ cao nguyên Sintiai tỉnh Sơn La, một đoạn sông này chảy qua lãnh thổ Ai Lao rồi vào lại Việt Nam ở ranh giới Sơn La-Thanh Hóa, đổ ra biển ở cửa Hội, phía Bắc bãi Sầm Sơn. Sông Mã có một phụ lưu là sông Chu, phát nguyên từ Sầm Nứa, Ai Lao, chảy qua các huyện Bái Thượng, Thọ Xuân, Thiện Hoa, và đổ vào sông Mã ở phía Bắc tỉnh lỵ Thanh Hóa.
* Sông Cả, phát nguyên là sông Nam Mô từ Nông Het bên Ai Lao, chảy qua suốt chiều ngang tỉnh Thanh Hóa theo chiều Tây Bắc-Đông Nam, đến phía Nam thành phố Vinh gặp khu núi hoa cương ở Bến Thủy nên chảy ngược lên hướng Bắc trước khi đổ ra biển ở cửa Hội Thống. Sông Cả có một phụ lưu ở hữu ngạn là sông Hương Khê thuộc địa phận Hà Tỉnh và một phụ lưu phía tả ngạn là sông Con, chảy từ huyện Nghĩa Hưng đổ vào sông Cả ở Côn Cường.
5. Hệ thống sông ngòi Bình-Trị-Thiên
* Sông Gianh, còn gọi là sông Rao Nay hay Linh Giang, phát nguyên từ Đồng Đầm, chảy trong địa phận tỉnh Quảng Bình dọc phía Nam dãy Hoành Sơn, đổ ra biển ở Mỹ Hòa Thượng.
* Đài Giang, phát nguyên từ góc Tây-Nam tỉnh Quảng Bình, chảy ngược về hướng Đông Bắc, ngang qua Phong Lộc thì đổi hướng chính Bắc, đổ ra biển ở cửa Nhật Lệ, Đồng Hới.
* Sông Bến Hải, phát nguyên từ góc Tây-Bắc tỉnh Quảng Trị, chảy về hướng Đông, ngang qua Trung Lương, đổ ra biển ở cửa Tùng.
* Sông Cam lộ, còn gọi là sông Bồ Điền, chảy từ biên giới Lào-Việt qua Đông Hà rồi đổ ra biển ở cửa Việt. Sông Cam lộ có một phụ lưu về phía hữu ngạn là Hàn Giang, còn gọi là sông Thạch Hãn hay sông Quảng Trị, phát nguồn từ quận Hương Hóa, chảy qua Ba Lòng và tỉnh lỵ Quảng Trị rồi nhập vào sông Cam Lộ ở gần Đông Hà.
* Sông Hương, kết hợp bởi hai phụ lưu là Tả Trạch và Hữu Trạch ở Nam Hòa rồi chảy ngang qua thành phố Huế và đổ ra biển ở cửa Thuận Hóa.
6. Hệ thống sông ngòi Nam-Ngãi-Bình-Phú
* Sông Boung, còn gọi là sông Bông hay sông Bùng, phát nguyên từ phía cực Tây tỉnh Quảng Nam, chảy qua Thường Đức, Duy Xuyên và đổ ra biển ở cửa Hội An. Một phụ lưu ở phía hữu ngạn sông này là sông Thu Bồn, kết hợp bởi sông Tranh và sông Khang phát nguồn từ tỉnh Quảng Tín chảy ngược lên Quảng Nam và nhập vào sông Bông ở quận Đại Lộc.
* Sông Tam Kỳ, rất ngắn, chảy ngang thành phố Tam Kỳ.
* Sông Trà Bồng, chảy qua quận Trà Bồng và Bình Sơn thuộc Quảng Ngãi.
* Sông Trà Khúc, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Quảng Ngãi, chảy qua quận Sơn Hạ và tỉnh lỵ Quảng Ngãi.
* Sông An Lão, chảy theo chiều Bắc-Nam, qua quận An Lão xuống đến Hoài Nhơn thì nhập vào Lại Giang, đổ ra biển ở Kim Giác.
* Sông Mang, phát nguồn là sông Hà Giao thuộc quận Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, chảy qua Bình Khê, An Nhơn và đổ ra đầm Thị Nại.
* Sông Đà Rằng, thượng nguồn là sông Ba, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Bình Định, chảy về hướng Nam, qua An Túc (An Khê) vào địa phận tỉnh Phú Bổn, xuống tới tỉnh lỵ Hậu Bổn thì đổi thành hướng Đông-Nam, vào địa phận tỉnh Phú Yên ngang qua Sơn Hòa, Hiếu Xương rồi đổ ra biển bằng cửa Đà Rằng ở phía Nam tỉnh lỵ Tuy Hòa
7. Hệ thống sông ngòi Khánh-Thuận
* Sông Cái, phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên, chảy ngang địa phận Khánh Hòa qua Diên Khánh, Vĩnh Xương và đổ ra biển ở Nha Trang.
* Sông Dinh, còn có tên là sông Kinh Dinh, thượng nguồn gồm nhiều phụ lưu nhỏ và một thoát lưu của đập Đa Nhim phát nguyên từ cao nguyên Lâm Viên, chảy qua địa phận tỉnh Ninh Thuận và đổ ra biển ở vũng Phan Rang.
* Sông Lũy, gồm các phụ lưu Cà Tót ở Hữu ngạn, sông Cái Giấy và sông Mao ở tả ngạn, chảy trong địa phận tỉnh Bình Thuận và đổ ra biển ở Phan Rí.
* Sông Mường Mán ở phía Nam tỉnh Bình Thuận, đổ ra biển ở Phan Thiết.
8. Hệ thống sông ngòi phía Tây Cao Nguyên
Về phía Tây rặng Trường Sơn trên các cao nguyên Gia Lai và Đắc Lắc có những sông chảy ngược về hướng Tây qua Campuchia, đổ vào sông Cửu Long:
* Krong Bo+lah, phát nguyên từ cao nguyên Gia Lai, chảy dọc theo ranh giới Kontum-Pleiku, đổ vào sông Sé San của Campuchia.
* Ea Hleo và phụ lưu Ea Drang chảy thành ranh giới hai tỉnh Pleiku-Đắc Lắc, đổ vào sông Sprépok của Campuchia.
* Krong Knô, phát nguồn là sông Da Troung chạy thành ranh giới hai tỉnh Tuyên Đức-Quảng Đức, ngược về hướng Tây-Bắc, có hai đoạn làm ranh giới Quảng Đức-Đắc Lắc rồi vào hẳn địa phận Đắc Lắc ở phía Nam Ban Mê Thuộc, có tên Ea Krong, rồi lại đổi tên Se Bang Khan trước khi chảy sang Campuchia thành sông Séprok.
* Dak Dầm là một phụ lưu tả ngạn của Se Bang Khan, chảy dọc biên giới Campuchia với một phần tỉnh Quảng Đức và một phần tỉnh Đắc Lắc.
9. Hệ thống sông Đồng Nai
* Sông Đồng Nai, thượng nguồn là sông Đa Dung và sông Đa Nhim nằm hai bên thành phố Đà Lạt, có nhiều thác nước hùng vĩ. Hai sông này gặp nhau ở ranh giới tỉnh Tuyên Đức-Lâm Đồng. Từ đó, sông Đa Dung chảy về hướng Tây, làm thành ranh giới tỉnh Lâm Đồng-Quảng Đức. Khi vào địa phận tỉnh Phước Long thì đổi sang hướng Nam rồi Tây Nam và trở thành sông Đồng Nai, chảy qua các tỉnh Long Khánh, Biên Hòa, Gia Định và đổ ra biển bằng hai thoát lưu Nhà Bè (Soài Rạp) và Lòng Tảo.
* Sông La Ngà, là một phụ lưu về phía tả ngạn sông Đồng Nai, phát nguyên từ tỉnh Lâm Đồng, chảy qua tỉnh Bình Tuy và nhập vào sông Đồng Nai ở phía Tây quận Định Quán.
* Sông Bé, là một phụ lưu về phía hữu ngạn sông Đồng Nai, phát nguyên từ tỉnh Quảng Đức, chảy qua các tỉnh Phước Long, Bình long, Phước Thành và đổ vào sông Đồng Nai ở quận Hiếu Liêm, gần thác Trị An.
* Sông Sài Gòn, cũng là một phụ lưu hữu ngạn của sông Đồng Nai, phát nguyên từ đỉnh Bắc tỉnh Bình Long, chảy xuôi Nam làm thành ranh giới Bình Long-Tây Ninh rồi qua các tỉnh Bình Dương, Gia Định trước khi đổ vào sông Đồng Nai ở gần Nhà Bè.
* Sông Vàm Cỏ, là phụ lưu hữu ngạn sau cùng của hệ thống sông Đồng Nai, thượng nguồn gồm hai nhánh: Vàm Cỏ Đông, phát nguyên từ góc Tây-Bắc tỉnh Tây Ninh, chảy qua tỉnh Hậu Nghĩa, Long An. Vàm Cỏ Tây, phát nguyên từ góc Tây Bắc tỉnh Kiến Tường, chảy xuống Long An. Hai nhánh Vàm Cỏ tụ hội ở gần quận Cần Đước rồi trở thành ranh giới Long An-Gò Công trước khi đổ vào sông Nhà Bè.
10. Hệ thống sông Cửu Long
Sông Cửu Long dài trên 4.200 cây số, phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Ai Lao, Campuchia, đến Nam Vang thì phân làm hai nhánh đổ về hướng Việt Nam là Tiền Giang và Hậu Giang, chảy trên lãnh thổ Việt Nam một đoạn chừng 250 cây số, điệu nước đều hòa, có thể lưu thông quanh năm, và nối nhau bằng nhiều sông rạch miền Tây. Lưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 thước khối nước một giây về mùa nắng, lên đến 120.000 thước khối một giây vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng miền Nam.
Tiền Giang có lòng sông rộng với nhiều cù lao ở giữa giòng, chảy qua Tân Châu (Châu Đốc), Hồng Ngự và Cao Lãnh (Kiến Phong) đến Cai Lậy (Định Tường) thì chia làm bốn sông đổ ra biển bằng sáu cửa:
* Sông Mỹ Tho, chảy qua tỉnh lỵ Mỹ Tho và phía tỉnh Gò Công, ra biển bằng cửa Tiểu và cửa Đại.
* Sông Ba Lai chảy qua phía Bắc tỉnh Kiến Hòa, ra cửa Ba Lai.
* Sông Hàm Luông, chảy qua phía Nam tỉnh Kiến Hòa, ra cửa Hàm Luông.
* Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Kiến Hòa-Vĩnh Bình, đổ ra biển bằng hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu.
Hậu Giang chảy qua Châu Phú (Châu Đốc) Long Xuyên (An Giang) Cần Thơ (Phong Dinh), Trà Ôn (Vĩnh Bình), Long Phú (Ba Xuyên), và đổ ra biển bằng ba cửa: Định An, Ba Thắc, Trần Đề.
11. Hệ thống sông nhỏ miền Tây
* Sông Giang Thạnh, phát nguyên từ Campuchia, vào Việt Nam ở đỉnh Bắc tỉnh Kiên Giang, đổ ra vịnh Rạch Giá ở Hà Tiên.
* Sông Cái Lớn và Cái Bé, phát nguyên từ tỉnh Chương Thiện, đổ ra biển ở Rạch Giá.
* Sông Trèm Trẹm, nối nguồn vào sông Cái Lớn bằng Kinh Cán Gáo ở Kiên An (Kiên Giang), chảy qua rừng U Minh, vào địa phận tỉnh An Xuyên thành sông Ông Đốc, đổ ra vịnh Rạch Giá ở quận Sông Ông Đốc.
* Sông Bảy Hạp, chảy từ Quản Long (An Xuyên) ra vịnh Rạch Giá ở cửa Bảy Hạp.
* Sông Gành Hào, cũng từ Quản Long, nhưng chảy về phía Đông Hải, ra biển ở cửa Gành Hào.
* Sông Cửa Lớn, phát nguồn là các sông Đầm Dơi và Đầm Chim, đổ ra vịnh Rạch Giá ở mũi Ông Trang. Sông này lại có một nhánh nhỏ là sông Bồ Đề, chảy ra Đông Hải ở cửa Bồ Đề.
12. Hệ thống kinh đào miền Tây
Miền Tây Nam phần có một hệ thống kinh đào chằng chịt, nối các sông lớn nhỏ thành một hệ thống thủy lộ và thủy nông quan trọng. Những kinh đào chánh có thể liệt kê theo thứ tự địa dư từ Kiến Tường xuống tới An Xuyên như sau:
* Kinh Kỳ Hương, Mười Hai (Kiến Tường).
* Kinh Xáng An Long, Tháp Mười, Đồng Tiến (Kiến Phong).
* Kinh Vĩnh Tế, Thần Nông, Ba Thê, Tri Tôn (Châu Đốc).
* Kinh Mỹ Tho, Thương Mãi (Định Tường).
* Kinh Bốn Tổng, Cái Sắn, Thốt Nốt (An Giang).
* Kinh Lấp Vò, (Sa Đéc).
* Kinh Hà Tiên-Rạch Giá, Rạch Giá-Thất Sơn, Rạch Giá-Long Xuyên, Cán Gáo (Kiên Giang).
* Kinh An Trường (Vĩnh Long).
* Kinh Long Vĩnh (Vĩnh Bình).
* Kinh Ô Môn, Xà No, Phụng Hiệp (Phong Dinh).
* Kinh Trèm, Cái Lớn (Chương Thiện).
* Kinh Khánh Hưng, Quan Lộ-Phụng Hiệp, Cai Xe (Ba Xuyên).
* Kinh Canh Đền-Quan Lộ, Quan Lộ-Bạc Liêu, Phước Long-Vĩnh Mỹ, Quan Lộ-Gia Rai, Trèm-Hộ Phòng, Gành Hào-Gia Rai (Bạc Liêu).
* Kinh Kiểm Lâm, Cà Mau-Gia Rai (An Xuyên).
13. Hệ thống suối nhiệt khoáng Việt Nam
Theo đặc tính hóa chất, các suối nhiệt khoáng sulfat nằm rải rác trên các vùng cao nguyên Tây-Bắc Bắc phần, các suối nhiệt khoáng bicarbonate lại xuất hiện từ vùng cao nguyên phía Tây Trường Sơn vào đồng bằng Nam phần:
* Loại suối sulfat calci và magné ở Yên Báy, Sơn La.
* Loại suối clorure natri, sulfure calci và magné ở Sơn La và Ninh Bình.
* Loại suối sulfure hydro và natri ở Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu.
* Loại suối bicarbonate calci ở Lào Kay, Sơn La, Hòa Bình, Thừa Thiên, và miền Nam Trung phần.
* Loại suối carbonate natri như suối Vĩnh Hảo, sông Châu Cát ở Bình Thuận.