"Điêu tàn " và , Chế Lan Viên .

Hide Nguyễn

Du mục số
Cách đây nửa thế kỷ, với tập thơ khổ nhỏ, mỏng mảnh gồm 36 bài là Điêu tàn, Chế Lan Viên đã “đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị” (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Kinh dị không phải chỉ vì lúc đó tác giả còn nhỏ tuổi (lúc viết Điêu tàn, ông chỉ mới 15-16 tuổi) mà chủ yếu vì giọng thơ buồn ảo nảo pha màu sắc huyền bí kỳ lạ. Ở đó, Chế Lan Viên đi ngược thời gian, và bằng tưởng tượng đã phục hiện một thế giới chỉ còn trong ký ức với những dự cảm hãi hùng khác thường. Ở đó, người học trò đã tìm lại được những dấu vết huy hoàng rực rỡ của dân tộc Chămpa.




Chế Lan Viên và tác phẩm Điêu tàn.



Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành

(Trên đường về)

Nhưng đấy chỉ là ánh hồi quang của một giấc mơ hư ảo thuộc về quá vãng. Nó thoáng hiện và không băng bó được vết thương lòng cho con người. Vẻ rực rỡ đã tàn bao năm trước/ Bao năm sau còn dội tiếng kêu thương.

Có lẽ chỉ vì Chế Lan Viên sống trong một giai đoạn lịch sử nước nhà bị nô lệ và trong một không gian tràn ngập sắc buồn gợi cảm. Sự diệt vong của một dân tộc đã dễ dàng đập mạnh vào tình cảm và trí tưởng tượng của một người trai trẻ yêu nước. Lại thêm những chứng tích còn đó, những cổ tháp sừng sững nhưng trơ vơ, lạc lõng giữa ruộng đồng núi non khô khốc của miền Trung nắng cháy, những huyền sử gợi cảm xa xôi về Chế Bồng Nga, nàng Mỵ Ê, thành Đồ Bàn đã khiến nhà thơ tuổi trẻ lịm đi trong niềm u uất, trầm cảm tuyệt vọng:

Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
Cũng đương chôn lặng lẽ những ngày xanh

(Những nấm mồ)

Mặc tưởng triền miên trong mặc tưởng, nhà thơ họ Chế chỉ thấy những vang vọng lịch sử kia một thế giới “Điêu tàn”. Đó là một cõi âm giới với xương sọ đầu lâu, với mồ không huyệt lạnh. với tha ma pháp trường. Đó là một dòng sông Linh hư ảo được dựng lên dưới tà dương nắng xế hay trong đêm mờ sương tàn lạnh, với những hồn ma vất vưởng, với những thành quách đổ nát trong một màu sắc tàn lụi kinh dị. Điêu tàn của Chế Lan Viên vì thế là một thế giới hư linh, ma quái chìm đắm trong bóng tối cô đơn lạnh lẽo với những cơn mê sảng của một tâm hồn vong nô bị giá lạnh:

Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than

Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy

Đây chiến địa đôi bên giao trận
Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hận
Xương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn


(Trên đường về)

Và bằng một lòng tin đau đớn, ông dựng lên một thế giới hoang tưởng hư ngụy, và ông tin là nó có thật. Rồi ông bị hút theo xác tín siêu hình đó. Nhưng sau đó, xác tín bị đánh vỡ, lúc ấy ông trở nên cô đơn và câm đặng. Vì thế Chế kêu lên hốt hoảng, một tiếng kêu khắc khoải về việc nỗi đau bi biến chất, về việc mất lòng tin và chỉ còn lại sự cô đơn. Và ông tự ngụy tạo cho mình những âm vọng từ một thế giới khác để trò chuyện:

Ai kêu ta trong cùng thẳm hư vô
Ai réo gọi giữa muôn sao chới với


Đó thực sự là một tiếng kêu hốt hoảng mà sâu thẳm, một tiếng gọi khắc khoải về nỗi cô đơn của con người trong xã hội nô lệ. Thực ra đó là cách nhà thơ cố tạo ra một ngăn cách giả định giữa nhà thơ và cuộc đời. Cho nên khi cuộc đời "tất cả không ngoài nghĩa khổ đau" thì tin vui mùa xuân đưa đến chỉ còn là một sự mỉa mai đau đớn:

Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ?
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau

(Xuân)

Chỉ có mùa thu là thật, cũng như chỉ có nỗi đau là thật, nhưng với thu ấy, cũng chỉ có một bóng người đi - về, đi tới đâu không biết, và về ở nơi không bao giờ tới và mong ước:

Ô hay tôi lại nhớ thu rồi
Mùa thu rớm máu rơi từng chút
Trong lá bàng thu đỏ rực trời
Đường về thu trước xa lăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi


Người con trai mạnh mẽ và say đắm "chỉ một tôi" ấy không tìm thấy cho mình một khoảng lặng thanh thản giữa ngày để mơ mộng và yêu thương. Nhìn vào đâu cũng thấy chất ngất những tháp buồn chơ vơ. Tâm cảm con người cứ tràn ngập sắc úa quá vãng và siêu hình. Trong khoảng giữa năm, mùa nào cũng là "địa ngục". Ở mùa xuân thì nhớ mùa thu, ở mùa thu hiện tại thì chập chờn nhớ mùa thu quá khứ. Còn trong khoảng giữa ngày - buổi trưa, với lòng nhà thơ chỉ là một miền đất siêu trần thế:

Trưa lên trời. Và xanh thẳm bầu trời
Bỗng mê ly, nằm thấy trắng mây trôi

(Trưa đơn giản)

Hay ngay trong buổi đầu ngày xán lạn, ta vẫn thấy Chế mặc tưởng u uất:

Đây muôn vật chìm sâu trong yên lặng
Mà lòng ta thổn thức mãi không thôi
Hay người khóc vì tháp Chàm quạnh vắng
Hay khóc vì xuân đến gạch Chàm rơi ?


(Bình Định, 9h sáng ngày 25-12-1936)


Chỉ có buổi tối, nơi bóng đêm ngự trị, nhà thơ mới được sinh tồn vì ở đó, những linh hồn "điêu tàn" bị khánh kiệt lòng tin mới biết cảm thông và gặp được nhà thơ:

Này, em trông một vì sao đang rụng
Hãy nghiêng mình mà tránh đi nghe em
Chắc có lẽ lính hồn ta lay động
Khi vội vàng trở lại nước non Chiêm

(Đêm tàn)

Khác với Hàn Mặc Tử - nỗi đau đời được diễn đạt bằng nỗi đau người, một nỗi đau trải nghiệm của thịt da tôi sượng sần và tê điếng, Chế Lan Viên nhức nhối một nỗi đau trí tuệ sâu sắc. Đó là cơn vật vã của suy tưởng chiêm nghiệm về xác tín, về niềm tin, về sự tồn tại của con người trên mặt đất, và về cái Tôi bị vong thân giữa đời. Bởi thế cách tìm kiếm phục sinh của Chế thật khác với bao nhà thơ khác như Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,... Những thánh đường, tháp cổ, những thiên thần vũ nữ đang nhảy những điệu luân vũ trần thế đầy gợi cảm hoan lạc trên đá hay những nét trầm tư của những con bò đá canh giữ vòm trời tinh tú của nền nghệ thuật kỳ diệu Chăm-pa đã không được ông chú ý. Ông chỉ khắc sâu nỗi "điêu tàn" đang có của nó để phục sinh những tâm hồn bị vong nô:

Ai tưởng đến tháp Chàm kia trơ trọi
Tháng ngày luôn rộng cửa đợi ma Hời
Ai nhìn đến làn thương rêu lở lói
Trên thịt hồng nứt nẻ gạch Chàm tươi


(Thu về)


Điêu tàn vì thế phần nào có thể làm cho một số người biết suy nghĩ và nhớ lại thân phận đích thực của mình cùng những bài học lịch sử đầu lòng của một dân tộc chưa bao giờ chịu làm nô lệ.

Và ngày nay, đọc Điêu tàn, chúng ta cảm ơn rất nhiều nhà thơ Chế Lan Viên, nhưng ở một bình diện khác, tôi còn muốn cảm ơn thế giới nghệ thuật còn lại của Chămpa: Chính thế giới này không chỉ là chất liệu cho cảm hứng thi ca một thời mà nó còn là toàn bộ thần thái buồn bã ảo nảo và đau đớn cùng cực của Điêu tàn của Chế Lan Viên nói riêng và của trường thơ Loạn Bình Định nói chung. Chính nó đã làm nên khí chất, sắc thơ và tình điệu thẩm mỹ cho trường phái thơ nổi tiếng này, và cũng từ đấy ghi lại một dấu son khó phai trong lịch sử thi ca Việt Nam hiện đại.

. Theo Văn hóa Hội An
 
TRẦN THANH ĐỊCH



Đọc “Điêu tàn” của Chế Lan Viên



Một hôm, Chế Lan Viên viết thư cho tôi bằng những hàng này:



Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của Trần Gian!
Thịt bại rồi, nhãn quan đà lả mệt
Thú điên cuồng ao ước vẫn khôn ngăn!



Đấy là một thi sĩ của sự Đau Thương.

Những xúc động của tâm hồn (manifestation de l’âme) ở Chế Lan Viên đã xúi giục thi sĩ viết nên những tiếng than rền rỉ, có thể vang động ngay đến lòng ta khi đọc nó. Tôi nhận thấy những tiếng rền rỉ ấy cũng đã có trong người Hàn Mặc Tử, ở một bức thư mà thi sĩ đã bàn với tôi về chuyện sắp cho xuất bản “Thơ điên”.

Nhưng hai nhà thi sĩ trẻ tuổi ấy − Hàn Mặc Tử mới được 25, Chế Lan Viên chỉ mới có 17 − khác nhau ở chỗ: Hàn Mặc Tử ca ngợi sự đau thương của riêng lòng mình, Chế Lan Viên ca ngợi sự đau thương của điêu tàn, của dân Chiêm quốc nghìn xưa.

Vừa mới một năm nay, trước Ban Thờ văn học Việt Nam chúng ta đã có thêm ba nhà thơ lẳng lặng dùng toàn những thành ngữ táo bạo: Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Chế Lan Viên.

“Táo bạo” đây không phải có nghĩa là vô nghĩa như thơ của Huy Thông hay khó chịu như những thi sĩ Parnassiens [a] đã làm ra lối thơ khó hiểu (vers sibyllins). Cái táo bạo trong lối dùng chữ của ba nhà thơ này vẫn làm cho người đọc hiểu ngay ý thơ của mình bằng sự thâm trầm và kín đáo, nó làm giàu cho nền văn học chúng ta rất nhiều. Và sau cùng, ba người ấy cũng đang đi đến bờ cõi Triết Lý. (Một điều không ngờ là chính ba nhà thơ ấy cũng đều sinh trưởng vào một chỗ đất Quy Nhơn, nơi đã tạo ra bao nhiêu văn sĩ, thi sĩ hiện đang lẫy lừng trên võ đài Văn Chương).

Charles Plisnier, [c] nhà văn sĩ đã được phần thưởng Goncourt năm vừa rồi, có viết: “Với thơ, không ai cấm sự dùng chữ táo bạo. Và tôi có thể bảo thêm rằng nó lại rất cần nữa…”

Điêu tàn là một áng thơ tuyệt tác. Với nó tôi thấy tâm hồn tôi rung động một cách khoan khoái. Đó là một cái rùng mình nhẹ nhàng của nhà du lịch đứng trước vẻ tang thương của một công nghiệp đã hằng vĩ đại, với lòng cảm động mến tiếc trong một sự bồi hồi. Người ta thấy rõ và nghe được trong thơ của Chế Lan Viên những cái dẫy dụa, quằn quại, chuyển động, những tiếng oán hờn, gào thét, khóc than, những mùi tanh hôi của máu trào và tuỷ chảy ở vạn cô hồn mất nước đang quờ quạng, rền rỉ để dìu dắt nhau đi giữa một bãi tha trường. Đọc thơ Chế Lan Viên ta có cái cảm giác ghê rợn như đang đọc bài Văn chiêu hồn của nhà đại thi hào Nguyễn Du trong một đêm trăng mờ ở một làng hẻo lánh.

Hồn ma ơi! Trong những đêm u tối
Mi tung mây về chân trời vòi vọi
Hãy mau nghiêng cánh lại ở bên mồ
Phủ lòng ta say đắm chút hương mơ!
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người nảy nở tiếng xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí giời đêm

Cũng như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên chỉ thích sống với Ban Đêm, một Ban Đêm ghê rợn. Ban Đêm của Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên là cái ban đêm của Baudelaire, Mallarmé, Edgar Poe, Shakespeare. Nó chẳng mơ màng và huyền diệu cho đôi tình nhân ích kỷ. Những Trăng, Sao, Bóng Tối, Làn Gió Thoảng, nói chung lại là “Nàng Thơ” của nó, cũng khác luôn cả những trăng, sao, bóng tối, làn gió thoảng và nàng thơ của các thi sĩ ly tao. Những cảm giác gì, những âm thanh gì, những sự vật gì ghê rợn, hãi hùng và bí mật, đều tụ họp lại trong cái Ban Đêm của họ, của Chế Lan Viên:

Mây chắp lụa dài vây núi biếc
Sương xây mồ bạc dấu trăng vàng
Thuyền ai dỡn nước sông Ngân ấy
Mà để sao sa xuống cõi trần
Phải hay chăng đêm qua khi thuyền mộng
Của Nàng Trăng vào đến bến mây xa
Một cô hồn về đây theo gió lộng
Trên mộ tàn tìm lại dấu ngày qua?

Điêu tàn là một áng thơ tuyệt tác của tủ sách Việt Nam.

Tôi đã thành một người dân Chiêm quốc để khóc than, kêu gào, rền rĩ, khi thấy người ta kể lại một thời vẻ vang nghìn xưa oanh liệt: lúc đọc Điêu tàn.

Tôi cũng đã đọc nó với một sự Buồn não nuột, một sự Chán ê chề…

Nhưng những Buồn Phiền não nuột ấy, những Chán Nản ê chề ấy, tôi lại tìm thấy nó ở trong sự say sưa và mê mẩn.



● Nguồn: Tràng an báo, Huế, số 299, 1er Mai 1938.



GHI CHÚ (của Lại Nguyên Ân, người sưu tầm)

[a] “những thi sĩ Parnassiens”: ý nói các nhà thơ Pháp thuộc nhóm “Parnasse” (tên gọi này được xác lập sau việc xuất bản các tập sách mang nhan đề “Parnasse hiện thời” vào các năm 1866, 1871, 1876) gồm: Théodore de Banville (1823-91), Sully Prudhome (1839-1907), François Coppé (1842-1908), Léon Dierx (1838-1912), Jean Lahor (1840-1909), J.-M. de Heredia (1842-1905); nhóm này hướng theo các nguyên tắc thẩm mỹ (“nghệ thuật vị nghệ thuật”) của Théophile Gautier (1811-72); một thủ lĩnh khác của nhóm là Leconte de Lisle (1818-94).

chỗ này báo gốc là “lay lừng”, ngờ là in sai, ở đây sửa là “lẫy lừng”.

[c] Charles Plisnier (1896-1952): nhà báo, nhà văn, nhà thơ Bỉ, đạt giải thưởng Goncourt năm 1937 với tác phẩm Faux passeports.
 
Các bạn có thể tìm hiểu thêm về Chế Lan Viên tại chủ đề này :
Chế Lan Viên với "Điêu tàn" và "Vàng sao"


Sau đây, chỉ post những bài thơtrong tập thơ Điêu tàn.



Đêm tàn


Ta cùng Nàng nhìn nhau không tiếng nói
Sợ lời than lay đổ cả đêm sâu
Ðôi hơi thở tìm nhau trong bóng tối
Ðôi linh hồn chìm đä'm bể U Sầu .

"Chiêm nương ơi , cười lên đi em hỡi !
Cho lòng anh quên mô.t phút buồn lo !
Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi
Nhớ chi em sầu hâ.n nước Chàm ta ?

Này , em trông mô.t vì sao đang rụng
Hãy nghiêng mình mà tránh đi , nghe em !
Chä'c có lẽ linh hô`n ta lay động
Khi vô.i vàng trở lại nước non Chiêm " .

Lời chưa dứt , bóng đêm đà vụt biến !
Tình chưa nô`ng đã sä'p phải phôi pha !
Trên trâ`n gian vâ`ng ô kia đã đến
Gỡ hồn nàng ra khỏi mảnh hồn ta.


 
Đầu rơi



Tội ác còn chuyển rung bao thớ thịt
Tiếng gươm đưa thấu đến não cân ta,
Có phải chăng còn trào bao suối huyết?
Có phải chăng còn dội tíeng đầu sa?

Loài người đến làm chi bên bãi chém
Lấy máu đào tô thắm nét môi tươi?
Hay tìm điệu nhạc vang trong lưỡi kiếm
Vụt ngang trên đỉnh sọ hãi hùng rơi?

Trường chinh chiến đang còn, vòng tranh đấu
Vẫn tháng ngày dày xé xác muôn người
Bày ra chi tấn trò đầy xương máu
Trong pháp trường u uất khí tanh hôi?

Hãy trả lại đầu lâu cho thi thể
Và hãy chôn trong cùng đáy mồ sâu
Đừng có để những đêm mờ vắng vẻ
Phải dội vang tiếng khóc quỷ không đầu!
 
Cái sọ người


Này chiếc sọ người kia, mi hỡi !
Dưới làn xương mỏng mảnh của đầu mi;
Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối ?
Mi trông mong ao ước những điều chi ?

Mi nhớ đến cảnh pháp trường ghê rợn
Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi ?
Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn
Hồn mi bay trong đốm lửa ma trơi ?

Có tìm chăng, những chiều không tiếng gió,
Của người mi thi thể rữa tan rồi ?
Có tưởng lại mảnh hồn mi đau khổ
Đang lạc loài trong Cõi Chết xa xôi ?

Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại
Muốn giết ta trong sức mạnh tay ta !
Để những giọt máu đào còn đọng lại
Theo hồn ta, tuôn chảy những lời thơ.

Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ !
Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô !
Để nếm lại cả một thời xưa cũ
Cả một dòng năm tháng đã trôi xa !
 
Hồn trôi



Cô em ơi! đằng xa cây toả bóng,
Sao cô không ngồi đợi giấc mơ nồng?
Đến chi đây, cho thân cô rung động
Lớp hồn tôi êm rải khắp trời trong?

Đừng hát nữa! Tiếng cô trong trẻo quá
Khiến hồn tôi tê liệt khó bay cao,
Này, im đi, nhìn xem, trong kẽ lá,
Một mặt trời giả dáng một vì sao.

Ngoài xa xa, không, ngoài xa xa nữa,
Thấy không cô, ánh nắng kéo hồn tôi?
Đến những chốn êm đềm như hơi thở,
Nồng tươi như suối máu lúc ban mai.

Cô bảo: Hồn có hay không trở lại
Một khi trôi vào giữa giấc mơ cuồng?
- Có, cô ơi, hồn tôi rồi trở lại
Với lòng điên, ý chết, với tình thương.
 
Khi cây chết

Khi cây chết, ta làm chim bơ vơ
Khi không gian đã hết những đợi chờ
Khi trưa xuống khóc trên lòng sông bể
Ta muốn ta mai sau là hạt lệ
Khóc trên lòng hậu thế cũng đau thương.
 
Lại thấy thời gian


Nếp áo tiền thân vừa hút mắt

Tiếng gà lai - kiếp cách ngàn sao
Anh nằm ở giữa cân trời đất
Khối ngọc chưa nghiêng một hướng nào.
Thâm - khuê - ý - thức chong đèn lạnh.
Mặt - nguyệt - tâm - tư tròn vẹn gương
Chiếc én thành son chưa đẫy cánh
Nét đau xanh liễu chửa buông tường.

Em đến rủ ta vào cuộc Sắc,

Nghe em, ta hái cụm hoa ngời
Nhớ thương từ ấy xanh sông mắt
Đỏ nụ lòng ta chói ánh vui

Đẩy tiếp xe son quá bụi hồng

Con roi hư ảo dặm đường Không
Anh khêu đĩa-bấc-trần-tâm lại
Sâu bướm phiền-hoa lại nối Vòng.

Mé rừng qua khuất nắng hư vàng

Trên bến gà kêu sao rụng ngọc
Ôm mặt nghìn năm ta lại khóc
Bến xưa rừng cũ thấy... Thời Gian.
 
Những nấm mồ



Hãy chôn sâu nụ cười trên môi thắm
Hãy giết đi lời hát đáy hầu người
Đừng tìm nữa, của hoa tươi, sắc thắm
Của muôn chim, tiếng ngọc bạn lòng ơi!

Vì mỗi phút vui tuổi thêm nhắc tới
Những điên cuồng chôn tận đáy hồn mơ
Những sầu muộn trong thành tim u tối
Trong mắt buồn, hình ảnh buổi ngây thơ

Cả Dĩ Vãng là chuổi mồ vô tận
Cả Tương Lai là chuỗi huyệt chưa thành
Và HIện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn
Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh!

Trong nắng hè lá tươi đà đổi sắc
Dệt mùa thu sắp đến. Tựa đời ta
Chuỗi ngày xanh, hùa theo nhau phai nhạt
Dệt tấm màn quàng liệm tấm hồn ta!
 
Đọc sách

Ta nằm đọc sách trong vườn chuối
Chim khách trên nhành hót líu lo
Gió bay nhộn nhịp không ra lối
Hoa tàn luống cuống chẳng nên thơ.

Trời xanh ới hỡi! Xanh khôn nói
Hồn tôi muốn hiểu chẳng cùng cho!
Có cánh chim gì bay chới với
Chết rồi! Nó lạc giữa Hư Vô!

Kìa kìa nắng nở hoa muôn sắc
Trên những tâu tiêu rợn ý trinh
Kia kìa, nắng bọc muôn hình xác
Những nét thơ tràn cổ sách xinh.
 
Cõi ta


Ôi bát ngát mênh mông như Âm giới,
Đây Cõi Ta rộng rãi đến vô biên!
Nơi an táng khổ đau trong huyệt tối
Nơi sinh sôi, nảy nở những mầm Điên.

Nhưng cũng là nơi ai ôi bé nhỏ
Nơi khó dò, khó biết, khó suy tường
Nơi, cùng nhau, trước khi về đáy mộ
Xác hồn ta đã chia rẽ đôi đường.

Ta đứng trước cõi ta khôn hiểu thấu
Như không sao hiểu được nghĩa Thời Gian!
Mắt bừng nóng tự nhiên trào vụt máu
Hầu câm khô tan vỡ duới lời than!

Ôi biết làm sao cho ta thoát khỏi
Ngoài cõi Ta ngập chìm trong bóng tối?
Cho linh hồn vụt đến xứ Trăng Mây
Cho ta là không phải của ta đây
Mà sát nhập vào tuổi tên cây cỏ!

Ôi! Mơ Mộng dìm ta trong suối Khổ.
 
Những sợi tơ lòng



Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa
Với tháng ngày biền biệt đuổi nhau trôi
Xuân đừng về ! Hè đừng gieo ánh lửa !
Thu thôi sang ! Đông thôi lại não lòng tôi !

Quả đất chuyển đây lòng tôi rung động
Nỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư Vô !
Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng
Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ !

Lửa hè đến ! Nỗi căm hờn vang dậy !
Gió thu sang thấu lạnh cả hồn thơ !
Chiều đông tàn, như mai xuân lộng lẫy
Chỉ nói thêm sầu khổ với ưu tư !

Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc !
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian !
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt !
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn !

Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa !
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo !
 
Thời oanh liệt



Biển cả một thời xưa tan tác đổ,
Dấu oai linh hùng vĩ thấy gì đâu?
Thời gian chảy, đá mòn, sông núi lở,
Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau!

Vẻ rực rỡ đã tàn bao năm trước,
Bao năm sau còn dội tiếng kêu thương.
Sầu hận cũ tim ta ai biết được?
Người vui tươi ta mãi mãi căm hờn.

Ta đã khóc cho đến cả thời nay.
Cả thời xưa cho đến cả thờ nay.
Ngày phải tàn, ánh dương rồi phải tắt,
Vỡ tan đi, đến cả quả cầu đây.

Mà thân ta phải nào không tiêu diệt
Ớ trần gian và ở trí muôn người?
Trong những lúc còn xa xôi cõi chết,
Cứ khóc đi những cảnh ở chân trời.

Lệ ta nay muôn năm sau còn an ủi
Linh hồn ta ở tận đấy mồ sâu,
Người thuở khác biết ai còn tưởng tới
Mà thầm gieo cho những đóa hoa sầu.
 
Thu



Chao ôi! Thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào!
Mới độ nào đây, hoa rạn vỡ,
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.

Cũng mới độ nào trong gió lộng,
Nến lau bừng sáng núi lau xanh.
Bướm vàng nhẹ nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rũ trước thành.

Thu đến đây! Chừ, mới nói răng?
Chừ đây, buồn giận biết sao ngăn?
Tìm cho những cánh hoa đang rụng,
Tôi kiếm trong hoa chút sắc tàn!

Trời ơi! Chán Nản đương vây phủ.
Ý tưởng hồn tôi giữa cõi Tang!
 
Tiếng trống


Trống cầm canh đâu đây nghe nặng trĩu
Trong tha ma dày đặc khí u buồn
Và vô tình, lay động những linh hồn.

Bỗng, vội vàng trong bao mồ lạnh lẽo
Liên miên giăng dưới ánh mờ trăng yếu
Những bóng người vùn vụt đuổi bay ra!

Những cô hồn! Không khí lặng như tờ,
Sao thôi rung. Lá vàng trăng biếng giãi
Giòng Linh Giang nước mờ không dám chảy.

Các cô hồn lặng ngắm cõi Hư Vô
Rồi đua nhau trở lại trong trăm mồ
Để kinh khủng Trần Gian niềm sợ hãi.
 
Tiết trinh



Nền giấy trắng như xương trong bãi chém
Bỗng run lên kinh hãi, dưới tay điên
Tiếng búa đưa rợn mình như tiếng kiếm
Nạo những thành sọ trắng của ma thiêng.

Và hồn, máu, óc tim, trong suối mực
Đua nhau trào lên giấy khúc buồn thương,
Như không gian lùa vào ta chẳng dứt,
Những hương mơ say đắm mộng ngồn cuồng.

Có ai không, nắm giùm tay ta lại!
Hay bẻ giùm cán bút của ta đi
Lời thơ ta đầy những điệu sầu bi,
Đầy hơi thịt, ý ma, cùng sắc chết,
Nỡ nào để hung tàn ghi dấu vết,
Trên Hư Vô muôn nghĩa với muôn tên.
Của làn giấy ấp đầy hơi Trinh Tiết?
Như trinh nữ ngàn năm không dấu vết.
 
Trưa đơn giản



Trưa quanh vườn. Và võng gió an lành
Ngang phòng trưa, ru hồn nhẹ cây xanh.

Trưa quanh gốc. Và mộng hiền của bóng
Bỗng run theo... lá... run theo... nhịp võng
Trưa lên trời. Và xanh thẳm bầu trời,
Bỗng mê ly, nằm thấy, trắng, mây trôi...

Trưa! Một ít trưa, lạc vào lăng tẩm,
Nhập làm hồn những tượng xưa u thảm.

Trưa theo tàu, bước xuống những sân ga
Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa.
Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ
Đưa tay lên thoa những hàng kính vỡ.

Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời:
Bên vú trái tròn, lá bỗng run môi.
Tiếng ai ca, buồn theo song cửa sổ:
"Nâng không gian trưa đặt giữa lòng người."
 
Trên đường về



Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời:
.................................
.................................


Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.


Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui !


Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.


Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm Quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui


Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng,
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.


Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.


Những cảnh ấy Trên Đường Về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập
Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống dân Hời.
 
Xuân



Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ?
- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau !

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng ?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang !

Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân ?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn !

Có đứa trẻ thơ không biết khóc
Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran !

Chao ôi ! mong nhớ ! Ôi mong nhớ !
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
 
Ta



Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma?
Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
Biết làm sao giữ mãi được ta đây,
Thịt cứ chìu theo thú dục chua cay!
Máu cứ nhảy theo nhịp cuồng kẻ khác!
Đau đớn thay cho đến cả linh hồn
Cứ bay tìm Chán Nán với U Buồn.
Để đỉnh sọ trơ vơ tràn ý thịt!
Mà phải đâu đã đến ngày tiêu diệt!

Ai bảo dùm: Ta có có Ta không?
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top