Địa lý tỉnh Hưng Yên

small star

Moderator
Xu
94
Địa lý Hưng Yên

TỈNH HƯNG YÊN

Hưng Yên (Hán tự: 興安) là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hưng Yên nằm cách thủ đô Hà Nội 64 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Dương 50 km về phía tây nam. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây và tây bắc giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây nam giáp tỉnh Hà Nam.

LocationVietnamHungYen.png

Bản đồ Việt Nam với tỉnh Hưng Yên được tô đậm

Hành chính


Tỉnh Hưng Yên được phân chia thành 11 đơn vị hành chính bao gồm thành phố Hưng Yên và 9 huyện:
  • Thành phố Hưng Yên
  • Ân Thi
  • Khoái Châu
  • Kim Động
  • Mỹ Hào
  • Phù Cừ
  • Tiên Lữ
  • Văn Giang
  • Văn Lâm
  • Yên Mỹ
Lịch sử

Tỉnh Hưng Yên nguyên thuộc thừa tuyên Sơn Nam đặt vào năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê (1469). Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) thì chia thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Đời nhà Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Sơn Nam Thượng được đổi thành trấn Sơn Nam còn Sơn Nam Hạ thì gọi là trấn Nam Định. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tỉnh Hưng Yên được thành lập gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định (các huyện Thần Khê, Duyên Hà và Hưng Nhân sau bị cắt vào tỉnh Thái Bình mới thành lập) [1].

Tuy là tỉnh "mới" chỉ non 200 năm, vùng đất Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long "Kẻ Chợ" đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến đấy buôn bán. Do vậy dân gian đã có câu: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến".

Điều kiện tự nhiên

Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, là tỉnh đồng bằng không có rừng, núi và biển. Độ cao đất đai không đồng đều mà hình thành các dải, các khu, vùng cao thấp xen kẽ nhau như làn sóng.

Điểm trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ nằm ở thôn Dung (Thiên Xuân), xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ. [2].

473px-Hungyenmoi.jpg

Bản đồ Hưng Yên

Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới 70% tổng lượng mưa cả năm.
  • Diện tích: 923,09 km² (rộng hơn Hà Nam, Bắc Ninh)[3].
  • Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.450 – 1.650 mm
  • Nhiệt độ trung bình: 23,2°C
  • Số giờ nắng trong năm: 1.519 giờ
  • Độ ẩm tương đối trung bình: 85 – 87%
Tọa độ
  • Vĩ độ: 20°36′-21°01′ Bắc
  • Kinh độ: 105°53′-106°17′ Đông
Dân số

Năm 2003 Hưng Yên có 1.116.000 người với mật độ dân số 1.209 người/km².

Thành phần dân số

Tỷ lệ dân số làm nông nghiệp rất cao, ước tính 80-90%. Tuy nhiên, gần đây tỷ lệ này thay đổi một cách nhanh chóng do tốc độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn. Tỷ lệ dân số làm nông nghiệp năm 2008 ước tính còn 50-55%, công nghiệp 37%, dịch vụ 13%

Kinh tế

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2003 ước đạt 4.169 tỷ đồng (chỉ số giá năm 1994). Cơ cấu: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ là 35,34% - 33,17% - 31,48%

Giao thông

Trên địa bàn Hưng Yên có các quốc lộ sau chạy qua:
  • 5A: Như Quỳnh - Minh Đức
  • 39A: Phố Nối - Triều Dương
  • 38: Cống Tranh - Trương Xá, thành phố Hưng Yên - cầu Yên Lệnh
  • 38B (39B cũ): Cầu Tràng - Chợ Gạo
Đường sắt: tuyến đường sắt Hà Nội-Hải Phòng chạy qua địa phận Hưng Yên 17 km, từ Như Quỳnh tới Lương Tài.

Đường thủy: Sông Hồng là ranh giới của Hưng Yên với các tỉnh, thành phía tây, dài 57 km. Sông Luộc là ranh giới với tỉnh Thái Bình dài 25 km. Sông Luộc và sông Hồng giao nhau tại địa phận thành phố Hưng Yên. Ngoài ra còn các sông nhỏ khác như: sông Sặt (sông Kẻ Sặt), sông Chanh, sông Cửu An (sông Cửu Yên), sông Tam Đô, sông Điện Biên, v.v. Hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp tỉnh này.

Giáo dục

Năm 2003, theo số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Hưng Yên, Hưng Yên có 95.160 học sinh tiểu học, 98.240 học sinh trung học cơ sở và 39.459 học sinh trung học. Số trường học tương ứng theo ba cấp là 168, 166 và 27.

Văn hóa - xã hội, các di tích lịch sử

Cư dân Hưng Yên chủ yếu là nông dân, lúa nước là cây trồng chính gắn với sự chinh phục châu thổ sông Hồng nên văn minh, văn hóa Hưng Yên là văn minh, văn hóa lúa nước, văn minh, văn hóa sông Hồng. Về văn học dân gian, ngoài cái chung của văn học dân gian đồng bằng Bắc Bộ, còn có những cái riêng mà chỉ Hưng Yên mới có, chẳng hạn như lời của các bài hát trống quân - một lối hát phổ biến ở Hưng Yên xưa kia, hiện nay vẫn còn giữ được.

Một số câu ca dao tiêu biểu cho địa phương tính:

• Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến.

Dù ai buôn bắc bán đông,
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên

Oai oái như phủ Khoái xin ăn

Chè Yên Thái, gái Tiên Lữ

... Ngoài ra còn có các thể loại hát chèo, hát ả đào,...[4].

Danh nhân

Hưng Yên là vùng đất địa linh nhân kiệt, là nơi sinh ra nhiều người đỗ đạt, nhiều nhân vật tài giỏi được sử sách ca ngợi, nhân dân truyền tụng.
  • Nhân vật truyền thuyết: Tống Trân
  • Quân sự: Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Bình, Phạm Bạch Hổ
  • Y học: Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
  • Giáo dục: Dương Quảng Hàm
  • Khoa học: Phạm Huy Thông, Nguyễn Công Tiễu.
  • Sử học: Phạm Công Trứ
  • Văn học: nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng.
  • Sân khấu chèo: Nguyễn Đình Nghị.
  • Mỹ thuật: Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên.
  • Hoạt động chính trị: Ỷ Lan Hoàng thái hậu, Nguyễn Trung Ngạn, Đào Công Soạn, Lê Như Hổ, Lê Đình Kiên, Nguyễn Văn Linh, Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Bùi Thị Cúc, Phó Đức Chính [5], [6]
Di tích lịch sử
Hưng Yên có các di tích lịch sử sau:
  • Quần thể di tích Phố Hiến: Văn Miếu Xích Đằng, đền Trần, đền Mẫu, đền Thiên Hậu, Đông Đô Quảng Hội, Võ Miếu, chùa Chuông, chùa Phố, chùa Hiến, chùa Nễ Châu, đền Mây, Phố Hiến xưa, hội ả đào...
  • Hồ bán nguyệt
  • Di tích Chử Đồng Tử - Tiên Dung: (đền Đa Hòa, đền Dạ Trạch, các di tích liên quan đến Triệu Việt Vương)
  • Nhà tưởng niệm Hải Thượng Lãn Ông.
  • Cụm di tích Phù Ủng (Ân Thi) liên quan đến danh tướng Phạm Ngũ Lão, di tích Tống Trân - Cúc Hoa (Phù Cừ)
  • Đền thờ bà Hoàng Thị Loan - Thân mẫu chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • Khu lưu niệm cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
  • Chùa Khúc Lộng - Vĩnh Khúc, Văn Giang
Đặc sản

Hưng Yên có những đặc sản nổi tiếng như: Nhãn lồng Phố Hiến, sen Nễ Châu, tương Bần, bún thang Thế Kỷ (TP.Hưng Yên), Bánh Cuốn Nóng (TP.Hưng Yên) ếch om Phượng Tường (Tiên Lữ), bánh dày làng Gàu (Cửu Cao - Văn Giang), chả gà Tiểu Quan (Phùng Hưng - Khoái Châu), rượu Trương Xá,... [7]. Rượu Lạc Đạo(Văn Lâm), Chuột Đồng (Nghĩa Trụ, Văn Giang),Bánh Cuốn(Mễ Sở, Văn Giang)[8]

Chú thích
  1. Đào Duy Anh. Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời. Huế: Thuận Hóa, 1995.
  2. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Hưng Yên 170 năm. Hưng Yên, 2001.
  3. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Hưng Yên 170 năm. Hưng Yên, 2001.
  4. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Hưng Yên 170 năm. Hưng Yên, 2001.
  5. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Hưng Yên 170 năm. Hưng Yên, 2001
  6. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Danh nhân Hưng Yên, Hưng Yên, 2001.
  7. Sở Văn hóa thông tin Hưng Yên. Hưng Yên 170 năm. Hưng Yên, 2001.
  8. Chu Phan Cao

    Nguồn: Cuộc Sống Việt
 
Một số hình ảnh thành phố Hưng Yên chụp qua vệ tinh.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH THÀNH PHỐ HƯNG YÊN CHỤP QUA VỆ TINH

mrrwintj0o48v7t53tmg.jpg


j43f3tkrgveaath7dek3.jpg


obz9nigtu2acojaid02p.jpg


mby1vm3sa4q4m7kzhwy3.jpg


izekjdb5ic9rp1njw3cs.jpg
 
Vị trí địa lý


I_BD_hanhchinhHY.gif


Bản đồ hành chính Hưng Yên

Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc.

Địa giới hành chính giáp 6 tỉnh, thành phố là:

· Phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh
· Phía tây bắc giáp thành phố Hà Nội
· Phía đông giáp tỉnh Hải Dương.
· Phía nam giáp tỉnh Thái Bình
· Phía tây giáp tỉnh Hà Tây
· Phía tây nam giáp tỉnh Hà Nam.

Sự phân bố không gian, lãnh thổ của tỉnh có toạ độ địa lý:

· Từ 20o36' đến 21o01' vĩ độ Bắc
· Từ 105o53' đến 106o17' kinh độ Đông.

Tổng diện tích tự nhiên 92.309,32 ha (923,09 km2) chiếm 6,02% diện tích đồng bằng bắc bộ. Hưng Yên là tỉnh đồng bằng không có rừng, núi và biển. Gồm 10 huyện, thị xã với 161 xã, phường, thị trấn. Thị xã Hưng Yên là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh.


Khí hậu và thời tiết

Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm.

Hàng năm có hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Số giờ nắng trung bình 1.519 giờ/năm, trung bình số ngày nắng trong tháng là 24 ngày; nhiệt độ trung bình mùa hè 23,2oC, mùa đông 16oC. Tổng nhiệt độ trung bình của năm từ 8.500 - 8.600oC.

Lượng mưa trung bình từ 1.450 - 1.650 mm, tháng 5 đến tháng 10 chiếm tới 70% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí trung bình trong năm là 86%, tháng cao nhất 92%, thấp nhất 79%.



Tài nguyên thiên nhiên

Hưng Yên, với đặc trưng của một tỉnh đồng bằng, không có đồi, núi; địa hình tương đối bằng phẳng. Đất nông nghiệp 61.037 ha, cây hàng năm 55.645 ha (chiếm 91%), còn lại là đất trồng cây lâu năm, mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất chuyên dùng và đất sử dụng cho các mục đích khác. Đất chưa sử dụng khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đều có khả năng khai thác và phát triển sản xuất nông nghiệp.

Hưng Yên là một tỉnh được bao bọc bởi sông Hồng và sông Luộc, nên có nguồn nước ngọt rất dồi dào. Nguồn nước mặt cũng hết sức phong phú (sông Hồng có lưu lượng dòng chảy 6.400m3/s). Nước ngầm của Hưng Yên cũng rất đa dạng với trữ lượng lớn, ở dọc khu vực quốc lộ 5A từ Như Quỳnh đến Quán Gỏi có những mỏ nước ngầm rất lớn, hàng triệu m3, không chỉ cung cấp nước cho phát triển công nghiệp và đô thị mà còn có thể cung cấp khối lượng lớn cho các khu vực lân cận.

Hưng Yên có nguồn than nâu (thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng) có trữ lượng rất lớn (hơn 30 tỷ tấn) hiện chưa được khai thác, song đây cũng là một tiềm năng lớn cho phát triển ngành công nghiệp này để cung cấp nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước và xuất khẩu.


(Theo hungyen.gov.vn)
 

TỈNH HƯNG YÊN



1. Vài nét giới thiệu về vùng đất Hưng Yên


Vùng đất Hưng Yên có con người cư trú từ sớm, theo quá trình bồi tụ của sông Hồng...

I_nhan.jpg


Nhãn lồng...

Thời Hùng Vương, Hưng Yên thuộc bộ Giao Chỉ, huyện Chu Diên. Thời Ngô gọi là Đằng châu. Thời Tiền Lê đổi làm phủ Thái Bình. Đời Lý gọi là Đằng châu, Khoái châu. Sang thời nhà Trần đặt là lộ Long Hưng và lộ Khoái. Thời Hậu Lê thuộc trấn Sơn Nam, sau lại chia làm hai lộ là Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ.

I_aosen.jpg


...và sen từ lâu đã là biểu tượng về Hưng Yên

Thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) thi hành cải cách hành chính bỏ các trấn lập ra tỉnh, tách 5 huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Phù Cừ, Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu của trấn Sơn Nam thượng và 3 huyện Thần Khê, Duyên Hà, Hưng Nhân thuộc phủ Tiên Hưng của trấn Nam Định, trấn Sơn Nam hạ đặt làm tỉnh Hưng Yên. Tỉnh lỵ lúc đầu đóng ở hai xã An Vũ và Lương Điền, sau chuyển về bãi Nhị Tân xã Xích Đằng (thị xã Hưng Yên ngày nay). Nơi đây giao thông thủy lợi thuận tiện, thôn làng bến chợ tiếp nhau, việc mua bán ngày thêm phồn thịnh. “Quang cảnh phố phường đông vui, xe thuyền tấp nập, cái dáng dấp của Phố Hiến đất Sơn Nam xưa, nay lại được thấy ở nơi đất này” (trích Hưng Yên tỉnh nhất thống chí).

Địa danh Hưng Yên từ 1831 được chính thức có tên trong danh bạ đất nước. Như vậy trước khi Pháp xâm lược Việt Nam, Hưng Yên là một tỉnh nằm ở cả hai phía sông Luộc. Sau thành lập tỉnh, địa giới của tỉnh cũng đã nhiều lần thay đổi.

I_NguyethoHungYen.jpg


Bán Nguyệt hồ

Ngày 27/3/1883 quân Pháp do trung tá hải quân Hăng-ri Ri-vi-e (Henri Rivière) chỉ huy, từ Hà Nội theo sông Hồng hạ thành Nam Định rồi cho viên thiếu uý thủy quân Đờ Trăng-ti-ni-an (De Trentinian) đưa một toán quân tới đánh thành Hưng Yên. Chiếm được thành, một mặt chúng ra sức củng cố chính quyền tay sai, đặt nhiều đồn binh, một mặt xúc tiến việc đo đạc lập địa đồ để nắm sâu vào các làng xóm, nhưng gặp khó khăn vì vấp phải sự chống trả của nghĩa quân Bãi Sậy. Năm 1890 Pháp thành lập đạo Bãi Sậy gồm bốn huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm và Cẩm Lương, để tiện đánh dẹp. Sau khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã chúng sáp nhập ba huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào vào tỉnh Hưng Yên, còn huyện Cẩm Lương (phần thuộc Cầm Giàng ngày nay) trả về tỉnh Hải Dương.

I_demphaohoa.jpg


Đêm hội pháo hoa

Cũng trong năm 1890 Pháp cắt huyện Thần Khê thuộc phủ Tiên Hưng của Hưng Yên cùng phủ Thái Bình và phủ Kiến Xương của Nam Định lập tỉnh mới là tỉnh Thái Bình. Sau đó lại cắt 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và chuyển huyện Tiên Lữ trước thuộc phủ Tiên Hưng nay về phủ Khoái Châu. Kể từ đây sông Luộc trở thành ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên và Thái Bình. Giai đoạn này kéo dài suốt thời kỳ thống trị của thực dân Pháp cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Thực dân Pháp trở lại xâm lược đánh chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ. Để tiện việc chỉ đạo kháng chiến, tháng 10 năm 1947, Trung ương đã giao huyện Văn Lâm về với tỉnh Bắc Ninh, đồng thời cũng chuyển huyện Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh về Hưng Yên, thời gian sau việc chỉ đạo đánh phá đường xe lửa có khó khăn nên huyện Văn Lâm lại được Bắc Ninh trao trả lại.

I_HYngaynay.jpg


Hưng Yên ngày nay

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, các đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh vẫn được giữ nguyên chỉ thay đổi địa danh hành chính của một số phường, xã.

Ngày 26/1/1968 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Sau đó lần lượt hợp nhất các huyện Văn Giang với Yên Mỹ thành huyện Văn Yên. Huyện Tiên Lữ với Phù Cừ thành huyện Phù Tiên. Huyện Văn Lâm với Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ. Huyện Kim Động với Ân Thi thành huyện Kim Thi. Huyện Văn Yên với huyện Văn Mỹ thành Mỹ Văn. Huyện Khoái Châu với một phần của Văn Giang thành huyện Châu Giang.

Ngày 6/11/1996 Quốc hội đã phê chuẩn việc tách tỉnh Hải Hưng thành tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Tiếp đó các huyện hợp nhất trước kia được tách ra theo địa giới hành chính cũ.

Hiện nay Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, thị: thị xã Hưng Yên, các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ, với 161 xã, phường, thị trấn


(Theo hungyen.gov.vn)
 
2. Tên gọi Hưng Yên qua các thời kỳ lịch sử


I. Thời Hùng Vương (2879 TCN - 258 TCN)

Nước ta chia làm 15 bộ. Vùng Hưng Yên thuộc bộ Giao Chỉ.

II. Thời kỳ phong kiến phương Bắc đô hộ (207 TCN - 939 SCN)

Nhà Tần (214 TCN - 204 TCN): Trong nước chia làm 2 quận. Vùng Hưng Yên thuộc Tượng quận.

Nhà Triệu (207 TCN - 111 TCN): Trong nước chia làm 2 quận. Vùng Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ.

Thời Đông Hán (111 trước CN - 39 sau CN): Nước ta chia làm 9 quận. Vùng Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ.

Thời thuộc Đông Ngô (226 - 265): Nhà Ngô tách đất Giao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu. Vùng Hưng Yên thuộc quận Giao Châu.

Thời thuộc Tùy, Đường (603 - 939): Nhà Tùy chia đất Giao Châu thành 3 quận. Vùng Hưng Yên thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Đường, năm 679 chia đất Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ. Vùng Hưng Yên thuộc huyện Vũ Bình, châu Giao Châu.


III. Nhà Ngô (939 - 965)

Vùng Hưng Yên gọi là Đằng Châu

IV. Nhà Đinh (968 - 980)

Nhà Đinh chia trong nước ra làm 10 đạo. Vùng Hưng Yên thuộc Đằng đạo.

V. Nhà Tiền Lê (980-1009)

Năm 1002 đổi 10 đạo trong nước làm lộ, phủ và châu. Hưng Yên thuộc Đằng Châu.
Năm 1005 đổi Đằng Châu ra làm phủ Thái Bình.


VI. Nhà Lý (1010-1225)

Năm 1010, đổi 10 đạo ra làm 24 lộ
Năm 1222, chia trong nước làm 24 lộ.
Vùng Hưng Yên thuộc lộ Khoái Châu (Khoái lộ)


VII. Nhà Trần (1225-1400)

Năm 1249, chia trong nước làm 12 lộ. Hưng Yên thuộc Khoái lộ.
Tháng 4 năm 1397 đổi gọi các lộ, phủ là trấn. Hưng Yên thuộc Thiên Trường Phủ lộ.


VIII. Nhà hậu Trần (kháng chiến chống quân Minh) (1407-1414)

Tháng 6 năm 1407, nhà Minh đổi An Nam thành Giao Chỉ, lập phủ huyện, có 17 phủ. Hưng Yên thuộc phủ Kiến Xương và Trấn Nam (nay thuộc Thái Bình).

IX. Thời kỳ đấu tranh chống nhà Minh đô hộ (1414-1427)

Năm 1426 Lê Thái Tổ (Lê Lợi) chia Đông Đô làm 4 đạo. Hưng Yên thuộc Nam đạo.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) lại chia làm 5 đạo. Hưng Yên vẫn thuộc Nam đạo.


X. Thời Lê sơ (1428-1527)

Tháng 6, năm Quang Thuận thứ 7 (1466) trong nước chia làm 12 đạo thừa tuyên. Hưng Yên thuộc Thừa tuyên Thiên Trường.

Tháng 3, năm Quang Thuận thứ 10 (1469), năm đầu tiên nước nhà định bản đồ. Thừa tuyên Thiên Trường đổi gọi là Sơn Nam, quản lĩnh 11 phủ 42 huyện. Phủ Khoái Châu quản lĩnh 5 huyện: Đông Yên, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Dung, Thiên Thi. Phủ Tiên Hưng quản lĩnh 4 huyện: Ngự Thiên, Duyên Hà, Trần Khê và Thanh Lan (Bắc Giang đổi làm Kinh Bắc, quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện. Huyện Văn Giang thuộc phủ Thuận An. Nam Sách đổi làm Hải Dương, quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện. Huyện Đường Hào, sau đổi gọi là Mỹ Hào, thuộc phủ Thượng Hồng).

Năm Hồng Đức thứ 21(1490), tháng 4, chia trong nước làm 13 xứ. Hưng Yên thuộc xứ Sơn Nam.


XI. Thời Mạc (1527-1533)

Năm 1527, tháng 6, nhà Mạc (Đăng Dung) đặt Hải Dương làm Dương Kinh, đem các lộ Thái Bình, Kiến Xương, Long Hưng, Khoái Châu lệ thuộc vào Hải Dương.

XII. Nhà Hậu Lê (Lê Trung Hưng hay thời Lê - Trịnh, 1533 - 1788)

Đầu niên hiệu Quang Hưng (1578-1599): Đổi lại như cũ. Hưng Yên lại thuộc xứ Sơn Nam.
Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), tháng Giêng, chia Sơn Nam thành 2 lộ: Thượng và Hạ. Phủ Khoái Châu thuộc về lộ Sơn Nam Thượng, phủ Tiên Hưng thuộc về Sơn Nam Hạ.


XIII. Nhà Tây Sơn (1778-1802)

Đổi lại làm 2 trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ.

XIV. Nhà Nguyễn

Năm Gia Long thứ nhất (1802): Lấy 2 trấn Thượng và Hạ lệ thuộc vào Bắc Thành (Sơn Nam Thượng, Hạ, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương là 5 nội trấn của Bắc Thành).

Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822): Trấn Sơn Nam thượng đổi gọi là trấn Sơn Nam Định.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tháng 10: Chia đặt địa hạt các tỉnh, tất cả có 18 tỉnh.

Hưng Yên thống trị 2 phủ gồm 8 huyện. Tỉnh Hưng Yên lấy phủ Khoái Châu (gồm 5 huyện: Đông An, Kim Động, Thiên Thi, Phù Dung, Tiên Lữ) trước thuộc Sơn Nam và phủ Tiên Hưng (gồm 3 huyện: Hưng Nhân, Thần Khê, Duyên Hà) trước thuộc Nam Định đặt riêng làm tỉnh.


XV. Thời kỳ Pháp đô hộ (1883-1945)

Năm 1890, tháng 3: Cắt huyện Thần Khê về tỉnh Thái Bình.
Tháng 2, năm 1890: Thành lập đạo Bãi Sậy gồm 4 huyện: Văn Lâm, Cẩm Lương, Yên Mỹ, Mỹ Hào.
Tháng 4 năm 1891: Bãi bỏ đạo Bãi Sậy, đưa các huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào nhập vào tỉnh Hưng Yên.
28 tháng 11 năm 1894: Cắt nốt 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà về Thái Bình.


XVI. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và CHXHCN Việt Nam

Năm 1945: Tỉnh Hưng Yên gồm có các phủ, huyện: Khoái Châu, Mỹ Hào, Tiên Lữ, Kim Động, Ân Thi, Phù Cừ, Văn Lâm, Yên Mỹ.

Đầu năm 1946: Chính quyền cách mạng bỏ phủ, tống, thành lập xã, thôn. Tỉnh Hưng Yên có 8 huyện gồm 116 xã (Ân Thi: 16 xã, Tiên Lữ: 12 xã, Phù Cừ: 12 xã, Yên Mỹ: 15 xã, Khoái Châu: 22 xã, Kim Động: 14 xã, Văn Lâm: 11 xã, Mỹ Hào: 14 xã).

Năm 1946, tháng 8: Thành lập thị xã Hưng Yên gồm 2 khu phố Đẩu Lĩnh và Đằng Giang.

Năm 1947: Sau khi nhập huyện Văn Giang về thì Hưng Yên có 10 huyện, thị như ngày nay.

Ngày 26/1/1968: UBTV Quốc hội ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH phê chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng.

Ngày 6/11/1996: Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc chia tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên.

Ngày 1/1/1997: Tỉnh Hưng Yên được tái lập, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: Thị xã Hưng Yên, huyện Mỹ Văn, Châu Giang, Ân Thi, Kim Động, Phù Tiên, với 160 xã, phường, thị trấn.

Ngày 24/2/1997: Chính phủ ra Nghị định số 17/CP chia huyện Phù Tiên thành huyện Phù Cừ và Tiên Lữ.

Ngày 24/7/1999: Chính phủ phê duyệt cho 2 huyện Châu Giang và Mỹ Văn chia tách thành 5 huyện: Văn Giang, Khoái Châu, Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ.
Hiện nay tỉnh Hưng Yên có 10 huyện, thị gồm: Thị xã Hưng Yên, các huyện Mỹ Hào, Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ, Yên Mỹ.


(Theo hungyen.gov.vn)
 
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.

1. Địa hình

Hưng Yên nằm giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình tương đối đơn điệu. Nhìn chung địa hình của tỉnh nghiêng chênh chếch từ tây bắc xuống đông nam và không thật bằng phẳng. Độ dốc trung bình là 8cm/1km.

Về phía bắc, nổi lên loại địa hình cao, có hình vòng cung đi từ đông bắc sang tây bắc rồi men theo phía tây, dọc sông Hồng, bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Lang, Khoái Châu. Đây là vùng đất cao trong đê, có độ cao tuyệt đối từ 4 đến 6m.
Liền kề với vùng đất cao và vùng đất thấp hơn, độ cao trung bình chừng 3m, phổ biến ở Ân Thi, Yên Mỹ, Mỹ Hào, nam Kinh Động, Tiên Lữ và kéo dài xuống phía Nam (như Phù Cừ). Độ cao ở đây chỉ còn 2 mét.

Địa hình Hưng Yên ảnh hưởng rõ rệt đến việc canh tác. Trước kia thường xuyên xảy ra hạn hán và úng ngập. Vùng cao không giữ được nước, trong khi đó vùng thấp lại tiêu nước không kịp trong mùa mưa. Với từng vùng cũng có sự phân hoá ít nhiều về địa hình. Vùng cao lại có chỗ trũng như ở Đại Hưng (Khoái Châu) và vùng thấp cũng có chỗ cao như ở Nhật Quang (Phù Cừ). Hiện nay, nhân dân tỉnh Hưng Yên đã xây dựng một màng lưới thuỷ lợi dày đặc để kịp thời giải quyết những khó khăn do địa hình gây ra, bảo đảm cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế mức thiệt hại do hạn hán và úng lụt.

2. Khí hậu

Nằm ở vị trí trung tâm của Đồng bằng sông Hồng, khí hậu Hưng Yên có đầy đủ những nét chung của đồng bằng lớn này. Hưng Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa đông lạnh.

Quy luật diễn biến số giờ trong năm phức tập. Tháng III nắng ít, tháng V và tháng VII nhiều nhất. Số giờ nắng bình quân 1730 giờ/năm.

Theo tài liệu khí tượng được theo dõi trong nhiều năm thì nhiệt độ trung bình hàng năm của Hưng Yên là 23,40, nhiệt độ cao nhất là 40,40 (tháng 6 - 1939) và tổng nhiệt độ trung bình năm là 8500 - 86000C.

Giữa hai mùa trong năm, biên độ nhiệt thường là 130C. Về mùa hạ, nhiều lúc nhiệt độ lên rất cao làm lúa mùa đang trỗ bị nghẽn đòng, lúa ngậm sữa cũng bị hỏng.

Lượng mưa trung bình năm từ 1800- 2200mm. Lượng mưa lớn nhất trong mấy chục năm gần đây là 2889,9 mm (1928). Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung tới hơn 70% vào mùa mưa (từ tháng V đến tháng X) dưới hình thức mưa giông (nhất là vào tháng VI, tháng VII). Mưa mùa này trút xuống đồng ruộng axit nitơric (HNO3) và amôniac (NH3) dưới hình thức đạm 2 lá (NH4NO3) rất tốt cho sản xuất nông nghiệp. Mùa khô lạnh (từ tháng XI đến tháng IV năm su) có mưa phùn, do đó vụ đông cũng trở thành vụ chính, trồng được nhiều loại cây ngắn ngày.

Cùng với đất đai, điều kiện khí hậu và thời tiết như vậy thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi nhiều loại cây - con có nguồn gốc nhiệt đới vàcận nhiệt. Tuy nhiên, khí hậu ở đây cũng có những mặt hạn chế, nhất là các tai biến thiên nhiên, gây trở ngại cho sản xuất và đời sống.

3. Thuỷ văn

Hưng Yên có 3 mặt được bao bọc bởi sông, trong đó có sông Hồng, con sông lớn nhất miền bắc, chảy qua. Ngoài sông tự nhiên, Hưng Yên còn có nhiều sông đào nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Những con sông này thuộc hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải.

a. Sông Hồng

Sông Hồng chảy qua Hưng Yên theo hướng tây bắc - nam đông nam với chiều dài 67 km. Đây là đoạn sông lớn nhất của tỉnh Hưng Yên. Sông Hồng có chứa lượng phù sa khá lớn và chính vùng đất Hưng Yên cũng do dòng sông này bồi tụ nên. Về đến lãnh thổ Hưng Yên, sông Hồng chảy quanh có uốn khúc, tạo nên nhiều bãi bồi đất rộng (như Phú Cường, Hùng Cường thuộc huyện Kim Động).

Sông Hồng làm ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên với Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam. Nó bắt đầu chảy vào địa phận Hưng Yên ở thôn Phi Liệt ( xã Liên Nghĩa, huyện Văn Giang), qua các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động, thị xã Hưng Yên từ Ung Lôi ( xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ).

Sông Hồng đã đem lại nguồn nước phù sa cho đồng ruộng Hưng Yên. Nó còn là con đường thuỷ quan trọng nối tỉnh Hưng Yên với Hà Nội, thị xã Sơn Tây, Việt Trì, Yên Bái, Thái Bình và Nam Định.

b. Sông Luộc

Sông Luộc là con sông lớn thứ hai chảy qua Hưng Yên, một nhánh lớn của sông Hồng, nằm vắt ngang phía Nam của tỉnh, gần như vuông góc với sông Hồng. Sông Luộc dài 70 km, rộng trung bình 200 mét, chảy qua địa phận Hưng Yên với độ dài 26 km. Theo sông Luộc, từ Hưng Yên đến Ninh Giang (Hải Dương) từ sông Luộc qua các hệ thống sông khác, có thể đến thành phố Hải Dương, thành phố Hải Phòng.

c. Sông Kẻ Sặt

Chảy ở phía Đông của tỉnh, con sông này làm nên ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên với Hải Dương, đoạn sông này dài 20 km từ Thịnh Vạn (Mỹ Hào) đến Tông Hoá - Phù Cừ. Nó có giá trị về mặt dẫn nước (khi có hạn) và tiêu nước khi có úng, vì nhận nước từ sông Thái Bình (cửa sông ở phía Nam thành phố Hải Dương) và xuôi chiều tiêu thuỷ ra sông Luộc. Dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi này, Hưng Yên đã xây dựng hệ thống thuỷ lợi để điều tiết nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Trong phạm vi lãnh thỗ tỉnh Hưng Yên còn có các sông ngang dọc nối với nhau hình thành một mạng lưới dẫn thuỷ khắp từ bắc đến nam, như các sông Hoan Ái, Cửu Yên, Nghĩa Trụ….

Ngoài nguồn nước mặn dồi dào, Hưng Yên còn có nguồn nước ngầm phong phú, nhất là khu vực quốc lộ 5, từ Như Quỳnh đến phố Nối, thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp và đô thị.

4. Đất đai

Toàn tỉnh không có loại đất nào phát sinh và phát triển trên đá mẹ. Các loại đất tuy khác nhau nhưng đều do phù sa bồi tụ. Gần hai rìa sông là đất cát, cát pha tầng dày, rồi tiếp đến là cát pha tầng mỏng hoặc đất thịt nhẹ, đi sâu vào trong đồng là vùng đất sét có phủ một lớp đất thịt rất mỏng. Về đại thể, có thể chia thành hai vùng:

a. Vùng ngoài đê:

Đây là vùng đất phù sa trẻ nhất, hàng năm ít nhiều vẫn được phù sa bồi đắp. Vùng đất này nằm chủ yếu ở ngoài đê thuộc các huyện Văn Giang, Kim Động, Tiên Lữ. Ở vùng ngoài đê, có thể trồng màu xen canh, gối vụ liên tiếp, trừ mùa mưa lũ.

b. Vùng trong đê:

- Đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, trung tính, ít chua, không glây hoặc glây yếu. Vùng này chiếm tỉ lệ 32 % diện tích đất canh tác của tỉnh, tập trung nhiều nhất ở Yên Mỹ, Khoái Châu, Văn Giang , Kim Động, Văn Lâm, Tiên Lữ, Ân Thi, Mỹ Hào. Loại đất này có độ phì cao, giàu các chất đạm, lân, tương đối nhiều mùn, thích hợp với việc trồng lúa các loại hoa màu và cây công nghiệp như mía, đay, dâu, lạc. Đây là vùng trồng lúa tốt nhất của tỉnh.

Đất phù sa không được bồi, màu nâu tươi, glây trung bình hoặc mặn, ít chua. Chiếm 25% đất canh tác của tỉnh, loại đất này nằm ở miền trũng của các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Ân Thi, Yên Mỹ, Văn Giang, Khoái Châu, Phù Cừ, Mỹ Hào. Đất thiếu không khí, quá trình hoá sét mạnh, có ảnh hưởng xấu đến cây trồng; phải cày sâu, bón phân nhiều khi trồng lúa.

Vùng cà chua và bí đỏ, có tầng sét dày, bao gồm diện tích đất đai còn lại của các huyện Ân Thi, Phù Cừ, Yên Mỹ, Văn Lâm…. Đối với loại đất này, phải chống chua, chống glây hoá và cải tạo thành phần cơ giới để đưa vào sử dụng có hiệu quả trong nông nghiệp.

5. Sinh vật

Nằm giữa đồng bằng sông Hồng, lại được khai thác từ lâu đời nên Hưng Yên hầu như không còn thảm thực vật tự nhiên. Về giới động vật cũng tương tự như vậy. Các loài chim muông, cầm thú tự nhiên rất ít, ngoài những loài cáo, cò, cuốc, ngỗng trời…

6. Khoáng sản


Nhìn chung, Hưng Yên có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, song tài nguyên khoáng sản lại rất hạn chế. Ngay cả nguyên liệu thông thường như đá vôi cũng phải nhập ở tỉnh ngoài. Đây là một trong những khó khăn trong quá trình phát triển công nghiệp hoá của tỉnh.
 
Dân cư và lao động

1. Động lực dân số

Dân số của tỉnh Hưng Yên lên khá nhanh. Trước cách mạng tháng Tám (1945), số dân của tỉnh chỉ có 46.199 người. Năm 1954 tăng lên và đạt hơn 60 vạn người. Năm 1989 Hưng Yên có 95,8 vạn dân và đến năm 2004 là 1.120.300 người (trong đó nam giới chiếm gần 48.5 %, nữ giới hơn 51.5 %) Về số dân, Hưng Yên chiếm 6.3% dân số của đồng bằng sông Hồng (bao gồm 11 tỉnh, kể cả Bắc Ninh và Vĩnh Phúc), đứng trên Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nam và chiếm 1.36% dân số cả nước.

Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên của Hưng Yên trong những năm gần đây giảm xuống đáng kể. Nhờ những biện pháp đồng bộ và tích cực trong công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, đến năm 1999 Hưng Yên hạ tỉ xuất sinh thô suống 19‰ (giảm gần 0.8 ‰ so với năm 1996). Trên cơ sở đó, tỉ suất tăng dân số tự nhiên giảm nhanh từ trên 2% vào những năm 80 xuống còn 1.14% trong thời kì 1989 - 1999 (so với mức bình quân của cả nước là 1.70%)

2. Nguồn lao động.

Hưng Yên là một tỉnh có dân số trẻ. Điều này thể hiện ở chỗ dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 1/2 tổng số dân của tỉnh. Dân số trẻ nên nguồn lao động khá dồi dào. Tuy nhiên, cơ cấu sử dụng lao động hiện nay thể hiện nền kinh tế của tỉnh chưa thật phát triển. Lao động ở khu vực 1 ( nông - lâm - ngư nghiệp) là chủ yếu (hơn 75%), trong khi đó lao động ở khu vực 2 (công nghiệp - xây dựng) và khu vực 3 ( dịch vụ) còn hạn chế.

Chỉ tính riêng trong ngành công nghiệp, năm 1999 số lao động đang tham gia sản xuất là 35.684 người. Khu vực kinh tế trong nước chiếm 34.809 người (97.5% lao động công nghiệp), trong đó quốc doanh 5701 người, tập thể 1452 người, tư nhân 173 người, cá thể 27.180 người, hỗn hợp 303 người. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cón chiếm tỉ trọng nhỏ và mới thu hút được 875 lao động (2.5% lao động công nghiệp).

Ở Hưng Yên tỉ lệ lao động có trình độ khoa học kỹ thuật đã qua đào tạo tương đối thấp so với mức trung bình của cả nước và của đồng bằng sông Hồng (16 % số lao động làm việc, năm 1995).

Hưng Yên là mảnh đất mang nhiều dấu ấn lịch sử, từ những truyền thuyết Tiên Dung - Chử Đồng Tử cho đến những địa danh ghi lại những trang sử hào hùng của dân tộc. Người dân lao động cần cù, chịu khó với những nghề trồng lúa nước, trồng cây công nghiệp và những ngành nghề thủ công truyền thống…. Đây là một trong những thế mạnh quan trọng để phát triển kinh tế xã hội.

Theo dự báo, số lao động sẽ tăng thêm 17 vạn người cho đến năm 2010 và thêm 33 vạn đến năm 2020. Như vậy, nguồn lao động dồi dào vừa là thế mạnh của tỉnh, đồng thời cũng là sức ép lớn trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.

3. Sự phân bố dân cư và đô thị hoá

Hưng Yên là một trong những tỉnh có mật độ dân số trù mật nhất ở đồng bằng sông Hồng. Theo số liệu của tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2004, mật độ dân số của Hưng Yên là 1214 người/km2 chỉ đứng sau thành phố Hà Nội và Bắc Ninh và gấp 4.88 lần mật độ trung bình của cả nước. Trong vòng 10 năm (1989- 1999), trên mỗi cây số vuông đã tăng thêm hơn 100 người (khoảng 1200 người/km2 - năm 1999 so với 1071 người/km2- năm 1989).

Nhìn chung, dân cư phân bố tương đối không đồng đều theo lãnh thổ. Điều này một phần được lí giải bởi đồng bằng châu thổ, lại được khai thác từ lâu đời và hiện nay nông nghiệp vẫn giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của tỉnh.

Tuy vậy, sự phân bố dân cư ít nhiều cũng có sự phân hoá. Trừ thị xã Hưng Yên, nhìn chung, các huyện phía bắc dân cư tương đối đông đúc hơn các huyện phía Nam. Huyện có mật độ dân số thấp nhất trong cả tỉnh là huyện Phù Cừ (954 người/km2 - năm 1999).

Hưng Yên là một trong những tỉnh có trình độ đô thị hoá vào loại thấp nhất trong cả nước. Số điểm dân cư đô thị còn ít. Thị xã - thủ phủ của tỉnh cũng chưa đầy 4 vạn dân. Theo số liệu năm 2004, số dân thành thị của Hưng Yên mới chỉ đạt 11% dân số cả tỉnh, trong khi đó mức trung bình của đồng bằng sông Hồng là 23.8% và toàn quốc là 26.3%.

4. Giáo dục, y tế

Tuy nền kinh tế chưa thật phát triển, nhưng trong nhiều năm qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh Hưng Yên rất được chú trọng. Nhìn chung, số lượng trường lớp, giáo viên và học sinh các cấp không ngừng tăng lên.

Tính đến 2004, về mẫu giáo của tỉnh có 1512 lớp học với 1669 giáo viên và 35.856 học sinh. Về giáo dục phổ thông, Hưng Yên có 336 trường tiểu học và trung học cơ sở, 49 trường trung học phổ thông cụ thể là đối với tiểu học có 3081 lớp, 4123 giáo viên và 89.157 học sinh; đối với trung học cơ sở có 2284 lớp, 4139 giáo viên và 98.504 học sinh ; đối với trung học phổ thông có 601 lớp, 1468 giáo viên và 43.479 học sinh.

Về giáo dục cao đẳng (dài hạn), hiện nay Hưng Yên có 466 giáo viên và 10.034 học sinh. Về đào tạo công nhân kĩ thuật, có 207 giáo viên và 4761 học sinh.

Để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, trong tỉnh đã hình thành một mạng lưới khám chữa bệnh với 14 cơ sở (bệnh viện, phòng khám, khu vực, điều dưỡng), 161 trạm y tế (xã, phường, xí nghiệp). Tính đến 2004 Hưng Yên có 405 bác sĩ, 585 y sĩ, 458 y tá và giường tại các bệnh viện, phòng khám, khu vực; 30 giường ở viện điều dưỡng và 805 giường ở các trạm y tế.


Sưu tầm .
 
Vị trí giao thông

Hưng Yên có đặc điểm địa hình tương đối bằng phẳng, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Hưng Yên là cửa ngõ phía Đông của Hà Nội, có 23 km quốc lộ 5A và trên 20 km tuyến đường sắt Hải Nội – Hải Phòng chạy qua, ngoài ra có quốc lộ 39A, 38 nối từ quốc lộ 5 qua thị xã đến quốc lộ 1A (qua cầu Yên Lệnh ) và đến quốc lộ 10 (qua cầu Triều Dương), là trục giao thông quan trọng nối các tỉnh Tây-Nam Bắc bộ (Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hoá…) với Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. Bên cạnh đó, Hưng Yên gần các cảng biển Hải Phòng, Cái Lân; Sân bay quốc tế Nội Bài, giáp ranh với các tỉnh và thành phố Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình và Hải Dương.

Diện tích - Dân số - Lao động:

Diện tích tự nhiên là 923,09 km2.
Dân số 1.116 nghìn người (năm 2003).
Mật độ dân số 1.209 người/km2,.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1%/năm, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2002.

Có 57 vạn lao động trong độ tuổi, chiếm 51% dân số. Lao động đã qua đào tạo nghề đạt 25%, chủ yếu có trình độ đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật được đào tạo cơ bản, có. Trung bình hằng năm lực lượng lao động trẻ bổ sung khoảng trên 2 vạn người. Đây là nguồn nhân lực phục vụ tốt cho phát triển công nghiệp của tỉnh.

Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế:

Lao động trong công nghiệp, xây dựng chiếm 10,7%;
Lao động trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 78,9%;
Lao động trong các ngành dịch vụ chiếm 10,4%.

Tổ chức hành chính:

Tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thị xã, 09 huyện, có 07 phường, 09 thị trấn và 145 xã.

Thị xã Hưng Yên là trung tâm chính trị, văn hoá của tỉnh, nằm ở phía nam của tỉnh, tiếp giáp với tỉnh Thái Bình (được nối bằng cầu Triều Dương)và tỉnh Hà Nam (được nối bằng cầu Yên Lệnh).


Tỉnh đã qui hoạch đô thị Phố Nối nằm trên trục đường 5 là một đô thị công nghiệp để tạo thuận lợi cho phát triển các khu, cụm công nghiệp ở khu vực này. Trong tương lai Phố Nối được phát triển thành một thành phố vệ tinh phía đông của Hà Nội, Nhà nước sẽ ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bảo đảm điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế – xã hội của vùng và khu vực.

Huyện, thị xã
Diện tích
(ha)
Dân số
(người)
Mật độ dân số (người/km2)
Tổng số:
92.309
1.116.401
1.209
1/ Thị xã Hưng Yên
4.680
77.398
1.654
2/ Văn Giang
7.179
94.763
1.320
3/ Văn Lâm
7.442
97.108
1.305
4/ Mỹ Hào
7.910
84.571
1.069
5/ Yên Mỹ
9.100
127.137
1.397
6/ Khoái Châu
13.086
186.102
1.422
7/Ân Thi
12.822
130.295
1.016
8/ Kim Động
11.465
125.381
1.094
9/ Tiên Lữ
9.243
105.632
1.143
10/ Phù Cừ
9.382
88.014
9.381

Tình hình kinh tế - xã hội sau 8 năm tái lập

Từ một tỉnh có điểm xuất phát thấp, sau 8 năm từ khi tái lập, đến năm 2004 Hưng Yên đã đạt được những kết quả khá khả quan, cụ thể:

1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 12,8%
2- Giá trị sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản tăng 5,5%;
3- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 29,3%
4- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 15%
5- Kim ngạch xuất khẩu đạt 170 triệu USD
6- Thu ngân sách đạt 907,2 tỷ đồng
7-Thu nhập bình quân đầu người đạt 5,9 triệu đồng
8- Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 34%-34,5%-31,5%
9- Giá trị thu được trên 1 ha đất canh tác đạt 37,5 triệu đồng
10- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,01%/năm;
11- Tỷ lệ hộ nghèo còn 3,7% vào năm 2004;
12- Tạo việc làm mới cho 2,12 vạn lao động
13- Tỷ lệ trạm xá xã có bác sĩ đạt 85%
14- Tỷ lệ làng văn hoá đạt 50%

Nông nghiệp:

Tổng diện tích gieo trồng 121.679 ha; trong đó diện tích cây lương thực là 101.017 ha, diện tích lúa cả năm 89.706 ha (tính cộng dồn theo vụ). Trung bình hàng năm sản xuất ra khoảng 55 vạn tấn thóc và hàng vài chục nghìn tấn hoa quả các loại, đặc biệt là nhãn, vải, cam. Các loại cây công nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh như đay, lạc, đậu tương, dâu tằm, một số loại cây dược liệu cũng được mở rộng diện tích.


Chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá mạnh, tỷ lệ lợn hướng nạc đạt 32%, bò lai sind 85%. Trung bình mỗi năm tổng đàn lợn đạt gần 1.200 nghìn con, đàn bò 32.000 con, đàn gia cầm trên 17 triệu con, chủ yếu là gà, vịt, ngan, ngỗng. Đàn bò sữa bắt đầu có chiều hướng phát triển tốt, triển vọng đến năm 2005 đạt khoảng 5.000 con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng mỗi năm đạt khoảng 80 nghìn tấn, trong đó xuất khẩu đông lạnh khoảng 1.500 tấn. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt khoảng 4.500 ha, chủ yếu nuôi cá phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và các vùng lân cận. Kinh tế trang trại đang được phát huy, hiện có trên 900 trang trại hoạt động có hiệu quả, cho thu nhập khá, thu hút hàng vạn lao động.

Công nghiệp:

Công nghiệp Hưng Yên phát triển nhanh và có tốc độ tăng trưởng cao, trung bình tăng 42%/năm, qui mô và công nghệ đều tăng, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Tình hình hợp tác đầu tư của tỉnh trong thời gian qua có nhiều thuận lợi, từ chỗ chỉ có 7 dự án đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài, đến hết tháng 3-2005 đã có 338 dự án đầu tư vào địa bàn (40 nước ngoài, 239 trong nước) với tổng số vốn đăng ký gần 1 tỷ USD, 140 dự án đã hoạt động.

Đến nay tỉnh Hưng Yên đã qui hoạch 5 khu công nghiệp tập trung, đang nghiên cứu, xem xét qui hoạch tiếp 5 khu khác ở phía nam của tỉnh dọc quốc lộ 39A, 39B, 38 và đang từng bước triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng. Tỉnh chủ trương tiếp tục thu hút các dự án đầu tư ngoài khu công nghiệp dọc quốc lộ 5A, 39A, 39B, 38 trong điều kiện cho phép.

Có 2 khu công nghiệp đã được phê duyệt và hoạt động là: KCN Phố Nối A diện tích qui hoạch 390 ha và KCN Phố Nối B diện tích qui hoạch 250 ha (giai đoạn 1 duyệt 95). 3 khu công nghiệp đã được phê duyệt qui hoạch và đang hoàn tất thủ tục qui hoạch chi tiết để đưa vào hoạt động theo qui chế ban quản lý là: KCN Như Quỳnh A, diện tích qui hoạch 50 ha, KCN Như Quỳnh B 50 ha, KCN Minh Đức 200 ha.

Ngoài ra tỉnh đang xem xét qui hoạch tiếp 5 khu công nghiệp khác để thu hút các nhà đầu tư xuống phía nam tỉnh

Thương mại dịch vụ:

Có bước phát triển khá toàn diện, tốc dộ tăng chung của toàn ngành trung bình 15%/năm. Các ngành có sự phát triển mạnh là thương mại, xuất nhập khẩu, vận tải, bưu chính, viễn thông, điện lực, ngân hàng, tín dụng… Các trung tâm đô thị như Thị xã Hưng Yên, Phố Nối là các trung tâm dịch vụ thương mại lớn và quan trọng của tỉnh.

Kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng đáng kể, trung bình tăng 30,7%/năm. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là hàng may mặc, giày da, điện tử, hàng nông sản vv... Thị trường xuất khẩu thường xuyên được mở rộng, hàng hoá đã có mặt ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Tỉnh đã thành lập Chi cục Hải quan, đầu tư xây dựng khu vực thông quan hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn.

Nhập khẩu trong thời gian qua cũng tăng nhanh. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm tăng xấp xỉ 30%/năm.

Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh từng bước được củng cố và phát triển. chất lượng các dịch vụ ngày càng nâng lên, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là nhu cầu của các doanh nghiệp vào đầu tư, hệ thống các dịch vụ được phân bố tương đối đồng đều trên địa bàn.

Xây dựng kết cấu hạ tầng

Hưng Yên thuộc khu vực kinh tế trọng điểm Bắc bộ, gần các sân bay Nội Bài, Cát Bi, gần cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, có tuyến đường quan trọng 5A chạy qua, và sắp tới sẽ mở tuyến cao tốc 5B (Hà Nội - Hải Phòng) đi qua địa phận của tỉnh, cầu Thanh Trì, Yên Lệnh, Triều Dương được xây dựng tạo lên giao thông của tỉnh đi các tỉnh khác và quốc tế rất thuận tiện. Bên cạnh đó hệ thống giao thông nội tỉnh cũng tương đối hoàn chỉnh, phục vụ tốt nhu cầu về giao thông của nhân dân và nhu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn.

Mỗi huyện có một bến xe để phục vụ nhu cầu đi lại của khách, ngoài ra cũng có nhiều bến xe lưu động trên địa bàn. Tỉnh cũng đầu tư xây dựng một số cảng và bến tàu khách, bến bốc xếp hàng hoá trên sông Luộc và sông Hồng, củng cố hệ thống giao thông đường thuỷ nội tỉnh, nạo vét khơi thông luồng lạch cho phương tiện có tải trọng 50 tấn hoạt động vận tải an toàn, hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp làng nghề như; đường, điện, cấp thoát nước đến chân công trình nhằm tạo thuận lợi thu hút các nhà đầu tư vào Hưng Yên.

Hệ thống thông tin liên lạc tiếp tục phát triển. Đến nay, toàn tỉnh có 29 tổng đài với dung lượng lắp đặt 49.000 số, trong đó, có 19 trạm chuyển mạch lắp đặt thiết bị truyền dẫn cáp quang, 10/10 huyện thị có trạm thu phát sóng di động, bình quân 4,5 máy/100 dân; 100% số thôn có điện thoại và có điểm bưu điện văn hoá xã, các dịch vụ chuyển tiền nhanh, chuyển phát nhanh và FAX công cộng đều được triển khai có hiệu quả.

Hệ thống cung cấp điện: Hoàn thành hệ thống truyền tải điện và hệ thống điện trung áp ở nông thôn. Có nhiều trạm biến áp 110KV cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng, có đường điện cao thế quốc gia 220 KV Phả Lại - Hà Đông chạy qua, chủ động cho việc cung cấp điện để sản xuất. Nguồn điện được cung cấp an toàn và ổn định cho phát triển kinh tế và phục vụ sinh hoạt của nhân dân.

Các lĩnh vực về văn hoá xã hội:

Sự nghiệp giáo dục đào tạo được củng cố và phát triển, công tác xã hội hoá giáo dục thường xuyên được quan tâm và đạt kết quả khá. Hưng Yên hiện có 65 trường tiểu học và THCS đạt chuẩn quốc gia, năm 2002 đã hoàn thành phổ cập THCS, tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng đạt 74,5%. Các cơ sở đào tạo nghề được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới, toàn tỉnh có 14 cơ sở dạy nghề đang tích cực đào tạo cung cấp lao động cho tỉnh.

Trong công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, tỉnh Hưng Yên đã đầu tư xây dựng thêm 3 bệnh viện tuyến tỉnh, tăng cường thiết bị và phương tiện phục vụ cho công tác khám chữa bệnh, thực hiện tốt công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em xuống còn 29,9% (năm 2003), cơ bản thanh toán bệnh phong, bại liệt, loại trừ uốn ván trẻ sơ sinh, không có các dịch bệnh lớn xẩy ra trên địa bàn, số trạm xá xã có bác sĩ đạt 70%, 100% số thôn có cán bộ y tế. Các hoạt động văn hoá, xã hội được giải quyết, điều chỉnh kịp thời, hàng năm giải quyết và tạo việc làm cho khoảng 2 vạn lao động; hỗ trợ đúng chính sách đối với các địa phương khó khăn, cho vay vốn phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo, tai nạn, tệ nạn xã hội giảm đáng kể, an ninh chính trị được giữ vững, quốc phòng được củng cố tăng cường, trật tự an toàn xã hội luôn bảo đảm.

III. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010

Phấn đấu đưa Hưng Yên cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp trước năm 2020 với cơ cấu kinh tế hợp lý, thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình của cả nước, tiếp tục quan tâm đến phát triển các vấn đề xã hội, giữ vững chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, tỉnh Hưng yên xác định một số mục tiêu định hướng chính như sau:

1- Tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 12%/năm.
2- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5%/năm.
3- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 23%/năm.
4- Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 15%/năm.
5- Cơ cấu kinh tế đến 2010: Công nghiệp, xây dựng - dịch vụ - nông nghiệp tương ứng là: 45%-35%-20%.
6- Thu nhập bình quân đầu người đến 2010 đạt khoảng 1.200 USD.
7- Thu ngân sách đến năm 2010 đạt khoảng 1.500 tỷ đồng, tăng bình quân 12%/năm.
8- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20-22%/năm, đạt mức 400 triệu USD vào năm 2010.
9- Giá trị thu được trên 1 ha đất canh tác đạt 50 triệu đồng vào năm 2010.
10- ổn định tỷ lệ phát triển dân số ở mức dưới 1%/năm.
11- Tạo việc làm thường xuyên cho 2 vạn lao động/năm.
12- Tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 1% vào năm 2010 và không còn hiện tượng tái nghèo.
13- 80% số làng đạt tiêu chuẩn làng văn hoá.
14- 100% số xã, thôn có y, bác sỹ đạt tiêu chuẩn.

Định hướng chiến lược của Hưng Yên đến năm 2010 là:

-Phát triển nhanh đồng bộ và hiện đại hoá từng bước kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông, cả đường bộ và đường thuỷ. Xây dựng và hoàn thiện các tuyến đường huyết mạch, quan trọng, đặc biệt là các tuyến nối với cầu và giao thông cửa ngõ của tỉnh.

-Qui hoạch và xây dựng hoàn chỉnh các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp, làm cơ sở thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

-Chuyển đổi nhanh cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp có giá trị cao như thịt, rau sạch, hoa, quả cây cảnh… nhằm tận dụng thị trường Hà Nội và cung cấp sản phẩm cho các xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu. Phát triển công nghiệp nhỏ nông thôn để đẩy nhanh chế biến nông sản và các ngành nghề thủ công truyền thống.

-Tổ chức tốt phân bố không gian đô thị và các khu, cụm công nghiệp. Đẩy nhanh công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật, quản lý nhà nước và doanh nghiệp. Có chính sách ưu đãi để thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao từ các tỉnh ngoài và chuyên gia nước ngoài về làm việc tại Hưng Yên.

Định hướng phát triển ngành và lĩnh vực

Sản xuất nông nghiệp

- Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá. Đưa các giống cây, con năng xuất, hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất như giống lúa chất lượng cao, giống bò lai sind, lợn hướng nạc, gia cầm siêu trứng, siêu nạc,...

- Tăng cường đầu tư nhiều cho nông nghiệp nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là đầu tư cho các công trình thuỷ lợi đảm bảo tốt nhiệm vụ phòng chống lụt bão, phục vụ tưới tiêu khoa học, đầu tư hệ thống sản xuất giống cây trồng vật nuôi, mở rộng ứng dụng và phổ biến các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất.

- Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá nông sản theo qui hoạch vùng để khai thác thế mạnh của địa phương, tạo ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu thị trường và đạt hiệu quả kinh tế cao, khắc phục tình trạng bố trí sản xuất không dựa trên qui hoạch và đòi hỏi của thị trường về chất lượng và giá cả có sức hấp dẫn trong cạnh tranh.

- Phát triển công nghiệp chế biến nông sản, coi trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thật vào sản xuất, để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp và thu nhập của nông dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tập trung xây dựng các mô hình chế biến có quy mô vừa và nhỏ như chế biến nhãn, vải, dược liệu tinh dầu, thức ăn gia súc, sản xuất hàng hoá chất lượng cao...Phát triển và khai thác có hiệu quả các cơ sở chế biến thực phẩm để từng bước mở rộng sản xuất phục vụ cho xuất khẩu nông sản thực phẩm đã qua chế biến.

- Tăng cường xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp như: Đẩy mạnh các hoạt động thông tin thị trường; xây dựng thương hiệu một số hàng hoá có thế mạnh cạnh tranh, Nhãn lồng, mật ong, lúa chất lượng cao... và một số chợ đầu mối tiêu thụ hàng nông sản.

- Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn, bồi dưỡng kiến thức cho lực lượng lao động nông nghiệp. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho các trường dậy nghề của tỉnh. Có cơ chế thu hút cán bộ kỹ thuật về nông thôn công tác. Triển khai xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống khuyến nông cơ sở, đào tạo khuyến nông viên, tập huấn kỹ thuật để nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

- Đổi mới quan hệ sản xuất ở nông thôn trên cơ sở đổi mới tổ chức hoạt động của các HTX. Xây dựng HTX làm ăn có hiệu quả thu hút đông đảo các hộ nông dân tham gia, giúp nông dân khắc phục những khó khăn trong sản xuất, phòng chống thiên tai và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, xây dựng cánh đồng cho thu nhập 50 triệu đồng/ha.

- Phát triển ngành nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, dự kiến tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp từ nay đến năm 2010 tăng trung bình 5%/năm. Khai thác tiềm năng sẵn có về đất đai, khí hậu và lao động, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại.

- Đưa ngành chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản trở thành ngành sản xuất chính và phát triển theo công nghiệp hoá cung cấp cho các đô thị và chế biến xuất khẩu. Thực hiện tốt chương trình Sind hoá đàn bò và nạc hoá đàn lợn. Phát triển nhanh đàn lợn thịt ở các khu chăn nuôi tập trung và hộ gia đình. Phát triển chăn nuôi bò sữa, các giống gia súc, gia cầm và thuỷ sản có giá trị kinh tế hàng hoá cao.

Công nghiệp:

Trên cơ sở phân tích các tiềm năng, lợi thế cũng như những khó khăn thách thức của tỉnh. Hưng Yên xác định sẽ tập trung cao độ để phát triển nhanh, vững chắc công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, làm động lực cho phát triển nông nghiệp và các ngành dịch vụ. Với quan điểm trên việc phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời gian tới dựa trên những định hướng cơ bản sau:

- Huy động tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp và TTCN, đặc biệt chú trọng đến việc tạo môi trường thuận lợi thu hút các dự án vào đầu tư, kết hợp với việc hình thành các khu cụm công nghiệp và bố trí không gian hợp lý đối với các dự án, đồng thời tạo hành lang pháp lý tốt nhất cho các dự án phát triển với hiệu quả đầu tư cao.

- Ưu tiên phát triển công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng, chế biến nông sản và các ngành công nghiệp hiện đại, công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường. Kết hợp nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, vốn ODA và vốn của các thành phần kinh tế khác để sớm đầu tư các cơ sở xử lý chất thải công nghiệp và sinh hoạt để đảm bảo phát triển bền vững..

- Hình thành các khu, cụm công nghiệp tập trung trên tuyến quốc lộ 5, 39A và một số huyện phía nam của tỉnh để phát huy lợi thế cầu Yên Lệnh. Có chính sách hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất đối với các doanh nghiệp đầu tư các ngành nghề đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.

- Tỉnh tạo mọi điều kiện để các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào địa bàn tỉnh dược ưu đãi tối đa trong khuôn khổ pháp luật cho phép (hoặc trong thẩm quyền của tỉnh) để phát triển công nghiệp đặt trong sự phát triển chung của vùng, cả nước phù hợp xu thế phát triển của thế giới.

Để thu hút đầu tư trên địa bàn, Hưng Yên đã có nhiều giải pháp và đề ra những cơ chế thu hút đầu tư vào địa bàn và được thể hiện bằng nhiều hình thức như Quyết định số 13/2003/QĐ-UB về ưu đãi các dự án đầu tư vào địa bàn, ... bên cạnh đó tỉnh tiến hành lập quy hoạch phát triển các KCN để các dự án giảm bớt khâu GPMB, rút ngắn thời gian trong các thủ tục pháp lý.

- Ngoài ra tỉnh sẽ hình thành một số khu, cụm công nghiệp ở các huyện phía nam của tỉnh ở huyện Khoái Châu, Kim Động (dọc quốc lộ 39A), huyện Tiên Lữ, Phù Cừ (dọc quốc lộ 39B) để tiêu thụ nông sản tại chỗ và sử dụng lao động dư thừa ở khu vực nông thôn.

- Phát triển làng nghề: Hưng Yên đã tiến hành qui hoạch phát triển được 10 làng nghề TTCN trên cơ sở các làng nghề truyền thống, hiện tại 3 trong tổng số 10 làng nghề đã được đầu tư cơ sở vật chất và hỗ trợ về vốn, khoa học kỹ thuật và duy trì phát triển tốt, còn lại 7 làng nghề đang tiếp tục được tỉnh đầu tư, hỗ trợ về nhiều mặt như đầu tư cơ sở hạ tầng, vốn, khoa học kỹ thuật, nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra,...

Thương mại - dịch vụ - du lịch

-Khai thác tối đa lợi thế của tỉnh để phát triển mạnh các ngành thương mại, dịch vụ và du lịch theo hướng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, phát huy các mô hình dịch vụ hiện có, nhanh chóng đưa dịch vụ trở thành lĩnh vực mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong GDP.

-Phát triển thương mại đạt tới trình độ cao, hiện đại, đảm bảo lưu thông hàng hoá nhanh, kích thích mạnh sản xuất và đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

-Phát triển thương mại nội địa theo hướng trọng tâm, trước hết chú trọng thị trường nội tỉnh và các tỉnh lân cận, đặc biệt Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, phát triển các sản phẩn lợi thế để hướng ra thị trường xuất khẩu.

-Phát triển mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với sự quản lý chung của Nhà nước. Chú trọng khai thác thị trường truyền thống và tiếp cận nhanh các thị trường mới có tiềm năng.
-Phát triển mạnh ngành dịch vụ và du lịch trên cơ sở của lễ hội truyền thống. Tạo điều kiện phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng, thông tin, điện, nước,.. tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.
-Đẩy nhanh tiến độ hình thành, xây dựng và phát triển các độ thị mới, các khu, cụm dân cư tập trung…

Các lĩnh vực văn hoá xã hội


Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học ở các trường học; phát triển nhanh hệ thống đào tạo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, khuyến khích các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực này. Thực hiện tốt công tác xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao,… Làm tốt việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, phát triển và hoàn thiện hệ thống khám và chữa bệnh, nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh. Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; tiếp tục phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện lồng ghép hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo; khuyến khích các địa phương tự lực phấn đấu vươn lên thoát khỏi nghèo và không còn hiện tượng tái nghèo trong đó có sự hỗ trợ của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả việc giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, để tạo điều kiện tốt cho tập trung phát triển kinh tế của tỉnh.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top