Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
ĐỊA LÝ BẮC GIANG
I . VỊ TRÍ ĐỊA LÍ, PHẠM VI LÃNH THỔ VÀ SỰ PHÂN CHIA HÀNH CHÍNH
1. Vị trí và lãnh thổ
Bắc Giang là tỉnh miền núi trung du vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía tây và tây bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, phía nam và đông nam giáp các tỉnh Bắc Ninh, Quảng Ninh. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 3822km2 với dân số (năm 1999) 1497,1 nghìn người, đứng thứ 34 về diện tích và thứ 17 về dân số trong 61 tỉnh, thành phố của cả nước.
Bắc Giang có một số trục giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy) quan trọng của quốc gia chạy qua đường quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn ra cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng; các trục quốc lộ giao thông liên vùng như quốc lộ 31, quốc lộ 37 nối Bắc Giang với Lạng Sơn, Móng Cái (Quảng Ninh), với Hải Dương, Hải Phòng, ra cảng Cái Lân (Quảng Ninh), đường sắt Kép – Quảng Ninh, đường thủy theo song Thương, sông Cầu và Sông Lục Nam.
Bắc Giang nằm không xa các trung tâm công nghiệp, đô thị lớn của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh. Thị xã Bắc Giang cách thủ đô Hà Nội khoảng 50 km.
Vị trí địa lí đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế liên vùng, giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh Đông Bắc và với các tỉnh thành khác trong cả nước. Nhờ vị trí địa lí như vậy, Bắc Giang có thể phát huy lợi thế sẵn có của một tỉnh nhiều tiềm năng, đưa lãnh thổ này thành một đầu mối kinh tế quan trọng nối khu vực kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
2. Sự phân chia hành chính
Tỉnh Bắc Giang được thành lập vào năm 1895 với 2 phủ: Lạng Giang, Đa Phúc và 6 huyện: Việt Yên, Yên Dũng, Kinh Anh, Yên Thế, Hiệp Hòa, Phượng Nhỡn. Từ năm 1921 – 1945, Bắc Giang gồm 3 phủ, 4 huyện với 13 tổng, 453 xã.
Ngày 27/10/1962, Bắc Giang cùng Bắc Ninh sáp nhập thành một tỉnh lấy tên là Hà Bắc.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội khóa IX, kì họp thứ 10 đã phê chuẩn việc tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Bắc Giang đước tái lập với 10 huyện, thị là thị xã Bắc Giang, các huyện Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động, Lục Nam, Tân Yên, Hiệp Hòa, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng với 205 xã, 5 phường, 14 thị trấn.
Các đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Giang
Tên huyện, thị xã
Diện tích(km2)
Số phường xã, thị trấn
Toàn tỉnh
1. Thị xã Bắc Giang
2. Huyện Yến Thế
3. Huyện Lục Ngạn
4. Huyện Sơn Động
5. Huyện Lục Nam
6. Huyện Tân Yên
7. Huyện Hiệp Hòa
8. Huyện Lạng Giang
9. Huyện Việt Yên
10. Huyện Yên Dũng
3822
31
299
1011
846
598
203
201
245
170
212
205 xã, 5 phường, 14 thị trấn
5 phường, 4 xã
20 xã
30-
22-
27-
23-
26-
24-
17-
24-
II – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. Địa hình, khoáng sản
a)Địa hình
Về mặt kinh tế, có thể chia Bắc Giang thành một số khu vực sau đây:
- Khu vực miền núi xâm thực được nâng lên mạnh thuộc lưu vực Sông Lục Nam. Khu vực này có những đỉnh núi cao và hiểm trở của tỉnh Bắc Giang. Các dãy núi Bảo Đài – Cấm Sơn và Huyền Đinh – Yên Tử là đường phân giới của tỉnh với các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Dương. Trên đường đỉnh của dãy núi Huyền Đinh – Yên Tử có đỉnh cao nhất là Yên Tử ở Sơn Động – Lục Ngạn cao 1063m; trên đường đỉnh của các dãy núi Bảo Đài – Cấm Sơn có đỉnh Ba Vòi ở Lục Ngạn cao 975m. Khu vực miền núi này có khả năng phát triển nghề rừng (chủ yếu là bảo vệ và trồng rừng phòng hộ), chăn nuôi và trồng cây công nghiệp.
- Khu vực miền đồi trung du được nâng lên yếu, thấp dần từ bắc xuống nam và từ đông sang tây. Trong phạm vi của tỉnh, đường phân giới của khu vực này với khu vực miền núi nói trên là đường dọc theo chân núi Huyền Đinh lên Biển Đông, men theo chân núi Bảo Đài lên Bến Lường ở bắc thị trấn Kép. Ranh giới phía nam rồi đến đường phân giới với huyện Thái Nguyên. Đây là miền đồi trung du được cấu tạo bằng trầm tích đá gốc. Các ngọn đồi ở đây thường có độ cao 30 – 50m.
- Khu vực này có nhiền vùng đất đai còn tốt (nơi còn rừng tự nhiên). Ở những nơi đồi núi thấp, có thể trồng cây ăn quả (vải thiếu, cam, chanh, na, hồng…), trồng cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc.
- Khu thêm phù sa cổ bị chia cắt yếu. Địa hình chủ yếu là các đồi thoải lượn sóng, có độ cao dưới 30m, trên nền phù sa của sông Cầu, sông Thương. Địa hình này thấy rất rõ ở các huyện Hiệp Hòa, Tân Yên và thị xã Bắc Giang. Các đồi không có lớp phủ thực vật nên nhiều nơi đất bị xói mòn trơ sỏi, đá. Đây là địa bàn có thể phủ xanh đất trồng, đồi núi trọc bằng việc trồng cây công nghiệp dài ngày.
- Khu vực thềm mài mòn cũ bị chia cắt yếu có những núi sót. Địa hình chủ yếu là những đồi núi thấp khá bằng phẳng và những miền núi trũng với những khối núi sót như núi Neo ở Yên Dũng (cao 260m). Ngày nay nhiều đồi núi thấp và máng trũng ở Yên Dũng, Việt Yên đã được nhân dân cải tạo thành những ruộng cao, thấp khác nhau để trồng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày.
Địa hình đa dạng là điều kiên để tỉnh Bắc Giang có thể phát triển nông – lâm nghiệp theo hướng đa dạng hóa với nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị sản phẩm cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
b) Khoáng sản
Khoáng sản ở Bắc Giang chủ yếu là mỏ nhỏ. Đây được coi là cơ sở nguyên liệu để phát triển nông nghiệp địa phương, các khoáng sản chính là than, quặng sắt, đồng, sét làm gạch chịu lửa…
Một số khoáng sản chủ yếu của tỉnh Bắc Giang
Tên khoáng sản
Đơn vị
Trữ lượng
Địa điểm phân bố
Than các loại
Quặng sắt
Quặng đồng
Cao lanh
Sét làm gạch chịu lửa
Sỏi, cuội kết
Triệu tấn
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Triệu tấn
Triệu m3
105,6
500
84
3000
100
200
Yên Thế, Lục Ngạn, Sơn Động
Yên Thế
Lục Ngạn, Sơn Động
Yên Dũng
Tân Yên, Việt Yên
Hiệp Hòa, Lục Nam
2. Khí hậu, thuỷ văn
a) Khí hậu
Do nằm ở vị trí đệm giữa khu vực núi đông bắc và đồng bằng song Hồng nên khí hậu Bắc Giang có tính đa dạng của chế độ hoàn lưu gió mùa nhiệt đới. Mùa đông ít mưa, sương muối xuất hiện trên nhiều đồi núi. Mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều, lượng mưa phân bố không đều do ảnh hưởng của địa hình. Mưa giảm dần từ phía Quảng Ninh về các huyện Lục Ngạn, Sơn Động và từ phía Hải Dương về huyện Yên Dũng. Lượng mưa trung bình cả năm là 1300 – 1800mm. Vùng núi bị chi phối bởi vĩ độ và địa thể bình phong nên ít mưa và khô hanh. Thêm vào đó, gió biển có nhiều hơi nước theo thung lũng sông Thương đưa lên phía Bắc đem về gió lạnh, mùa đông đến sớm.
Nhiệt độ thấp dần từ trung du lên miền núi. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình từ 27 – 280C. Mùa lạnh từ tháng 12 đến tháng 2, nhiệt độ trung bình là 16 – 170C. Số tháng có nhiệt độ không khí dưới 150C chỉ 1 – 2 tháng, trên 270C có 3 tháng. Sự biến động về số giờ nắng trong các năm cũng không nhiều (từ 1530 – 1776 giờ).
Khí hậu Bắc Giang với chế độ nhiệt ẩm như trên thích hợp với các nhu cầu sinh trưởng của các cây trồng nhiệt đới. Vùng đồi trung du lạnh vừa và ẩm là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cây ăn quả và công công nghiệp. Vùng núi lạnh và ẩm, thuận lợi cho việc trồng cây gây rừng, trồng chè, các loại rau ôn đới, chăn nuôi gia súc.
b) Thuỷ văn
Bắc Giang có 3 con song lớn sông Cầu, sông Thương, Sông Lục Nam chảy qua, với chiều dài qua tỉnh là 347km. Các sông này đều chảy về sông Phả Lại.
Sông Lục Nam bắt nguồn từ Đình Lập (Lạng Sơn) dài 178km. từ thượng nguồn đến Chũ lòng hẹp , uốn khúc, gồ ghề, lắm thác nghềnh, độ dốc lớn. Từ Chũ đến Lục Nam, lòng sông rộng trung bình 80-100m, độ sâu trung bình 4-5m. Từ Lục Nam đến ngã ba Nhãn (cửa ra), lòng sông rộng và sâu hơn. Sông Lục Nam có 33 nhánh, trong đó có 4 nhánh lớn là sông Ràng, sông Thanh Luân, sông Cẩm Đàn và sông Bò. Sông Thương có tên là sông Nhật Đức. Theo truyền thuyết, sở dĩ có tên là sông Thương là xưa kia các sứ thần của ta đi sang Trung Quốc, gia đình và bạn bè đều tiễn đến bờ sông này, khi binh lính lên trấn ải biên giới gia đình cũng chỉ đưa tiễn đến đây. Họ hàng thân thích từ biệt nhau và tỏ tình quyến luyến. Sông Thương phát nguyên từ từ dãy Na Pa Phước (Lạng Sơn). Đoạn qua Bắc Giang dài khoảng 42Km. Đoạn sông từ đặp Cấm Sơn trở lên hẹp, uốn khúc từ hạ lưu đập Cấm Sơn đến Bố Hạ lòng sông rộng 40-50m, từ Bố Hạ đến thị xã Bắc Giang lòng sông rộng 70-120m, thuyền bè có thể đi lại thuận lợi. Sông Thương có 32 nhánh, trong đó có 3 nhánh lớn là sông Hoá, sông Tung, và sông Sỏi.
Sông Cầu có tên Nguyệt Đức nhân dân gọi là sông Phú Lương. Sông có 2 nguồn: một nguồn từ phía nam sông Ngọc Long của tỉnh Thái Nguyên chảy vào huyện Hiệp Hoà, chạy quanh co đón nhận các sông Hà Châu, sông Gia Cát, sông Trà Lâm rồi chảy Về Yên Phong (Bắc Ninh). Đoạn này gọi là sông Hương La có bến Vọng Nguyệt và Như Nguyệt. Một nguồn nữa từ sông Bạch Hạc (Phú Thọ) chảy qua tỉnh. Đoạn này gọi là sông Cà Lồ. Sông cầu cò 69 nhánh, trong đó hai nhánh lớn là sông Cà Lồ và sông Công.
Chế độ thuỷ văn gồm hai mùa là mùa lũ và mùa cạn. Mua lũ từ tháng 5-9, chiếm trên 70% lượng nước cả năm trong khi nhu cầu dung nước tưới không lớn. Ngược lại mùa cạn từ tháng 10-4 chiếm có 30% lượng nước cả năm thì nhu cầu dung nước lại nhiều. Sự chênh lệch về modun dòng chảy nằm ở Sông Lục Nam tới 4 lần, sông thương 3,5 lần, sông cầu 2 lần.
Hệ thống ao hồ, đầm của tỉnh có diện tích 16,3 nghìn ha, chưa kể gần 1 vạn ha ruộng trũng. Hệ thống này là những bể chứa nước quan trọng, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Bắc Giang có hai hồ lớn là hồ Cấm Sơn và hồ Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn có diện tích là 2600ha, chứa được hàng triệu m3 nước. Hồ Khuôn Thần có diện tích 240ha chứa 18 triệu m3 nước. Cả hai hồ này đều thuộc huyện Lục Ngạn.
Sông ngòi, ao hồ ở Bắc Giang có giá trị không chỉ về cung cấp nước mà còn cả về việc phát triển thuỷ sản nước ngọt, du lịch. Trên các sông còn có trữ lượng lớn về cát, sỏi, để làm vật liệu xây dựng.
3. Đất đai
a) Các loại đất
- Xét về nguồn gốc phát sinh, đất ở Bắc Giang có hai nhóm chính là: nhóm đất phát sinh tại chỗ do quá trình phong hoá mà hình thành và nhóm đất bồi tích do quá trình bồi tụ phù sa mà hình thành.
- Xét về mặt nông hoá thổ nhưỡng, Bắc Giang có các loại đất chính sau đây:
+ Đất feralit thuộc vùng núi ơ các huyện Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn và Yên Thế. Trên loại đất này còn rừng tự nhiên che phủ nên đất tương đối tốt.
+ Đất feralit màu vàng, đỏ vàng thuộc vùng gò đồi, phát triển trên đá phiến sét, phiến sa và biến chất, phân bố ở các huyện Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế. Loại đất này thường chua, khả năng giữ nước kém, tỉ lệ sắt trong đất cao, nhưng giàu canxi…Đất gò đồi thấp thích hợp với cây công nghiệp ,cây ăn quả.
+ Đất ferlít đỏ vàng biến đổi quá trình canh tác, đã bạc màu nhưng có khả năng trồng được cây công nghiệp. Loại đất này phân bố không thành vùng, mà rải rác xen kẽ với các ngọn đồi phiến thạch sét ở các huyện Tân Yên, Lục Nam, Sơn Động, Văn Yên.
+ Đất phù sa cổ phân bố ở phù sa Sơn Động Yên Thế.
+ Đất phù sa trong đê không được bồi hàng năm và đất phù sa ngoài đê được bồi hàng năm phân bố ở các huyện Hiệp Hoà, ViệtYên…
Chỉ có 1/3 diện tích đất trên là tương đối màu mỡ hàm lượng các chất dinh dưỡng tương đối cao, còn 2/3 là từ trung bình đến xấu nghèo chất dinh dưỡng. Do vậy trong khai thác, sử dụng đất cần đầu tư cải tảo và có chế độ canh tác hợp lí để giữ vững và nâng cao độ phì.
b) Hiện trạng sử dụng đất
Hiện trạng sử dụng đất của tỉnh Bắc Giang
Loại đất
Diện tích (nghìn ha)
Tỉ trọng(%)
Tổng số
Đất nông nghiệp
Đất lâm nghiệp
Đất chuyên dung
Đất thổ cư
Đất chưa sử dụng
382,2
101,7
124,7
51,6
11,3
92,9
100,0
26,6
32,6
13,5
3,0
24,3
Đất đai là nguồn lực quan trọng hàng đầu là tài nguyên quí giá để phát triển kinh tế - xã hội. Đất sử dụng vào nông nghiệp của Bắc Giang là 101,7 nghìn ha, bằng 26% diện tích tự nhiên; trong đó có 10,3 nghìn ha vườn gia đình, đất lâm nghiệp có khoảng 124,7 nghìn ha, đất chuyên dung, giao thông, thuỷ lợi 51,6 nghìn ha (32,6%), đất chuyên dung, giao thông, thuỷ lợi 51,6 nghìn ha (13,5%), đất quần cư ở thành thị và nông thôn 11,3 nghìn ha (3,0%). Đất chưa sử dụng còn 92,9 nghìn ha. Trong số này đất có khả năng nông nghiệp là 4,2 nghìn ha, đất có khả năng lâm nghiệp là 70,5 nghìn ha; phần còn lại là đất cho các mục đích khác (công nghiệp, du lịch, xây dựng…)
4. Tài nguyên rừng
Bắc Giang có rừng gỗ với nhiều loại cây (lim, lát, sến, dẻ) và các dải rừng tre nứa ở Sơn Động. Yên Thế. Đến nay trên địa bàn Bắc Giang có 83,5 nghìn ha rừng tự nhiên (rừng sản xuất 58,9 nghìn ha, rừng phòng hộ 19,1 nghìn ha, rừng đặc dụng 5,5 nghìn ha) và 41,2 nghìn ha rừng trồng. Trữ lượng gỗ cây đứng khoảng 2,9 – 3,5 triệu m3 và 458 triệu cây tre nứa. Trong rừng còn có các loại cây đặc sản, thảo dược như thong, trầm, ba kích, sa nhân, đẳng sâm…Để bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, cần hoàn thành công tác giao đất, khoán rừng và khai thác hợp lí theo quan điểm bền vững.
5. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch tự nhiên trên địa bàn Băc Giang không nhiều, gồm hồ Cấm Sơn và một vài khu như Khuôn Thần (Lục Ngạn), rừng nguyên sinh Khe Rỗ (Sơn Động)…
- Thắng cảnh hồ Cấm Sơn ở huyện Lục Ngạn. Hồ này rộng 2600 ha. Đến mùa mưa, lũ nhiều, mặt hồ có thể rộng đến 3000ha.
- Khu du lịch Khuôn Thần có diện tích hồ 240 ha, lòng hồ có 5 đảo nhỏ được trồng thông xanh có tuổi từ 15 – 20 năm. Ở đây còn có khoảng 700 ha rừng.
- Rừng nguyên sinh Khe Rỗ ở xã An Lạc huyện Sơn Động, có diện tích 7153 ha với hệ thực vật gồm 236 loài cây lấy gỗ, 225 loài dược liệu quý, 37 loài thú, 73 loài chim, 18 loài bò sát. Khu rừng càng thêm sinh động với tiếng róc rách chảy suốt năm của hang loạt suối lớn, nhỏ khác nhau.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch tự nhiên của tỉnh không thật phong phú và chưa được khai thác đầy đủ.
III – DÂN CƯ
1. Động lực dân số
Dân số trung bình năm 1990 của Bắc Giang (nằm trong tỉnh Hà Bắc cũ) là 1303 nghìn người, đến năm 1999 tăng lên 1492,2 nghìn người. Sau tám năm, dân số đã tăng 189,2 nghìn người, trung bình mỗi năm thêm 23,7 nghìn người.
Tỉ suất tăng dân số tự nhiên của tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua có xu hướng giảm dần, từ 1,83% năm 1990 xuống 1,29% năm 1999. Mức này tương đương với mức gia tăng trung bình của các tỉnh Đông Bắc và thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Một số chỉ tiêu về dân số của tỉnh Bắc Giang
Chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị tính
1990
1995
1999
1. Diện tích tự nhiên
- Tỉ trọng so với cả nước
2. Dân số trung bình
- Tỉ suất tăng tự nhiên
Trong đó
a. Dân số thành thị
- Tỉ lệ so với dân số chung
b. Dân số nông thong
- Tỉ lệ so với dân số chung
Trong đó: Dân số nông nghiệp
- Tỉ lệ so với dân số chung
Km2
%
Nghìn người
%
Nghìn người
%
Nghìn người
%
Nghìn người
%
3822
0,012
1303
1,83
70
5,4
1233
94,6
1172
90
3822
0,012
1430
1,65
82
5,7
1348
94,3
1246
87
3822
0,012
1492,2
1,29
110,9
7,4
1381,3
92,6
1284
86
2. Kết cấu dân số
a) Kết cấu dân số theo nhóm tuổi và giới tính
- Bắc Giang có kết cấu dân số trẻ. Theo kết quả điều tra dân số 1/4/1999 thì nhóm từ 0 – 14 tuổi chiếm 44% tổng số dân, nhóm từ 15 – 59 tuổi là 48,4% và nhóm trên 60 tuổi là 7,6%. Kết cấu dân số theo nhóm tuổi ở thành thị và nông thôn có sự khác nhau. Ở thành thị nhóm 0 – 14 tuổi 35,8% số dân đô thị, trong khi đó ở nông thôn là 44,6% dân số nông thôn của cả tỉnh. Nhóm tuổi từ 15 – 59 tương ứng là 56,8% và 47,8%.
Kết cấu dân số theo nhóm tuổi ở Bắc Giang năm 1999.
Nhóm tuổi
Tổng số
Riêng nữ
Thành thị
Nông thôn
Tổng số (nghìn người)
Tỉ lệ %
Chí ra
0 – 14
15 – 59
Trên 60 tuổi
1492,2
100,0
44,0
48,4
7,6
754,8
100,0
42,1
49,1
8,8
110,9
100,0
35,8
56,8
7,4
1381,3
100,0
44,6
47,6
7,6
Năm 1999, tỉ lệ nữ trong dân số Bắc Giang là 50,6% xấp xỉ mức trung bình cả nước (50,8%) và vùng Đông Bắc (50,5%); tỉ lệ này có sự khác nhau giữa các nhóm tuổi. Nhóm tuổi 0 – 14 chiếm 42,1% nhóm 15 – 59 tuổi là 49,1% và nhóm trên 60 tuổi là 8,8% tổng số nữ của tỉnh.
b) Kết cấu dân tộc
Trên địa bàn Bắc Giang có tám dân tộc cúng sinh sống. Trong số này đông nhất là người Kinh (86%), tiếp đến là người Tày (1,9%), người Hoa (1,1%), người Nùng (3,5%), người Sán Chay (1,2%), người Sán D ìu (1,1%), người Dao (0,4%), người Mường (0,1%) còn lại là các dân tộc khác.
Bắc Giang là một tỉnh vừa có truyền thống lễ hội văn hoá của đất Kinh Bắc, vừa có hội sân của các dân tộc ít người. Mảnh đất này có truyền thống vẻ vang. Nhân dân Bắc Giang góp phần sương máu xây đắp chiến tuyến sông Cầu cùng hướng quân Lý Thường Kiệt làm nên chiến thắng chống quân xâm lược Tống. Những địa danh lịch sử với các chiến tích Nội Bàn, Xa Lý, Bình Than…vẫn còn lưu truyền đến nay. Đây là nơi Hoàng Hoa Thám xây dựng căn cứ địa Yên Thế chống Pháp, với lời thề vang dội núi sông:
“Đất này là đất cụ Đề
Tây lên bỏ xác, Tây về tan xương”
Dân cư Bắc Giang có trình độ văn hoá cao, với 98,6% số người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết. Số người chưa biết chữ chỉ chiếm 1,4%, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của các tỉnh vùng Đông Bắc.
3. Phân bố dân cư và đô thị hoá
Mât độ dân số của tỉnh Bắc Giang năm 1990 là 31 người/km2. Đến năm 1999 mật độ đã tăng lên 391 người/km2 dân cư phân bố không đều tập trung đông ở thị xã Bắc Giang với 3080 người/km2 thưa thớt ở các huyện miền núi. Ở Sơn Động, Lục Ngạn, Yên Thế với mật độ dân cư khoảng 80 – 290 người/km2, có huyện Lưu Sơn Động chỉ có 76 người/km2.
Bắc Giang có mức đô thị hoá thấp. Tỉ lệ dân thành thị trong tổng số dân năm 1999 chỉ có 7,4%. Dân số đô thị sống chủ yếu ở thị xã Bắc Giang và 14 thị trấn của tỉnh. Một số thị trấn có tên gắn với những sản vật cũng như chiến tích lịch sử: Bố Hạ (Yên Thế), Chũ (Lục Nam), Kép (Lạng Giang), Thắng (Hiệp Hoà)…
Dân số và mật độ dân số phân theo huyện thị của tỉnh Bắc Giang của năm 1999
Tên huyện, thị xã
Dân số (nghìn người)
Mật độ dân số(người/km2)
Toàn tỉnh
1. Thị xã Bắc Giang
2. Huyện Yên Thế
3. Huyện Lục Ngạn
4. Huyện Sơn Động
5. Huyện Lục Nam
6. Huyện Tân Yên
7. Huyện Hiệp Hoà
8. Huyện Lạng Giang
9. Huyện Việt Yên
10. Huyện Yên Dũng
1492,2
95,5
86,5
173,1
64,2
191
161,1
205,9
192,5
155,2
167,2
390
3080
289
171
76
319
793
1024
786
913
789
4. Lao động và phân bố lao động
Dân số trong độ tuổi lao động của Bắc Giang năm 1999 la 739 nghìn người, chiếm 49,5% dân số. Lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân năm 1999 là 722 nghìn người, chiếm 97,7% số người trong độ tuổi lao động.
Cơ cấu sử dụng lao động có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng lao động nông, ngư, lâm nghiệp giảm tử 90,9% năm 1990 xuống còn 78% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân năm 1999
Cơ cấu sử dụng lao động của tỉnh Bắc Giang
Chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị tính
1990
1995
1999
1. Số lao động trong độ tuổi có khả năng lao động
- Tỉ lệ so với dân số chung
2. Số lao động thu hút vào các ngành kinh tế quốc dân
Trong đó:
- Công nghiệp
% so với tổng số lao động
- Về xây dựng
% so với tổng số lao động
- Nông, lâm, ngư nghiệp
% so với tổng số lao động
- Dịch vụ
% so với tổng số lao động
Nghìn người
%
Nghìn người
Nghìn người
%
Nghìn người
%
Nghìn người
%
Nghìn người
%
638,0
49,0
627,0
12,5
2,0
9,8
1,6
570,0
90,9
34,0
5,5
686,0
48,0
678,0
16,0
2,4
25,0
3,7
565,0
83,3
80,0
11,6
739,0
49,5
722,0
16,4
2,3
31,0
4,3
563,0
78,0
101,0
15,4
5. Giáo dục, y tế
a) Giáo dục
Công tác giáo dục – đào tạo ở Bắc Giang đã được chú ý phát triển từ hệ mẫu giáo đến trung học phổ thông. Số lượng trường, lớp học, dụng cụ học tập mỗi năm một tăng. Đến năm 1999, toàn tỉnh có 1499 lớp mẫu giáo, tập trung ở thị xã, thị trấn và các huyện; 488 trường phổ thong, trong đó bậc tiểu học và trung học cơ sở có 454 trường, trung học phổ thông có 34 trường.
Năm học 1999 – 2000, Bắc Giang có hơn 20 vạn học sinh tiểu học, 13,7 vạn học sinh trung học cơ sở, 3,6 vạn học sinh trung học phổ thong. Tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường năm học 1999 – 2000 đối với tiểu học là 98%, đối với trung học cơ sở và trung học phổ thong là 93,5%. Đến nay đã có 10/10 huyện, thị xã, 99,5% số xã phường, thị trấn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, một huyện và 54 xã phổ cập trung hoc cơ sở
.
b) Y tế
Mạng lưới y tế được hình thành từ tuyến tỉnh, tuyến huyện đến tuyến xã. Bệnh viện tuyến tỉnh đủ cả đa khoa và chuyên khoa. Đến năm 1999, toàn tỉnh có 2651 giường bệnh và 1655 y, bác sĩ. Bình quân khoảng 1000 người có 1,8 giường bệnh và 1,1 y bác sĩ.
Đến nay toàn tỉnh không còn xã trắng về y tế. Việc khám chữa bệnh kịp thời hạn và cơ bản đã ngăn chặn được các dịch bệnh.
IV – Kinh tế
1. Nhận định chung
Kể từ khi tái lập đến nay, Bắc Giang đã sớm đi vào ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Nếu kinh tế trong những năm qua đã có sự chuyển biến tích cực, xuất hiện nhiều mô hình làm ăn khá trên một số lĩnh vực nông, lâm, công nghiệp và dịch vụ, nhất là trong việc sử dụng đất đồi để phát triển cây ăn quả.
GDP năm 1990 của Bắc Giang đạt 2278 tỉ đồng, đến năm 1999 đã tăng lên 3904,6 tỉ đồng (giá thực tế), gấp 1,5 lần so với năm 1990. Kinh tế của tỉnh có sự tăng trưởng và phát triển đáng kể. So với năm 1995, GDP năm 1999 bằng 118%. Nông, lâm thuỷ sản phát triển nhanh trên cơ sở đẩy mạnh cây trồng cây ăn quả hang hoá. GDP nông, lâm, ngư ngiệp năm 1999 đạt 121,5% của năm 1995. Ngành dịch vụ phát triển chủ yếu là dịch vụ vận tải, dịch vụ thương mại và các dịch vụ phi sản xuất vật chất khác. GDP của ngành dịch vụ năm 1999 bằng 124,5% của năm 1995.
Chỉ số phát triển của GDP của tỉnh Bắc Giang (năm 1995 bằng 100)
(Tính theo giá so sánh 1994)
Các ngành
1996
1997
1998
1999
Tổng GDP
Nông, lâm, ngư nghiệp
Công nghiệp – xây dựng
Dịch vụ
105,8
107,7
95,2
108,7
112,6
114,7
101,2
115,9
114,6
116,3
93,9
122,2
118,0
121,5
96,3
124,5
GDP bình quân đầu người (tính theo giá thực tế) năm 1995 đạt 1593 nghìn đồng, đến năm 1999 đã tăng lên 2227 nghìn đồng, gấp 1,5 lần so với năm 1995. Với mức bình quân GDP như trên, Bắc Giang đứng hàng thứ 54 trong 61 tỉnh, thành phố của cả nước.
Cơ cấu kinh tế ngành theo GDP (giá thực tế - %)
Các ngành
1995
1996
1997
1998
1999
GDP
Nông, lâm, ngư nghiệp
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
100,0
43,5
15,2
41,3
100,0
46,3
15,2
38,5
100,0
45,6
16,0
38,4
100,0
41,6
15,6
42,8
100,0
41,5
16,0
42,5
Có cấu nền kinh tế theo GDP của Bắc Giang đã có sự chuyển dịch, song thiếu ổn định, chưa thật sự phù hợp với tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh. Tỉ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm chút ít, từ 43,5% năm 1995 xuống 41,5% năm 1999. Ngành dịch vụ tuy chiếm tỉ trọng lớn, nhưng tăng chậm từ 41,3% năm 1995 lên 42,5% năm 1999. Trong khi đó, tỉ trọng ngành công nghiệp xây dựng chỉ lao động trong khoảng 15 – 16% .
2. Nông, lâm, ngư nghiệp
a) Nông nghiệp
Với quỹ đất nông nghiệp khoảng 101,7 nghìn ha, cùng với sự đa dạng về khí hậu theo các tiểu vùng, Bắc Giang có điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá. Ở trung du và đồng bằng, chất lượng đất tốt hơn, địa hình ít bị chia cắt, độ phì còn khá, thành phần cơ giới hầu hết là cát pha đến thịt nhẹ và thịt trung bình thích hợp với tập đoàn cây lương thực - thực phẩm, cây công nghiệp.
Nhân dân tỉnh Bắc Giang cần cù và có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp . Nguồn lao động nông nghiệp dồi dào, trẻ, khoẻ. Mô hình vườn – ao - chuồng (VAC), mô hình vườn - đồi, mô hình trang trại cây ăn quả và cây lấy gỗ kết hợp với chăn nuôi trâu, bò trên đất lâm nghiệp đang phát triển mạnh ở các huyện. Tỉ lệ hộ dân có thu nhập trung bình năm từ 10 triệu đồng trở lên theo các mô hình phát triển nói trên ngày một tăng…
Với điều kiện đó, sản xuất nông nghiệp của Bắc Giang đã có bước phát triển nhanh, thu hút khoảng 60 – 70% lao động trong các ngành kinh tế quốc dân, đóng góp hơn 40% GDP của tỉnh. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1999 đạt 1976,2 tỉ đồng, trong đó ngành trồng trọt chiếm 66,2%, chăn nuôi 33,8%.
- Trồng trọt
Tổng diện tích gieo trồng của Bắc Giang năm 1999 đạt 20 vạn ha. Các cây trồng được phát triển là cây ăn quả, cây công nghiệp và cây lương thực.
Tình hình phát triển các cây ăn quả chủ yếu
Các loại
1991
1996
1999
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Diện tích
Sản lượng
Vải thiều
Nhãn
Chanh, quýt
Bưởi
Cam
Chuối
Dứa
4534
339
324
576
173
2332
661
2319
428
868
1784
676
51.336
2644
8000
348
407
577
214
675
638
5218
850
980
2355
469
20.639
2680
10.000
+ Cây ăn quả là một trong những thế mạnh của tỉnh và được phát triển vững chắc, trong đó cây chủ lực là vải thiều. Vải thiều trước đây chủ yếu tập trung ở Lục Ngạn, Yên Thế, nay đã làm ra các huyện Lục Nam, Sơn Động, Lạng Giang, Hiệp Hoà…Tính đến nay năm 1996, đã có trên 13.000 ha trồng vải (trong đó có 8000 ha vải thiều). Đến năm 1999, Bắc Giang đã có 15.000 nghìn tấn quả hàng hoá, trong đó vải, nhãn trên 10 nghìn tấn.
Trong tương lai, những loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, thích hợp với đất đai, khí hậu ở Bắc Giang và có thị trường tiêu thụ mạnh như vải thiều, nhãn, na dai, hồng không hạt…sẽ tiếp tục được phát triển trên các vùng đất gò đồi, núi đất thấp ở các huyện Lục Ngạn, Luc Nam, Yên Thế, Lạng Giang, Tân Yên.
+ Cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày được phát triển mạnh ở Bắc Giang gồm: lạc, đâu tương, thuốc lá và chè.
Năm 1999, Bắc Giang 7,5 nghìn ha lạc, 5,6 nghìn ha đậu tương, 0,9 nghìn ha thuốc lá. Sản lượng đạt 6,6 nghìn tấn lạc, 5,8 nghìn tấn đậu tương, 0,9 nghìn tấn thuốc lá.
Vùng trồng lạc tập trung ở các huyện Lục Nam, Hiệp Hoà, Tân Yên, Yên Thế, Việt Yên.
Vùng trồng thuốc lá phân bố ở các huyện Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang, Tân Yên.
Vùng trồng đâu tương ở các huyện Lục Nam, Hiệp Hoà, Lạng Giang, Việt Yên, Lục Ngạn.
Hiện trạng phát triển cây công nghiệp ngắn ngày chủ yếu ở Bắc Giang
Các loại
1995
1996
1999
Diện tích (Nghìn ha)
Sản lượng (Nghìn tấn)
Diện tích (Nghìn ha)
Sản lượng (Nghìn tấn)
Diện tích (Nghìn ha)
Sản lượng (Nghìn tấn)
Đậu tương
Lạc
Thuốc lá
6,1
6,9
1,3
5,8
7,3
1,5
5,5
7,6
0,8
4,4
8,7
1,1
5,6
7,5
0,8
5,8
6,6
0,9
Cây công nghiệp dài ngày chủ yếu là cây chè. Sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ trong tỉnh.
+ Cây lương thực
Đến năm 1999, diện tích cây lương thực của Bắc Giang là 144,6 nghìn ha, trong đó lúa 114,2 nghìn ha, màu 30,4 nghìn ha. Sản lượng lương thực quy thóc tưng từ 367,5 nghìn tấn năm 1995 lên 496,9 nghìn tấn năm 1999. Lương thực bình quân đầu người từ 290kg/người năm 1995 lên 333kg/người năm 1999.
Tình hình sản xuất lương thực của Bắc Giang thời kì 1995 – 1999
Các loại
1995
1996
1999
Diện tích (nghìn ha)
Sản lượng (nghìn ha)
Diện tích (nghìn ha)
Sản lượng (nghìn ha)
Diện tích (nghìn ha)
Sản lượng (nghìn ha)
Cây lương thực
1. Lúc cả năm
2. Màu quy thóc
3. Bình quân lương thực đầu người (kg/ng/năm)
147,9
109,8
38,1
367,5
277,6
89,9
121,7
110,6
-
430,1
338,5
91,6
144,6
114,2
30,4
496,9
417,1
79,8
290,0
300,6
333,0
+ Cây thực phẩm (rau, đậu) bắt đầu được chú ý phát triển trong các hộ gia đình nhằm đáp ứng rau xanh tiêu dung hàng ngày cho các thị xã, thị trấn, khu công nghiệp.
Các cây trồng chủ yếu được phát triển là: rau, bắp cải, su hào….
Vùng sản xuất rau tập trung ở ven thị xã Bắc Giang và các xã ven quốc lộ 1A, quốc lộ 31 thuộc các huyện Lạng Giang, Lục Nam, Yên Dũng.
- Chăn nuôi
Các sản phẩm chủ yếu của ngành chăn nuôi hiện nay là trâu, bò, lợn, gia cầm. Đến năm 1999, đàn bò của tỉnh có 66,4 nghìn con, đàn trâu 131 nghìn con, đàn lợn 704 nghìn con. Vùng chăn nuôi bò ở các huyện: Hiệp Hoà, Yên Dũng, Việt Tiến, Tân Yên, Lạng Giang, Lục Nam. Vùng chăn nuôi lợn có tỉ lệ thịt nạc ở các huyện Hiệp Hoà, Lạng Giang, Việt Yên, Tân Yên, Lục Nam, Yên Dũng, Yên Thế và thị xã Bắc Giang.
Tình hình phát triển chăn nuôi của tỉnh Bắc Giang (nghìn con)
Các loại
1991
1996
1999
Đàn lợn*
Đàn trâu
Đàn bò
551,7
138,8
55,3
558,6
136,0
57,6
704,0
131,0
66,4
* Tính từ 2 tháng trở lên
b) Lâm nghiệp
Trong những năm gần đây nhiều lâm nghiệp của Bắc Giang có bước phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 1999 là 12,5 tỉ đồng. Ngành lâm nghiệp trồng được 55,7 nghìn ha rừng tập trung và 10,7 triệu cây phân tán (tương đương khoảng 700 ha), công tác bảo vệ rừng đã được coi trọng. Bắc Giang từng bước khai thác có hiệu quả 70,5 nghìn ha đất trồng, đồi núi trọc. Những nơi thuộc vùng thấp phát triển theo kiểu vườn rừng, trại rừng gắn với từng hộ gia đình.
Tình hình sản xuất lâm nghiệp của Bắc Giang thời kì 1991 – 1999
Các loại
Đơn vị tính
1991
1996
1999
1. Sản phẩm khai thác lâm sản
- Gỗ tròn các loại
- Củi các loại
- Tre các loại
- Nứa các loại
- Song mây
- Lá dong
2. Khôi phục vốn rừng
- Trồng rừng mới
Chăm sóc rừng
3. Trồng cây phân tán
Nghìn m3
Nghìn Ster
Nghìn cây
-
Tấn
-
Ha
-
Nghìn cây
100,6
534,4
9140
2401
112
73,3
2656
1961
9654
57,6
267,8
6255
1358
106
4905
4613
9400
10650
32,9
135,5
-
-
-
-
7600
-
-
c) Thuỷ sản
Giá trị thuỷ sản của Bắc Giang năm 1999 đạt 48,2 tỉ đồng. Sản lượng thuỷ sản năm 1999 đạt 6,6 nghìn tấn. Diện tích mặt nước nuôi dưỡng đạt 3,5 nghìn ha.
Trong thời kì 1995 – 1999, sản lượng thuỷ sản dao động thất thường. Năm thấp nhất đạt hơn 5,4 nghìn tấn (1995) và năm cao nhất đạt trên 6,7 nghìn tấn (1998). Phần đánh bắt và nuôi trồng gần như tương đương (năm 1999, sản lượng nuôi trồng là gần, 3,2 trong tổng số hơn, 6,6 nghìn tấn).
3. Công nghiệp
Đến năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 41 doanh nghiệp công nghiệp, trong đó có 7 doanh nghiệp trung ương (công ty phân đạm – hoá chất, xí nghiệp gạch Bích Sơn, Tân Xuyên, vật liệu chịu lửa Tam Tầng - Việt Yên, xi măng lâm nghiệp, cơ khí xây dựng số 2 và chế biến dầu Bắc Giang), 34 doanh nghiệp địa phương . Ngoài ra còn có 8 nghìn cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh ở 10 huyện, thị.
Năm 1999, giá trị sản xuất của toàn ngành đạt 43,8 tỉ đồng. Trong số này, công nghiệp quốc doanh đạt 298,8 tì đồng, chiếm 69,2% giá trị tổng sản lượng công nghiệp (quốc doanh trung ương 244,8 tỉ đồng chiếm 56,7%, quốc doanh địa phương 54 tỉ đồng chiếm 12,5%), công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 131 tỉ đồng, chiếm 30,8%.
Các ngành công nghiệp chủ yếu được phát triển ở Bắc Giang là:
- Công nghiệp chế biến nông, lâm sản (chế biến thuốc lá, dầu thực vật, hoa quả, chè, gỗ, tre, nứa…)
- Công nghiệp sản xuất phân bón (phân đạm, phân vi sinh NPK), hoá chất.
Trên địa bàn của tỉnh có nhà máy phân đạm Hà Bắc được Trung Quốc giúp đỡ xây dựng từ những năm 1965 – 1975 với công suất 110.000 tấn/năm. Sản phẩm chủ yếu là phâm đạm U rê từ than Quảng Ninh. Sau đợt đổi mới thiết bị vào các năm 1991 – 1995, nhà máy đã sản xuất 130,7 nghìn tấn vào năm 1997, tăng 130% so với công suất thiết kế. Hàng năm nhà máy sử dụng khoảng 450.000 tấn than các loại làm nguyên liệu và nhiên liệu cho sản xuất. Hiện nay nhà máy đang được đầu tư cải tạo để công suất lên 400.000 – 500.000 tấn/năm, góp phần đáp ứng 70 – 75% nhu cầu phân đạm cho nông nghiệp.
- Sản xuất vật liệu xây dựng (thông thường và cao cấp) như gạch, gốm sứ xi măng…
- May mặc, gia công hàng xuất khẩu.
- Sản xuất bia, nước giải khát, thức ăn gia súc.
- Cơ khí, điện dân dụng, điện tử, in.
- Khai thác khoáng sản.
Hàng năm, các ngành công nghiệp ở Bắc Giang đã sản xuất được 133,6 nghìn tấn phân hoá học, 156,5 triệu viên gạch nung, xay sát 256 nghìn tấn gạo, ngô…
Công nghiệp của tỉnh phân bố chủ yếu ở thị xã Bắc Giang với 55,8% số xí nghiệp, các huyện trung du với 26,0% số xí nghiệp. Trong khi đó, ở cac huyện miền núi công nghiệp thưa thớt hơn (chỉ có 18,2% số xí nghiệp của cả tỉnh).
4. Dịch vụ
a) Thương mại
- Nội thương:
Bên cạnh mạng lưới quốc doanh, trong những năm gần đây, thương mại quốc doanh phát triển đã góp phần lưu thong hàng hoá từ thành thị đến nông thôn, từ trung du đến miền núi, tạo luồng hàng hoá phong phú. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng từ 515,8 tỉ đồng năm 1995 lên 1437,6 tỉ đồng năm 1998
Hệ thống cơ sở vật chất của ngành với mạng lưới chợ được phát triển tương đối đều ở các huyện, thị xã. Đến tháng 10 năm 1999, cả tỉnh có 119 chợ. Số chợ ở khu vực thành thị là 18 (chiếm 15%), chợ ở khu vực nông thôn la 101 (chiếm 85%). Mật độ bình quân là 0,8 chợ trên 1 vạn dân, 0,3 chợ trên 10km2 và 0.5 chợ trên 1 xã, phường.
- Ngoại thương:
Tổng giá trị xuất khẩu trực tiếp của địa phương năm 1996 đạt 1,8 triệu USD, năm 1999 đạt 6,6 triệu USD, gấp 3,7 lần so với năm 1996. Mặt hang xuất khẩu chính của tỉnh là các sản phẩm nông nghiệp.
Một số mặt hang xuất khẩu của tỉnh Bắc Giang
Các mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Sắn khô (tấn)
Lạc nhân (tấn)
Chuối xanh (tấn)
Vải thiều khô (tấn)
Vừng (tấn)
Ngô (tấn)
1194,0
2335,0
850,0
-
-
-
2384,0
5727,0
-
141,0
1114,0
4350,0
5630,0
3968,0
1213,0
181,0
653,0
2179,0
-
1333,0
-
100,0
-
-
Tổng giá trị nhập khẩu trực tiếp năm 1996 là hơn 1,9 triệu USD, đến năm 1999 đạt 10,2 triệu USD. Các mặt hang nhập khẩu chủ yếu là xe ô tô du lịch, xe găn máy và một số sản phẩm tiêu dùng khác.
Trong thời gian, cơ cấu các mặt hang xuất và nhập khẩu cần được điều chỉnh với các mặt hang xuất khẩu chính là hàng nông lâm sản đã qua chế biến. Các mặt hang nhập khẩu chính là tư liệu sản xuất: máy móc, máy công cụ…
b) Du lịch
Tuy Bắc Giang không có thế mạnh về tài nguyên du lịch tự nhiên, nhưng lại tương đối phong phú về tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là tiền đề thuận lợi có thể phát triển du lịch trong tương lai. Trên lãnh thổ của tỉnh có nhiều di tích, trong đó có 99 di tích được Nhà nước xếp hạng với nhiều khả năng thu hút cao đối với du khách.
Gắn liền với di tích là hàng loạt lễ hội diễn ra trong năm cũng có sức hấp dẫn đối với khách du lịch. Đó là hội xuân của đồng bào dân tộc Sán Dìu và đồng bào Nùng (diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch ), lễ hội Yên Thế ở xã Phồn Xương, Yên Thế, nơi còn dấu ấn của đồn Phồn Xương, căn cứ của nghĩa quân Yên Thế khi xưa.
Về dị tích, đáng lưu ý là khu di tích Yên Thế gắn lễ hội di tích Suối Mơ, cách thị xã Bắc Giang 37km theo đường 31 và đường 293 (đến Suối Mơ, nơi thờ công chúa Quế Mỵ Nương đời vùa Hùng thứ 16), di tích dình Phúc Long cách thị xã 8km về phía nam: chùa Đức La ở xã Trị Yên huyện Yên Dũng; chùa Bồ Đà ở xã Yên Sơn huyện Việt Yên; đình Lỗ Hạnh ở xã Đông Lỗ huyện Hiệp Hoà, đình Thổ Hà ở làng Thổ Hà huyện Việt Yên; di tích cách mạng Hoàng Vân được gọi là ATK – căn cứ cách mạng thời kì 1940 – 1945 ở huyện Hiệp Hoà; di tích thành Xương Giang cách thị xã 4km…
Du lịch Bắc Giang có thể phát triển trên cơ sở khai thác khu du lịch hồ Khuôn Thần, Suối Mơ, khu du lịch Hoàng Hoa Thám, những danh lam thắng cảnh và di tích.
Trong tương lai, để phát triển tốt hơn, quy hoạch của tỉnh đã xác định: cần phải hình thành mạng lưới với các trung tâm điểm, tuyên du lịch trên địa bàn toàn tỉnh có tính tới quan hệ liên kết với các tỉnh khác trong vùng; tích cực tạo môi trường thuận lợi để thu hút du lịch.
c) Giao thông vận tải và một số ngành dịch vụ khác
Bắc Giang có mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường sông tương đối phát triển với mật độ trung bình 0,3km/km2.
Đường bộ có tổng chiều dài là 591km; trong đó có 42% là đường nhựa, 9,8% là đường cấp phối, 48,2% là đường đá dăm.
Về quốc lộ, có các tuyến 1A, 31, 279, và 37 với tổng chiều dài chạy qua tỉnh là 252km.
Quốc lộ 1A nối Bắc Giang với Hà Nội một phía và phía bên kia với Lạng Sơn, đã được nâng cấp với chất lượng đường khá tốt.
Quốc lộ 31 từ thị xã Bắc Giang đi Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Đình Lập.
Quốc lộ 279 từ Hạ Mi đến Tân Sơn.
Tỉnh lộ có 15 tuyến với tổng chiều dài 339km. Đường cấp huyện có 52 tuyến, nhưng lòng đường hẹp, chất lượng xấu, các cầu trên đường còn yếu chưa bảo đảm cho phương tiện giao thong nặng đi qua.
Về đường sắt có các tuyến đường chính chạy qua như: Hà Nội – Đông Đăng, Kép – Uông Bí với tổng chiều dài 82 km.
Hệ thống sông Thương, sông Cầu và Sông Lục Nam với tổng chiều dài chảy qua tỉnh là 247 km. Trong số đó, có thể khai thác có hiệu quả 189 km để phục vụ cho việc vận tải thuỷ.
Đến năm 1999, Bắc Giang có 88,5% số xã và hầu hết số huyện có điện quốc gia. Bình quân 1,1 máy điện thoại/100 dân. Số máy điện thoại của tỉnh đến năm 1999 là 16.300 chiếc.
5. Các tiểu vùng kinh tế của tỉnh.
Có thể phân chia Bắc Giang thành 2 tiểu vùng.
a) Tiểu vùng trung du
Tiểu vùng này gồm các huyện Hiệp Hoà, Việt Tiến, Yên Dũng và thị xã Bắc Giang, chiếm 10,6% diện tích và 30,6% dân số của tỉnh. Đây là tiểu vùng có mật độ dân cư đông, tập trung nhiều cơ sở kinh tế công nghiệp, dịch vụ của tỉnh, Thị xã Bắc Giang là tỉnh lị, hạt nhân phát triển và có sức lan toả ra toàn tỉnh. Trong tương lai, kinh tế của tiểu vùng sẽ phát triển theo hướng hình thành cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông lâm nghiệp hàng hoá.
b) Tiều vùng miền núi
Tiều vùng này gồm các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang, chiếm 89,4% diện tích và 69,4% dân số của tỉnh. Chức năng chính của tiểu vùng là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp hàng hoá, công nghiệp và dịch vụ.
Trong tương lai, tiểu vùng này cùng với khu vực nông thôn của tiểu vùng trung du sẽ được chú ý phát triển hơn. Các thị trấn sẽ được đầu tư, nâng cấp để làm chức năng hạt nhân, nơi trao đổi sản phẩm hàng hoá, và đồng thời là trung tâm văn hóa, nghệ thuật, thể thao của từng huyện. Kết cấu hạ tầng giao thong, hệ thống cấp điện, cấp thoát nước, hệ thống chiếu sang, đất xây dựng công viên, vườn hoa và các công trình văn hoá, thể thao, vui chơi, vui chơi giải trí khác… sẽ được phát triển đồng bộ.
Kinh tế nông thôn ở cả hai tiểu vùng đang và sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hoá nông thôn, hình thành các vùng kinh nguyên liệu tập trung gắn với phát triển công nghiệp chế biến; phát triển ngành nghề, kinh tế hộ kết hợp với mô hình trang trại vườn đồi, vườn rừng để tạo ra hàng hoá. Đa dạng hóa công nghiệp và ngành nghề chế biến nông sản, mở rộng các mặt hàng gia công may mặc, hàng thủ công mĩ nghệ…trong mối quan hệ phân công hợp tác với đô thị.
6. Phương hướng phát triển
Trong tương lai, để khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực về tải nguyên và con người, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang đã xác định các lĩnh vực kinh tế trọng điểm là:
- Hình thành vùng nông sản hàng hoá tập trung: vải thiều, đậu tương, thuốc lá, lạc, lợn thịt có tỉ lệ nạc cao;
- Phát triển chế biến nông, lâm sản theo quy mô vừa và nhỏ với trang bị hiện đại;
- Phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực.
- Trồng rừng nguyên liệu phục vụ công nghiệp khai thác than và sản xuất ván dăm.
- Phát triển phân bón (đạm và vi sinh tổng hợp), hoá chất
- Phát triển trung tâm thương mại - dịch vụ lớn ở thị xã Bắc Giang và thị trấn Chũ.
- Phát triển mạnh các dịch vụ tài chính – ngân hang - bảo hiểm;
- Khai thác và chế biến khoáng sản với quy mô vừa và nhỏ.
- Phát triển du lịch.
- Phát triển các khu và cụm tập trung công nghiệp.