Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
I. Kant và Triết học cổ điển Đức
I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794).
Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng công nghiệp.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi phải trả lại cho con người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận. Quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người.
Tuy nhiên về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư sản, lực lượng phong kiến vẫn nắm chính quyền và không chịu phân quyền cho giai cấp còn non yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở Pháp, Hội nghị viên ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn châu Âu. Chứng tỏ lực lượng phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị phản công lại giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ sự phản công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những người mà sự khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với các lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại thích nghi với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những mâu thuẫn và thoả hiệp có biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển của CNTB bị cản trở bởi điều kiện kinh tế và chính trị của nó.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến, tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị. Những tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động..., không chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ TBCN.
F. Enghen nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”... “Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”.
Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó tràn đầy trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 - 1803), G.F.Lêxinh (1729 - 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 - 1814), S.V.Selling (1775 - 1854), G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)... các đại biểu lỗi lạc của triết học cổ điển Đức.
ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư sản. Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789), R.Điđirô và các nhà hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm. Điều đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, theo mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người.
Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp. Định nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen.
Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển..., ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”.
Song các học thuyết đó không biến thành cách mạng được, nó duy tâm và yếu hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế trong triết học cổ điển Đức.
Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một quá trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó đã xóa nhoà bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó biện hộ cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản.
Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học.
Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác.
ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn ở Anh, song lại hình thành chủ nghĩa duy vật: Hônbach, R.Điđro... Chính vì chủ nghĩa duy vật Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. ở Đức tình hình cũng tương tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành tựu triết học của các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp.
Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử nhân loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là: bước ngoặt kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên.
Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết học - toán học Pháp R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn, C.Vônphơ... Các học thuyết của họ chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính biện chứng của quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng.
Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết của các nhà triết học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện chứng thiên tài của họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho sự tổng kết biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan. Nếu ở thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galilê, xây dựng một cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học thì ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng phương pháp biện chứng cho khoa học. Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó vẫn là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng xa lạ với biện chứng duy vật khoa học.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
Thành tựu và cống hiến.
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Cantơ lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát triển thêm tư tưởng này và coi bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con người, mỗi cá nhân hoàn tàon làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá. Các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động cảu con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con người họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần thánh hoá con người, coi con người là chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết quả hoạt động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Cantơ và Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại.
Mặt hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ về lập trường chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn đề cảu thế giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm, thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai chống lại Nhà nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư chính thức trong các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài triết học cảu mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
II. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA IMANUEN KANT
I.kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 - 1724 và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành phố cổ vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học khoa triết học trường đại học Kenítbec. Ở đây ông được trang bị không chỉ triết học mà cả khoa học tự nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất quan tâm và có năng khiếu về các môn toán học và vật lý học và cơ học, vũ trụ học...
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học Kennitbéc. Năm 1775, ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử tự nhiên và lý thuyết về thiên hà”.
Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời độc thân. ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804.
Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ giảng một loạt các môn học: Siêu hình học (triết học) và lôgíc học, toán học và cơ học, vật lý học và địa chất học, nhân loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý, nhân chủng học. Cũng ở đây, Cantơ đã tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã dặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới. Nhiều công trình khao học tự nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng ông lên vị trí một trong những học giả uyên bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khao học và triết học tư sản TK XIX. Ông đã để lại cho nhân loại một trong những hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
Quá trình phát triển triết học của Cantơ diễn ra qua hai thời kỳ.
Thời kỳ 1: Từ năm 1770 trở về trước.
Thời kỳ 2: Từ năm 1770 đến cuối đời.
Bởi nhiệm vụ triết học trong thời kỳ 2 do Cantơ đặt ra là phê phán (các hệ thống triết học trước đó) nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ phê phán. Còn thời kỳ 1, tư tưởng phê phán chưa rõ ràng nên được gọi là thời kỳ tiền phê phán.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
Thời kỳ 1, Cantơ đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực mà ông đang giảng dạy và nghiên cứu trong trường Đại học nhưng chủ yếu tập trung vào triết học tự nhiên. Nghiên cứu những vấn đề trong lĩnh vực triết học tự nhiên. Cantơ xuất phát từ niềm tin cho rằng: Triết học với tư cách là một khoa học lý thuyết tự biện có thể lý giải được mà không cần đến kinh nghiệm.Thời kỳ này, với những thành công trong khoa học ông là người lạc quan, tin tưởng vào khả năng nhận thức thế giới của con người. Trong thời kỳ này Cantơ viết một khối lượng lớn các công trình về triết học, khoa học tự nhiên. Đặc điểm rõ rệt trong các công trình này là những tư tưởng triết học và khoa học tự nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau. Ở nhiều ngành khoa học tự nhiên, nơi mà Cantơ bỏ công nghiên cứu, ông đều đề xuất được những ý tưởng có giá trị.
Trong vật lý học, khi phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn của các nhà toán học, vật lý học và cơ học, Cantơ đã luận giải sâu hơn lý thuyết về sự vận động và đứng im.
Trong sinh học, Cantơ đã đề xuất tư tưởng phân loại động vật theo nguồn gốc riêng của từng loại, cơ sở của sự phân loại là dựa vào các nhóm gen của chúng.
Trong nhân loại hoc, Cantơ đề xuất tư tưởng về lịch sử tự nhiên của loài người. ở đây ông lý giải sự hình thành và sự phát triển của loài người qua các giai đoạn mông muội, văn minh và hiện đại.
Khác với Niutơn, Cantơ đã thử ứng dụng các nguyên tắc của khoa học tự nhiên hiện đại vào việc giải thích không chỉ kết cấu của hệ thống Mặt trời cho giai đoạn hiện tại, mà còn giải thích sự nảy sinh của hệ thống đó.
2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
Nếu ở thời kỳ tiền phê phán, Cantơ nghiên cứu triết học khoa học tự nhiên thì sang thời kỳ phê phán ông chú ý những vấn đề xã hội con người, nếu trước đây ông thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới thì bây giờ ông lại cho rằng con người không nhận thức được thế giới, trước đây ông là người đề cao trí tuệ thì nay ông lại đề cao tín ngưỡng.
Về nhận thức luận,Cantơ luôn luôn bác lại những nhà duy vật kinh nghiệm chủ nghĩa, những nhà cho rằng trí tuệ của chúng ta có được là nhờ kinh nghiệm, nhờ kinh nghiệm mà ta nhận thức đuợc thế giới.Ngược lại,Cantơ cho rằng, trí tuệ là một cơ quan năng động có sẵn khả năng hiểu biết -trí tuệ tiên nghiệm, chúng ta nhận thức thế giới có hiệu quả chính là bằng trí tuệ tiên nghiệm đó
Từ năm 1770 về sau, Cantơ đã đặt ra nhiệm vụ cho bản thân mình là phải xây dựng một hệ thống triết học theo quan điểm duy tâm phê phán tiên nghiệm,Hệ thống triết học đó được Cantơ trình bày chủ yếu trong bộ ba tác phẩm :
Phê phán lý tính thuần tuý (1781)
Phê phán lý tính thực tiễn (1788)
Phê phán năng lực phán đoán (1790)
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC KANT
3.1. Triết học lý luận:
Triết học lý luận của Cantơ đề cập đến những vấn đề nhận thức luận và logíc học với mục đích xây dựng một nền tảngthế giới quan mới cho con người,xác định giới hạn và đối tượng của tri thức con người,hay theo cách đặt vấn đè của cantơ là giải đáp vấn đề tôi có thể biết được cái gì?
Triết học nhận thức chủ yếu là xây dựng lý thuyết tiên nghiệm; tri thức và khả năng (giới hạn) của các loại tri thức.
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.
Tiền đề cho bộ ba tác phẩm “triết học phê phán ” của Cantơ là thuyết hai thế giới : Thế giới vật tự nó (Ding and Sich) và thế giới hiện tượng (fonomen).
3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:
Cơ sở tư tưởng của sự hình thành quan niệm “vật tư do”.
a) Vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và hiện thực vẫn luôn là vấn đề phức tạp, nó như một câu hỏi treo trước nhà triết học.Trong khi các nhà khoa học và triết học chưa có ý kiến thống nhất,khoa học và thần họpc đối lập nhau trong việc giải quyết vấn đề đó thì Cantơ nghiêng về phía cho rằng hiện thực và tư tưởng là hai lĩnh vực khác nhau, không liên quan đến nhau.
b) “Do hạn chế về khoa học, Engen nhận định sự hiểu biết của loài người về thế giới cho đến nay vẫn còn quá vụn vặt, mơ hồ,đến nới đằng sau mỗi sự vật tự nhiên ấy,người ta vẫn có thể cho rằng có một “vật” tự do bí ẩn đặc biệt nữa”.Chưa vượt qua tầm nhìn đương đại,Cantơ cũng quan niệm như vậy.Cantơ coi “cái vật tự do bí ẩn đặc biệt” ở đằng sau mỗi sự vật đó là “cái cân nguyên”, “cái tồn tại thực sự”, là “bản chất” của vật chất,-bản chất cua thế giới.
c) Dựa vào Thuyết động lưc học Cantơ cho rằng chính cái vật tự do bí ẩn ở đằng sau sự vật chính là cái tao ra “lực vận động” như là một nguyên nhân đầu tiên của vật chất,của vận động-cái tinh thần của tinh thần,-cái đó,tự nó,tồn tại. Và cantơ đi đến kếtl luận: rõ ràng là có vật tự do.
Cantơ viết: “tôi gọi vật tự nó là khái niệm đang nghi ngờ nhưng nó tồn tại khách quan và không thể nhận thức được bằng mọi cách.Khái niêm vật tự nó nghĩa vật cần phải được nhận thức không phải như đói tượng cảm tính mà như vật tồn tại tự nó”.
Thế giới vật tự nó.
Vật tự nó theo quan niệm cua Cantơ có thể hiểu theo ba nghĩa sau:
1. Là vật khách quan, tự nó tồn tại, ở bên ngoài con người, con người không biết gì về nó.
2. Vật tự nó là căn nguyên của thế giới, là cái tồn tại thức sự, là bản chất của thế giới, tinh thần của tinh thần.
3. Vật tự nó còn ám chỉ những những chuẩn mực, những lý tưởng của mọi sự hoàn thiện tuyệt đối mà con người không thể đạt tới được, nhưng nó là những điều mà con người hằng mong ước: Tự do, linh hồn bất tử, Thượng Đế. Đây là lĩnh vực thuộc đối tượng của tín ngưỡng, của niềm tin.
Thế giới hiện tượng
Thế giới hiện thực trong lĩnh vực muôn màu muôn vẻ của nó như đất nước, sông núi, cỏ cây,…và những quy luật dẫn dắt mọi quá trình của thế giới đó,…theo Cantơ, là những cái đang tộn tại dưới dạng hình thức (hiện tượng) của thể giới vật tự nó. Thế giới đó biểu hiện ra như chúng ta thấy là do “tác động”thế giới vật tự nó đến khả năng cảm giác tiên nghiệm của chúng ta, gây nên những biểu tượng, những biểu tượng đó qua kinh nghiệm của chủ thể nhận thức mà xây dựng nên những hình dạng như chúng đang tồn tại trong hiện thực. Cantơ viết rằng, “giác tính, bằng khả năng tổng hợp của mình, thông qua các khái niệm hay các phạm trù mà sáng tạo ra giới tự nhiên với các hiện tượng đa dạng, phong phú như nó đang tồn tại. Mọi hiện tượng của giới tự nhiên phải chịu sự chi phối của các phạm trù lý tính”. Nói cách khác, thế giới hiện tượng này chính là thế giới bề ngoài của thế giới vật tự nó, là phần biểu hiện “ vật chất” của thế giới tinh thần.
Lý do vật tự nó là không thể nhận thức được.
a) Vào thời đại của Cantơ, nhiều nhà tư tưởng thừa nhận sự tồn tại của Thượng Đế, song họ không xác định được một cách thống nhất bản chất và vai trò của Thượng Đế trong thế giới hiện thực. Đó là chổ yếu của cả thần học và triết học duy tâm nói chung để các nhà vô thầm phủ nhận sự tồn tại của Thượng Đế. Để cứu vãn tinh thần duy tâm, Cantơ đã coi Thượng Đế không phải cái gì khác mà, đó là cái tự do, là linh hồn bất tử, là vật tự nó - nghĩa là Thượng Đế cái tự nó tồn tại, con người không giải thích được và cũng không thể biết được.
b) Cantơ đòi hỏi ở tri thức khoa học và triết học sự hoàn thiện tuyệt đôí: coi đó là tri thức lý tưởng của con người. Song, cũg như Hium và Lépnhít, một mặt Camtơ cho rằng, để khoa thực sự ;là khoa học thì nó phải dựa trên tri thức tiến nghiệm., nghĩa là tri thức mang tính phổ quát và tất yếu (chân lý). Mặt khác, do chua thoát khỏi quan niệm siêu hình -sự nhìn nhận thế giới một cách tách rời- Cantơ cho rằng mọi sự vận động trong thế giới bên ngoài chúng ta chỉ là sự tồn tại dưới dạng đơn giản nhất, ngẫu nhiên.Vậy là ở đây có khả năng mà phải chọn một:
1. Nếu khẳng định,mọi tri thức đều là sự phản ánhcác sự vật của khách quan thì phải thì phải thừa nhận mọi khoa học đều chỉ dựa trên nhưỡng tri thức đơn nhất, ngẫu nhiên
2. Nếu đòi hỏi mọi tri thức khoa học đạt đến tính phổ quát và tất yếu thì phải thừa nhận, nguồn gốc của khoa học( triết học) không phải là sự phản ánh thế giới khách quan ; tri thức đó chính là kết quả của sự sáng tạo của riêng trí tuệ con người.
Đứng trước sự lựa chọn trên, Cantơ lập luận: Từ trước tới nay người ta cho rằng, “mọi tri thức của chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật( quan điểm nhận thức luận duy vật-N.V.H). Tuy nhiên, trên thực tế mọi ý đồ thông qua khái niệm để xác lập một cái gì đó tiên nghiệm về các sự vật thì đều thất bại. Vì thế, có lẽ, giải quyết nhiệm vụ cơ bản của triết học sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta xuất phát từ luận điểm:” Các sự vật phải phù hợp với nhận thức của chúng ta” (nhận thức tiên nghiệm duy tâm-N.V.H). Điều này sẽ đáp ứng tốt hơn cái việc mà triết học đòi hỏi là phải có được tri thức tiên nghiệm về vật tự nó”.
Như vậy, với ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm của khoa học( triết học), cũng như quan niệm cho rằng mọi tri thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới khách quan, Can tơ đi đến khẳng định vật tự nó là không thể nhận thức được.
3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
Theo Cantơ, con người nhận thức là nhờ kinh nghiệm (“mọi kiến thức đều bắt đầu từ kinh nghiệm “). Cantơ phân biệt hai loại kinh nghiệm: Kinh nghiệm thông thườngvà kinh nghiệm khoa học.
Kinh nghiệm thông thườnglà kinh nghiệm được hình thành từ những”sự trải qua” trong cuộc sốngcũng như trong nhận thức nói chung của cá nhân.
Kinh nghiệm nhận thức khoa học là kinh nghiệm bậc cao: Kinh nghiệm của tri thức với tư cách là” cơ quan năng động có sẵn khẳ năng nhận thức” –tức là ở đó đã có sẵn yếu tố tiên nghiệm. Như vậy, đây làkinh nghiệm tiên nghiệm; nó là công cụđể phát hiện cái tiên nghiệm mới.
Tiên nghiệm có hai mức độ:
a) Cái có trước kinh nghiệm-ap rio ri
b) Cái siêu nghiệm-tứclà tiên nghiệm đích thực, tiên nghiệm bậc cao. Trong siêu nghiệm có tiên nghiệm và hậu nghiệm vứi tư cách là phán đoán tiên nghiệm.
Đối tượng của triết học không phải là nghiên cứu bản thân kinh nghiệm mà chủ yếu là nghiên cứu cái tiên nghiệm và hậu nghiệm – siêu nghiệm,( tức nghiên cứu cái có truớc và có sau kinh nghiệm).
Siêu nghiệm xuất phát từ kinh nghiệm nhưng không phải là kinh nghiệm. Nó là sự vượt qua kinh nghiệm thông thường, vượt qua những hiện tượng mà con người nhận biết được bằng các giác quan. Những hình ảnh mà giác quan thu được chỉ là những kinh nghiệm thông thường, ít có ý nghĩa trong nhận thức, chúng chỉ có ý sau khi có được yếu tố tiên thiên.
Tiên thiên là cái vốn có của tự nhiên mà thực chất, đó là cái tự do, cái bản chất của thế giới.ở con người ( vì con người là một bộ phận của tự nhiên) thì tiên thiên chính là các yếu tố bẩm sinh.
Cái tiên nghiệm, siêu nghiệm, tiên thiên như đã phân tích, do còn là kết quả của sự chuyển hoá trong chủ thể nhận thức, cho nên nó có tính xã hội.Tuy nhiên về nguồn gốc, về bản chất, nó thuộc tự nhiên.Bản tính thiện, bản tính sáng tạo, bản tính vươn tới.Tự do của con người là những cái thuộc tiên thiên, chúng không phải đợi đến lúc cá nhân có đầy đủ kinh nghiệm mới xuất hiện.Những tư chất ở mỗi cá nhân, năng khiếu, thiên chức mỗi người, nòi giống đều là những cái thuộc tự nhiên, chúng được phát huy ngay cả khi cá nhân chưa có nhiều kinh nghiệm.Các cảm giác, các hoài cảm, các dục vọng,…cũng không cần chờ có kinh nghiệm rồi mới có.
Nhận thức và khả năng của nhận thức
Con người với tư cách là chủ thể nhận thức có vốn có tri thức tiên nghiệm nhận thức là việc chủ thể dùng tri thức tiên nghiệm để xem xét sự vật. Nguyên tắc nhận thức: Không phải là tri thức của chủ thể phải phù hợp với sự vật, mà sự vật phải phù hợp với tri thức của chủ thể nhận thức.
Nhận thức bắt đầu từ khi các sự vật hiện tượng khách quan tác động các giác quan của con người, gây nên những cảm giác. từ toàn bộ những cảm giác đó, thông qua kinh nghiệm mà chủ thể nhận thức xây dựng nên những hình ảnh, những khái niệm, những phạm trù, những quy luật …Về hiện tượng nói riêng và về thế giới hiện tượng nói chung.
Cantơ viết: Nhận thức là do những năng lực nhận thức tạo ra, do hoạt động sáng tạo của chủ thể tạo ra tri thức, tri thức đó tạo ra thế giới hiện tượng và chính nó lại trở lại nhận thức cái do chính mình tạo ra đó.
Vậy là thế giới hiện tượng, nói đến cùng, là do kinh nghiệm con người “ xây dựng” – thế giới nằm trong phạm vi của cái chủ quan do chính tri thức của chủ thể nhận thức tạo ra. Đến luợt mình con người nhận thức là thế giới hiện tượng này. Cho nên Cantơ còn gọi triết học của mình là Hiện tượng luận.
Rõ ràng là, giữa thế giới vật tự nó và thế giới hiện tuợng có một hố sâu ngăn cách mà nhận thức của con người không thể vuợt qua.Trong quá trình nhận thức, tri thức con người ngày càng phong phú, ngày càng sâu sắc. Nhưng đó chỉ là tri thức phong phú và sâu sắc về thế giới hiện tượng. Về nguyên tắc nhận thức chỉ là nhận thức thế giới hiện tượng. Cho nên, tri thức dù có phong phú đến đâu cũng không thể tiếp cận với thế giới vật tự nó. Trong khi đó, bản chất của sự vật nói riêng và của thế giới nói chung là ở vật tự nó, ở thế giới vật tự nó. Vậy là, đối với thế giới thì nhận thức là bất khả tri
Trong luận đề về sự tồn tại của vật tự nó thì Cantơ là nhà duy vật, ở đây tính thứ nhất không phải là ý thức mà là “ vật tự nó”. Song vật tự nó là bản tính tinh thần, cho nên ông lại là nhà duy tâm. Khi nghiên cứu các hình thức và giới hạn của nhận thức, ông cho rằng vật tự nó là siêu nghiệm, không nhận thức được cảm giác là cơ sở của tri thức, nhưng không một loại tri thức nào, dù cao nhất, có thể tiếp cận tới vật tự nó, ông là nhà bất khả tri.