Hỏi : Triều đại nhà Đường Trung Quốc.

Nhà Đường - Triều Đại Phong Kiến Trung Quốc



Nhà Đường (唐朝 pinyin: tángcháo; 18 tháng 6 năm 618 – 4 tháng 6 năm 907) là triều đại kế tiếp nhà Tùy và tiếp theo triều đại này là thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc ở Trung Quốc. Triều đại này bị chen ngang bởi thời kỳ của nhà Võ Chu (16 tháng 10 năm 690 – 3 tháng 3 năm 705) khi Thái hậu Võ Tắc Thiên chiếm giữ ngai vàng. Triều đại này do họ Lý lập nên.

Nhà Đường, với thủ đô nằm ở Trường An (ngày nay thuộc ngoại ô Tây An) vào thời kỳ đó là thành phố đông dân nhất thế giới, được các nhà sử học coi như là đỉnh cao trong nền văn minh Trung Hoa — ngang bằng, thậm chí còn hơn cả thời nhà Hán. Lãnh thổ của nó, thu được nhờ các cuộc chinh chiến quân sự của các triều đại trước đó, là lớn hơn nhiều so với thời nhà Hán. Nhờ các mối liên hệ được mở rộng với Ấn Độ và Trung Đông, thời đại của đế chế này cũng là thời kỳ nở rộ của các hoạt động sáng tạo trong nhiều lĩnh vực. Phật giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ vào cùng khoảng thời gian chào đời của Khổng Tử, tiếp tục thăng hoa trong thời nhà Đường và đã được hoàng tộc chấp nhận, được Hán hóa rộng khắp và trở thành một bộ phận vĩnh cửu của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tuy nhiên, các vị vua sau này đã lo ngại về quyền lực của các sư sãi Phật giáo và đã tiến hành các biện pháp bạo lực chống lại họ trong thế kỷ 8. Phật giáo tại Trung Quốc kể từ đó không bao giờ trở lại được như thời kỳ hoàng kim trước đó. Công nghệ in ấn bằng bản khắc đã làm cho các tài liệu được phổ biến rộng rãi hơn trong công chúng.



Thời nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của văn học và nghệ thuật Trung Quốc (xem thêm Nghệ thuật thời Đường). Hệ thống chính quyền được duy trì nhờ giai cấp trí thức Nho học, được chọn lựa thông qua các hệ thống khoa cử đã được hoàn thiện hơn dưới thời nhà Đường. Các thủ tục mang tính cạnh tranh này đã được thiết lập nhằm lựa chọn những người có tài năng nhất để phục vụ cho chính quyền. Nhưng có lẽ mối quan tâm lớn nhất của các vị vua nhà Đường là sự phụ thuộc của đế chế vào các gia đình quý tộc có quyền lực cũng như các lãnh chúa có thể để lại những hậu quả gây mất ổn định, do vậy họ đã tạo ra một hệ thống quan lại không có lãnh thổ tự trị cũng như không có các cơ sở quyền lực quân sự. Các quan chức này thông thường là có quan hệ họ hàng thân thích với hoàng tộc. Từ thời nhà Đường cho đến tận thời gian gần đây của nhà Thanh năm 1911, các quan chức hoạt động như là tầng lớp trung gian giữa người dân thường và chính quyền nhà nước.

Lý Uyên đã thành lập ra nhà Đường nhưng chỉ cai trị trong vài năm trước khi bị phế truất bởi con trai là Lý Thế Dân, sau này được biết đến như là vua "Đường Thái Tông". Sau đó Thái Tông bắt đầu giải quyết các vấn đề nội bộ. Các vấn đề này là một trong những vấn đề khó chịu nhất của các triều đại trước. Dưới hoàng đế có ba bộ (省, shěng): quân sự, kiểm soát và hội đồng quốc gia. Mỗi bộ có các công việc khác nhau. Cũng trong thời kỳ nhà Đường đã có một người phụ nữ duy nhất cai trị Trung Quốc, đó là Thái hậu Võ Tắc Thiên và bà đã để lại dấu ấn trong lịch sử quốc gia này.

Những thập niên đầu tiên của thế kỷ 8 là đỉnh cao của nhà Đường. Đường Huyền Tông đã đưa Trung Quốc tới thời kỳ hoàng kim của nó và ảnh hưởng của nhà Đường đã đến tận Nhật Bản và Triều Tiên về phía đông, Việt Nam về phía nam cũng như khu vực tây và trung Á về phía tây. Điểm xuống dốc bắt đầu vào năm 755 trong những năm cuối cùng của thời gian trị vì của Huyền Tông, khi cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn đã tiêu hủy nhà Đường cũng như tất cả sự thịnh vượng mà phải mất nhiều năm mới có thể xây dựng lại. Nó đã làm suy yếu quốc gia này và trong 150 năm còn lại nhà Đường không bao giờ lấy lại được những ngày huy hoàng của thế kỷ 7 và 8.

Gần cuối giai đoạn nhà Đường, các lãnh chúa quân sự khu vực (Tiết độ sứ) đã ngày càng tăng thêm quyền lực và bắt đầu hoạt động với tư cách giống như các chế độ độc lập với các quyền riêng của họ. Nhà Đường kết thúc khi một trong các lãnh chúa quân sự, Chu Ôn, phế truất vị vua cuối cùng và cướp lấy ngai vàng, nó mở đầu cho thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc; thời kỳ này bao gồm 5 triều đại là: nhà Hậu Lương (907-923), nhà Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-946), nhà Hậu Hán (947-950), nhà Hậu Chu (951-960), và 10 vương quốc là: Ngô (902-937), Tiền Thục (907-925), Ngô Việt (907-978), Sở (907-951), Nam Hán (907-971), Mân (909-945), Nam Bình (924-960), Hậu Thục (934-965), Nam Đường (937-975), Bắc Hán (951-979).

Sưu Tầm
 
Văn hóa và Tinh thần của Triều đại Nhà Đường




taizong1.jpg



Đường Thái Tông (626-649) đã nhận Ludongzan, sứ giả Tây Tạng vào trong triều; bức tranh được vẽ vào năm 641 sau công nguyên bởi Yan Liben.


Triều đại nhà Đường được xem là thời kỳ hoàng kim của lịch sử Trung Quốc, thời kỳ mà Trung Quốc là thiên triều hùng mạnh và lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Đỉnh cao của Triều đại nhà Đường thuộc thời kỳ giữa “Thịnh triều Trinh Quán” (Hoàng đế Đường Thái Tông) và “Thịnh triều Khai Nguyên” (Hoàng đế Đường Nhân Tông). Thời kỳ ấy, Trung Quốc được hưởng một nền thái bình thịnh trị trong tất cả lĩnh vực kinh tế xã hội, văn chương và nghệ thuật, được hậu thế tôn vinh là “Thịnh Đường Khí Tượng”.
Đạt được điều đó như thế nào? Hoàng đế Đường Thái Tông là vị vua anh minh, khí độ cao thượng, khiêm cung, bao dung, yêu thương dân chúng. Cùng với những người khai sáng và tiếp nối đại nghiệp tuyển mộ, trọng dụng hiền tài có năng lực và đạo đức. Tiếp thụ những ý kiến thẳng thắn. Vì thế, ông không chỉ là người khai sáng triều đại nhà Đường, mà còn là hình mẫu lý tưởng của các hoàng đế tương lai.

traditionalbanner.png


Tinh thần Đường Triều sung mãn quang huy, như mặt trời dẫn lối khai hóa một nền văn minh xán lạn, huy hoàng tráng lệ nhất trong lịch sử Trung Hoa.

I. Văn chương và Nghệ thuật

“Đường Thi,” là bộ sách được biên soạn trong thời kỳ Hoàng đế Khang Hy của triều đại nhà Thanh, là tác phẩm được kết tập của hơn 48,000 bài thơ của hơn 2,200 nhà thơ. Số lượng bài thơ và về thể loại thơ cùng với nội hàm uyên bác của nó đã trở thành một đại hùng tinh chiếu sáng trong lịch sử văn chương Trung Quốc. Những bài thơ được sáng tác dưới thời nhà Đường không chỉ phong phú về số lượng, mà giá trị nghệ thuật đạt đến đỉnh cao.

Phần mở đầu của “Bộ Đường Thi” là 10 bài thơ của Đường Thái Tông trong tập “Đế Kinh Thiên Thập Thủ”. Với những câu thơ mang khí thế khoát đạt, tâm thế hoành tráng diễm lệ, thể hiện tiết tháo cao thượng và hoài bão vĩ đại làm cảm khái và rung động lòng người. Ví dụ: “Tâm tùy lãng nhật cao, Chí dư thu sương khiết” (Tạm dịch: Tâm theo vầng dương buổi sớm nhô lên, Ý chí thanh cao như hoa cúc mùa thu). (Trích từ cuốn Thăm lại chiến địa đánh bại Tiết Cử- Tiết Cử là Bá Vương cuối triều đại nhà Tùy).

Những bài thơ của Đường Thái Tông biểu hiện trí huệ uyên thâm, ý chí khoáng đạt, đức độ nhân từ. Đại thần Dương Sư Đạo viết “Sảng khí trường không tịnh, Cao nhâm cốc tư khoan”. (Tạm dịch: Khí thế hào sảng giữa trời trong xanh, xem thơ làm mở rộng tầm mắt.) (trong cuốn “Sơ thu dạ tọa ưng chiếu” (Đêm thu ngồi ngắm vẻ Uy nghi). Phẩm chất dung dị, cao khiết của những bài thơ trong Thời kỳ Trinh Quán đã ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ tương lai.

Thời kỳ Thịnh Đường Hoàng kim đã xuất hiện nhiều nhà thơ vĩ đại, như Thi tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ, cùng với Mạnh Hạo Nhiên và Vương Duy- 2 nhà thờ nổi tiếng của thể loại thơ miêu tả phong cảnh tự nhiên, hay như Gao Shi (Cao Cát) và Cen Shen (Sầm Tam) là những thi nhân của cuộc sống thôn dã, hoặc “Thi gia Phu tử” Vương Xương Linh, …. Những năm sau này, Bạch Cư Dị là điển hình của thi ca nữa sau thời kỳ Thịnh Đường.

Những thi tác bác đại, hùng hồn, thâm viễn; chúng siêu việt thời gian và trở thành đại biểu của tinh thần Thịnh Đường.

Lý Bạch viết:

Câu hoài dật hưng tráng tư phi
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt

Trừu đao đoạn thủy thủy canh lưu
Cử bôi kiêu sầu sầu canh sầu.


Tạm dịch:

Thi hứng dâng cao khoe tráng chí
Hái trăng kia vào tay ta mau
Rút đao chém xuống nước nước càng chảy mạnh
Nâng chén tiêu sầu sầu nặng thêm(Bài thơ: Bỏ ta mà đi)

Đỗ Phủ viết:

Hoàng hoàng Thái Tông nghiệp
Thụ lập thậm hoành đạt

Tạm dịch:

Cơ nghiệp Thái Tông hùng vĩ lắm
Công lao gầy dựng lại tưng bừng

(Bài thơ Bắc Chinh)

Vương Duy viết:

Giang lưu thiên địa
Ngoại sơn sắc hữu vô trung

Tạm dịch:

Dòng sông chảy ra ngoài trời đất
Sắc núi như có như không

(Bài thơ Ngắm Sông Hán từ xa).

Ngoài thi ca, phong cách Đại Đường trong tản văn, tiểu thuyết, truyền kỳ mạn lục đều đạt đến đỉnh cao thành tựu. Các văn nhân đời Đường thường viết về nhân sinh, và vạch trần những mặt đen tối của xã hội, biễu đạt sự mẫn nhuệ, và dũng khí, trách nhiệm đối với quốc gia, cũng như nhãn quan tiên liệu và rộng lớn với những lý tưởng chủ đạo như “Tế thế”, “An Bang”, …


II. Thư pháp và Hội họa


d13dc6942efde8587c5793af4da52324.jpeg


Bức thư pháp của Đường Thái Tông trên bia đá đời Đường.

Đường Thái Tông rất coi trọng thư pháp. Ông thành lập Hồng Văn Quán và bổ nhiệm những nhà thư pháp nổi tiếng để giảng dạy. Ông truyền một chỉ thị rằng, tất cả quần thần từ hàng Ngũ phẩm trở lên đều phải đến Hồng Văn Quán để học thư pháp. Đường Thái Tông rất khen ngợi chữ viết của Vương Hy Chi, một trong những nhà thư pháp nổi tiếng nhất, được ngợi ca là thưu pháp “tận thiện, tận mỹ.” Từ đó, thư pháp được phát triển chính thống. Dưới sự ảnh hưởng của Đường Thái Tông, những Hoàng đế sau này như Đường Cao Tông, Đường Trung Tông, Đường Duệ Tông đều rất mực mến mộ và đề xướng thư pháp. Nền nghệ thuật thư pháp đạt đến đỉnh cao dưới triều đại nhà Đường. Thời Thịnh Đường cũng suất sinh một số lượng các nhà thư pháp lớn nhất trong các triều đại. Ví dụ, nhà thư pháp Âu Dương Tuân, Ngu Thế Nam, Tiếc Tắc, Lý Ung, Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền, Trương Húc Đẳng…, là những nhà thư pháp khai sáng tiên phong, và đạt trình độ cao, để lại cho hậu thế những tác phẩm giá trị tuyệt mỹ.
Diện mạo hội họa thời Thịnh Đường cũng rất phong phú, đặc sắc. “Chân dung Thái Tông” và “ 24 Công thần” của nhà hội họa Diêm Lập Bổn vẽ chân dung truyền thần của Đường Thái Tông và các Công thần được xem là “Bút pháp như thần”.

Nhà hội họa Ngô Đạo Tử sáng tạo hơn 400 bức bích họa chư Phật và chư Đạo trong các ngôi đền ở Trường An và Lạc Dương. Thần thái mỗi bức tượng mỗi khác, triển hiện sự trang nghiêm và diễm lệ của thắng cảnh thiên quốc. Chỉ một cái vẫy bút, ông hoàn thành một bức họa thần thái, bút pháp như có Thần Phật phù trợ.

Hậu thế ngưỡng mộ ông như một “Họa Thánh” và miêu tả tác phẩm của ông như sau: “Vẫy bút như gió cuốn, như thể Thần Phật đang trợ giúp.” Giới hội họa sau này tôn thờ ông như “Tổ Sư”.

Bích họa và điêu khắc đã có những phát triển và thành tựu vĩ đại trong thời đại nhà Đường, trác tuyệt về tạo hình, phong phú về màu sắc, lộng lẫy và tinh tế, minh quang trầm lắng vô cùng. Chúng thể hiện phong độ đại khí ung dung. Ví dụ bức họa “Tây Phương Tịnh Thổ” là một trong những bức bích họa trong Động Mạc Cao ở Đôn Hoàng, triển hiện sự tráng lệ của thiên quốc thế giới, Thần Phật, Bồ Tát, Chúng Sinh các giới nhân vật vô cùng phong phú, họa diện hoành vĩ, thần thái sinh động, linh tú, chẳng khác nào chư Thần đang vãng lai.


III. Nhạc Vũ nghệ thuật

Nhạc Vũ thời Đường được kế thừa các giá trị tinh túy truyền thống và hội tụ tinh hoa của Nhạc Vũ tây phương, phản ảnh cuộc sống hòa bình, hưng thịnh, quốc thái, dân an, một vương triều toàn mỹ.

Nhạc Vũ thời Đường khí thế bàng bạc, sắc diện tráng lệ; thi, ca, tập, từ, phú,…và các chủng loại văn chương cùng theo đó mà diễn tấu, đàn xướng, hát ca. Các loại nhạc cụ phong phú vô cùng; đàn tam thập lục, đàn hạc, và trống… Nhạc khúc cao tráng du dương, vũ điệu như nước chảy, mây bay, trang phục hoa lệ rực rỡ, …trong Nhạc Vũ đời Đường hấp thụ đầy đủ ưu tú của văn hóa Trung Hoa. Trong đó có thể loại “Thanh Thương Nhạc”, là thể loại bao gồm âm nhạc truyền thống bắt nguồn thừ đời nhà Hán; còn có thể loại “Tây Lương Nhạc”. Nhạc Vũ đời Đường là sự hội tụ của Âm Nhạc, động tác múa, và thi ca, thường có mô hình hoành vĩ, nội dung và lĩnh vực diễn đạt phong phú. Một trong những tác phẩm nổi tiếng được sáng tác dười thời nhà Đường là “ Nhạc vũ Tần Vương Phá Trận”, là một tác phẩm hùng vĩ, hoành tráng, miêu tả và ngợi ca uy dũng vạn dặm và đức độ của Đường Thái Tông thống nhất Trung Quốc, Công định thiên hạ..

IV. Lý tưởng và Tín ngưỡng

Thịnh Đường là thời ký Khổng Giáo, Phật Giáo, và Đạo Giáo tiếp tục phát triển đến đỉnh cao. Tư tưởng của 3 trường phái này phát huy giúp con người điều chỉnh lại tư tưởng và hành vi của mình, thẩm thấu trong các lĩnh vực xã hội. Xã hội thời Thịnh Đường được duy trì những chuẩn mực đạo đức cao. Đường Triều vì thế trở nên huy hoàng.

Đường Thái Tông không chỉ là người tôn sùng Nho học, mà còn là người phù trì Phật giáo, bảo hộ Đạo giáo, xây dựng cả một hệ thống hoàn thiện điện tế trời đất, tông miếu thờ thần linh, chùa chiền tượng phật. Người dân kính Trời và tin Thần, tôn sùng đạo đức, đọc sách thánh hiền, có trách nhiệm cao đối với sự hưng thịng của xã tắc. Nho gia giảng: “Nhân giả ái nhân”- (Người yêu thương người), Đạo gia giảng: “Ngộ đạo chứng chân”-(Giác ngộ Đạo và chứng được Chân Lý), Phật gia giảng: “ Từ bi phổ độ chúng sinh” (Từ bi cứu độ muôn loài). Các tín ngưỡng chính thống giúp cho con người mở rộng nhãn quan, duy trì phẩm chất mộc mạc, thiện lương, thuần chính, tìm cầu chân lý, kiên định hành thiện.


kinhkimcuong.jpg


Kinh Kim Cương, bộ kinh Phật được in vào năm 868. Bộ kinh đã trở thành cuốn sách đầu tiên trên thế giới được in ấn một cách rộng rãi.

Đường Thái Tông hạ chiếu tổ chức học giả biên soạn lại cuốn “Ngũ Kinh Chính Nghĩa”, trở thành cuốn sách kinh điển cho các đại khoa cử, và trở thành cuốn sách tiêu chuẩn cho các thế hệ sau này. Tư tưởng Nho gia vì vậy trở thành quy phạm chuẩn mực cho tư tưởng và hành vi của con người.

Tư tưởng Đạo gia cũng được hoằng dương trong thời Nhà Đường. Có rất nhiều học giả, văn nhân, hữu tâm cầu đạo, nhất tâm tìm đạo tu luyên ví dụ như: Hạ Tri Chương và Lý Bạch. Nền hội họa có nhiều tác phẩm trứ tuyệt về Đạo gia và Phật gia, được xem là nền nghệ thuật của chư Thần trợ giúp. Các nhạc gia biên soạn rất nhiều tác phẩm về Đạo gia như “Huyền Chân đạo khúc”, “Nhạc La thiên khúc”,… tư tưởng cảnh giới của tác tác phẩm vô cùng mỹ hảo, khoáng đạt tự nhiên. Danh y Tôn Tư Mạc là người suốt đời tu Đạo, và hành y tế thế, tạo phước cho muôn dân, được hậu thế tôn là “Tôn Chân Nhân” và “Dược Vương”(Vua của Thuốc).

Tư tưởng Phật giáo cũng được truyền bá sâu rộng, phát dương quang đại. Một lượng lớn kinh thư Phật giáo được biên dịch và lưu truyền trong thời kỳ này. Người dân tín phụng Phật Pháp, tín kính chư Phật, thâm tâm tin vào Nhân Quả báo ứng, tu tâm hướng thiện, xã hội an định, thuần phong mỹ tục được giữ gìn, nhật nguyệt thanh minh, mưa gió đúng kỳ, thiên tai nhân họa không có,…

Hòa thượng Trần Huyền Trang, tâm nguyện từ bi, lập chí thỉnh kinh Phật về để tế thế trăm họ. Ông đã mất 17 năm ròng đi đến Tây vực Ấn Độ và mang về được 657 bộ kinh. Rồi lại an tịnh tại Chùa Từ Ân ở Trường An, biên dịch toàn bộ kinh thư sang Hán văn. Đường Thái Tông hết lòng mong mỏi, phò trợ, và quảng truyền Phật Kinh. Đường Thái Tông viết lời tựa cho các bản dịch Kinh của Trần Huyền Trang như sau: Văn tự khí thế khai khoát, văn bút điền nhã, âm dương tuyệt luân, tứ thời biến ảo, hoành quan và vi quan, thật là Công năng giáo hóa của Phật Pháp. Và hết lời tráng cử công lao thỉnh kinh của Hòa thượng Huyền Trang.


V. Đối ngoại và Giao lưu Văn hóa

Đường Thái Tông đề xướng chính sách đối ngoại: “Nhu hoài vạn quốc”. Thiên triều Trinh Quán được kính ngưỡng và tôn phục bởi các ngước lân bang; hơn 300 quốc gia và bộ lạc thường gửi sứ giả đến Trung Quốc. Vì thế triều đình đã thiết lập rất nhiều hồng lô tự, điển khách thự, lễ tân viện, và nhân lực để tiếp đãi các sứ thần của các nước năm châu. Nhiều quốc gia Á Châu và Phi Châu thường gửi sứ thần đến Trung Quốc. Nhiều quốc gia nhận làm “thần dân” của Đường Triều. Trong số các học giả đến kinh thành Trường An để học hỏi văn hóa Đường có không ít vương hầu, khanh tướng, sứ thần, lưu học sinh, nghệ nhân, tăng lữ…Trường An trở thành kinh đô thế giới. Quốc Tử Giám là học viện danh tiếng lẫy lừng nhất thế giới. Nhật Bản gửi 19 phái đoàn đến Trung Quốc, tổng cộng có hơn 5.000 người. Các học giả trên khắp thế giới đều thừa nhận danh tiếng của học viện Quốc Tử Giám. Sau nhiều năm học tập, môn sinh có thể được bổ nhiệm làm việc tại Trung Quốc, hoặc có thể quay về cố quốc để quảng bá học vấn và văn hóa Trung Hoa. Hòa thượng ở các quốc gia khác được lưu trú trong các chùa chiền, và miệt mài để học tập Kinh Phật. Nhiều nước mời các vị thầy ở Trung Quốc đến để dạy cho nước của họ. Ví dụ, cao tăng Giám Chân đến Nhật Bản 6 lần, mang tượng Phật và Kinh Phật đến Nhật Bản và hoằng dương Phật giáo cùng văn hóa Thịnh Đường cho Nhật Bản. Vì thế, Ngài là người có công lớn trong việc giao tế và xây dựng văn hóa của 2 nước Nhật Bản và Trung Quốc.

Văn hóa Thịnh Đường là nền văn mình huy hoàng và xán lạn sẽ vĩnh viễn tỏa sáng trong tâm khảm của người dân Trung Quốc. Nó cũng trở thành kho báu của thế giới, có nội hàm thâm viễn ảnh hưởng lớn mạnh văn hóa các quốc gia. Nó là trang sử hào hùng lộng lẫy nhất cổ kim, còn mãi trong niềm kiêu hãnh và tự hào của nhân dân Trung Hoa. Thiên triều thịnh trị, cùng với lòng nhân từ, uy dũng, và quan minh chính đại của Đường Thái Tông sẽ vĩnh viễn không lu mờ trong ký ức của muôn triệu người dân.
Trung Quốc ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc tự lập chính quyền, khuếch trương bạo lực, tuyên truyền dối trá, tẩy não dân chúng, sử dụng thủ đoạn chính trị “Ác, Đấu” của văn hóa Đảng phá hoại truyền thống, tiêu diệt tinh hoa, bức hại nhân dân sa vào đọa lạc, đưa đất nước Trung Quốc, văn hóa Trung Quốc đến bên bờ vực thẳm.

Những nhân sỹ chính nghĩa, học lực uyên thâm, kiên tín chân lý, duy trì đạo đức và công lý, chính là niềm hy vọng của quốc gia và dân tộc Trung Hoa.


Tư liệu sưu tầm.
 
bai nay viet cung duoc song chua du chi tiet . trong cuon Buoc thinh suy cua cac trieu dai phong kien co du hon. HO Noi ro ve che do ruong dat, chinh tri, van hoa ma day 800 trang
 
Năm 618, cuộc nội chiến kết thúc, Đường quốc công Lý Uyên là người thắng trận. Ông tái thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời đại nhà Đường và được tôn xưng là Đường Cao Tổ. Tuy nhiên, các con ông lại đánh nhau để giành quyền thừa kế ngai vàng. Hai người con trai của ông là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đã thiệt mạng trong cuộc tranh giành quyền lực này. Lý Uyên chỉ còn một sự lựa chon duy nhất là Lý Thế Dân, con trai đã trưởng thành duy nhất còn sống sót[4]. Năm 626, Lý Uyên nhường ngôi là cho Lý Thế Dân, người mà về sau đã đưa đất nước Trung Quốc quay trở lại thời thịnh vượng và vàng son.

Tuy nhiên, người thừa kế của Thái Tông Lý Thế Dân là Cao Tông lại là một người ốm yếu như nhược, và là nguyên nhân làm cho Trung Quốc rơi vào xung đột và giết chóc. Quá trình hỗn loạn này bắt đầu khi người thiếp của Cao Tông là Võ Tắc Thiên, tìm cách thúc đẩy ông ta đưa bà lên thay hoàng hậu. Võ Tắc Thiên dùng những phương cách truyền thống để tống khứ những kẻ đối nghịch: bà giết hoàng hậu cùng một số kẻ khác. Võ Tắc Thiên trở thành Hoàng hậu, và bà đày ải, giết hại và bắt hàng chục quan chức lớn tuổi tự sát. Võ Tắc Thiên, vị nữ Hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Võ Tắc Thiên, vị nữ Hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Vua Cao Tông phải chịu một sự khủng hoảng trong 11 năm cầm quyền của mình, trở nên yếu đuối và tầm thường. Võ Hậu củng cố hơn nữa quyền lực của mình. Bà giết các tôn thất họ Lý mà bà coi là đối thủ, và bà đưa các thành viên gia tộc của mình lên nắm quyền. Năm 690, bà phế truất chính người con của mình là Lý Đán để tự mình lên làm vua khi đã 67 tuổi, lập nên một triều đình ngắn ngủi với danh hiệu là Chu.

Võ Tắc Thiên là vị Nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bằng cách sử dụng những kẻ chỉ điểm, bà lập lên một chính quyền cai trị dựa trên sự sợ hãi. Bà thanh lọc các trí thức Khổng giáo và các thành phần chống đối khác. Nhưng bà cũng xây dựng lên một nền tảng chính trị bằng cách cung cấp đủ những nhu cầu công cộng và thăng chức cho những vị quan ủng hộ mình. Bà rất sùng kính đạo Phật và tập trung quanh mình những người đàn ông sùng đạo như bà, các nhà sư và ra lệnh dựng chùa ở mọi quận huyện.

Khi tuổi đã già, nữ hoàng họ Võ mất dần quyền kiểm soát triểu đình, và năm 705 các quan lại ở triều buộc bà rút lui để trả lại ngôi vua cho một người con của bà là Lý Hiển, vốn đã bị bà phế truất vào năm 684. Trung Tông Lý Hiển trở lại ngai vàng và cai trị tới tận khi ông chết vào năm 710 - vợ ông, hoàng hậu họ Vi, bị nghi ngờ đã đầu độc ông. Vi hậu tìm cách cai trị giống như Võ hậu. Bà bán chức tước và quyền làm sư sãi, và bà cũng đứng đằng sau những vụ tham nhũng trong triều. Bà đã tạo ra các đối thủ mà bà không thể tiêu diệt, và họ đã tập hợp lực lượng để làm cuộc đảo chính giết chết Vi hậu, đưa vị vua vốn cũng bị Võ Tắc Thiên phế truất là Lý Đán trở lại ngai vàng.

Đến lượt các đồng minh này lại đánh nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh giành quyền lực nhanh chóng kết thúc với ưu thế tuyệt đối của một hoàng tử nhà Đường, người được kế thừa ngôi vua vào năm 712, Huyền Tông Lý Long Cơ.

Huyền Tông lên nắm quyền ở tuổi 28 và ở ngôi 44 năm. Ông năng động và can đảm, và dưới thời ông, sự thịnh vượng quay trở lại. Nhưng vào những năm cuối đời ông ngày càng bị lôi cuốn vào tư tưởng Đạo giáo và không quan tâm đến cai trị nữa. Sau năm 745 ông say mê một người thiếp của mình là Dương Quý Phi và bỏ rơi triều chính. Triều đình trở nên hỗ loạn bởi sự tranh giành ảnh hưởng của các đại thần trong triều và các quân phiệt địa phương. Trung Quốc nhanh chóng lại rơi vào tình trạng suy sụp.

Năm 715, các đội quân Hồi giáo đánh bại Trung Quốc ở Trung Á, cắt đứt con đường dẫn tới phía Tây và Ấn Độ của Trung Quốc. Những người Hồi giáo thay thế người Trung Quốc trong vị thế ảnh hưởng thống trị dọc theo Con đường tơ lụa, và các tiểu quốc bộ tộc ở biên giới Trung Quốc dần dần có nhiều ảnh hưởng. Năm 755, An Lộc Sơn, một vị tướng có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ và là tình nhân của Dương Quý Phi tiến đánh kinh thành Trường An, buộc Huyền Tông và triều thần phải lưu vong. Cuộc bạo loạn này tuy chỉ kéo dài trong 8 năm (756-763) và con Huyền Tông là Lý Hanh cuối cùng cũng lấy lại được ngai vàng, nhưng cuộc tranh quyền lực giữa các đại thần trung ương và các thủ lĩnh quân sự địa phương vẫn diễn ra gay gắt.

Trong thời Vũ Tông Lý Viêm, vốn là người theo Đạo giáo, ông cho đóng cửa chùa Phật giáo, bắt sư sãi đạo Phật phải hoàn tục và tịch thu hàng triệu mẫu đất trồng trọt cho nhà nước sử dụng. Đạo Phật ở Trung Quốc sống sót nhưng không bao giờ đạt lại được mức cũ, trong khi đối thủ của Phật giáo, Khổng giáo lại hồi phục lại trong giới trí thức.

Đạo giáo tuy được trọng dụng nhưng không phát triểu được thành quốc giáo. Tuy nhiên, những người theo Đạo giáo đã kiếm lợi được từ việc thực hiện các thí nghiệm hoá học. Những người theo Khổng giáo xem đó như là một phần của sự thô tục của Đạo giáo - như thuộc về những người bình dân. Những nhà Nho vốn có thành kiến xấu về hoá học, điều này đã làm cho khoa học ở Trung Quốc chậm phát triển. Nho giáo tin tưởng việc học tập tốt nhất là dành cho văn học và lịch sử - những kiểu văn học và lịch sử của họ.

Trong cuộc tranh giành quyền lực triều đình, bất ngờ trỗi lên một lực lượng thứ ba. Đó là nhóm các vị hoạn quan. Nhóm này tỏ ra biết các luồn lách khéo léo, lợi dụng của hai bên kia để nắm được quyền lực triều đình. Ở những năm cuối của triều Đường, các hoạn quan hoàn toàn thao túng triều đình, thậm chí có thể lựa chọn người sẽ lên làm vua. Trong 22 vị vua của nhà Đường, thì đã có 10 vị do các hoạn quan lập nên. Tất cả đều ở những năm cuối cùng của triều Đường.


Tư liệu sưu tầm.
 
Tôi không có nhiều thời gian nên cũng chỉ tìm cho bạn một số tư liệu. Bạn hãy viết lại dàn bài và viết hoàn chỉnh nhé !

Nếu tài liệu trên mà bạn đã xem qua rồi thì tôi rất tiếc vì không tìm nhiều hơn được.


Chúc vui !
 
Cam on nhieu. xong toi muon tim ve xa hoi trieu Duong (cac giai cap) cai ban tim cho chi co van hoa thoi. font chu cua toi ko viet tieng viet duoc mong ban thong cam
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top