Trả lời chủ đề

Hoa Sen - Biểu tượng văn hóa Việt Nam



Tôi không biết thực sự Hoa Sen có phải là biểu tượng Văn hóa của Việt Nam ta không,nhưng tôi yêu quý loài hoa này. Và tôi nhận đựơc nhiều sự đồng cảm của nhiều thế hệ người Việt Nam ta với loài hoa này. Tôi hi vọng Nhà nước sớm có văn bản pháp qui về điều này.



Hoa sen - Biểu tượng văn hóa con người Việt Nam.


Tồn tại từ ngàn năm cùng với cây cỏ thiên nhiên đất nước, hoa sen không  chỉ là người bạn thân thiết mà còn được xem như là biểu trưng văn hoá  bén rễ sâu trong tâm thức người dân Việt.


Hoa sen có tên khoa học là Nelumbonaceae, thuộc loài túc thảo, môi  trường sống tự nhiên của hoa sen ở vùng đầm lầy, ao, hồ nông hoặc ở vùng  sâu ngập nước. Theo các nhà khoa học, sen đã có mặt trên trái đất  khoảng từ gần 100 triệu năm trước. Hiện nay trên thề giới còn hai loại  sen hoa vàng (Nelumbonaceae Pers) có ở miền Bắc và miền Trung Châu Mỹ và  hoa sen đỏ ( Nelumbo Nucifera Gaertn) mọc phổ biến ở nhiều nước Châu Á  và Châu Úc. Mùa hè là mua sen nở và hương sen dịu nhẹ có thể thoảng  trong gió bay xa đến vài trăm mét. Ở Việt Nam, sen được xếp vào bộ tứ  quý ( 4 mùa): Lan, sen, cúc, mai và xếp vào hàng “tứ quân tử” cùng tùng,  trúc, cúc.


Hoa sen rất thích hợp với môi trường có khí hậu nhiệt đới như nước ta.  Từ Bắc vào Nam, nó có mặt khắp mọi nơi, gần gũi và thân thiết với mọi  người như cây tre, cây đa. Nếu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè,  thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm,  đặc biệt ở vùng Đồng Tháp Mười:


Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ


Trong lòng mỗi người dân Việt, sen là loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp tươi sáng, cao sang và thuần khiết mang tính chất dân tộc. Chính vì thế,  hoa sen luôn là nguồn cảm hứng bất tuyệt của thi ca và nghệ thuật... Có  lẽ, không người Việt Nam nào không thuộc bài ca dao đầy tính triết lý  này:


Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhuỵ vàng

Nhuỵ vàng bông trắng là xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn


Người Việt đã cảm nhận được ý hay “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”,  sen sống trong bùn nhưng sen vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen  có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, vô  nhiễm. Nó tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh  thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh của con người Việt Nam. Đặc biệt  trong tư tưởng Phật giáo, hoa sen được tôn quý và chiếm vị trí rất quan  trọng. Tinh thần “cư trần bất nhiễm trần”, đó cũng chính là ý nghĩa của  hoa sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh  thiện, sự duy trì và phát triển của Phật pháp, trí tuệ dẫn đến niết bàn.  Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành  hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu  lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa  này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của vua Lý Thái Tông. Cảm  hứng từ mộng là loại tâm lý nghệ thuật của các dân tộc phương Đông. Chùa  có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” một cọng  sen. Ở đây, hoa sen là sự giác ngộ, đạt được sự trong sáng và giải thoát  khỏi bùn nhơ...


Không chỉ vậy, hoa sen còn gắn bó và hiện diện trong đời sống hàng ngày  của người dân Việt: Tâm sen dùng để ướp thuốc, hương sen dùng để ướp  chè, ngó sen dùng để làm món ăn, lá sen cũng dùng để gói bánh, gói cốm  và nó mang lại mùi thơm đặc biệt.


Cảm nhận được vẻ đẹp tinh tuý và ý nghĩa thanh cao của hoa sen nên từ  cánh đồng nơi thôn dã, từ trong đời sống dân gian, ẩn sâu trong tiềm  thức của người dân Việt, hoa sen đã trở thành hình ảnh Việt Nam trên bầu  trời cao. Hãng hàng không Việt Nam (Vietnam Airline) đã chính thức chọn  biểu tượng bông sen vàng sáu cánh để kết nối Việt Nam với các nước khác  trong thiên niên kỷ này.


Sen thơm, hương lại hữu sắc. Dù trong hoàn cảnh nào sen cũng hàm chứa  trong nó sự tinh tế, thuần khiết, cao đẹp. Nó thật sự là biểu trưng tiêu  biểu nhất cho văn hoá và cốt cách nhân văn của người Việt Nam.


Hoa sen có cả sắc lẫn hương và sự vươn lên khỏi bùn nhơ để nở hoa của nó  đã làm cho loài hoa này mang một ý nghĩa đặc biệt. Hoa sen có mặt trong  hầu hết các lĩnh vực từ văn học nghệ thuật cho đến kiến trúc hội hoạ,  và đặc biệt là tôn giáo... Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn  trên thế giới. Đối với Phật giáo, hoa sen hiển hiện khắc nơi từ trong  kinh điển cho đến các sản phẩm thờ cúng, tư thế ngồi thiền, cách chấp  tay... Hầu như ở đâu có Phật giáo người ta sẽ tìm thấy ở đó có hoa sen,  hay nói cách khác hoa sen là biểu tượng của Phật giáo.


Hoa sen thể hiện trong kiến trúc chùa, tháp


Trong nghệ thuật Việt Nam, hình tượng hoa sen dày đặc từ các phù điêu,  đá tảng kê chân cột, bệ tượng Phật đến các dáng gốm và hoạ tiết trang  trí. Song cô đọng và sáng tạo hơn cả là hình tượng hoa sen trong kiến  trúc chùa tháp Phật giáo.


Những công trình kiến trúc tiêu biểu với hình tượng hoa sen thường xuất  hiện trong những giai đoạn hưng thịnh của Phật giáo. Đó là thời Lý thế  kỷ thứ 11 với Chùa Một Cột - Hà Nội; thế kỷ thứ 17 với Tháp Cửu phẩm  liên hoa, Chùa Bút Tháp - Bắc Ninh; thế kỷ 18 với Chùa Tây Phương - Hà  Tây, Chùa Kim Liên - Hà Nội.


Theo truyền thuyết chùa Một Cột hình thành từ một giấc mộng của vua Lý  Thái Tông. Vào một đêm mùa xuân năm Kỷ Sửu (1049), vua nằm mộng thấy  Phật Quan Âm ngồi trên đài hoa sen, dẫn vua lên đài. Khi tỉnh dậy, vua  nói chuyện lại với triều thần, có người cho là điềm xấu, nhưng thiền sư  Thiền Tuệ thì khuyên vua nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, xây đài hoa  sen có tượng Phật Quan Âm ở trên, đúng như hình ảnh đã thấy trong mộng.  Các nhà sư chạy đàn xung quanh, tụng kinh cầu sống lâu và đặt tên là  chùa Diên Hựu.


Hình tượng hoa sen ở Tháp Cửu phẩm liên hoa, Chùa Bút Tháp là một tổ hợp  kết cấu gỗ dạng tháp quay chín tầng chồng lên nhau. Mỗi tầng có một đài  sen rộng chừng 2 m, cao 50 cm. Cả tháp cao 7 đến 8 m. Phía ngoài tháp  các cánh sen bằng gỗ sơn đỏ tạo thành tầng tầng lớp lớp so le nhau. Tầng  một đến tầng chín biểu hiện cho những nấc thang của sự tinh tiến trong  đạo Phật.


Hoa sen trong các sản phẩm trang trí – thờ tự


Điều dễ dàng nhận thấy ở đây là hoa sen đã quá đỗi gần gũi với nhà chùa.  Trên mái lợp của chùa cũng có hoa sen, gạch lót nền, những phù điêu  trên vách, những chạm trổ trên cửa đều có hoa sen, thậm chí thông gió  cũng là hình hoa sen… Điều này muốn nói lên rằng, ngoài tính biểu tượng  cho những gì thuộc về triết lý cao siêu của nhân sinh, của Phật giáo;  ngoài những gì thuộc về tính “bác học”, hoa sen còn in đậm dấu ấn của  mình trong tâm khảm của những nghệ nhân, những người thiết kế, những  người tạo mẫu cho các sản phẩm xây dựng, trang trí. Ở đó, những đường  nét của hoa sen cũng sống động, cũng hài hòa, thanh thoát.


Ở đây, người viết cho rằng những kiểu thức khác nhau trong cách thể hiện  hoa sen có thể phân làm ba phong cách căn bản đó là Ấn Độ, Tây Tạng và  Trung Quốc.


Với phong cách Ấn Độ, chúng ta dễ nhận thấy sự ảnh hưởng của nó trong  tranh tượng – phù điêu của các nước như: Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt  Nam (Nam Tông - Khơme). Phong cách Tây Tạng đó là hoa sen với màu sắc  sặc sỡ (chủ yếu là các màu nóng), và ít có tầm ảnh hưởng đến các nước  khác. Có lẽ, Tây Tạng biệt lập với bên ngoài và thời tiết giá lạnh nên  đã hình thành một phong cách rất riêng không thể trộn lẫn vào đâu được.  Đối với phong cách Trung Quốc, và cũng là Việt Nam (Bắc Tông), người ta  nhận thấy ở đây sự đơn giản trong cách thể hiện, không có nhiều những  yếu tố cách điệu chồng chất lên nhau như Ấn Độ và cũng không quá màu sắc  như Tây Tạng.


Thể hiện sự thanh khiết, hoa sen đã có mặt trong hầu hết các sản phẩm  thờ cúng. Người ta bắt gặp ở đây rất nhiều từ trong chân đèn, lư hương,  bình hoa, tách trà, đĩa bày trái cây, hộp đựng trầm… được thiết kế theo  những kiểu thức hoa sen. Các sản phẩm thờ cúng này hầu như đều có hình  dáng của hoa sen, hoặc ít ra thì hoa sen cũng được vẽ hay chạm trổ ở  trên nó. Đây là điều vừa tạo nên yếu tố thẩm mỹ, vừa mang ý nghĩa thanh  sạch. Cũng liên quan đến vấn đề thờ cúng này, hình tượng hoa sen còn  được dùng để làm cái chum/hủ đựng cốt của người chết. Thể hiện một niềm  tin được tái sinh vào cõi an lành hay một kiếp sống không còn khổ đau  trần thế, hoa sen được xem là nơi trú ngụ của linh hồn sau khi chết và  đợi đi tái sinh.


Hoa sen và yếu tố linh thánh


Hoa sen là loại hoa có bốn đặc tính vượt trội hơn các loại hoa khác: 1. Ở  bùn lầy mà không ô nhiễm; 2. Hoa và quả kết cùng một lúc; 3. Loài ong,  bướm không hút lấy hương nhụy; 4. Phụ nữ không dùng hoa sen để trang  điểm như giắt trên đầu. Do hoa sen không bị nhiễm bởi bùn nhơ, nên nó  được dùng làm biểu trưng cho tánh giác tự nhiên của Phật, tổng quát hơn  là biểu trưng cho Phật.



Trong Phật giáo, hoa sen biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần  khiết và thánh thiện. Hoa sen còn biểu trưng cho trí tuệ siêu việt. Nó  thể hiện niềm khao khát giác ngộ. Trong Mật điển có thần chú Lục tự Đại  minh là tâm chú của ngày Quán Thế Âm Bồ Tát: "Om Mani Padme Hum" (Án Ma  Ni Bát Di Hồng). Trong đó, Padme tiếng Tây Tạng có nghĩa là hoa sen,  biểu tượng cho trí tuệ siêu việt, trí tuệ chứng ngộ tự nhiên vượt ra  ngoài vòng vây hãm của nhị nguyên luận.


Hoa sen trong quan niệm truyền thống không ít trường hợp được coi là  biểu trưng của sự sinh sản, của sự sáng tạo. Người ta cho rằng hoa là bộ  phận sinh dục của cây. Điều này hoàn toàn đúng xét về mặt sinh vật học  lẫn về mặt văn hóa, nhất là văn hóa cổ đại, khi quan hệ giới tính còn  được coi là thiêng liêng, là nguồn cội của lẽ sinh thành vạn vật. Hoa  sen với gương sen của nó chứa đựng những chủng tử (hạt sen) đã được coi  là biểu trưng của cơ quan sinh sản và sen là biểu trưng cho sự thịnh  vượng, cho Phúc, một trong ba điều tối hảo: Phúc - Lộc - Thọ của người  Trung Quốc.


Trong lịch sử Phật Thích Ca từ lúc đản sinh cho đến lúc nhập diệt, Ngài  đều ở trên hoa sen. Điều này biểu trưng cho tinh thần bất nhiễm trần của  người giác ngộ lẽ đời, và cũng tượng trưng cho trí tuệ, cho triết lý  cao siêu của Phật giáo.


Hoa sen trong tâm thức Phật giáo


Đối với người Ai Cập, sen được biểu hiện cho dương khí. Nhưng đối với  Nam Á và phương Đông, sen lại chứa nhiều yếu tố âm, nó là bóng dáng của  phái đẹp. Trong nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam, chúng ta từng gặp những  đài sen là chỗ ngồi của Phật và các linh vật ở miền tịnh thổ (đất Phật)  biểu hiện cõi chân như, yên lặng tuyệt đối, cõi không sinh, không diệt.  Những người theo đạo Phật thường hiểu sen với những đường gân của nó như  84 vạn pháp môn chảy chung về một nguồn, đó là cuống sen và cũng chính  là nguồn giải thoát, là nhất chính đạo đi về một hướng để chuyển tải  Phật pháp hoà nhập vào cuộc đời.



Từ khi Phật giáo xuất hiện cho đến ngày nay, hoa sen với những ý nghĩa  của nó đã thấm sâu vào tâm thức Phật giáo. Những triết lý tưởng chừng  như bỏ ngõ cuộc đời, xa lánh cuộc đời trần thế lại là những triết lý có  nguồn gốc từ những khổ đau của chúng sanh. Đức Phật đã từng nói với các  đệ tử của mình, như nước đại dương chỉ có một vị mặn, giáo lý của Như  Lai cũng chỉ có một vị là giải thoát. Vị giải thoát đó chính là cởi trói  cho những ràng buộc, những khổ đau, những cố chấp, bám víu .v.v… của  chúng ta trong cuộc đời. Như thể hoa sen, lấy chất liệu là bùn nhơ, nước  đục nhưng hương sắc của nó làm ấm áp lòng người.


Hoa sen trong kinh Phật biểu tượng cho chân lý. Và chân lý đó là chân lý  hiện thực trong cuộc đời. Về mặt xã hội và tôn giáo, hoa sen biểu trưng  cho con đường "nhập thế sinh động" của Phật giáo. Đó là những thành ngữ  thường được dùng như "Cư trần bất nhiễm trần" (Sống trong trần thế  nhưng không bị ô nhiễm bởi trần thế), hoặc "Phật pháp bất ly thế gian  pháp" (Phật pháp không rời các pháp thế gian mà có), hoặc "muốn đến Niết  bàn hãy vào đường sinh tử" v.v... Về mặt triết lý, hoa sen tượng trưng  cho nhân quả cùng thời...



Nguồn :Sưu tầm.


Top