Hình ảnh "thân em ..." trong ca dao trữ tình đồng bằng sông Cửu Long

hoangphuong

New member
HÌNH ẢNH "THÂN EM ..." TRONG CA DAO TRỮ TÌNH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

1- Xét về mặt hình thức, so sánh tu từ thường công khai phô bày hai vế: vế so sánh và vế được so sánh. Mỗi vế như thế có thể bao gồm một hoặc vài đối tượng. Các đối tượng này có thể là sự vật, tính chất hoặc hành động. Hai vế so sánh này là khác loại nhưng có nét tương đồng nào đấy do sự liên tưởng, phát hiện của người dùng. Do đó, xét về mặt nội dung, cơ sở để tạo nên so sánh tu từ là sự liên tưởng để tìm ra nét giống nhau giữa các đối tượng. Nếu nét tương đồng này được biểu hiện bằng những từ ngữ cụ thể, ta có so sánh nổi. Nếu nét tương đồng ẩn đi không được diễn tả bằng những từ ngữ cụ thể, ta có so sánh chìm. Cấu trúc so sánh tu từ theo mô tip “Thân em như...” là cấu trúc so sánh nổi. Cấu trúc này bao gồm bốn yếu tố và được phân bố theo trật tự sau:

Vế so sánh Từ so sánh Vế được (bị) so sánh Cơ sở so sánh (nét giống nhau)
(1) (2) (3) (4)
Thân em như hạt mưa sa hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Thân em như ớt chín cây càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng

Cấu trúc so sánh này còn được gọi là cấu trúc so sánh triển khai, trong đó câu bát giải thích, nói rõ nét giống nhau giữa vế được (bị) so sánh với vế so sánh. Bên cạnh cấu trúc so sánh “Thân em...” , chúng ta còn gặp cấu trúc tương tự là “Em như...”. Ví dụ:

- Em như cá lượn đầu cầu,
Anh về lấy lưới, người câu mất rồi.

- Em như ngọn cỏ phất phơ,
Em như con nghé ngu ngơ ngoài đồng.

- Em như hoa nở trên cành,
Anh như con bướm lượn vành bên hoa.​

Có gì khác nhau giữa hai cấu trúc so sánh này? Xét về mặt hình thức ta thấy giữa hai cấu trúc trên không có sự khác nhau. Cả hai đều là cấu trúc so sánh nổi. Xét về mặt nội dung biểu hiện chúng ta cũng thấy giống nhau. Điều này thể hiện rõ nếu ở cấu trúc “Thân em...” ta lược bớt từ “thân” thì nội dung thông báo cơ sở cũng không có gì khác. Ví dụ:

Thân em như ớt chín cây,
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng. (1)

- Em như trái ớt chín cây,
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng. (2)
Dù hai cấu trúc trên có sự giống nhau về nội dung thông báo nhưng lại khác nhau về sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm. Cấu trúc “Thân em...” có tính chất nhấn mạnh, khẳng định. Chủ thể trữ tình thể hiện sự tự ý thức về thân phận của mình và sắc thái biểu cảm có phần chua xót hơn, đau đớn, day dứt hơn. Từ “thân” ở đây không phải chỉ nói đến con người về mặt thể xác, thể lực nói chung mà còn nói về cái cá nhân, riêng tư của mỗi người. Cái “thân” ở đây gắn liền với cái “phận”. Ca dao cũng có biến thể sau: “Phận em như cá vô lờ, mắc cái hom chật hẹp biết bao giờ mới lộn ra”. Trong xã hội cũ, có bao giờ người phụ nữ định đoạt được số phận của mình. Hình ảnh “Thân em...” vì thế vừa mang tính cụ thể, vừa có khả năng khái quát cao; nó dễ đi vào lòng người, tìm được sự đồng cảm của bao người.

2- Trong ca dao trữ tình đồng bằng sông Cửu Long, cấu trúc so sánh "Thân em..." không nhiều nhưng cũng góp thêm vào kho tàng ca dao dân tộc những hình ảnh so sánh mang đậm nét địa phương. Nó không chỉ làm phong phú thêm những hình thức biểu hiện mà còn cả về giá trị biểu đạt. Ví dụ như:

- Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập gió dồi, biết ghé vào đâu?

- Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi, biết tấp vào đâu?

- Thân em như cá rô mề
Lao xao buổi chợ biết về tay ai?​

Sự phong phú này không phải chỉ do tác giả dân gian luôn tìm cách nói mới mẻ. Các hình ảnh so sánh là kết quả của trí tuệ, tâm hồn, tính cách, nếp nghĩ, thói quen, cách nói và cả phong thổ, cảnh quan cùng điều kiện lịch sử tạo nên. Nếu như trong ca dao Bắc bộ, "Thân em" được so sánh với những hình ảnh như: "tấm lụa đào", "hạt mưa sa", "hạt mưa rào", "giếng giữa đàng",... (Thân em như tấm lụa đào, Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai; Thân em như hạt mưa rào, Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa; Thân em như giếng giữa đàng, Kẻ khôn rửa mặt người phàm rửa chân; ca dao Trung bộ là: "cá vô lờ", "áo mới may", "hạt cau khô" (Thân em như áo mới may, Như cau trăm miếng bỏ trên khay trầu...; Phận em như cá vô lờ, Mắc cái hom chật hẹp biết ngày nào ra; Thân em như miếng cau khô, Kẻ thanh chuộng mỏng, người thô chuộng dày...)... thì ở ca dao đồng bằng sông Cửu Long, chúng ta lại bắt gặp những hình ảnh như: "trái bần trôi", "bèo trôi", "cá rô mề"...Cả ba hình ảnh vừa kể đều là ba hình ảnh gắn bó với đồng lúa, miệt vườn, sông nước của đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói, sông nước, kênh rạch, ruộng vườn cùng với hệ động, thực vật phong phú của nó đã đi vào tâm thức ngôn ngữ và tư duy thẩm mĩ của cư dân vùng đất mới.

2.1. "Cá rô mề" lại được so sánh với "thân em"! Quả là một sự liên tưởng, phát hiện bất ngờ. Người con gái ở đây không chỉ bất lực, không tự định đoạt số phận của mình như trong bài ca dao miền Trung "Thân em như cá giữa rào, Kẻ chài người lưới biết vào tay ai?" mà còn bị đẩy đến mức cùng cực bất hạnh hơn. Nếu hình ảnh trên chỉ thể hiện một cảm hứng về thân phận trôi nổi, bấp bênh, không định đọat được cuộc đời mình thì hình ảnh "cá rô mề giữa chợ" thể hiện sự bất lực, buông xuôi, vô vọng, không lối thoát..."Thân em" giờ được ví như món hàng bày bán ở chợ đông. Giữa sông nước mênh mông, dẫu trôi nổi, vô định vẫn còn được tự do (người ta hay nói "chim trời, cá nước") vẫn có thể ước mơ, hi vọng; nay đã nằm phơi mặt nơi chợ đời thì rơi vào tay ai cũng là bất hạnh vì có người nào mua "cá rô mề" về nuôi trong chậu để “được” lâm vào cảnh “cá chậu, chim lồng”! Nếu "Thân em như cá giữa rào..." chỉ dừng lại là lời than thở thì hình ảnh "Thân em như cá rô mề..." đã dầm dề những giọt lệ tủi buồn, ai oán. Thân em dù rơi vào tay ai cũng chẳng ra gì. Chẳng chút ước mơ, chẳng niềm hi vọng. Chủ thể trữ tình đã gieo vào lòng người đọc một nỗi rung động, đồng cảm sâu xa về thân phận, nỗi bất hạnh của người phụ nữ ngày xưa.

2.2. Hình ảnh "bèo" đem đến cho chúng ta một giá trị biểu đạt khác. Chúng tôi không muốn nói hình ảnh nào là hay hơn mà chỉ đề cập đến nét riêng trong sự thể hiện. So với ca dao những vùng khác và nhất là ca dao Bắc bộ, chúng ta thấy hình ảnh so sánh "Thân em..." của ca dao đồng bằng sông Cửu Long có sự khác nhau về mức độ biểu hiện. Dù đều nói về thân phận người phụ nữ, nhưng hình ảnh so sánh trong ca dao Bắc bộ thường là những hình ảnh đẹp, có giá trị và cần thiết cho mọi người. Hình tượng người phụ nữ ở đây dù không tự định đoạt được số phận của mình nhưng họ có ý thức là "người có giá". "Tấm lụa đào" thời xa xưa nào phải là món hàng dành cho người nghèo khó? "Hạt mưa" cần thiết biết bao cho con người. Trong văn chương trung đại, người ta dùng hình ảnh "mưa móc" để ví ân huệ từ trên ban xuống. Sinh hoạt ở nông thôn miền Bắc trước đây nếu thiếu những "cái giếng làng" thì sẽ như thế nào? Tóm lại, "tấm lụa đào", "cái giếng", "hạt mưa"... là những hình ảnh gần gũi, cần thiết, nếu không nói là khó thể thiếu. Chính vì ý thức về giá trị của mình nên sự than thân trách phận của họ dường như chỉ dừng lại ở sự lo lắng, trăn trở không biết cuộc đời của mình rồi sẽ ra sao. Ở đây nó thể hiện một lời than, một sự bất lực, một nỗi lo lắng vì không định đoạt được số phận của mình nhưng vẫn còn toát lên niềm mơ ước, hi vọng và cơ hội vẫn còn. Mơ ước về một tương lai tốt đẹp đối với họ là hoàn toàn có cơ sở, không quá xa vời. Chính vì thế, nó ít khi kết thúc bằng một dấu chấm hỏi tu từ day dứt mà chỉ dừng lại ở sự giãi bày, tâm sự. Nhưng còn hình ảnh "bèo"? Nó gợn lên cái gì đó hẩm hiu, rẻ rúng, chua xót, cô đơn đến tội nghiệp. Hình ảnh "bèo" thường kết hợp với "bọt" để tạo nên từ kép hợp nghĩa "bọt bèo". Hình ảnh ấy có mấy ai đoái hoài? Đấy là hình ảnh dùng để ví những gì không có giá trị hoặc có giá trị thấp hơn mức thường: giá bèo, rẻ như bèo... Hình ảnh này thường được dùng để so sánh với những con người đáng thương, những số phận bị vùi dập, những cuộc đời hẩm hiu không nơi nương tựa. Ví thân mình như cánh bèo trôi lại bị "sóng dập gió dồi", chủ thể trữ tình dường như đã rơi vào sự tuyệt vọng, cùng đường và không còn gì, không có gì để lựa chọn.

Tuy nhiên, hình ảnh "bèo" phần nào mang tính ước lệ, tượng trưng. Đây là hình ảnh khá quen thuộc trong văn chương. Nhiều thành ngữ ẩn dụ có hình ảnh này như: "bèo dạt, hoa trôi", "bèo dạt, mây trôi", "bèo hợp, mây tan", "bèo trôi sông nước", "bèo nước lênh đênh"... thường có nét nghĩa phiêu bạt, trôi nổi đó đây, không ổn định hay nói về sự hợp tan, li biệt...Do đó, giá trị biểu đạt của hình ảnh so sánh "Thân em như thể bèo trôi..." phần nào mang tính khuôn sáo, giá trị biểu đạt không cao và chưa tiêu biểu lắm cho ca dao đồng bằng sông Cửu Long.

2.3. Theo chúng tôi, hình ảnh độc đáo nhất, sáng tạo nhất, mang tính phát hiện nhất và đồng thời cũng thể hiện nét riêng nhất của vùng sông nước là hình ảnh "trái bần". Bần là một loại cây to mọc dọc theo bờ sông, quả tròn, dẹt, ăn chua và chát, có rễ mọc ngược lên khỏi mặt bùn, nhọn và xốp. Có thể nói đây là loại cây rất quen thuộc của vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long nhưng cũng là loại cây có giá trị kinh tế thấp. So với các loại cây vùng nước lợ mọc ở ven sông như: mắm, tràm, đước... cây bần thua xa về giá trị sử dụng. Cây bần có trái ăn được nhưng chua và chát. Dù "mang tiếng" là trái nhưng nó không phải là một loại quả đúng nghĩa. Nó không bao giờ được nằm cùng mâm, sánh vai ngay cả với những loại cây trái bình dân, rẻ tiền như: cóc, ổi, mận, bình bát ...chứ đừng nói chi những loại trái cây đắt tiền khác... Trái bần chín lúc lắc trên cành như trêu ngươi cũng chưa chắc có người để mắt huống chi lại trôi dạt, bập bềnh, dập dềnh trên dòng nước. Thân phận ấy chỉ chờ ngày thối rữa, mục nát để rồi phân hủy, hoá thân theo dòng nước, bãi sình nơi nó đã sinh ra. Hình ảnh "trái bần" lại đồng âm với tính từ "bần" có nghĩa là nghèo tạo nên một sự cộng hưởng về nét nghĩa biểu hiện. "Trái bần" ở đây không cố định như "cái giếng giữa đàng" hoặc di động nhẹ nhàng và có phần khoe sắc của "tấm lụa đào phất phơ trước gió". "Trái bần" ở trạng thái động, nó không phải trôi xuôi mà là trôi nổi, ngoi ngóp, lặn hụp lại còn bị "sóng dập, gió dồi". Cái thân ấy dẫu có tắp vào đâu cũng chẳng ai để mắt; dẫu có được đoái hoài thì cũng không được trân trọng, nâng niu. "Tấm lụa đào" dẫu có rơi vào tay người sang hay kẻ hèn thì cũng được giữ gìn, chăm chút vì nó làm đẹp cho người. “Hạt mưa” thì nơi nào không cần đến, thậm chí hạt mưa ấy dù có phải rơi xuống ruộng cày thì nào đã phí hoài, bỏ đi. Ngày xưa, người ta còn phải lập đàn cầu mưa khi nắng hạn. Hình ảnh so sánh ấy ta thấy có ẩn chứa niềm hi vọng, ước mơ về một bến tốt đẹp. "Tấm lụa đào" còn được người ta chiêm ngưỡng và người muốn sở hữu phải trả một cái giá nhất định nào đó. "Hạt mưa" thì chẳng khác nào ân huệ trời ban, rơi xuống đâu, nơi ấy được nhờ. Còn "trái bần" thì ai cần, ai muốn, ai mong, ai mơ, ai ước? "Trái bần" chẳng có con đường nào để lựa chọn. Nếu có ước mơ thì chỉ là mơ ước tấp đại vào một hốc cây, bờ bụi nào đó cho thôi phải kéo dài thân phận nổi trôi. Sao mà hình ảnh "Thân em..." lại có thể tương đồng với hình ảnh "trái bần"? Tác giả dân gian có quá khoa trương không? So sánh tu từ nào ít nhiều cũng mang tính khoa trương. Thế nhưng, hình ảnh "trái bần" ở đây vẫn mang tính hiện thực, vẫn như là nỗi ám ảnh đối với người đọc về thân phận những con người bất hạnh và đặc biệt là thân phận người phụ nữ phương Nam xưa. Cảm hứng thân phận này có mối quan hệ về cảnh và người cùng thực tế đời sống của những cư dân vùng đất mới trong những ngày đầu mở cõi. Và tất nhiên trong bộ phận cư dân đó có người phụ nữ. Họ chính là người chịu đau khổ nhất, thiệt thòi nhất, bầm dập nhất. Trong cuộc chiến đấu để sinh tồn, không chỉ với thiên nhiên hoang dã mà còn với bọn địa chủ cường hào cướp đất, thân phận của người phụ nữ thật nhỏ bé, bất lực. Tiếng kêu gào, uất ức của họ mấy ai nghe thấy! Nó trôi tuột giữa trời nước mênh mông, lạc lõng nơi sóng vỗ tứ bề, lặn hút trong rừng hoang bãi vắng, mất tăm trên những cánh đồng thẳng cánh cò bay... Và đằng sau đó là một câu hỏi lớn mà họ không lí giải được.

3. Cùng một đối tượng, người ta có thể so sánh với rất nhiều hình ảnh khác nhau qua sự liên tưởng phát hiện đầy sáng tạo của tác giả dân gian. Đối tượng người phụ nữ, và đặc biệt là thân phận của họ là một trong những ví dụ tiêu biểu. Ở mỗi miền, mỗi vùng “Thân em...” lại hiện lên với những hình ảnh khác nhau, phản ánh một cách nhìn riêng, một tư duy thẩm mĩ riêng góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách phô diễn. Sự thống nhất về mặt cấu trúc, sự phong phú đa dạng về hình ảnh liên tưởng đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

Nguồn: Tạp chí Kiến thức Ngày nay số 581, ngày 01-10-2006, tr16 - 19​
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top