Có ý kiến cho rằng bài “ Ngắm trăng” là một cuộc vượt ngục tinh thần của người tù cách mạng Hồ Chí Minh. Hãy chứng minh
GỢI Ý:
Những cuộc vượt ngục trong "Nhật ký trong tù"
1. Như vậy là thực tế và ước mơ, hiện thực và siêu thực, tất cả những mặt ngỡ như đối lập ấy đã cùng tồn tại một cách thật hồn nhiên trong một con người cụ thể, quyện chặt với nhau, và đã nhào luyện thành thơ, thành những bài thơ tù Hồ Chí Minh. Cho nên, cũng có thể nói, về một phương diện nào đấy, Nhật ký trong tù còn là một cách để Hồ Chí Minh vượt khỏi cái lồng giam chật hẹp đang giam cầm mình trên đất Quảng Tây, để trở thành một thực thể tự do, dù chỉ là trong ý tưởng. Không phải ngẫu nhiên mà tác Bài thơ cuối cùng này nguyên không có đầu đề, cũng không có trong tập Ngục trung nhật ký, vì được sáng tác sau khi Bác Hồ đã ra tù. Cũng như các lần in trước, xin tạm thêm đầu đề và đặt vào đây làm bài kết thúc cho tập thơ. Bác Hồ được thả khỏi nhà tù Tưởng Giới Thạch khoảng giữa tháng Chín năm 1943 vì như Bác ghi rõ trong nguyên bản tập Ngục trung nhật ký chấm dứt ngày 10 tháng Chín năm 1943.
Bản dịch này của T. Lan in trong tập "Vừa đi đường vừa kể chuyện", in lần thứ hai; tr.84 NXB Sự thật, Hà Nội 1976. giả đã đặt lên đầu tập thơ một lời đề từ trang trọng: "Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao". Lời đề từ này thực đã gói trọn tâm tình sâu kín của cả tập thơ tù. Không những thế, nếu nhìn rộng ra, hình như nó còn trở thành một phương châm sống quán xuyến toàn bộ cuộc đời Nguyễn ái Quốc, cuộc đời một người cách mạng mà cảnh ngộ luôn luôn bị đặt trước những tình huống đầy bất ngờ, những cục diện lịch sử hết sức hiểm nghèo và phức tạp mà sự giải quyết đúng sai của mình có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh của cả một dân tộc, đòi hỏi mình phải tỉnh táo, chủ động, vận dụng nhạy bén cảm quan chính trị thiên tài để giúp ích cho đất nước, và vì thế, phải tự nguyện gạt bỏ hết mọi sở thích riêng tư.
Nhưng cũng chính vào những phút giây căng thẳng như thế, Hồ Chí Minh lại cũng tìm được cách để giành lấy một sự thư thái, nó là trạng thái cân bằng không thiếu được, nói như cách nói tâm lý học: ông đã tự phân thân để có một cuộc sống thứ hai - nghĩa là từ trong tâm thức, ông đã mang sẵn cốt cách một thi nhân. Và ở đây ta đang nói đến những ngày tù ngục trong nhà tù Quốc dân Đảng Trung Quốc, cuộc sống thứ hai trong khung cảnh tù đày của Hồ Chí Minh là cuộc sống bên trong, cuộc sống hướng nội. Hướng nội - trong cách nhìn sự vật, trong cách độc thoại với chính mình, và hướng nội cả trong cách "vượt ngục" bằng "ý tại ngôn ngoại" của những vần thơ tù.
2.Xin được đi vào mấy bài thơ cụ thể để thấy cái cách "vượt ngục" của Người, nghĩa là thấy một cách xử thế trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Trong bài thơ Trên đường đi (Lộ thượng) Người viết: "Dẫu trói chân tay đến ngặt nghèo, Khắp rừng hương ngát với chim kêu; Tự do thưởng ngoại ai ngăn được? Cô quạnh đường xa, vợi ít nhiều". Hoàn cảnh khắc nghiệt rất cụ thể; cẳng chân và cánh tay bị trói chặt, người tù bị tước quyền cử động tự do của chân và tay. Cái hạn chế ấy ảnh hưởng lớn lắm đến thân phận người tù. Nếu cứ băn khoăn và mơ ước cho sự cử động, người tù sẽ nếm phải ngay cái vị trừng phạt của nhà tù. Điều ấy trên thực tế không ích gì. Hồ Chí Minh giành tự do ở một phía khác, cái phía mà dây trói của nhà tù không trói được. Trong lĩnh vực thanh âm và mùi hương, người tù lúc này bình đẳng với mọi người tự do khác: Tự do lãm thưởng vô nhân cấm (Tự do thưởng thức không ai cấm). Và ông đã "lãm thưởng" như tiêu chuẩn của một du khách...
Đọc bài Trời hửng (Tình thiên), chúng ta khó nhận ra đó là thơ viết trong tù. Nhưng đúng là nhật ký: nó ghi lại thời tiết hôm ấy... Kết thúc bài thơ, theo thông lệ của thể thơ, vươn tới một khái quát: bài thơ phản ánh một quá luật thiên nhiên, rộng ra là quá luật xã hội: Sự vật vần xoay đà định sẵn, Hết mưa là nắng hửng lên thôi". Đúng như Đặng Thai Mai từng nhận xét, nói hết mưa là nắng thì cũng có thể nói hết nắng là mưa - chuyện thời tiết tuần hoàn như vậy thật. Nhưng tác giả không muốn nói tới sự tuần hoàn mà hướng tới sự phát triển. Hiểu bài thơ Trời hửng trong tình thế của một người tù, chúng ta càng cảm phục cảm hứng lạc quan của bài thơ, niềm lạc quan không phải nói ra bằng lý trí, mà toát ra trong sự cảm thụ cái đẹp của thiên nhiên: "Đất trời một thoáng thu màn ướt, Sông núi muôn trùng trải gấm phơi; Trời ấm hoa cười chào gió nhẹ, Cây cao chim hót rộn cành tươi..." Những câu thơ này tưởng như phải được viết ra đồng thời với Tân xuất ngục học đăng sơn. (Mới ra tù tập leo núi) mới đúng. Bởi lẽ tâm hồn nhà thơ thanh thản quá, phơi phới quá. Đất trời sông núi trong mấy câu thơ ấy mang một vẻ đẹp kỳ ảo và rất động. Sinh khí của thiên nhiên hòa quyện trong một cảm hứng rộng mở, thế đứng của tâm hồn ở đây rất cao, chất thơ không phải là khẩu khí, đại ngôn, mà do đã nắm được cái gì như là quá luật: "Người cùng vạn vật đều phơi phới, Hết khổ là vui vốn lẽ đời". Nhà tù vốn là công cụ để đàn áp, nhưng người bị đàn áp, sau một thời gian dài, lại rút ra chân lý ấy, thì nhà tù quả đã triệt tiêu tác dụng. Đời Tống bên Trung Quốc, Tể tướng Chương Đôn đày Tô Đông Pha xuống phía Nam 7 năm liền, mỗi lúc một xa hơn, vì thấy đến nơi đày ải nào, thơ Tô Đông Pha vẫn hào hứng yêu mến thiên nhiên. Chương Đôn tức điên nhưng không làm gì được và kết cục thì lịch sử lại biến Chương Đôn thành kẻ tội đồ, chịu đày ải. Đã ở tù thì tình và cảnh đều rất đáng buồn. Lòng đã buồn thì thơ không thể cố mà vui, nếu đấy là thơ thực sự. Cho nên trong tập nhật ký thơ này Hồ Chí Minh cũng không giấu nỗi buồn: Hòa lệ thành thơ tỏ nỗi này.
Nỗi buồn của ông nơi tù tội có lý do từ vận hội cách mạng, từ thời cơ tranh đấu, buồn vì lỡ dở. Nhưng cũng như mọi trái tim con người, ông già tù tội nơi đất khách quê người ấy hẳn cũng có nỗi buồn thật bình thường trước một cảnh chiều tối khi chim muông, cảnh vật đều tìm về chốn nghỉ ngơi, sum họp. Tối đối với vạn vật là sự trở về tìm lấy cái thanh thản đầm ấm. Người tù tha hương thường dễ chạnh lòng. Thơ bà Huyện Thanh Quan: "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn". Người tù này đâu có chỗ về để bước dồn. Cảnh ấy tình ấy, câu thơ dễ hiu quạnh lắm. Thế mà bài thơ Cảnh chiều tối trong tập thơ tù lại rất đầm ấm. Tâm hồn nhà thơ đã vượt qua tù ngục để hòa nhập với cái ấm cúng thật bình thường ở một nhà dân sơn cước: "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không; Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than đã rực hồng". Hai câu trên cảnh hiu hắt và tình dễ buồn thương. Hai câu dưới tác giả vượt qua cảnh tình của riêng mình để đến với cuộc đời. "lấy cái vui của cuộc đời đánh bạt mọi đau thương". Câu thơ trong ngục đã hóa câu thơ ngoài ngục. Cái ngày Hồ Chí Minh bị giải tới nhà lao Thiên Bảo là ngày Người phải đi bộ 53 cây số, quần áo đẫm nước, đôi giày dưới chân bị rách nát. Đến nhà lao trời đã tối, các chỗ ngủ đã bị tù nhân chiếm hết, người tù cao niên ấy chỉ còn một chỗ duá nhất có thể đặt chân: cái hố xí. Bài thơ có bốn câu, tác giả đã mất ba câu rưỡi để nói cảnh ngộ ấy, toàn là những yếu tố cưỡng chế, câu thúc con người.
Vậy mà chỉ nửa câu thơ cuối ông đã vượt qua cảnh ngộ, tìm tới tự do: "Năm mươi ba dặm một ngày trời, áo mi ướt đầm, dép tả tơi; Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ, Ngồi trên hố xí, đợi ban mai". Chính ba chữ đợi ban mai (đãi triêu lai) với ý nghĩa biểu tượng của nó về niềm vui sống đã nâng tình cảnh bài thơ lên một tầm cao khác và ba câu rưỡi phía trên đầy tính chất văn xuôi thông báo sự kiện gặp ba chữ này bỗng thành một vế của bài thơ - thành thơ. Bài thơ có hai vế: ba câu rưỡi là một vế và nửa câu cuối là một vế. ở đây Hồ Chí Minh đã "vượt ngục" bằng lý tưởng của mình. Khuynh hướng tư tưởng này còn được tô đậm hơn bằng hình ảnh Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Thân tù, nhưng cảnh mộng lại bay trong trời tự do. Tính lý tưởng trong thơ Hồ Chí Minh không thành đại ngôn, khoa trương, nói lấy được, nói lấy tiếng vì Bác Hồ rất thực tiễn. Đợi ban mai trước hết là đợi cho qua cái cảnh đêm khổ sở cụ thể ấy. Thực tiễn trong suy nghĩ cũng là một cách giành chủ động. Có những tình huống thật ngặt nghèo, ông cũng giành được sự chọn lựa, tìm một cách xử thế có ích nhất. Có khi đấy là lời khuyên một bạn tù đắp giấy để ngủ trong đêm rét: "Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn". Có khi là lời động viên chính mình khi được giải đi trên một toa xe lửa chở than: "So khi cuốc bộ còn sang chán". Tù tội mà giữ được lạc quan cũng là cách vô hiệu hóa nhà tù.
Người tù Hồ Chí Minh thường nhìn những gian lao cực khổ của mình bằng cái nhìn của người đã vượt qua. Cho nên nói gian khổ mà lại cho người ta niềm tin, lòng yêu đời. Lấy gian lao mà rèn luyện bản lĩnh. "Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng" Sau này khi đã là Chủ tịch nước, trong trọng trách lớn lao, công việc bộn bề, cái câu thúc Người bây giờ không phải là sự mất tự do mà là thời gian eo hẹp, Hồ Chí Minh đã có cách vượt qua cái eo hẹp ấy: "Sống quen thanh đạm nhẹ người, Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung". (Sáu mươi ba) Và: "Việc quân việc nước đã bàn, Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau" (Vô đề) Sống thanh đạm để tạo thanh thản cho tâm trí. Chúng ta không thể không kinh ngạc khi nhìn vào thời gian biểu của vị Chủ tịch nước: các công việc xách bương, dắt trẻ cũng được coi là một đầu việc sau các việc quân cơ, quốc kế. Đây là cách di dưỡng tinh thần của các bậc đại trí; đây cũng là cách vượt qua những cái ngục nhỏ bé nhưng phổ biến của đời thường mà những người thiếu sâu sắc thường tự giam mình đến chung thân mà không biết, người thì tự giam vào quyền lực, người thì vào danh vọng, người thì vào tiền tài... đến mức không còn cả chính mình, nói cười theo quần áo, theo chỗ ngồi thứ bậc.
Là nhật ký nên Hồ Chí Minh đã ghi trung thực những diễn biến đời sống tù đày của mình. Điều rất đáng lưu ý là ngay ở những chi tiết nhỏ bé nhất như chuyện mắc bệnh ghẻ, chuyện khẩu phần nước ở nhà pha... chúng ta đều đọc thấy cái hướng suy nghĩ giành chủ động của nhà thơ. Trong tù, quả thật ông đã thực hiện được triệt để mục tiêu tinh thần ở ngoài lao.
3. Tới đây cũng cần nói ngay: trong cuộc đấu tranh "tinh thần ở ngoài lao" này, Hồ Chí Minh không phải là người lấy "thắng lợi tinh thần" làm cứu cánh. ông ý thức rất sâu cái "mất mát" không gì so sánh nổi của sự mất tự do: "Đau khổ chi bằng mất tự do, Đến buồn đi ỉa cũng không cho". Câu thơ nói độp như vậy không khỏi gây sửng sốt cho những ai quen thưởng thức lối văn chương mỹ tự. Nhưng chính đây là cách nói đến đáy nỗi đau khổ mất tự do của người tù. Tuy nhiên, ý thức về tình thế bi đát của mình là một chuyện, mà khuất phục trước tình thế ấy là chuyện khác. Có một bài thơ nói khá rõ cả cái tình thế lẫn cả cách vượt qua tình thế của tác giả. ấy là bài Ngắm trăng. Bài thơ Ngắm trăng kết tinh cao độ phong thái sống của Hồ Chí Minh. ở đây sự "vượt ngục" đã hoàn thành một cách thần kỳ, sự phấn đấu trở nên hài hòa, hồn nhiên, thư thái: "Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ; Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". "Trong tù không rượu cũng không hoa" là việc cố nhiên. Nhưng "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ" không phải việc cố nhiên nữa. Chúng ta sống trong cõi đời tự do mà còn chẳng để ý đến sự tròn khuyết của vầng trăng ngay trên đầu, nói chi đến một người tù. Câu thứ hai đã là một tâm hồn thi nhân - hiền triết trong sáng và tinh tế. Thấy trăng đẹp mà bối rối cả tâm trí: "làm thế nào bây giờ" quả là một tâm hồn thơ mộng. Cái thơ mộng này sóng đôi với cái thực tế trên tạo nên một thi vị rất "uá mua" của Hồ Chí Minh. ông yêu rất nghệ sĩ vầng trăng trên đầu, nhưng ông cũng không quên rất cụ thể cái cùm sắt dưới chân. Thơ mộng nhưng không viển vông. Thiết thực nhưng không chặt đi đôi cánh lãng mạn của trí tưởng. Ba yếu tố rượu, hoa, trăng thì thiếu mất hai rồi. Nhưng tâm hồn nhà thơ vẫn dọn một bữa tiệc thưởng nguyệt độc đáo: "Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". ít thấy ai thương trăng trong cái tư thế lạ kỳ này.
Đọc lại nguyên văn chữ Hán để thấy rõ hơn vị trí của ba "nhân vật": người, trăng và cái song sắt nhà tù. "Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt, Nguyệt tòng song khích khán thi gia". Nhân, nguyệt rồi nguyệt, thi gia ở hai đầu câu thơ, cái song sắt chắn giữa. Trong mối tương giao tri kỷ tri âm giữa con người và vầng trăng, cái song sắt hiện lên thật thô bạo và bất lực. Hồ Chí Minh ngắm trăng rất giống người xưa trong niềm say mê cái đẹp thiên nhiên nhưng cũng khác người xưa trong sự phát hiện vẻ đẹp của cõi người. Người xưa ngắm trăng thấy trăng đẹp trăng trong càng ngậm ngùi cho cõi đời trầm luân cát bụi. Lý Bạch: "Ngẩng đầu ngắm trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương". (Tĩnh dạ tư) Tản Đà, nói với chị Hằng, xin đổi chỗ ở: "Trần giới em nay chán nửa rồi, Cung quế đã ai ngồi đó chửa? Cành đa xin chị nhấc lên chơi" (Muốn làm thằng Cuội) Với Hồ Chí Minh, người ngắm trăng, mê trăng thì trăng cũng mê người. Đây không chỉ là cái hay của bút pháp mà chính là vẻ đẹp của một nhân sinh quan. Cũng cần chú ý thêm: để biểu hiện con người, ở đầu câu thơ trên tác giả dùng chữ nhân, ở cuối câu thơ dưới tác giả dùng thi gia. Hai chữ ấy, cố nhiên, vẫn chỉ là một đối tượng, nhưng đã có sự biến đổi: trước cuộc ngắm trăng, đấy là người tù, sau cuộc ngắm trăng người tù biến mất và xuất hiện nhà thơ. Rõ ràng đã có một cuộc "vượt ngục", và như đã nói trên: cuộc "vượt ngục" đã hoàn thành một cách thần kỳ. Hành động ngắm trăng chính là hành động "vượt ngục".
4. Cuối cùng có lẽ cần lưu ý tới việc Hồ Chí Minh đã chọn hình thức thơ để ghi "Nhật ký trong tù". Có thể có nhiều lý do khác nữa, nhưng phải chăng bản thân thể loại này cũng là một cách thức thuận lợi để "vượt ngục" - vượt lên trên thực tế; kết thúc bằng vấn đề này, chúng tôi muốn mở rộng tới một số bài thơ của ông sau này nữa, ngay cả khi ông không còn bị "ở tù" theo nghĩa đen. Bởi lẽ, đứng ở một góc độ nhìn nào đó, chính thực tế đôi khi vẫn là tù ngục đối với con người! Nếu như vậy, thì làm thơ quả là một cách "vượt ngục" độc đáo, ngay cả khi cách thức ấy mang tính chất ảo tưởng.