Gương sáng đạo đức Bác Hồ soi cho muôn đời con cháu mai sau

ngan trang

New member
Bài 1: Ngời sáng chữ Đức từ cuộc đời Người.






https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1425&pop=1&page=0&Itemid=5


Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

1.jpg

Bác gặp gỡ đoàn đại biểu Nam Bộ năm 1949
Câu nói này khái quát toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: Suốt đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Người không có của riêng. Những cái riêng của Bác đã trở thành cái chung của cả dân tộc. Tư tưởng của Người trở thành tư tưởng của Đảng, trở thành tài sản của non sông đất nước. Những kỷ vật của Người và về Người đều kết tinh những giá trị đạo đức, nhân văn và mang tính giáo dục sâu sắc. Thậm chí về cái chết, Bác gọi là đi gặp các cụ Các Mác - Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thật là thanh thản, nhẹ nhàng. Thư thái và điềm tĩnh, Bác không lo cho mình khi ra đi, mà lo cho người còn sống, trong đó có dân, có Đảng, có nước non. Bác dặn, sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi làm tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Thi hài tôi nên đốt đi (hỏa thiêu), vừa giữ vệ sinh lại đỡ tốn đất ruộng. Tro thi hài chia làm 3 phần. Một phần cho miền Bắc; một phần cho miền Trung , một phần cho miền Nam. Nên để tro thi hài ở nơi cao ráo, gần đường đi lại, để mỗi người qua đó thăm viếng trồng một cái cây, sau này có bóng mát.

Bác không dặn xây Lăng. Việc xây lăng do Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định, thể theo nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, nhằm giữ gìn lâu dài thi hài Bác.

Bác nằm trong Lăng, giấc ngủ bình yên. Mỗi lần chúng ta đến thăm Bác, trước anh linh Người, tự nhiên lòng ta rưng rưng, thanh thản và cảm thấy như ta tốt hơn lên, đức độ hơn lên…

Cả cuộc đời Bác sáng ngời chữ Đức, chữ Nhân.

Nhà sàn Bác ở, giản dị và đơn sơ giữa thủ đô trái tim Tổ quốc. Nhà của Bác, tài sản thừa kế vô giá của nước non, cho con cháu mai sau.

Ý chí của Bác, sáng ngời chữ Đức. Đất nước đau thương, nhân dân nô lệ, Người ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay và một quyết tâm, một hoài bão lớn, như một cánh chim Bằng: Tôi sẽ đi sang nước Pháp, để xem người Pháp làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đỡ dân tộc tôi.

Bước chân Bác, hành trình của Bác, hành trình ba mươi năm, hành trình cho một con đường của một ý chí.

Vừa kiếm sống, vừa đi, vừa học, có học mới cứu được nước, Bác đã học ở cách mạng Pháp, cách mạng Anh, cách mạng Mỹ… Một giáo sư sử học người Mỹ đã nói, người ta đồn rằng, cụ Hồ biết 28 thứ tiếng trên thế giới, nhưng qua tìm hiểu của tôi, Người biết và sử dụng thành thạo 12 thứ tiếng trên thế giới. Học tập là một trong những cái Đức quý báu của Người. Người viết và nói tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức…, Người làm thơ, làm báo bằng tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc… Những kết luận của Người rút ra qua từng bước chân đi, từ trực giác, nâng dần lên thành chân lý cứu nước: Người Pháp, ở Pháp, tốt hơn người Pháp ở Đông Dương; Ở đâu người lao động cũng vô cùng cực khổ, còn bọn giàu có bao giờ cũng cực kỳ sung sướng trên mồ hôi và nước mắt của họ. Đến Mỹ, đến chân tượng Thần Tự do, Người đặt câu hỏi: ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng Thần Tự do, người da đen đang bị nô lệ, các dân tộc bị áp bức đang còn bị nô lệ, người phụ nữ đang bị nô lệ. Đến bao giờ người da đen mới được bình đẳng với người da trắng? Đến bao giờ các dân tộc bị áp bức mới được giải phóng và đến bao giờ người phụ nữ mới được bình đẳng với nam giới?... Khi tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường cứu nước chân chính, Người như bừng tỉnh : Tôi vui mừng, sung sướng như muốn phát khóc lên: Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Từ đó, tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III… Rồi Người rút ra kết luận: Con đường cứu nước không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản… Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng tin tưởng nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin… Cách mạng Pháp, cách mạng Anh, cách mạng Mỹ… đều là các cuộc cách mạng chưa đến nơi. Chỉ có cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng đến nơi vì nó giải phóng triệt để người lao động, tiến tới xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người.

Tìm được con đường cứu nước. Bác về. Đảng của Người ra đời bắt đầu tự sự truyền bá của Người vào tổ chức thanh niên tiền thân. Những bài học đầu tiên không phải là bài học về chủ nghĩa Mác-Lênin mà là bài học về đạo đức: Tư cách người Kách mệnh. Điều đó, nghĩa là Đảng bắt đầu từ chữ Đức. Đảng phải là Đảng của đạo đức. Mục đích của Đảng là mục đích đạo đức. Hành vi của Đảng phải là hành vi đạo đức. Đức là gốc của một Đảng cách mạng.

Ý chí và nghị lực cao cả của Bác, bắt nguồn từ lòng nhân, từ chữ Đức. Dân tộc đau thương, đất nước nô lệ, thôi thúc Bác tìm con đường cứu dân, cứu nước. Người đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, kể cả sự cám dỗ của giàu sang, phú quý. Năm 1911, trên con tàu Đô đốc La tu sơ Tê rơ vin, kỹ sư canh nông đầu tiên của Việt Nam Bùi Quang Chiêu, có cảm tình và ngỏ thành ý xin việc cho Bác khi đến Pháp. Bác đã lễ phép chối từ. Năm 1913 trên đất Hoa Kỳ, có một cô gái gốc Pháp, quốc tịch Mỹ đã tỏ tình và muốn kết hôn với Người. Năm 1914 tại Anh, vua đầu bếp Eùtcốppie đã chọn Nguyễn Tất Thành làm người kế vị. Năm 1922, tại Pháp, Anbexarô, Bộ trưởng bộ thuộc địa Pháp, đã dụ dỗ: Tôi rất quý những người yêu nước như Anh. Anh hãy cộng tác với chúng tôi. Anh cần gì, sẽ có… Rồi những khó khăn gian khổ: tay đốt lò, lau chảo, thái rau, rửa chén, quét tuyết, chụp hình, làm bánh… Hoạt động cứu nước của Người bị Tòa án Nam triều tuyên tử hình vắng mặt 1929… Rồi thực dân Anh bắt giam Người ở Hương Cảng tháng 6/1931; Tưởng Giới Thạch Quốc dân Đảng Trung Hoa bắt giam Người tháng 8/1942. Trong ngục tù đế quốc, dù “răng rụng mất một chiếc” , “tóc bạc thêm mấy phần” , “gầy, đen như quỷ đói”, “ghẻ lở mọc đầy thân”, nhưng ở Người “Tinh thần càng phải cao” “Gian nan rèn luyện mới thành công” như gạo đem vào giã bao đau đớn…

Cách mạng thành công, trên cương vị là người đứng đầu nhà nước 24 năm, trên cương vị đứng đầu Đảng cầm quyền 18 năm, Người vẫn hết sức thanh bạch, khiêm nhường với chiếc áo nâu giản dị, đôi dép cao su in dấu chân, cuộc sống đạm bạc… Bởi vì, “khi chúng ta bưng bát cơm lên mà ăn, hãy nhớ đến những người đói khổ”, khi đất nước chưa giàu, dân chưa no, chưa ấm là Bác ăn chưa ngon, ngủ chưa yên.

Cả cuộc đời Bác là cả cuộc đời lo cho người, lo cho đời… Có lần Bác nói: Tôi không có vợ, không có con, tất cả thanh niên Việt Nam đều là con tôi… Tôi đã hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi!

Bác Hồ của chúng ta, bình dị mà vĩ đại. Cái vĩ đại bắt đầu từ cái bình dị .Cái Đức cao cả trường tồn cùng dân tộc và nhân loại, đó là Đạo đức Hồ Chí Minh Đạo đức cách mạng Cái gốc của con người, của gia đình và xã hội. Đạo đức của Bác, ngời sáng từ chính cuộc đời Người, cho mỗi người, hôm nay và mai sau, mãi mãi noi theo.
 
Bài 2: “THIẾU MỘT ĐỨC THÌ KHÔNG THÀNH NGƯỜI” https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1426&pop=1&page=0&Itemid=5

Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác tháng 6-1949, Người viết: “… Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng Thi đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
(2)
2.jpg


Đồng chí Vũ Kỳ, là người có thời gian sống cạnh Bác từ 1945 đến lúc Bác đi xa, kể lại: Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong muôn vàn công việc của người đứng đầu Chính phủ mới, Bác vẫn dành thời gian trọng tâm cho việc xây dựng đời sống mới. Đồng chí Huy Cận, lúc đó được cử làm Trưởng ban Xây dựng đời sống mới, sau buổi họp Hội đồng Chính phủ, sáng ngày 3-9-1945, đã trình bày với Bác Chương trình xây dựng đời sống mới. Sau khi trình bày xong, Bác đề nghị đồng chí bổ sung vào bản Chương trình là phải giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện tinh thần cần, kiệm, liêm, chính.

Cái gốc của cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là lời dạy người quân tử của Đức Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho. Tuy là lời dạy của người xưa nhưng Bác quan niệm: Cái gì cũ mà tốt thì phải tiếp thu và phát triển, cái gì cũ mà xấu thì mới lọc bỏ. Đó chính là sự tiếp thu có chọn lọc, có kế thừa những cái tốt, cái tinh hoa của dân tộc và nhân loại trong quá trình vận động.

Bác đã đề cập đến bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính hàng ngàn lần, trong các bài nói và bài viết của Người. Điều đó, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Bác về giáo dục cần, kiệm, liêm, chính. Trong bài giảng đầu tiên :“Tư cách người cách mạng” khi truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam Thanh niên cách mạng (6-1925) Bác đã đề cập ngay đến cần, kiệm, liêm, chính và trong “Di chúc” để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trước lúc đi xa, Bác đã nhắc nhiều lần cụm từ cần, kiệm, liêm, chính.

Vì sao Bác lại nhấn mạnh và nhắc dạy chúng ta nhiều lần như vậy? Bởi vì, đây là cốt lõi của đạo đức nói chung, của đạo đức cách mạng nói riêng. Vì thế, cần, kiệm, liêm, chính đã được ghi lại, đã được truyền khẩu thành quy phạm đạo đức tốt đẹp của mỗi con người, mỗi tập thể và mỗi cộng đồng người. Bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính là thước đo phẩm chất đạo đức của con người. Những đức đó đã tồn tại xuyên qua thời gian, sống cùng lịch sử nhân loại nhiều ngàn năm qua.

Bác có nhiều bài viết về đạo đức nói chung, về bốn đức cần, kiệm, liêm, chính nói riêng. Người phân tích bốn đức này hết sức giản dị và dễ hiểu, dễ nhớ.

“Cần” là siêng năng, chăm chỉ, bền bỉ, cố gắng, dẻo dai. Khi đã cần thì việc gì dù khó mấy rồi cũng làm được. “Cần” có nghĩa hẹp là cho mỗi cá nhân và có nghĩa rộng là cho mọi người, cho cả nước.

“ Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh”
(3)

Muốn “cần” có hiệu quả phải có kế hoạch và phải tính toán cẩn thận, chu đáo, rõ ràng. “Cần” là luôn cố gắng, chăm chỉ, cả năm cả đời, biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng để làm việc lâu dài.

“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi nhưng cũng không bủn xỉn, keo kiệt. “Cần” mà không “kiệm” thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào chảy hết ra chừng ấy, không lại hoàn không. “Kiệm” “cần” phải đi đôi với nhau. Vì vậy, phải chống xa xỉ, hoang phí, nhưng cũng phải chống bủn xỉn, keo kiệt. Xa xỉ, hoang phí trong lúc đồng bào còn nghèo khó là có tội với Tổ quốc, với đồng bào.

“Liêm” là trong sạch, không tham lam, không “đục khoét”, không lấy của công làm của tư, không đưa bà con, dòng họ kém đức, bất tài vào giữ chức này, chức nọ trong cơ quan của Đảng và Chính phủ. Người muốn “liêm” phải “cần”“kiệm”.

“Chính”, được Bác giải thích: nghĩa là không “tà”, nghĩa là trung thực, thẳng thắn, đứng đắn. “Chính” là kết quả của “cần”, “kiệm”, “liêm”.

Cho nên “chính” là trung tâm, là cốt lõi của đức, của con người. Con người bất chính, tức bất liêm; mà bất liêm tức không có đức cần và kiệm.

“Chí công, vô tư” là lo cho việc chung, việc dân, việc nước; là đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Bác đặt vấn đề là chống chủ nghĩa cá nhân chứ không xâm phạm đến lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân là những quyền lợi chính đáng của cá nhân, những sở thích cá nhân cần phải được tôn trọng và bảo vệ.

Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức cần có của con người, nhất là người cán bộ, đảng viên. Bác dạy: thiếu một đức, không thành người. Chữ “người” được hiểu là con người thật sự có nhân, có đức.

Bác không chỉ nói mà Người là con người hành động. Người làm nhiều hơn nói. Người là tấm gương hết sức trong sáng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Những người thân của Bác trong gia đình như chị của Bác, bà Nguyễn Thị Thanh, anh của Bác, ông Nguyễn Sinh Khiêm; cả hai người đều tham gia hoạt động cứu nước, đều bị bắt, đều bị tù đày hơn mười năm. Khi Bác là người đứng đầu Nhà nước sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm không hề ngỏ lời với em mình để được hưởng bất kỳ một lợi ích nào, dù nhỏ nhất. Hai người về quê, tham gia kháng chiến, làm ăn nuôi nhau cho đến lúc đi xa. Cả gia đình của Bác thanh khiết và đức độ đã tỏa vào non sông, đất nước, sống mãi cùng sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân ta… Đôi dép cao su của Bác, in dấu chân Người. Người chưa đổi dép mới, dù cũng chỉ là đôi dép đơn sơ. Bởi vì: Khi nào đồng bào đủ dép thì Bác đổi dép. Đôi dép của Bác đi vào lịch sử, đôi dép thành thơ, thành bài ca, thành huyền thoại, bởi vì, chính đôi dép đã mang nghĩa tình sâu nặng với quê hương, với nhân dân, với đất nước, khi quê hương chưa giàu, nhân dân còn có nhiều người thiếu thốn.

Bác kính yêu đã cần, kiệm, liêm, chính suốt đời và suốt đời Bác đã dạy chúng ta cần, kiệm, liêm, chính. Nếu ở Bác “Đức” là gốc của con người, của cộng đồng và của Đảng, thì cần, kiệm, liêm, chính là cái cốt của “Đức”, đó là đức “cần”, đức “kiệm”, đức “liêm”, đức “chính”. Người có “đức” trước hết phải rèn luyện để có bốn đức đó và nếu Thiếu một đức thì không thành người.
 
Bài 3: Lời nói đi đôi với việc làm https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1427&pop=1&page=0&Itemid=5



Nói đi đôi với làm là một trong những nội dung của phong cách Hồ Chí Minh, là sự thể hiện của đạo đức cách mạng. Người nói về đảng viên với một lời khen chân tình: “Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta” (1)

3.jpg

Đi trước ở đây được hiểu là sự tiên phong, gương mẫu trong cả lời nói và việc làm.

Đi trước thể hiện ở hành vi, trước tiên là hành vi đạo đức, lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ. Như vậy, đi trước là biểu hiện của một sự hy sinh, đồng thời là một sự nhún nhường. Đã có lần Bác dạy: Hô hào người ta tiết kiệm thì trước hết mình phải tiết kiệm trước đã, chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Năm 1947, trong “Thư gửi các bạn Thanh niên” Bác đòi hỏi đoàn viên và nhất là cán bộ đoàn: “Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước (Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc)” (2). Trong công tác và cuộc sống, mỗi người có một công việc khác nhau, một vị trí khác nhau, có người làm lãnh đạo, có người là người phục vụ, là công nhân vệ sinh, quét rác… Nhưng dù làm nghề nghiệp nào, ở bất kỳ vị trí nào, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đều hết sức vẻ vang.

Sinh thời, Bác hết sức nhân từ, nhưng trước những hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong việc sử dụng xe công, hồi đó có rất nhiều cán bộ có tiêu chuẩn được sử dụng xe ô tô công vụ để đưa đón đi công tác, đi làm việc, nhưng lại sử dụng thêm vào việc đưa cả vợ đi chợ, đưa con cái đi học, đi chơi. Một số người đã biến của công thành của tư, ô tô công thành ô tô tư, và nghiễm nhiên người lái xe công trở thành người lái xe cho gia đình họ. Bác đã phê phán thẳng thắn: ông ủy viên (Bộ trưởng - TG) đi xe công, rồi bà ủy viên cũng đi xe công, rồi đến các cô, các cậu (con cái - TG) cũng đi xe công, rồi lãng phí, xa xỉ, hỏi rằng tiền, của ấy do đâu mà ra?...

Năm 1950, có một vụ án, Bác đã thức trắng một đêm trước đơn xin ân xá khỏi phải chịu án tử hình của một đại tá, Cục trưởng Cục cung cấp Quân đội ta. Sau này, vụ án này được các nghệ sĩ dàn dựng thành vở kịch “Đêm trắng”.

Hơn một năm trước, Bác đã ký quyết định phong quân hàm sĩ quan cao cấp cho con người này, đại tá Trần Dụ Châu. Chỉ có hơn một năm, con người này thoái hóa đến mức độ, tòa án cách mạng đã tuyên: tử hình. Trần Dụ Châu nói rất hay: nào là hy sinh, cống hiến, nào là gương mẫu, tiên phong nhưng hành vi thì cực kỳ nham hiểm, suy thoái đạo đức đến thối rữa: sát phu, hiếp phụ đối với một cặp vợ chồng là đồng chí của y; ăn cắp vật tư trang bị của bộ đội gây ra những tổn hại lớn về người và của, làm ảnh hưởng đến thanh danh và uy tín của bộ đội, của Đảng.

Bác đã thức trắng một đêm, đêm trắng. Và tóc Người cũng trắng thêm khi Người hạ bút bác đơn xin ân xá của Trần Dụ Châu - Hoàng Trọng Vinh.

Người kiên quyết loại bỏ Trần Dụ Châu ra khỏi đời sống là một hành vi nhân từ. Bởi vì, Trần Dụ Châu đã gián tiếp và trực tiếp gây ra hàng trăm cái chết cho đồng bào, chiến sĩ ta, đặc biệt là sự suy thoái về đạo đức, làm ô nhục thanh danh của cách mạng, gây ra bao điều tiếng xấu. Tội lỗi đó không thể dung tha.

Ở Bác, lời nói, luôn đi đôi với việc làm.

Có một câu chuyện mà đồng chí Vũ Kỳ, khi còn sống, mỗi lần kể lại đều rút khăn tay lau nước mắt: Sau Cách mạng Tháng Tám, mọi người đều đói, nhân dân còn có người chết đói. Bác đã kêu gọi: Khi chúng ta bưng bát cơm lên mà ăn, hãy nghĩ đến những người còn đói khổ. Tôi kêu gọi đồng bào, cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi bữa 1 bơ (một lon sữa bò - TG) lấy gạo đó cứu đói. Tôi xin phép thực hiện trước.

Văn phòng Chủ tịch nước gương mẫu thực hiện, trong đó có Bác.

Một buổi chiều, đúng vào ngày nhịn một bữa để cứu đói, gần cuối giờ làm việc, Văn phòng báo Bác có khách. Khách đến thăm Bác là một tướng lĩnh cao cấp trong quân đội của Tưởng Giới Thạch mới từ Trung Quốc qua. Người đã tổ chức bữa tiệc để thết đãi viên tướng đó. Tiệc xong, Bác về. Người mời đồng chí quản lý Văn phòng đến. Đồng chí quản lý hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao giờ này Bác còn cho gọi tới. Khi đồng chí quản lý tới, Bác nói cho Người xin một bơ gạo. Đồng chí quản lý hiểu ý là chiều nay cả cơ quan nhịn ăn, trong đó có Bác. Nhưng Bác giải thích là Người đã đi dự tiệc. Người chưa làm nghĩa vụ nhịn ăn như mọi người buổi chiều, nên bữa sáng mai, người thực hiện nghĩa vụ, bù cho buổi chiều này. Bơ gạo này, Người yêu cầu giao ngay cho cơ sở nấu cháo từ thiện (Lúc đó, đồng bào đói ở nhiều nơi dồn về Hà Nội để mong kiếm được miếng ăn, dù ít ỏi. Nồi cháo từ thiện được tổ chức ở một số giao lộ nhằm cứu đói).

Một chuyện rất nhỏ, nhưng thực hiện nghiêm túc trong một con người, một nhân cách lớn: Lời nói, đi đôi với việc làm không hề sao nhãng. Bác là người nghiêm túc thực hiện trước.

Bác dạy, phải tiết kiệm, một chiếc phong bì, Bác sử dụng được hai lần; việc đáng tiêu thì hàng nghìn, hàng vạn cũng tiêu, việc không đáng tiêu thì một xu, một cắc cũng không tiêu, bởi vì, đồng tiền, bát gạo ấy ở đâu mà ra, đều do nhân dân đóng góp mà có. Cho nên tiết kiệm trong hoạt động, trong chi tiêu, trong sử dụng công quỹ chính là hiếu với dân, chính là sự góp phần làm cho mọi người đều có cơm no, áo ấm và được học hành.

Bác nói, học hỏi là công việc phải làm suốt đời. Người đã làm như vậy suốt đời. Người kể lại, khi làm phụ bếp, học tiếng Pháp, sáng ra Người lấy than viết lên vách một số từ; vừa làm vừa nhẩm học. Ngày mai lại thêm một số từ mới…

Người học chữ, học hỏi trong nhân dân, trong đồng chí, trong sách báo… suốt đời.

Ở Bác, nói và làm đi đôi. Sinh thời, khi đi thăm các đơn vị, địa phương, nhiều khi Người không báo trước. Bởi, báo trước tất có sự chuẩn bị và có thể có sự chuẩn bị làm mất đi cái thật, có thể kèm theo cả sự lãng phí. Bác đến thăm, Người không chỉ ngồi nghe báo cáo và tiếp đón mà Người xuống thăm anh em nấu ăn, thăm những người cán bộ, chiến sĩ bình thường xem họ sinh hoạt, ăn, ở ra sao. Nhiều lần để tránh tiệc tùng tốn kém, lãng phí, Bác và đoàn công tác chuẩn bị cơm nắm (cơm vắt), sau hội nghị ra bóng mát ăn cơm.

Cuộc đời Bác, hy sinh tất cả chỉ quên mình.

Cuộc sống hôm nay đã có sự phát triển hơn nhiều lần so với thời Bác còn sống. Nhiều người đã không chỉ ăn no mà vươn lên ăn ngon, mặc đẹp, sinh hoạt dư dả. Cái ăn, cái mặc, không còn là nỗi lo thường trực trong đại đa số nhân dân như xưa. Nhưng bài học về nói và làm của Bác, luôn là bài học và là tấm gương cho mỗi người, không chỉ trong công tác lãnh đạo mà được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày, trong sinh hoạt thường nhật, trong sinh hoạt gia đình. Có những người nói nhiều, làm ít. Có những người nói một đằng, làm một nẻo, làm ngược lại điều mình nói. Có người nói cho người khác làm, rồi “đánh trống, bỏ dùi” hứa hươu, hứa vượn, vô cảm trước những bức xúc của người khác, của nhân dân. Học ở Bác Hồ kính yêu, nói và làm, đó là trách nhiệm, là lương tâm, là một trong những cái Đức cao quý của người cán bộ, đảng viên cần rèn luyện.
 
Bài 4: Suốt cuộc đời người một chữ “nhân” https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1428&pop=1&page=0&Itemid=5



Nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) đã ca ngợi Bác Hồ là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam những ngày sống gần Bác đã rút ra kết luận: ở Hồ Chí Minh sáng ngời chữ Nhân. Nhân là Người, là Đức, là nhân nghĩa, là nhân ái, nhân văn, nhân hậu, nhân tính, nhân tình, nhân tâm... Cuộc đời Cụ Hồ là cuộc đời của Nhân ái, Nhân nghĩa, Nhân văn… là sự khoan dung độ lượng, là tình thương yêu bao la đối với con người.

4.jpg

Dân tộc nô lệ, Người ra đi tìm đường cứu nước là “nhân”. Hành vi ấy, Đức Phật gọi là cứu nhân độ thế. Ra đi tìm đường cứu nước, trên mỗi bước đi, Người lại được chứng kiến nỗi đau nô lệ của nhân loại cần lao. Từ con người yêu nước, thương dân nước mình, muốn tìm đường giải phóng cho dân tộc mình. Khi chứng kiến cảnh người dân ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng bị áp bức, chữ “Nhân” trong Hồ Chí Minh mở rộng ra: giải phóng nhân loại và con đường để giải phóng: Không có con đường nào khác, đó là con đường cách mạng vô sản, con đường tạo ra sự bình đẳng, tự do cho mọi dân tộc, mọi lớp người.

Với con người, những giọt nước mắt của Bác chan chứa tình thương khi các thủy thủ phải nhảy xuống biển để liên lạc với đất liền theo lệnh của chủ tàu trên bến cảng Đa-ca. Sóng rất lớn, người nào nhảy xuống cũng mất hút luôn trong đêm đen và sóng biển… Bác đến Anh, lòng Nhân của Người đã làm lay động trái tim của ông vua đầu bếp Ét-cốp-pie. Ông vua không ngai ấy, sau ít nhất một lần bắt được người thanh niên châu Á gầy gò, có đôi mắt sáng, trước khi rửa chén đã hết sức cẩn thận lấy những tờ báo sạch, gói những đồ ăn dư sau những bữa tiệc thịnh soạn của các đại gia Luân Đôn và quốc tế:

- Tại sao anh lại làm như vậy?
- Dạ thưa ông, tôi thấy ngoài đường nhiều người còn đói rét lắm.

Cái Nhân của anh Thành, đã cuốn cái Nhân của ông vua đầu bếp, khiến cho Ét-cốp-pie chọn anh để truyền “ngôi”, chứ không phải là con cháu ruột của ông.
Rất tiếc cho Ét-cốp-pie đã chọn lầm người kế vị, bởi vì mục đích của anh Thành không phải đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Mục đích của anh đang hướng tới là giải phóng Tổ quốc của anh, đất nước của anh, nhân dân của anh và nhân loại cần lao.

Những năm tháng bị tù đày trong nhà lao Quốc Dân Đảng Trung Hoa (1942-1943). Mặc dù đói khát, khổ ải, Người vẫn lạc quan: Hôm nay xiềng xích thay dây trói/ Mỗi bước leng keng tiếng nhạc rung. Con tim Người thắt lại, khi người bạn tù, nằm bên cạnh Người ra đi: Hôm qua còn ở bên tôi/ Hôm nay anh đã về nơi suối vàng. Rồi tiếng khóc trong tù của một đứa trẻ chưa đầy tuổi phải theo mẹ vào nhà pha, do cha trốn đi lính: Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi/ Phải theo mẹ đến ở nhà pha…

Lòng Nhân của Người tác động đến mọi người những tháng ngày sau Cách mạng Tháng Tám - cứu đói: Khi chúng ta bưng bát cơm lên mà ăn, hãy nhớ đến những người còn đói khổ, tôi kêu gọi mỗi người, cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi bữa bớt một bơ, lấy gạo đó cứu đói.

Cả nước theo Người, làm theo Người, đẩy lùi nạn đói.

Dân tộc của Người không chỉ đói, mà còn dốt. Dốt là một thứ giặc. Dốt có nguyên nhân sâu xa từ âm mưu của kẻ thù xâm lược, chúng thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị. Theo lời Người, cả dân tộc diệt dốt: Một dân tộc dốt, là một dân tộc yếu. Phong trào Bình dân học vụ có một không hai trên đất nước này, thậm chí trên trái đất này giữa những năm bốn mươi của thế kỷ 20: Dân tộc Việt Nam diệt giặc dốt.

Đỉnh cao của Nhân, là tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng con người, là mục đích cách mạng của Hồ Chí Minh.

Với những người lầm đường lạc lối, trước đây, do chưa thấu hiểu lẽ phải, họ đã đi theo lực lượng chống lại lẽ phải, chống lại nhân dân, chống lại cách mạng, nhưng khi thấy được sai lầm, họ quay trở lại; quan điểm của Bác là sẵn sàng đoàn kết với họ, mong muốn họ trở thành những người có ích cho sự nghiệp chính nghĩa.

Người hết sức quý trọng con người, quý trọng trí thức. Trong chính phủ đầu tiên thành lập ngày 2-3-1946 có mặt cả Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Phan Anh - Những người không phải là cộng sản. Cố vấn cho chính phủ được Người quan tâm và quý mến đó là Bảo Đại, tức Vĩnh Thụy, ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam. Trong số những người này, rất tiếc, có một số người sau này vì mục đích cá nhân không đạt được, họ đã phản bội lại lợi ích của cách mạng, của dân tộc, họ tiếp tục lầm đường như Bảo Đại, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam… Những trí thức tâm huyết với nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Khắc Hòe, Đặng Thai Mai, Tạ Quang Bửu... thật sự thực hiện được chữ Nhân từ chỗ cảm cái Nhân từ Bác.

Với những người lầm đường lạc lối, Bác căn dặn: “Không được báo thù, báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào cần dùng chính sách khoan hồng, lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ”. (1)

“Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi tổ tiên của ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng, đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”. (2)

Đối với những chiến sĩ, đồng bào hy sinh cho Tổ quốc, Bác đau với nỗi đau của người cha, người mẹ. Khi nghe tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, Bác nói: “Tôi được báo cáo rằng: con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng, tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi, tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi mất một đoạn ruột ...”.

Để bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc gia, dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Người, cả dân tộc ta từng bước nhân nhượng. Chúng ta không muốn chiến tranh, không muốn máu chảy. Chúng ta muốn hòa bình, nhưng kẻ thù buộc dân tộc ta phải cầm vũ khí: Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng cam tâm cướp nước ta một lần nữa! Hỡi đồng bào, chúng ta phải đứng lên... Không có gì quý hơn độc lập tự do!

Chiến tranh có sự hy sinh, trong kháng chiến chống Pháp, với những người lính Pháp tử trận, Bác bày tỏ: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh.

Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp tử vong.

Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”.(4)

Thương yêu con người, vì con người, cả cuộc đời Bác đã đi tìm và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng con người. Ở Người đó là chữ Nhân trọn nghĩa vẹn tình. Bác dạy phải thương yêu nhau, phải đoàn kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công ...

Cả cuộc đời Bác vì con người: “Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”. (5)

“Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành đau khổ của tôi”. (6)

Chữ Nhân của Bác, chữ Nhân trong Bác tỏa sáng vào Đảng của Người, vào các thế hệ nối tiếp sự nghiệp của Người - xây dựng thành công CNXH, một xã hội: Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - Một xã hội do con người, cho con người, vì con người, một xã hội hạnh phúc, nhân ái và khoan dung.
 
Bài 5: Một lòng son trung với nước, hiếu với dân




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1429&pop=1&page=0&Itemid=5 Phạm trù Trung, Hiếu là phạm trù cốt lõi của đạo đức phong kiến mà đạo Nho đã dạy và đòi hỏi đối với người quân tử. Đạo Nho dạy người quân tử phải trung quân ái quốc - trung với vua là yêu nước. Còn chữ Hiếu, nghĩa là hết lòng thờ kính cha mẹ, ông bà, người trên của mình. Để thực hiện chữ Trung, trong các triều đại phong kiến đã có rất nhiều tấm gương trung liệt, sẵn sàng chết để vua sống, sẵn sàng tuân theo lệnh vua hoặc khi vua tử nạn, họ cũng tự chết theo. Thực hiện chữ Hiếu với cha mẹ, trong chế độ phong kiến có không ít những người con chăm bẵm, nâng giấc cho cha mẹ lúc bệnh hoạn, yếu đau, một mực nghe theo lời dạy bảo của cha, mẹ.

5.jpg

Bác Hồ thăm một đơn vị Quân đội miền Nam tập kết (1957)
Từ Trung, Hiếu của đạo Nho, Bác Hồ tiếp thu, kế thừa và phát triển lên thành phạm trù mới của đạo đức cách mạng: Trung với nước, Hiếu với dân. Có lúc Bác còn dạy: Trung với Đảng, Hiếu với dân. Thực chất Nước và Đảng trong lời dạy của Bác được hiểu là một. Bởi vì, Đảng là người lãnh đạo, người đại diện cho dân, cho nước; ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đảng là đạo đức, là văn minh; là trí tuệ của đất nước trong quá trình phát triển của Trung với nước, Hiếu với dân. Bác dạy, ngày xưa, hiếu với dân là chỉ hiếu với cha mẹ mình, ngày nay, hiếu với dân, là tôn trọng nhân dân, phục vụ nhân dân, trong đó có cha mẹ mình. Chữ Hiếu của đạo đức mới có nội hàm rộng hơn, nhân văn hơn.

Chữ Trung và chữ Hiếu của đạo đức mới, quan hệ biện chứng với nhau, bởi vì nước là nước của dân và dân là dân của nước; khác với quan niệm phong kiến trước đây, nước là nước của vua chúa, cho nên dân cũng là dân của vua, còn theo quan niệm đạo đức mới, dân là người chủ của nước, dân là chủ.

Trung với nước, là trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Trung với nước cũng có nghĩa là hiếu với dân trong thực hiện mục tiêu của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hiếu với dân là phải gắn bó với nhân dân, gần gũi nhân dân, dựa vào dân, nắm vững dân tình, dân tâm, nâng cao dân trí , hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, để dân tin, dân yêu, điều đó tất yếu sẽ dẫn tới: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong.

Trung với nước - Hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của người cách mạng. Song, ở mỗi con người, trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, ở mỗi vị trí khác nhau cần phải hiểu thấu đáo phạm trù trung và hiếu này.

Trong chiến tranh vệ quốc, khi Tổ quốc lâm nguy, khi kẻ thù thực hiện âm mưu và hành động cướp nước, giày xéo quê hương, thì mỗi người thực hiện Trung với nước - Hiếu với dân là sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân.

Trong xây dựng đất nước hiện nay, cũng rất cần thiết cần có sự hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và sự bình yên của nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, đồng thời vô cùng cần thiết là sự cống hiến trong sự nghiệp dựng xây đất nước. Mỗi người có một vị trí xã hội khác nhau, cùng có cái chung là Trung với nước - Hiếu với dân, nhưng biểu hiện bằng hành vi cụ thể trong từng nhiệm vụ cụ thể có sự khác nhau. Trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị, trung với nước, hiếu với dân của cơ quan, tổ chức đơn vị đó phải là sự đoàn kết chặt chẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, sử dụng tiết kiệm các nguồn chi phí; quan hệ tốt với các cơ quan tổ chức khác và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, có lý, có tình những đòi hỏi chính đáng của quần chúng nhân dân. Đối với những cán bộ, công chức giải quyết các công việc liên quan trực tiếp đến các yêu cầu, các thủ tục hành chính, các lợi ích của công dân phải có tinh thần, trách nhiệm cao. Điều gì chưa đáp ứng được cho người dân, phải lo lắng, ghi nhớ, day dứt và quan tâm, coi những lợi ích chính đáng của dân như lợi ích chính đáng của mình. Điều gì dân chưa hiểu, chưa làm đủ thì giải thích cặn kẽ, chỉ rõ từng điều, từng nơi đi, nơi đến để dân giải quyết. Dân đến với cơ quan công quyền, hay đại diện cơ quan đến với dân phải có thái độ vui vẻ, cởi mở, làm hết việc chứ không chỉ làm hết giờ làm việc. Giải quyết công việc liên quan đến những tranh chấp của dân phải hết sức công tâm, công bằng, không vì bà con dòng họ hoặc vì quà cáp, biếu xén, chén chú, chén anh mà bao che, du di, vụ lợi… Những cán bộ, những cơ quan liên quan đến những quyết sách tác động vào đời sống xã hội, phải cân nhắc cái lợi của quyết sách, cái bất lợi của quyết sách khi liên quan đến đời sống, đến việc làm, đến miếng cơm, manh áo của dân. Bác Hồ đã dạy: Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Suy cho cùng, một quyết sách trước hết phải là một quyết sách đạo đức, khi giải quyết bất kỳ một công việc gì liên quan đến lợi ích của nhân dân phải có đức… cái Đức được biểu hiện từ thái độ, phong cách cho đến cử chỉ, hành vi.

Trung với nước, Hiếu với dân là phạm trù gốc của đạo đức cách mạng, là trách nhiệm đối với công việc, là quan hệ đối với dân, là sự tự tu dưỡng đối với bản thân người cách mạng. Trong quan hệ lợi ích, Bác luôn luôn căn dặn, là người cán bộ, đảng viên, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Nói Hiếu với dân không có nghĩa là không Hiếu với cha mẹ mà Hiếu với dân trong đó có cha mẹ mình. Người cách mạng mà không có Hiếu với cha mẹ mình thì cũng không thể Hiếu với dân được. Muốn Hiếu với cha mẹ, với dân phải tu thân (tu dưỡng đạo đức). “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” là lời răn dạy của người xưa, nhưng có sức sống bền vững răn dạy cho con người hôm nay và mai sau.

Bác Hồ kính yêu dạy chúng ta Trung với nước, Hiếu với dân. Người dạy chúng ta bằng chính tấm gương từ cuộc đời Người: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó” (1)

Tháng 5-1946, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Người sang thăm nước Pháp. Lúc đó bọn phản động tung tin rằng: Hồ Chí Minh bán nước. Hồ Chí Minh bán Nam Bộ cho Pháp! Người viết thư cho đồng bào Nam Bộ (1-6-1946): “Tôi xin đồng bào hiểu rằng nước Pháp mới không phải là nước đế quốc chủ nghĩa, đi áp bức, đi chia rẽ dân tộc và nước nhà người ta. Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước… Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”(2)

Người coi việc làm Chủ tịch nước là vâng mệnh lệnh quốc dân, như người lính ra trận. Khi nào đồng bào bảo Người lui thì Người xin lui, về với vườn rau, ao cá, vui thú cảnh điền viên.

Với nhân dân, Bác luôn canh cánh một nỗi niềm, lo cho từng cảnh đời của mỗi con người. Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Bác nêu ra hết sức giản đơn và dễ hiểu: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân… Chủ nghĩa xã hội là mọi người được ấm no, tự do, hạnh phúc… Chủ nghĩa xã hội là xã hội do người dân làm chủ. Đã là chủ phải xứng đáng với vai trò làm chủ. Chính phủ do dân bầu ra phải có trách nhiệm lo cho nhân dân:

“1- Làm cho dân có ăn
2- Làm cho dân có mặc
3- Làm cho dân có chỗ ở
4- Làm cho dân có học hành”
(3)

Nhiều lần, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ là công bộc của dân, chứ không phải là quan lại của dân. Không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được dân tin yêu, mến phục?... Người đến với dân như những người thân yêu, ruột thịt, bình dị. Bác đến thăm cánh đồng hạn hán, Người ngồi lên guồng tát nước, Người cầm gầu dây tát nước… Người đến ngõ hẻm Hà Nội đêm ba mươi tết với những người dân đang không có tết, những mảnh đời nghèo đói, tần tảo, manh quần, tấm áo chưa lành…

Với Bác, Trung với nước, Hiếu với dân, là một phẩm chất đạo đức cao quý của người cách mạng, phẩm chất này, chi phối và tác động tổng hợp với các phẩm chất khác trong mỗi hành vi, ý thức của con người. Phẩm chất cao quý này được thể hiện hết sức cụ thể trong cuộc sống của mỗi người cán bộ, đảng viên, đó là sự gương mẫu, đó là sự “đi trước”, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc ngay ở trách nhiệm trước công việc cụ thể thường nhật hằng ngày.

Tấm gương trong sáng hết lòng vì Tổ quốc vì nhân dân của Bác kính yêu cũng bắt đầu, cũng từ sự biểu hiện của những điều bình dị nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất nhưng thật là vĩ đại soi cho chúng ta noi theo.
 
Bài 6: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1430&pop=1&page=0&Itemid=5 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: mọi tật bệnh trong Đảng và trong mỗi cán bộ đảng viên đều do chủ nghĩa cá nhân (CNCN). CNCN là một loại giặc, nó còn ác hơn cả giặc ngoại xâm. Bởi vì, CNCN ở ngay trong con người ta, trong tổ chức của ta, không thể dùng súng, dùng lựu đạn để tiêu diệt nó. Đấu tranh chống nó cực kỳ khó khăn và phức tạp.

Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN” của Bác với bút danh T.L đăng trên báo “Nhân Dân” cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-2-1969, Người đã chỉ rõ những tật bệnh bắt nguồn từ CNCN: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.

Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(1)

“CNCN đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng ham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân.

CNCN là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội, Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.(2)

CNCN xuất hiện và phát triển khá mạnh lúc Bác viết tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN”. Thời điểm đó một năm sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1968 - Mậu Thân. Tổn thất của bộ đội ta là rất lớn. Ở miền Bắc, để hoàn thành nhiệm vụ cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, Nhà nước ta đã tổng động viên, động viên cả nữ thanh niên, cả sinh viên, cả giảng viên, tiến sĩ, phó tiến sĩ lên đường - Cả nước lên đường với khẩu hiệu tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Một số cán bộ, đảng viên, kể cả một bộ phận có chức, có quyền đã sợ hy sinh, gian khổ, tạo ra lý do để trốn tránh việc ra tiền tuyến, tìm cách ở lại hậu phương để yên phận. Không chỉ lo cho bản thân họ, mà còn tìm cách cho con cái họ không phải nhập ngũ, đó là đưa sang các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Ba Lan, Bungari, Rumani, Tiệp Khắc… để học tập. Họ làm thì như vậy, nhưng nói rất hay, hô hào và động viên người khác đi chiến đấu, hy sinh… Khi đã ở lại được hậu phương, họ lại tìm cách “ăn chặn” hàng tiêu dùng được Nhà nước phân phối cho các gia đình, đặc biệt là các gia đình có thân nhân là liệt sĩ, thương binh hoặc đang có thân nhân chiến đấu ở chiến trường. Cả nước gian khổ, khó khăn, còn họ chỉ lo vun vén, phởn phơ, sung sướng… Trong Đảng ta, ngay từ lúc đó đã xuất hiện loại “giặc nội xâm này”, vì vậy, trong “Di chúc” trước lúc đi xa, có một điều Bác dặn đó là: Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, công việc đầu tiên: phải chỉnh đốn lại Đảng nhằm loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất, làm cho Đảng mạnh và sạch - một đảng là đạo đức, là văn minh.

Để quét sạch CNCN, theo Bác, toàn Đảng và mỗi đảng viên phải thực hiện những công việc hết sức cụ thể như sau:

Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ, đạo đức của người đảng viên.

Trong thực tế công tác xây dựng, Đảng ta đã chưa thật sự thực hiện tốt điều dặn này của Bác, nhất là giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Trong xây dựng các nội dung, chương trình, từ chương trình bồi dưỡng phát triển đảng viên mới, chương trình bồi dưỡng đảng viên mới, chương trình sơ cấp, trung cấp, cao cấp chính trị, ít thấy hoặc không có bóng dáng của các chuyên đề giáo dục đạo đức. Nếu xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, giáo dục lý tưởng thì dễ dẫn tới sự phai nhạt lý tưởng và xuống cấp về đạo đức và khi đạo đức đã xuống cấp thì những biểu hiện phi đạo đức sẽ có cơ hội lộng hành.

Đảng viên và cán bộ hoạt động và sinh hoạt hằng ngày gắn liền với tổ chức và quần chúng. Vì vậy, Bác dặn : “Phải thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên”.

Có phải chăng tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong một số tổ chức Đảng chưa thật sự nghiêm túc? Chính sự chưa thật nghiêm túc này, nên có nơi, chuyện bé xé ra to, mâu thuẫn, mất đoàn kết. Chính sự chưa nghiêm túc này, nên có nơi “Dĩ hòa vi quý” ai cũng tốt, tốt “giả” đến nỗi một cán bộ lãnh đạo của một cơ quan có đảng viên phạm tội đã phát biểu: Trước khi bị bắt, các đồng chí ấy đều là đảng viên loại I!

Về tự phê bình và phê bình, đã có lần Bác viết thành một tác phẩm và ngay trong “Di chúc” Bác cũng căn dặn tỉ mỉ điều này. Bác coi tự phê bình là cách tốt nhất để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. Người đã bổ sung thêm vào một câu sau khi nói tự phê bình và phê bình là: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

Hiểu một cách đơn giản, tự phê bình và phê bình là chân tình chỉ cho nhau những ưu điểm, đặc biệt là những khuyết điểm, hạn chế để mỗi người, mỗi tổ chức thấy, vạch ra kế hoạch khắc phục sửa chữa. Nếu không chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm thì lúc đầu khuyết điểm còn nhỏ, sau lớn dần lên thành bệnh. Bệnh nhẹ, sau đó nặng thêm, đến một lúc nào đó, hết cách chữa.

Cái khó của tự phê bình và phê bình là: Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng. Thường người ta khó nghe lời nói thật, cho nên sự thật của những khuyết điểm thường được bưng bít, che đậy, do chỗ thiếu thường xuyên mổ xẻ, gột rửa cho sạch sẽ. Tự phê bình và phê bình không chỉ là công việc của Đảng của tổ chức Đảng, mà còn là trách nhiệm của quần chúng trong xây dựng Đảng. Có được sự phê bình chân tình của quần chúng chắc chắn tổ chức Đảng và đảng viên sẽ tốt hơn. Những hành vi cá nhân chủ nghĩa sớm bị quần chúng giám sát, phát giác.

Để quét sạch CNCN, Bác còn dặn, phải sinh hoạt chi bộ nghiêm túc. Kỷ luật phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.

Kỷ luật tạo thành sức mạnh của tổ chức, thậm chí nó tạo thành sự đoàn kết gắn bó, quyết tâm, thống nhất. Một tổ chức lỏng lẻo, kỷ luật lỏng lẻo sẽ mất sức chiến đấu. Chấp hành ý thức tổ chức kỷ luật một cách tự giác nghiêm minh là một trong những biểu hiện đạo đức cách mạng của đảng viên.

Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch CNCN, điều mấu chốt, cốt lõi nhất là ở sự tu dưỡng rèn luyện của mỗi cá nhân đảng viên. Mỗi con người đảng viên phải tự tu dưỡng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và không ngừng học hỏi, học tập để không ngừng nâng cao tri thức và phẩm chất của mình, của gia đình mình.

CNCN ở ngay trong con người đảng viên. Lúc nào “khỏe” trong mình, “nó bẹp” xuống. Lúc nào “yếu”, những cám dỗ đời thường vẫy gọi, nó vùng dậy, rủ rê người ta sa vào vũng bùn của CNCN. Chính vì vậy, Bác dạy, tu dưỡng đạo đức phải bền bỉ, quanh năm, suốt đời. Trước mỗi sự việc và hành vi, mỗi con người đảng viên phải cân nhắc để làm việc thiện, có đức, có nhân.

Việc tu dưỡng và rèn luyện của mỗi người phải được thực hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng, bằng sự gần gũi, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của quần chúng góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của quần chúng và nâng cao tâm đức của chính mình.

Để tu tâm, tích đức, loại bỏ cái thất đức, thất tâm đã có lần Bác dặn: Người xưa sau mỗi ngày làm việc, lấy hạt đậu trắng đo việc thiện, hạt đậu đen đo việc chưa tốt, đếm và và bỏ các hạt ấy vào hai cái lọ, để xem mình đã làm được bao nhiều điều tâm đức và còn bao nhiều điều cần phải sửa, để ngày mai làm nhiều việc thiện hơn cho mình, cho đời.

Nếu mỗi đảng viên làm được như vậy, toàn Đảng làm được như vậy, CNCN sẽ không còn đất để tồn tại.

Bài 6: Chống chủ nghĩa cá nhân - giặc nội xâm
Đạo đức cách mạng - Đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa những tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là những nét đẹp của đạo đức phương Đông, của Đức Khổng Tử và Đức Phật. Khổng Tử chưa nói đến chủ nghĩa cá nhân (CNCN) mà nói đến một loại người chỉ biết có mình, loại đó là tiểu nhân. Đức Phật cũng chưa đề cập CNCN mà Người mới chỉ đề cập đến nghiệp chướng, quả báo tất yếu của ở hiền gặp lành hay “ác giả, ác báo”. Một trong những nguyên nhân của quả báo được Đức Phật chỉ ra đó là tham, sân, si (tham lam, giận dữ, mê muội hay ngu muội)… Bác Hồ đã kế thừa lời dạy của các bậc tiền nhân, soi vào đời sống hiện thực và hành vi hiện thực của tiểu nhân, của lòng tham và sự thỏa mãn lòng tham của một số người, trong đó có một bộ phận không nhỏ là cán bộ, đảng viên đó là họ đã mắc phải bệnh cá nhân chủ nghĩa, đã sa vào CNCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa bệnh CNCN:

“Ngày thường thì kỷ luật kém.
Khi có vấn đề nghiêm trọng thì hoang mang.
Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung”.
(1)

“Họ mang nặng CNCN, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.

Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.

Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân” (2)

6.jpg

Bác Hồ tại mặt trận Đông Khê (1950)
Chủ nghĩa cá nhân - Theo Bác, nó là một loại giặc, nguy hiểm hơn cả thực dân, đế quốc. Bởi vì, thực dân, đế quốc là kẻ thù, chúng ta thấy, có thể dùng vũ khí, dùng súng và lựu đạn để tiêu diệt. Còn CNCN thì hết sức gian giảo, xảo quyệt, nó ở ngay trong lòng ta, trong mỗi người, trong tổ chức của ta và đôi khi nó được che đậy bởi những hành vi, những lời nói vô cùng cách mạng, vô cùng hoa mĩ, thậm chí nó được che đậy bởi cả chức tước và quyền hành ở một số người.

Đảng và nhân dân ta vô cùng mong ước đảng viên và cán bộ ta chức càng cao, đức càng dày, càng tích được nhiều đức, đó là chính cái phúc của non sông, niềm tự hào của dân tộc. Những người cán bộ, đảng viên đó như tấm gương trong soi cho những người khác và toàn dân. Ngược lại, nếu một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ những trọng trách trong bộ máy của Đảng và Nhà nước mà sa vào CNCN sẽ gây thiệt hại đến uy tín danh dự của Đảng, của cơ quan, tổ chức và đơn vị đối với nhân dân.

Vì CNCN mà một bộ phận cán bộ, đảng viên sinh ra các bệnh sau:

Bệnh nể nang: Đồng chí mình mắc khuyết điểm, lẽ ra phải kỷ luật với một hình thức tương xứng, nhưng vì cảm tình nên chỉ phê bình qua loa cho xong chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm đoàn thể. Có trường hợp cấp trên cử đoàn kiểm tra về, lại tìm mọi cách mua chuộc cả đoàn kiểm tra. Sự thật không được phanh phui, cái xấu vẫn được dung dưỡng - một mầm bệnh nan y bắt đầu phát triển. Quần chúng không chỉ nghi ngờ sự sai phạm từ đơn vị, từ tổ chức mà còn nghi ngờ, thiếu tin cả hệ thống tổ chức.

Bệnh kéo bè kéo cánh, cục bộ, bản vị. Bác dùng từ “cánh hẩu” trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Bè cánh được xây dựng từ những người có họ hàng, là bà con, cháu, chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người cùng xóm, cùng quê; rồi “chén chú chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng số đông, lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người dù có tốt, có tài nhưng không “hẩu” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng “… Vì ham danh vọng và địa vị, cho nên khi phụ trách một bộ phận nào, thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì tìm cách đẩy ra. Thế là chỉ biết có mình, chỉ biết có bộ phận mình…”. (3)

Bệnh “cá nhân”: Đây là loại bệnh mà người mắc bệnh có khi được đánh giá là có “đức”, “hiền lành”, luôn luôn biết “đoàn kết”… Những người này thông thường trong cuộc họp, hội nghị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, được lòng hết cả mọi người. Nếu có nói thì “khiêm tốn” nói bên ngoài, nói ở quán nước hoặc nơi nhậu nhẹt, chơi bời, thậm chí chờ bên nào có xu hướng “thắng” thì giơ tay ủng hộ. Rồi luồn cúi, đi “cửa sau”, thưa dạ, bẩm vâng, xun xoe, nịnh bợ. Những người này khi đã đạt mục đích “leo lên” rồi bắt đầu nịnh trên, nạt dưới, xây dựng bè cánh…

Bệnh hữu danh vô thực: “Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới làm nên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được thì ít, suýt ra thì nhiều, để làm báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch” (4). Bác coi đây là một loại bệnh nguy hiểm. Bệnh thiếu trung thực, làm thì láo, báo cáo thì hay, có lúc có nơi, chúng ta đã gọi là bệnh thành tích. Do chạy theo thành tích mà vẽ vời, khoa trương, dối trá. Những khuyết điểm, hạn chế thì giấu giếm, đậy điệm lại, còn thành tích thì thổi lớn lên, để được khen, được nhận danh hiệu này, huân chương nọ, nhưng tai hại vô cùng. Bệnh hữu danh vô thực không chỉ có trong cá nhân đảng viên mà còn có trong cả tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước. Thực chất của bệnh này là sự giả dối thậm chí đạt tới mức lường gạt người khác, lường gạt tổ chức.

Bệnh tham lam: “Những người mắc bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư, tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình.

Sinh hoạt xa hoa, tiêu pha bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen, buôn lậu. Không sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình.

Bệnh lười biếng - Thực chất của bệnh lười biếng là đối lập với đức “cần”. Lười biếng biểu hiện ở sự thỏa mãn với sự học, cái vốn có của mình, “làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì giành lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho người khác. Gặp nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh” (5).

Bệnh tham ô: Tham ô là lấy của công, chiếm dụng của công làm của tư. Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân, có hại đến đạo đức cách mạng… Lãng phí, không trực tiếp ăn cắp, ăn trộm của công nhưng kết quả tai hại đến tài sản của nhà nước, của tập thể. Lãng phí có nhiều hình thức, hoặc vì lập kế hoạch không chu đáo làm xong rồi lại phá đi làm lại hoặc không sử dụng được, hoặc vì xa xỉ, phô trương hình thức, nào liên hoan, nào “báo chí”, nào “kỷ niệm”, sắm sửa lu bù, xài tiền như nước… Bệnh lãng phí, tham ô gắn liền với bệnh quan liêu, bệnh thiếu sâu sát, qua loa, đại khái, suy cho cùng, cũng do CNCN sinh ra. Có trường hợp biết làm việc đó không hiệu quả nhưng vẫn cứ làm vì nó đem lại cái lợi cho riêng mình, còn cái không có lợi là Nhà nước chịu, dân chịu. Có trường hợp không biết nên cứ làm. Làm có lợi cho cá nhân và nguyên nhân suy cho cùng của trường hợp này là do lười biếng, do kém cỏi sinh ra… Từ cá nhân chủ nghĩa mà đẻ ra hàng trăm thứ bệnh biểu hiện hết sức phong phú và đa dạng trong thực tế cuộc sống hằng ngày.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý, trong đấu tranh chống CNCN, nâng cao đạo đức cách mạng phải bảo vệ lợi ích cá nhân, không được giày xéo lên lợi ích cá nhân.

Lợi ích cá nhân là những quyền lợi chính đáng của cá nhân, những sở thích cá nhân, là cái riêng có của mỗi người, đó chính là những quyền tạo nên nền tảng vững chắc của đạo đức cách mạng. Lợi ích cá nhân chính đáng được phát triển và bảo vệ chính là biểu hiện phong phú của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lợi ích cá nhân được biểu hiện trước hết là công bằng trong lao động. Người nào làm nhiều, làm tốt sẽ được hưởng nhiều. Người nào làm xấu, làm biếng, làm dở, thì được hưởng ít. Phân phối cào bằng hoặc tạo ra hiện tượng chạy chọt, giả dối để kẻ làm dở được hưởng lợi nhiều hơn so với người làm tốt, làm có chất lượng, đó chính là hiện tượng xâm phạm lợi ích chính đáng của cá nhân. Sự giàu có chân chính từ trí tuệ, từ tài năng, từ sức lao động, thậm chí có một chút may mắn của một số cán bộ, đảng viên đó là lợi ích chính đáng phải được khuyến khích và bảo vệ. Điều này hoàn toàn khác với một vài biểu hiện của CNCN như lợi dụng chức vụ, quyền hạn để được hưởng lợi từ những thông tin, từ những điều kiện để có lợi.

Đấu tranh chống CNCN là một việc làm không dễ. Nó chính là cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về lý tưởng, về đạo đức và lối sống hiện nay trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cuộc đấu tranh chống nó không hề dễ dàng, bởi vì nó gắn liền với quyền và lợi ích. Ở một số người tha hóa đã có sự liên kết, gắn bó chi phối lẫn nhau có một lớp vỏ bọc nhiều tầng lớp. Cuộc đấu tranh chống CNCN không dễ, bởi vì CNCN ở trong mỗi con người, ở trong mỗi tổ chức, biểu hiện ra muôn hình vạn dạng. Sinh thời, Bác đã có nhiều bài viết đấu tranh chống CNCN, Đảng ta đã có nhiều cuộc vận động, đấu tranh chống CNCN. Những năm gần đây Đảng có nhiều nghị quyết, Nhà nước có những văn bản pháp luật để phòng, chống CNCN, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu nhưng hiệu quả chưa rõ rệt. Loại giặc nội xâm này đang hằng ngày hằng giờ gặm nhấm danh dự và uy tín của Đảng và chế độ. Thậm chí đã có nghị quyết của Đảng nói đến nguy hại của nó là đang đe dọa sự tồn tại của Đảng và của chế độ ta.

Cuộc đấu tranh chống CNCN đã bước đến thời điểm hết sức quyết liệt, liên quan đến sự tồn vong của dân tộc và đất nước...
 
Bài 7: Sức mạnh vĩ đại của nhân dân



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1431&pop=1&page=0&Itemid=5 Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người học trò xuất sắc, người đồng chí của Bác, một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng, của nhân dân ta đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại”.

Ở trong Bác: Một con người gồm Kim, Cổ, Đông, Tây/ Giàu quốc tế đậm Việt Nam từng nét. Ở trong Bác, dân tộc và quốc tế là một.

7.jpg

Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc (1959)
Sau 30 năm, bôn ba tìm đường cứu nước trở về, để giáo dục toàn dân ý thức độc lập, tự cường, ý thức dân tộc, truyền thống dân tộc, Bác đã viết bài thơ “Lịch sử nước ta”, hệ thống toàn bộ lịch sử Việt Nam bằng 208 câu với thể thơ lục bát, dễ hiểu, dễ nhớ. Có thể nói đây là bài thơ dài nhất trong các bài thơ của Bác. Bài thơ này được “Việt Minh tuyên truyền bộ” xuất bản tháng 2-1942. Cuối bài thơ, Bác tóm tắt những mốc quan trọng trong suốt hơn 4000 năm dựng nước của tổ tiên. Người tiên đoán ở cuối cột mốc quan trọng này “1945 - Việt Nam độc lập” (1)

Tại sao mỗi người dân phải hiểu lịch sử của dân tộc mình? Bác viết:

“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” *


Người chỉ rõ truyền thống của dân tộc là “oanh oanh, liệt liệt, con Rồng cháu Tiên” từng đánh Bắc, dẹp Đông giữ gìn mảnh đất quê hương tiên tổ. Truyền thống ấy có được là từ sức dân, từ sự đoàn kết toàn dân:

“Vì dân hăng hái kết đoàn
Nên khôi phục chóng giang sơn Lạc Hồng”


Bác dạy chúng ta rằng: Khi nào dân ta đoàn kết thì chúng ta thắng lợi. Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại trào lên như nhưng đợt sóng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự gian khổ, hy sinh, nó nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước.

Nhưng khi nào chúng ta không đoàn kết, chúng ta thất bại:

“Vì dân đoàn kết chưa sâu
Cho nên thất bại trước sau mấy lần”


Lịch sử dân tộc dạy cho ta điều đó.

Thuở Hùng Vương dựng nước, sức dân kết đoàn thành một khối mạnh hơn sắt thép: Thánh Gióng. Truyền thuyết anh hùng kể lại rằng, một thiếu niên khi nước nhà có giặc, đã vươn mình đứng dậy, nhấc bổng ngàn cân, ăn như rồng cuốn, đánh tan quân xâm lược. Hình tượng người anh hùng Thánh Gióng là hình tượng của sức mạnh toàn dân. Vận nước lâm nguy, thế giặc hùng mạnh, nhưng đã phải thất bại trước sức mạnh tựa thánh thần: sức dân.

Người dân Văn Lang, tiền thân của người dân nước Việt, không chỉ đoàn kết để thắng thù, mà còn phải đoàn kết “lá lành đùm lá rách”, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau lúc thiên tai. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh đã dựng lại hình tượng người anh hùng sức mạnh như khí phách của núi non, bảo vệ người yêu và cơ đồ của các vua Hùng, chống lại giặc nước - Thủy tặc hoành hành.

Bài học từ chống thiên tai, trụ vững bên biển Đông- thỉnh thoảng lại nổi cơn thịnh nộ - của người dân đất Việt cũng là bài học từ sức dân.

Từ sức dân, vang vọng tiếng cha ông:

“… Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư…”
(Lũ giặc kia cớ sao xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tan tành)
(Nam Quốc Sơn Hà)

Đến: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần muôn đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.

Là kết quả từ:

Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

(Cáo Bình Ngô - Nguyễn Trãi)

Bài học từ những thất bại trong lịch sử dân tộc cũng từ sức dân. Ba lần thất bại điển hình phải kể đến đó là bài học từ thất bại của Thục Phán - An Dương Vương cùng truyền thuyết Cổ Loa thành gắn liền với chiếc nỏ thần bắn một lần vạn phát. Bí quyết của lẫy nỏ là chiếc móng rùa vàng (Kim Quy thần). Nhờ có bí quyết - thực chất là lòng dân, yên dân và sức dân, An Dương Vương xây thành Cổ Loa- kinh đô của nước Âu Lạc, nối tiếp Văn Lang của các Vua Hùng. Nhờ có bí quyết “lẫy nỏ - vuốt rùa”, An Dương Vương và Âu Lạc đánh tan quân xâm lược Triệu Đà. Truyền thuyết kể lại thiên tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy, con gái An Dương Vương và con trai Triệu Đà. Đằng sau chuyện tình là hai bài học lớn, bài học cảnh giác từ Mỵ Châu “Trái tim lầm chỗ để trên đầu”, rồi trao bí quyết nỏ thần vào tay Trọng Thủy. Vô tình Mỵ Châu trở thành người tiếp tay cho gian tế cướp nước là chồng mình. Nhưng bài học thứ hai là bài học sâu sắc hơn - Bài học lòng dân và sức dân. Nỏ thần là hình tượng của sức dân được biểu hiện thành sức mạnh đồng tâm, nhất trí như vạn mũi tên bật đi từ chiếc “lẫy thần”. Nhưng khi thắng giặc rồi, An Dương Vương thực hiện chính sách sưu cao, thuế nặng đánh vào dân, còn bản thân triều chính của mình thì ăn chơi, sa đọa trên mồ hôi và nước mắt của những người vừa theo mình giành và giữ giang sơn. Lòng dân không yên. Lòng dân không tin vào An Dương Vương, không nghe hiệu lệnh từ tiếng trống Đồng - đồng lòng, đồng tâm, đồng sức nữa. Chiếc nỏ thần mất hết linh nghiệm. Bật một phát từ lẫy nỏ giả, An Dương Vương và Mỵ Châu đã đánh mất lẫy nỏ thật. Đánh mất sự thật là đánh mất lòng dân. Và khi không có sức dân, không có sức mạnh đồng lòng, chỉ còn bóng ngựa hồng chở An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu lạc lõng trên đường chạy giặc, thất thủ. Đất nước rơi vào thời kỳ Bắc thuộc ngàn năm…

Rồi dân tộc ta vùng lên giành độc lập, cho đến thời “Hào khí Đông A”, các vua Trần cùng toàn dân đồng tâm “Sát Thát” từ những “Diên Hồng”; ba lần đánh cho giặc Nguyên đại bại, chém đầu đại tướng Ô Mã Nhi, hoàng tử Thoát Hoan bạt vía kinh hồn. Tiếng trống đồng lại âm vang thời giữ nước… Rồi lại theo vết xe đổ của An Dương Vương - Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Lòng dân không yên, nhân dân ca thán, nội bộ lục đục, Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly, một đại tướng dũng mãnh đã có tầm nhìn từ lịch sử: con không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không yên. Thế giặc Minh rất mạnh tràn vào khi lòng dân và quan quân ly tán. Triều đình của Hồ Quý Ly bị giặc bắt, nhốt vào cũi, chở về Trung Quốc… Một thất bại đắng cay, từ bài học sức dân, bài học lịch sử…

Năm 1802, Nguyễn Ánh - Gia Long thống nhất đất nước, lập nước Việt Nam. Nhưng cũng lại “tiền thịnh, hậu suy”. Hậu triều Tự Đức với Vạn niên thành xây từ xương lính, hào đào máu dân. Thực dân Pháp tấn công, không có sức dân, triều đình với quyết tâm chiến đấu nửa vời, đất nước sa vào tay giặc suốt trăm năm.

Bài học sức dân. Bài học đại đoàn kết toàn dân, tự lực, tự cường là bài học từ truyền thống lịch sử dân tộc hết sức sâu sắc.

Hồ Chí Minh sinh ra khi thực dân Pháp cơ bản đã hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, chế độ thống trị thuộc địa đã được thiết lập. Lớn lên trên quê hương nghèo khó nhưng giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, sớm được tiếp thu những tư tưởng cứu nước, đánh đuổi kẻ thù xâm lược từ các bậc cha, anh. Nước mất, dân nô lệ, các phong trào yêu nước, chống Pháp của dân tộc ta cứ bùng lên ở một vài vùng trong đất nước, rồi lại tắt lịm trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Từ một ý chí cứu nước, cứu dân, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, tìm con đường đi cho dân tộc phù hợp với tất yếu của thời đại. Bác đã tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin để rồi sau đó, Người có những kết luận khẳng định đường đi cho dân tộc: Các cuộc cách mạng Anh, cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp đều là các cuộc cách mạng không đến nơi, chỉ có cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng đến nơi, bởi vì, nó định hướng giải phóng triệt để cho người lao động... Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều, nhưng tin tưởng nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin… con đường giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Suy cho cùng, những kết luận của Bác về con đường giải phóng dân tộc là con đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường cách mạng vô sản, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa Mác-Lênin có những luận điểm về vai trò và sức mạnh của nhân dân, của quần chúng đúng với sự tổng kết lịch sử dân tộc ta. Quần chúng nhân dân có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của lịch sử, trong mối quan hệ biện chứng với lãnh tụ, vĩ nhân và giai cấp cầm quyền. Ông cha ta chưa chỉ rõ điều này, nhưng đã thể hiện rõ trong ý tưởng: Chở thuyền cũng là dân và làm lật thuyền cũng là dân (Nguyễn Trãi) cho nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc. Có phải chăng đó là kế sách ngàn đời cho đất nước trường tồn.

Ở Bác, chủ nghĩa Mác-Lênin được tiếp thu nhuần nhuyễn với truyền thống dân tộc. Cả yếu tố dân tộc và nhân loại đều hướng tới sức mạnh của nhân dân được tổ chức hướng tới mục tiêu giải phóng cho chính nhân dân và do chính nhân dân là người thực hiện công cuộc giải phóng ấy. Nhân dân sẽ tạo thành sức mạnh to lớn nếu được tổ chức, nếu được xây dựng thành một khối đoàn kết, đồng lòng, đồng tâm. Nhân tố tổ chức sẽ là một trong những nhân tố quyết định cho thành công …
 
Bài 8: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1432&pop=1&page=0&Itemid=5 “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
(1)
Đã là người Việt Nam có lẽ không ai không thuộc những câu thơ dạy về đoàn kết của Bác Hồ. Truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó. Cho nên có lần Bác dạy: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”. (2)
<!--[if !vml]-->
8.jpg

Kết đoàn, chúng ta là sức mạnh (1960). Ảnh: Lâm Hồng Long
Theo Bác Hồ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân không phải là một thủ đoạn chính trị mà là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là vấn đề sinh tồn của dân tộc. Chỉ có đoàn kết dân tộc mới tồn tại, nhân dân và chế độ mới tồn tại. Từ khi Đảng ta ra đời, đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự là một trong những điểm trọng tâm của đường lối cách mạng. Chỉ có đoàn kết mới có sức mạnh và cách mạng mới thành công.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc chính là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chữ dân được hiểu đó là đồng bào cả nước, đồng bào các thành phần dân tộc Việt Nam dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất này.
Trong nhân dân có nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, nhiều xu thế chính trị, thậm chí có nhiều người theo các tôn giáo khác nhau. Vậy làm sao có thể đoàn kết được?
Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra cái chung của mỗi người dân trong cộng đồng dân tộc: đều là con Lạc, cháu Hồng, đều từ trong một “cái bọc” sinh ra. Hơn nữa, Bác phát hiện và hiểu sâu sắc tâm lý dân tộc, tâm lý cộng đồng, bởi vì mỗi dân tộc đều có ý thức riêng của mình, đều có lòng tự tôn riêng của mình, đều có tính độc lập, không muốn cho dân tộc khác đè nén áp bức dân tộc mình.
Thấy rõ điều này, cho nên năm 1929, khi đang công tác ở Xiêm (Thái Lan) Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản yêu cầu về Trung Quốc, thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động trên bán đảo Đông Dương, thống nhất các hoạt động ở Đông Dương. Bác về, Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Người đã lý giải điều này với Quốc tế Cộng sản. Ở Việt Nam có giai cấp công nhân, có nhu cầu thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng giúp đỡ các dân tộc Cao Miên, Ai Lao thành lập đảng khi các nước này có đủ điều kiện.
Song, Quốc tế Cộng sản lúc đó không thấy vấn đề này. Cho rằng Bác theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Nhưng lịch sử đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng rõ, càng đúng, không thể áp đặt dân tộc này lên dân tộc khác - Nếu thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương mà Việt Nam là nước đông dân hơn, người ta sẽ nghĩ đến vấn đề khác: đem nước lớn áp đặt lên các nước nhỏ.
Trong cương lĩnh (các văn kiện vắn tắt) đầu tiên ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - ngắn gọn và dễ hiểu, Bác đã viết về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đại ý là: Công nhân, nông dân là gốc của cách mạng, học trò (trí thức), nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mạng của công - nông. Đối với những đảng phái trung lập, ta cố gắng lôi kéo về phía cách mạng. Đối với những đảng phái phản động, ta vận động để chí ít làm cho họ trung lập. Bộ phận phản động còn lại ta tập trung đánh đổ.
Bác hiểu đoàn kết dân tộc và đoàn kết toàn dân, khi đất nước bị nô lệ, người dân là người mất nước, thậm chí vua chúa trên ngai vàng cũng là ông vua bù nhìn, nô lệ,… Đồng bào theo các tôn giáo khác nhau đều là người Việt Nam, đều có dòng máu dân tộc chảy trong người, đều mong muốn là người dân độc lập. Bây giờ chúng ta tìm thấy cái chung, gọi là điểm tương đồng. Suy cho cùng cái chung nhất của mỗi người dân Việt Nam đều hướng tới độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Ở Bác, quan điểm giai cấp đã được nhuần nhuyễn với vấn đề dân tộc, chứ không cứng nhắc vấn đề giai cấp.
Thực tế, trong cách mạng nước ta, lịch sử đã minh chứng, lúc nào chúng ta cứng nhắc vấn đề giai cấp, thì lúc đó cách mạng gặp khó khăn, thụt lùi, thậm chí thất bại.
Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một điển hình, khi chủ trương đánh cả trí thức và trung, tiểu địa chủ, không xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân. Ngay sau đó cách mạng gặp khó khăn…
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, lãnh đạo cách mạng lúc đó tư tưởng của Người mới thật sự trở lại - thành lập Mặt trận Việt Minh của dân tộc Việt Nam, bao gồm tất cả già, trẻ, gái, trai, nam, phụ, lão, ấu, đều tham gia, và hướng ngọn cờ vào giải phóng dân tộc. Hạ thấp ngọn cờ đánh phong kiến xuống một bước, thực chất là lôi kéo tất cả các thành phần giai cấp khác về với cách mạng. Khối đại đoàn kết dân tộc phát triển vô cùng mạnh mẽ, được tổ chức và có tổ chức. Vì thế, Cách mạng Tháng Tám 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, toàn dân đoàn kết, vượt qua đói nghèo, tất cả vùng dậy, giành lấy chính quyền…
Nhiều lần, Bác nhắc, đồng bào Quảng Bình có câu ca dao rất hay là:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”

Cũng câu ca dao ấy, sau này, có người thay đổi các định lượng “trăm” “vạn” nhưng hàm ý sức dân, sức mạnh đoàn kết của nhân dân không hề thay đổi.
Để kêu gọi đoàn kết, Bác có những bài thơ cổ động dễ hiểu, dễ nhớ như bài “Việt Nam độc lập”; “Dân cày”; “Phụ nữ”; “Trẻ con”; “Công nhân”; “Ca binh lính”; “Ca sợi chỉ”; “Hòn đá”:
“Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Chỉ một người,
Nhắc không đặng…

… Hòn đá to,
Hòn đá nặng,
Nhiều người nhắc,
Nhắc lên đặng…

Biết đồng sức,
Biết đồng lòng,
Việc gì khó,
Làm cũng xong…”
(3)
Bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh ấy, toàn dân ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân xâm lược Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ.
Không ai có thể hình dung nổi, một dân tộc khát khao độc lập, nhưng đã hơn 80 năm nô lệ, vừa qua một nạn đói vô cùng khủng khiếp, với hai triệu người chết, thế mà, khi kẻ thù xâm lược đã cầm gậy gộc, giáo, mác… chống lại xe tăng, xe bọc thép của chúng. Cuộc kháng chiến chống xâm lược lần thứ nhất, 9 năm - lúc đầu “châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã - ai dè xe nghiêng”. Rồi đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả dân tộc. Một dân tộc nhỏ yếu, đương đầu với tên đế quốc hung bạo và mạnh nhất thời đại. Chúng mạnh đến nỗi, dự kiến rằng, đánh ra miền Bắc chỉ một tuần là Bác Hồ phải đầu hàng. Đánh một tháng, miền Bắc phải trở về thời kỳ đồ đá. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã đập tan ý chí ngông cuồng của kẻ thù xâm lược.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân dân phải được tổ chức, có tổ chức, có mục tiêu mới tạo thành sự đồng sức, đồng lòng, mới tạo thành sức mạnh. Người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, xây dựng khối đại đoàn kết là Đảng ta, Đảng của Bác Hồ vĩ đại, trung tâm của trí tuệ, đạo đức và của khối đại đoàn kết.
Muốn xứng đáng là người lãnh đạo, được nhân dân tôn vinh là người lãnh đạo thì sự biểu hiện phải chính ở cái tâm, cái đức của Đảng và của mỗi đảng viên. Không phải cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là được người ta quý mến. Đức tin của nhân dân, sự lôi cuốn nhân dân theo Đảng, xây dựng được khối đoàn kết, đó là, nhân dân ta thường nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta.(4)
Bác dặn Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Bác dặn Đảng phải là trung tâm của khối đại đoàn kết, phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Muốn để dân tin, dân yêu, dân mến, phải thật sự vì dân, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải trung với nước, hiếu với dân.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền Bác lo lắng, quan tâm rất nhiều đến chữ “Đức” của Đảng, của đảng viên. Bởi vì, chính giai đoạn cách mạng này, con người dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, dễ tha hóa. Nếu không còn là tấm gương cho nhân dân noi theo, Đảng khó có thể xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân và do đó, khó có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa những tư tưởng đại đoàn kết toàn dân để tạo thành sức mạnh to lớn của dân tộc, của Bác kính yêu, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của Bác, đang thực hiện những đường lối đoàn kết rộng mở, xóa bỏ mọi mặc cảm, mọi định kiến của quá khứ, để tìm thấy điểm tương đồng, đồng tâm, đồng sức, đồng lòng, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những năm tháng chiến tranh giải phóng, toàn dân tộc đoàn kết xung quanh Đảng và Bác Hồ vĩ đại để giải phóng dân tộc, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ngày nay, trong xây dựng đất nước, đã là người Việt Nam, dù ở bất kỳ phương trời nào, quốc gia nào, không ai muốn cho dân tộc mình - đất nước mình nghèo khó, hèn kém. Muốn vậy, phải đoàn kết bằng sức mạnh và trí tuệ của mọi người, hướng tới một mục tiêu chung. Mục tiêu đó do Đảng Cộng sản Việt Nam xác định và nó cũng trở thành mục tiêu và sự vươn tới của mỗi người Việt Nam hôm nay.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân chính là tâm nguyện, là một trong những cái đức cao quý của Bác.
“Mặt trận Dân tộc thống nhất cần mở rộng hơn nữa, củng cố hơn nữa, đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào…
Với sự đoàn kết nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc, cháu Hồng, Mặt trận nhất định sẽ thành công”. Sự nghiệp cách mạng nhất định sẽ thành công
 
Bài 9: Xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân





https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1433&pop=1&page=0&Itemid=5


Một Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải là một Nhà nước có Đức, dưới sự lãnh đạo của một Đảng là đạo đức, là văn minh. Nói Nhà nước có Đức là nói đến một nhà nước hướng tới bảo vệ và phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, đồng thời với việc trừng trị một cách nghiêm khắc những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của dân tộc, của nhân dân.
9.jpg

Bác Hồ đang làm việc tại chiến khu Việt Bắc (1953)

Tư tưởng về xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của Bác Hồ được hình thành rất sớm. Nhà nước của dân, do dân và vì dân được xây dựng trên cơ sở của một hiến pháp, một hệ thống pháp luật. Nhà nước ấy quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức. Bản thân nhà nước, các bộ phận cấu thành nhà nước, công chức và cán bộ của nhà nước cũng được hình thành và hành động theo pháp luật và đạo đức.
Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là nhà nước chung chung phi giai cấp. Bởi vì, đã là nhà nước, bao giờ nhà nước cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Cho nên Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam do nhân dân Việt Nam không phân biệt trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, đảng phái, dân tộc xây dựng nên, theo cơ chế đại biểu, đại diện, rồi từ đó cử ra các cơ quan, hình thành bộ máy nhà nước. Nhà nước dân chủ nhân dân được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nói nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội không phải là làm chủ tự do vô kỷ luật, không phải nói làm chủ là ai muốn làm gì thì làm, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội là làm chủ bằng nhà nước, có trật tự, có kỷ cương, có tổ chức, có pháp luật bảo đảm và bảo vệ. Cho nên, thực hiện quyền làm chủ của mình, nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội- Nghị viện nhân dân và Hội đồng nhân dân địa phương.
Ngay từ 1941, khi mới về nước, thành lập thí điểm Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh Hội, Bác Hồ đã có chủ trương: “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới, không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung, của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai của đế quốc Pháp Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”. (1)
Với nhãn quan chính trị cực kỳ sắc bén, khi thời cơ đến, chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Bác Hồ tính đến việc thành lập Chính phủ lâm thời bằng một Quốc dân Đại hội ở Tân Trào. Tức là, xét trên bình diện chính trị và thông lệ quốc tế, Chính phủ lâm thời không phải do một giai cấp, một đảng phái nào lập ra mà do nhân dân đại hội lập ra. Chính phủ ấy, ngay từ khi mới ra đời đã ít nhiều bảo đảm và mang tính pháp lý.
Ngay sau ngày “Tuyên ngôn độc lập” 2-9-1945, ngày 3-9 Bác chủ trì phiên họp Chính phủ để giải quyết hàng loạt những khó khăn cực kỳ phức tạp được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng trong hàng loạt những công việc phải giải quyết ấy, có một nội dung mà Bác đặc biệt quan tâm là hoàn thiện về mặt pháp lý theo thông lệ quốc tế về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng phương thức tiến hành Tổng tuyển cử và cử ra Ủy ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ mới.
Chính việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Nghị viện nhân dân Quốc hội khoá I và việc thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc ta thể hiện ý chí của toàn dân tộc là một hoạt động chính trị bảo đảm về mặt quốc tế của Nhà nước ta. Các nước khác lúc đó tuy không công nhận Nhà nước ta do các lý do khác nhau, nhưng không nước nào bác bỏ được địa vị pháp lý đầy đủ của Nhà nước Dân chủ nhân dân Việt Nam đầu tiên 1946.
Nhà nước Dân chủ nhân dân Việt Nam ra đời là thành quả của cả dân tộc ta trong quá trình kháng chiến chống ngoại xâm dựng nước và giữ nước, đặc biệt là sự chiến đấu hy sinh anh dũng của đồng bào, cán bộ đảng viên, Đảng ta từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Nhân ngày Tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác đã chỉ rõ: “Các nhà nước trước đây do giai cấp thống trị đặt ra để thống trị nhân dân, còn Nhà nước ta hôm nay do nhân dân ta lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu, thay mặt mình tham gia cơ quan quyền lực nhà nước, quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh, những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước, quyết định tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý đất nước và quản lý xã hội, giữ quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Việc xây dựng nhà nước do đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ, là quyền lợi của mỗi người dân Việt Nam. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân ta bắt đầu hưởng dựng quyền dân chủ của mình… Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”. (2)
Một Nhà nước theo tư tưởng của Bác Hồ kính yêu được xây dựng trên đất nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng một Nhà nước của dân theo Bác Hồ nghĩa là: “Tất cả quyền bính đều thuộc về nhân dân, những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia do nhân dân phán quyết”. Dân bầu ra người đại diện cho mình và có quyền bãi miễn nếu họ không còn xứng đáng. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đổi Chính phủ”.(3)
Trong Nhà nước của dân, dân làm chủ, cán bộ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của dân. Trái với các chế độ trước đây, quan lại là “phụ, mẫu” của dân, có mọi quyền hành bắt dân phải tuân theo.
Xây dựng một nhà nước do dân theo Bác, nhà nước đó do nhân dân xây dựng nên. Nhân dân bầu ra Nghị viện nhân dân (Quốc hội) - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước do dân bãi miễn nếu không đáp ứng những yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nhà nước do dân được tổ chức theo phương thức đại diện, đại biểu nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra và có thể bãi miễn nếu người được bầu không còn xứng đáng.
Nhà nước do dân còn được tổ chức theo phương thức, nhân dân có quyền tham gia ý kiến, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội.
Xây dựng một nhà nước vì dân là một nhà nước không đặc quyền, đặc lợi, nhà nước phục vụ nhân dân, tận tụy và bảo vệ lợi ích chính đáng của Tổ quốc, của xã hội, của chế độ và của nhân dân, một nhà nước trong sạch, chí công vô tư. Bác đã dạy rằng: Phải xây dựng một nền chính trị liêm khiết, kiên quyết đấu tranh với 3 thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu.
Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân là một quá trình gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật và tăng cường pháp chế, gắn liền với quá trình nâng cao dân trí và dân chủ, gắn liền với việc xây dựng đội ngũ công chức và bộ máy nhà nước, cho nên không phải xây dựng nhà nước là có ngay một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân.
Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thật sự là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính dân tộc và hiện đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Một nhà nước pháp quyền và đạo đức: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/Chính quyền từ xã, đến Chính phủ, Trung ương do dân cử ra/Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (4).
Hướng tới nhân dân là định hướng hành động suốt cuộc đời Bác. Xây dựng một Nhà nước vì nhân dân phục vụ là một trong những tư tưởng chính trị đạo đức lớn của Người.
 
Bài 10: Làm thế nào để xây dựng một nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1434&pop=1&page=0&Itemid=5 Trong “Di chúc” trước lúc đi xa, Bác dạy: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. (1)

10.jpg

Chào mừng Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN ra đời (1969)
Đảng cầm quyền tức là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Muốn lãnh đạo tốt, Đảng phải lãnh đạo nhân dân xây dựng Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước phải có một đội ngũ cán bộ, công chức có đức, trong sạch và tận tụy như “công bộc” của nhân dân. Đó chính là văn hóa chính trị, văn hóa trị nước của Hồ Chí Minh. Bác dạy: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”. (2)

Xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo đức và pháp luật. Người giáo dục đạo đức cho đảng viên, công chức, viên chức và giáo dục đạo đức cho toàn dân. Trong thực tế cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong xây dựng đất nước hiện nay nếu chỉ thuần túy tuân thủ theo pháp luật thì rất nhiều việc không thể thực hiện nổi. Chỉ có đạo đức và hành vi đạo đức mới giúp cho mỗi gia đình, mỗi xóm làng, mỗi vùng quê tồn tại và phát triển trong yêu thương, trong đoàn kết. Người Việt Nam, các dân tộc phương Đông đều rất trọng đạo đức. Một trận bão tàn phá một vùng quê, gây ra đau thương, tang tóc và mất mát không gì bù đắp được. Lúc đó, chẳng có luật nào điều chỉnh, nhưng đồng bào cả nước giúp sức đã làm cho những nỗi đau dịu bớt và bù đắp ít nhiều những mất mát về vật chất, giải quyết được những khó khăn… Từ khi nhân dân ta giành được độc lập, Bác đã hết sức chú ý đến việc xây dựng hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc cho thấy, khi một dòng họ, một tập đoàn nào đó giành được chính quyền thì những thành viên của họ sẽ có chức, có quyền, dựa vào thế lực để bóc lột, áp bức nhân dân. Vì thế cho nên, các triều đại phong kiến Việt Nam lúc đầu thường rất hưng thịnh, nhưng sau đó một thời gian thường là suy đồi, rồi dẫn tới bại vong. Rõ điều này, Bác thường nhấn mạnh đến phẩm chất đạo đức. Hầu như bài phát biểu nào nói đến Đảng, nói với cán bộ và nhân dân, Bác đều nói và giáo dục đạo đức. Và đồng thời với đạo đức, Bác giáo dục ý thức và hành vi chấp hành pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người sớm nhận thấy những căn bệnh của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; khi có chính quyền, được Đảng, được nhân dân trao cho quyền, họ cho đó là quyền lực cá nhân rồi ngang tàng, phóng túng, cậy quyền, cậy thế, hách dịch, “lên mặt” “quan cách mạng”, nảy nòi ra bệnh tham ô, lãng phí và quan liêu.

Theo Bác, bệnh tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu đều là một thứ giặc, đồng minh của bọn thực dân, phong kiến. Có điều, nó còn nguy hiểm hơn cả thực dân, phong kiến tức là nó ở trong mỗi người, trong tổ chức, trong Đảng, trong Nhà nước ta. Nó phá ta từ trong phá ra, làm suy yếu chính bản thân mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và toàn xã hội, tức là dân không còn tin vào Đảng, vào tổ chức nữa thì tai họa không thể lường hết được. Bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột dân ta, ai cũng biết, ai cũng thấy hoặc rất dễ thấy. Nhưng thứ giặc “cá nhân chủ nghĩa” này thì rất khó thấy, bởi vì nó là đồng chí của ta, thậm chí có một số đã đạt đến các cương vị lãnh đạo trung cấp, cao cấp có quyền răn dạy người khác, chỉ bảo cho người khác, nhưng đến lượt chính bản thân mình thì họ làm ngược lại. “Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”.(3)

Thấy trước những tệ nạn có thể xảy ra trong Đảng cầm quyền và trong chính quyền nhân dân, Bác đã liên tục nhấn mạnh việc nâng cao đạo đức cách mạng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Chống tham ô, được Bác nêu lên ngay từ trong hoàn cảnh đất nước mới độc lập, tham ô ít có điều kiện để nảy sinh. Lúc đó - sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta cùng đồng cam cộng khổ, ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, tham ô lúc đó có khi xét về tài sản mang tính vật chất còn rất ít, ví dụ như vài chục kilôgam gạo, vài ba mét vải… Tuy giá trị vật chất nhỏ, nhưng nó lại chính là bát cơm, manh áo, mồ hôi, nước mắt của đồng bào, chiến sĩ ta. Tham ô là ăn cắp, là một trong những biểu hiện của thất đức, bất liêm, bất chính.

Còn lãng phí, tuy không lấy của công làm của tư, song hậu quả, tác hại của nó còn lớn hơn tham ô rất nhiều. Lãng phí có thể có mục đích vì vụ lợi. Làm một việc nào đó cho việc công, biết là không có hiệu quả, nhưng cứ làm, vì nó có thể đem lại cho bản thân người tham gia công việc ấy lợi lộc. Lãng phí có thể do sự thiếu hiểu biết, thiếu tính toán, dù người làm công việc đó vô tư trong sáng, nhưng tốn kém, không hiệu quả thì thật là tai hại. Chính vì vậy, để có đức, có tâm trong sáng, cán bộ đảng viên phải học, học tập suốt đời.

Để diệt trừ căn bệnh “cá nhân chủ nghĩa”, tham ô, lãng phí, bất liêm, bất chính, ngoài việc phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện đạo đức trong tập thể, trong phong trào cách mạng của quần chúng, chịu sự giám sát của quần chúng, Bác đã kiên quyết sử dụng pháp luật khi các sai phạm xảy ra.

Ngày 27-11-1945, Bác ký sắc lệnh ấn định hình phạt đối với người đưa và người nhận hối lộ từ “2 năm đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền đưa và nhận hối lộ, sung vào công quỹ”. Ngày 26-1-1946, Bác ký quốc lệnh “khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình”. Bác dặn đồng chí Lê Giản - Giám đốc Nha Công an phải: “Thiết diện vô tư”. Người giải thích: Thiết diện nghĩa là như sắt. Làm công an phải kiên quyết, cứng rắn; Vô tư là không thiên vị, nghĩa là phải hết sức công bằng, công minh, công tâm.

Ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác đã ký lệnh bác đơn xin ân giảm án tử hình của Trần Dụ Châu - Nguyên Đại tá quân đội, Cục trưởng Cục cung cấp. Y đã phạm tội ăn bớt xén tiền cơm, áo, quân dụng của bộ đội ta, trong lúc đời sống vô cùng khó khăn để cùng đồng bọn phè phỡn, trụy lạc… Trước khi cầm bút ký, Bác đã thức trắng một đêm, rồi Người đến quyết định: “Thà chặt một cành sâu để giữ cho cây xanh tốt”.

Năm 1964, 3 giờ sáng ngày 16-8, bà Nguyễn Thị Cận - vợ Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp - Trương Việt Hùng qua đời tại khu nhà nghỉ dưỡng dành cho cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước tại khu Bãi Cháy - Quảng Ninh. Vụ giết người, giết vợ mình của Trương Việt Hùng được dàn dựng công phu cùng với người tình là Vũ Thị Tuyết Nga. Vị Thứ trưởng này đã sa đọa bắt đầu từ quyền - tiền - tình và tội. Trên cái cây xanh tốt lại xuất hiện những cành sâu. Bác lại thức trắng đêm và cuối cùng Người hạ bút ký: loại bỏ con người này ra khỏi đời sống xã hội.

Ở trong Bác kính yêu có một tình thương bao la với nhân dân, với con người. Đối với cán bộ, đảng viên, không bài nói, bài viết nào Người không răn dạy về đạo đức, về lẽ sống làm người, làm cán bộ, làm người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân, phụng sự nhân dân, phục vụ nhân dân. Người luôn coi cái Đức là cái gốc của con người, cái gốc của một đảng, một nhà nước chân chính và cách mạng. Nhưng đồng hành với chữ Đức, Bác luôn luôn coi trọng pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật, tôn trọng pháp luật, xây dựng thể chế và tôn trọng thể chế. Những người đã không tôn trọng, không thường xuyên tu dưỡng đạo đức, thông thường lại có hành vi xem thường pháp luật, xem thường tổ chức, xem thường nhân dân và quần chúng. Những người như vậy, không thể để tồn tại trong tổ chức, trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, thậm chí phải loại ra khỏi đời sống xã hội để làm gương, cho dù họ giữ cương vị nào, chức vụ nào, đều được đối xử công bằng trước pháp luật.

Một nhà nước của dân, do dân và vì dân là một nhà nước có một thể chế chặt chẽ, khoa học, một hệ thống pháp luật không ngừng được hoàn thiện, một ý thức tôn trọng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và toàn dân, toàn xã hội. Một nhà nước của dân, do dân và vì dân còn là một nhà nước đạo đức, dưới sự lãnh đạo của một đảng cách mạng và đạo đức, trong đó cán bộ, đảng viên, công chức là một đội ngũ tận tụy, có đức, hết lòng vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó chính là cốt lõi của xây dựng Nhà nước Việt Nam mới theo tư tưởng của Bác Hồ.
 
Bài 11: Hồ Chí Minh - Vị Bồ Tát nơi trần thế Việt Nam



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1435&pop=1&page=0&Itemid=5 Hồ Chí Minh là hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt Nam. Nét đặc sắc của Người và tư tưởng của Người là giải quyết hài hòa giữa tôn giáo với chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm thấy những điểm tương đồng giữa các tôn giáo và dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Những điểm tương đồng cho người Việt Nam dù theo bất cứ tôn giáo nào cũng có thể tham gia những tổ chức phấn đấu vì lợi ích chung của đất nước.
11.jpg

Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc (1959)

Đối với đồng bào theo đạo Phật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thể hiện đạo pháp, hướng về dân tộc, vì đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa xã hội, suy cho cùng, cũng là một trong những mục tiêu của Đức Phật. Đức Phật chủ trương giác ngộ cho chúng sinh, cứu chúng sinh khỏi vòng luân hồi: sinh, lão, bệnh, tử, khỏi sự khổ đau. Khi thoát khỏi vòng luân hồi đó, phần tâm lý của con người có thể ở lại cõi người để tiếp tục giác ngộ và cứu vớt chúng sinh hoặc thoát ra khỏi cõi người, thoát hẳn ra khỏi cõi trần tục để về cõi trời. Ở cõi trời, con người tự do, bình đẳng, thanh thoát, bất sinh, bất tử, bất diệt. Quan niệm của Đạo Phật giải thích nguyên nhân của sự khổ là do Thập kết sử (Mười điều tập hợp lại), cụ thể là tham lam, giận dữ, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, thân kiến, biến kiến, tà kiến (hiểu sai), kiến thủ (bảo thủ, cho rằng chỉ có một mình mình là đúng), giới cấm thủ (tu hành không chính đạo). Trong thập kết sử, Phật giáo đặc biệt nhấn mạnh Tam độc, tức ba điều là nguyên nhân chính của sự khổ đau đó là: tham lam, giận dữ, si mê (tham, sân, si). Nói về nguyên nhân của khổ đau, Phật cho rằng do thập nhị nhân duyên tạo ra theo vòng khép kín trong mỗi người gồm: vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử. Trong 12 nhân duyên này, đạo Phật chú ý hàng thứ nhất là vô minh, có nghĩa là mê hoặc, tối tăm, ngu đần, dốt nát, từ đó sinh ra tham lam, dục vọng, từ đó tạo ra nghiệp đặc biệt là nghiệp ác, thất đức; do vậy mà con người phải chịu khổ đau, không thoát khỏi luân hồi, nghiệp quả, sinh tử. Khi nào còn vô minh, tham lam thì còn hành động để vơ vét, làm ác, đó là nhân, là nghiệp tất sinh ra quả. Nhân nào thì quả ấy, Trồng cây thiện sẽ có trái thiện, trồng cái ác sẽ gặt cái ác. Ác giả tất ác báo.
Để thoát khỏi sự khổ đau, Phật giáo chủ trương diệt trừ vô minh, tức là học tập, là giác ngộ, là trí tuệ bừng sáng, hiểu được rõ bản chất của thế giới và con người, không còn tham dục nữa, mới thoát ra khỏi vòng luân hồi, sinh tử.
Để diệt vô minh, phải siêng năng, chân chính, loại bỏ điều ác, làm điều thiện, tận tâm học tập, không gian xảo, dối trá… Hoạt động đó bao gồm, chính ngữ, chính nghiệp, chính tinh tiến, chính mệnh, chính niệm, chính định, chính kiến, chính tư duy (bát chính đạo).
Phật giáo răn dạy con người làm điều thiện, loại bỏ cái ác, tu thân, tu tâm và tu đạo, thực hiện bốn điều: Từ, bi, hỉ, xả. Từ là làm cho người khác được sung sướng. Bi là làm cho người hết đau khổ. Hỉ là làm cho người khác luôn vui vẻ, không ghen tị, không hiềm khích. Xả là thanh thản không luyến ái, không bực tức, không nóng giận, không phiền não.
Phật giáo dạy: Vô ngã vị tha tức là không vì bản thân mình mà vì mọi người. Suy cho cùng Đức Phật tìm ra con đường cứu khổ, cứu nạn, cứu chúng sinh, bằng con đường tu, thoát tục để có một cuộc sống vĩnh cửu an lành, cực lạc.
Điểm này, chính là điểm hạn chế lớn nhất của Phật giáo, tức là khuyên con người thương yêu nhau, không phân biệt giai cấp để tìm thấy và đi đến cõi cực lạc bên ngoài cuộc đời trần tục.
Bác Hồ kính yêu không phải là người theo đạo Phật, song những tinh hoa của đạo Phật được tiếp thu có chọn lọc, nhân lên và tỏa sáng trong Người.
Cả cuộc đời Người, hy sinh tất cả chỉ quên mình, đúng thật là từ, bi, hỉ, xả, vô ngã vị tha. Bác đã sống cho đời, cho dân tộc và cho nhân loại: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người không ham giàu sang phú quý, chức tước, quyền hành: Làm Chủ tịch nước là vâng lệnh quốc dân, vâng lệnh đồng bào; khi nào đồng bào bảo tôi lui thì tôi xin lui, về với non xanh nước biếc… Người sống thanh bạch, đơn sơ : Bữa ăn suốt cuộc đời Người đều đạm bạc, dân dã; chỗ ở của Người suốt đời bằng cây gỗ đơn sơ, gần gũi với chim muông, cây cỏ; Người mặc những bộ quần áo giản dị nhưng tâm hồn Người thanh thoát, nặng lòng cho nhân dân, cho chúng sinh, khi nhân dân còn có những cuộc đời gian nan vất vả. Cả thời trai trẻ của Người, giống như Đức Phật Thích Ca, đi tìm chân lý, đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc và nhân loại, đã lãnh đạo dân tộc và nhân loại thực hiện con đường giải phóng - Con đường cách mạng vô sản, con đường giải phóng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là con đường giải thoát mọi khổ đau ngay trên cõi đời, cõi người này. Nó do chính những con người bị áp bức và bóc lột đoàn kết lại dưới ngọn cờ của một Đảng chân chính và cách mạng để thực hiện công cuộc giải phóng. Chủ nghĩa xã hội, theo Bác là một xã hội mà ở đó, mọi người đều được no ấm, sung sướng, tự do - Một cõi Niết bàn có thật ngay trong cõi trần gian này.
Bác Hồ cho rằng: “Đức Phật, Đức Chúa và những người xã hội chủ nghĩa đều cùng phấn đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc”.
Nhiều lần, Người nhắc và Người coi Đức Phật Thích Ca là một trong những người thầy của mình. Trong dịp về dự Đại Hội Phật giáo Toàn quốc lần thứ 4 - Hòa thượng Thích Thiện Châu, tiến sĩ Triết học, tiến sĩ Văn học và Khoa học Nhân văn, trụ trì Trúc Lâm Thiền viện ở Pari, đã nói đầy tự hào và xúc động: “Không lúc nào quên mình là người Việt Nam… Có thể nói Việt Nam ta có vua Bụt Trần Nhân Tông, thống nhất các hệ phái trong nước… Trong tôi, Bác Hồ là Bồ Tát, là vị La Hán, bởi vì Người đã dành tất cả cho mọi người, không giữ gì riêng cho mình cả. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ như đóa sen giữa rừng hoa dân tộc Việt Nam, hội tụ đức tài của đất nước”.(1)
Theo đạo Phật, con người là một pháp đặc biệt của thế giới vạn pháp. Con người bao gồm phần sinh lý và tâm lý và sự kết hợp gọi là Ngũ uẩn. Phần sinh lý là phần thân thể phàm tục của con người, có sinh, có diệt. Phần tâm lý giả hợp vào sinh lý nên khi chết phần phàm tục bị diệt, tức là phần ngũ uẩn tách ra, phần linh hồn có thể tiếp tục vòng luân hồi hoặc trở thành bất diệt. Trong cuộc đời thực, phần xác của Đức Phật, của Bác Hồ có thể không còn, song những tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng về đạo đức tồn tại như chân lý vĩnh hằng, xuyên qua thời gian, sống cùng lịch sử và nhân loại.
Tư tưởng đạo đức của Bác Hồ, là sự kế thừa tinh hoa đạo đức của Đức Phật và các vĩ nhân khác. Bác dạy, Đảng của Người và mỗi đảng viên, cán bộ phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, phải chăm lo cho chúng sinh, cho nhân dân, làm sao cho dân có ăn, có mặc và được học hành. Người coi việc diệt giặc dốt là một việc trọng đại như diệt giặc đói, giặc ngoại xâm: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Tư tưởng này rất gần với tư tưởng phải diệt vô minh, trí tuệ tỏa sáng, sẽ nhận thức được thế giới và bản thân mình của Đức Phật. Đức Phật dạy phải quang minh, chính đại (bát chính) chứ không tà, không dâm, không tham dục. Bác Hồ dạy cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải lo trước thiên hạ, hưởng và vui sau thiên hạ, đặc biệt là phải trung thực, thẳng thắn, sửa lỗi mình, không a dua, xu nịnh, tham lam, háo danh, kéo bè kéo cánh, lấy của công làm của tư, tham ô, lãng phí, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một loại giặc hiểm độc hơn cả giặc ngoại xâm vì nó tàn phá đạo đức cách mạng, tàn phá tổ chức và chế độ ta, làm cho nhân dân ta không còn tin vào chế độ. Suy vong của chế độ, của một Đảng cầm quyền suy cho cùng bắt đầu nảy nòi từ nội bộ, từ bản thân mỗi con người, nhất là người giữ các cương vị lãnh đạo lại suy thoái về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị.
Nếu mỗi đảng viên thực hành đạo đức cách mạng, trong sáng, liêm khiết thì toàn dân tin theo, không một âm mưu “diễn biến hòa bình” nào, không một thứ vũ khí hiện đại nào có thể khuất phục được sức mạnh thần thánh - sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội của Bác Hồ là tất cả vì con người, tất cả cho con người và tất cả do con người. Nếu Đức Phật tái sinh chắc Người cũng đồng lòng với quan điểm đó, bởi vì, suốt cuộc đời Người và tư tưởng của Người đi tìm đường cứu khổ, cứu nạn, cứu chúng sinh.
 
Bài 12: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng”



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1436&pop=1&page=0&Itemid=5 Nhà văn Bungari Braga Đimitrôva trong tác phẩm “Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh” đã viết: “Người không có cuộc sống cá nhân nào khác ngoài tình thương yêu đối với toàn thể nhân dân cả nước. Thu Hà, một em bé Việt Nam luôn hát bài hát âu yếm như sự âu yếm của tuổi thiếu niên đối với Bác Hồ, và trong cả tuổi niên thiếu của mình cố gắng, chăm chỉ với những bàn tay nhỏ bé, học băng bó vết thương, cứu giúp các em khác trong các trận mưa bom… để đạt danh hiệu cao nhất “Cháu ngoan Bác Hồ”.

Tên Bác Hồ đối với tất cả thiếu nhi Việt Nam giống như một câu chuyện thần thoại mà các em rất quý mến và ưa thích khi được nghe kể.”

12.jpg

Bác Hồ với các cháu thiếu niên miền Nam Việt Nam (1969)
Thật đúng như vậy, Đimitrôva đã cảm nhận được tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều gọi: Bác Hồ. Không những thế, tất cả Người Việt Nam đều gọi: Hồ Chí Minh là Bác Hồ với một tấm lòng tôn kính, trân trọng, ngưỡng mộ. Đối với các em thơ, thiếu niên và nhi đồng, đã sống trong muôn vàn tình thương yêu của Bác. Trước hết, nói đến dân tộc, có Bác, dân tộc được giải phóng khỏi gông xiềng thực dân xâm lược hàng trăm năm và chế độ thống trị phong kiến hàng ngàn năm. Khi dân tộc bị nô lệ, thiếu niên, nhi đồng cũng là những đứa trẻ bị nô lệ. Giải phóng dân tộc là giải phóng khỏi ách áp bức cho tất cả mọi người, trong đó có thanh niên và nhi đồng.

Ngay từ ngày cách mạng còn trong trứng nước, Bác đã hết sức chú ý đến việc đào tạo thiếu niên và nhi đồng. Bởi vì, như một lẽ tất nhiên, một quy luật, các cháu sẽ là tương lai của sự nghiệp cách mạng, tương lai của đất nước: “Năm 1925 từ Quảng Châu (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tên gọi của Bác Hồ lúc đó) cử cán bộ về Xiêm (Thái Lan), bàn với những nhà yêu nước Việt Nam lão thành, chọn một số con em Việt kiều yêu nước sang Trung Quốc tiếp tục học tập, nhằm chuẩn bị cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Thế là bảy thiếu niên đã được tuyển chọn sau khi các em này đã được thử thách về lòng trung thành, sự can đảm và học lực (hầu hết đã qua tiểu học, thông thạo Anh ngữ và Hoa ngữ).

Ngay sau đó, nhóm thiếu niên này được đưa từ Xiêm sang Quảng Châu (Trung Quốc). Vừa đến nơi, nhóm đã được đồng chí Lý Thụy (tên gọi của Bác Hồ ở Trung Quốc trong thời gian này) đến thăm và đặt lại tên họ cho thống nhất với tên họ của mình là Lý Tự Trọng, Lý Trí Thông, Lý Thúc Chắt, Lý Thúc Lộ, Lý Phương Thuận, Lý Phương Đức, Lý Văn Minh mà nổi bật nhất là Lý Tự Trọng).(1)

Lý Tự Trọng đã xứng đáng với lòng tin của tổ chức, của Bác Hồ. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện được phân công về công tác ở trong nước. Năm 1931, anh bị địch bắt, nhưng tuyệt nhiên chúng không khai thác được gì ở anh. Chúng tức tối đem anh đi xử tử. Lý Tự Trọng đã để lại cho thanh-thiếu niên ta một lời dạy bất hủ: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng”. Con đường ấy là đi theo con đường của Bác, của Đảng, con đường độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho đồng bào. Theo con đường của Bác đã có rất nhiều thiếu niên đóng góp công sức của mình, tuổi thơ và tính mạng của mình như Nông Văn Dền, Vừ A Dính… có cả những em bé đã tẩm xăng vào mình rồi lao vào đốt cháy kho xăng của địch…

Với thiếu niên và nhi đồng, Bác đã dành muôn vàn tình thương yêu. Người thường xuyên quan tâm, nhắc nhở toàn xã hội có trách nhiệm với các em. Bài báo được coi là bài cuối cùng của Bác viết 1-6-1969 dành cho các em. Đúng ngày 1-6-1969, tất cả các báo ở miền Bắc đều in trên trang đầu trang trọng nhất bài “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng”. Người căn dặn: “Thiếu niên, nhi đồng là những người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ”.(2)

Người dặn và dạy chúng ta một cách hết sức chân tình: “Yêu quý các em, chúng ta phải lấy tinh thần dân chủ mới mà giáo dục các em”, “5 điều yêu”: Yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu quý của công.

Chúng ta phải khéo nuôi dạy, giúp đỡ cho nhi đồng phát triển sức khỏe và trí óc thành những trẻ em có “4 tính tốt” hoạt bát, mạnh dạn, chất phác, thật thà. Phải vun trồng cho nhi đồng có thói quen đoàn kết và tập thể, mở mang tính hăng hái và tính sáng tạo của nhi đồng. Làm cho nhi đồng dần dần có các tư cách của con người mới: không sợ khó, không sợ khổ, bạo dạn, bền gan.

Ngoài việc học, cần hướng dẫn các em vui chơi một cách tập thể và có văn hóa như hát, múa, làm kịch, cắm trại… và khuyến khích các em tham gia việc tăng gia sản xuất, thăm viếng thương binh, giúp đỡ gia đình liệt sĩ…

Trong mọi việc, nên hướng dẫn các em tự động. Người lớn không nên cái gì cũng can thiệp, việc gì cũng bao biện; không nên gò ép, bó buộc; không nên làm cho các em câu nệ, khúm núm thành những nhi đồng “già”. Với tuổi thơ, học để chơi, chơi để học. Bác thấu hiểu tâm lý đó để chỉ ra cho giáo dục nước ta. Đặc biệt Người đề ra phương châm cho nền giáo dục mới đó là kết hợp gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục và chăm sóc các em. Giáo dục các em phải giáo dục toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, trong đó cái đức bao giờ cũng được coi là gốc. Với các em, giáo dục đạo đức không phải đem lý tưởng cao siêu, những từ khó nhớ ra để nói, để dạy thì không thể có hiệu quả. Theo Bác, giáo dục đạo đức cho các em thật dễ dàng, đó là những điều các em yêu và những điều các em ghét. Dạy cho các em biết:

Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào.
Học tập tốt, lao động tốt.
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt.
Giữ gìn vệ sinh.
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.


Ngoài những điều dạy bảo, Bác nhấn mạnh một phương thức hết sức hữu hiệu trong việc dạy người, đó là việc dạy người, dạy trẻ thông qua tấm gương. Dạy các cháu trung thực, thật thà thì người lớn, thầy giáo, phụ huynh phải thật thà. Dạy các cháu siêng năng, chăm chỉ thì thầy, cô và người lớn phải siêng năng chăm chỉ: “Dạy các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải dạy cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, chú phải là người tốt”.(3)

Bác không chỉ dạy bảo chúng ta mà cả cuộc đời Bác đã là một tấm gương trong sáng cho chúng ta noi theo.

Trên tầm vĩ mô, mỗi người Việt Nam và các cháu thiếu niên và nhi đồng biết ghét, biết căm thù kẻ thù thực dân xâm lược. Khi đã đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước rồi phải biết vươn lên không chịu sống nghèo nàn lạc hậu bằng chính sức lực và trí tuệ của con người Việt Nam.

Trong cuộc sống thường nhật, có muôn vàn cái xấu, cái sai đang tác động đến lớp trẻ, đến các cháu thiếu niên và nhi đồng. Ví dụ nhỏ từ điều trung thực, trong năm điều Bác dạy, đó là: Thật thà. Người lớn phải thật thà, làm gương cho trẻ nhỏ thật thà. Nếu người lớn thiếu thật thà, lớp trẻ và thiếu niên nhi đồng theo người lớn sẽ ra sao? Một bộ phận người lớn học giả, có bằng thật; một bộ phận người lớn lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng bừa bãi, lãng phí của công; một bộ phận người lớn bất chấp sức khỏe của mọi người, sử dụng vô tội vạ các chất độc hại vào thực phẩm, vào hàng tiêu dùng… Một bộ phận người lớn thực hiện hành vi hối lộ, biếu xén, quà cáp thông qua các hành vi “chạy” đủ kiểu… Tất cả những điều đó có thể quy lại là thiếu thật thà, thiếu trung thực - Một phạm trù cơ bản của đạo đức. Liệu các cháu thiếu niên và nhi đồng học hỏi được những gì?

Sinh thời, Bác chú ý giáo dục tấm gương “người tốt, việc tốt” kể cả những việc nhỏ nhất của các cháu nhỏ. Tuổi thơ thật trong sáng khi Bác nói, cháu nào ngoan được Bác chia kẹo. Khi chia kẹo, có cháu nhỏ không dám nhận kẹo và tự nhận lỗi với Bác là hôm nay cháu chưa ngoan. Bác khen là đã trung thực nhận lỗi và thưởng kẹo.

Sự trung thực đang là một trong những đòi hỏi của cả một thế hệ người Việt Nam trong quá trình hội nhập và tác động đến lớp trẻ mai sau. Thiếu trung thực, không thể đi sâu vào hội nhập. Không ai dám mua và sử dụng thịt gia súc, gia cầm nếu người chăn nuôi cho gia súc, gia cầm ăn thức ăn có chất tăng trọng. Không ai dám ăn nếu nước tương chứa quá nhiều chất 3-MCPD, tôm bơm rau câu, phở chứa foọc môn, cá ướp urê… và người có học vấn ngồi nhầm chỗ…, học thuê, thi thuê…

Tất cả những điều ấy thực chất là làm trái lời Bác dạy, trái với thật thà, dũng cảm mà khi còn quàng khăn đỏ, không ai không thuộc điều này.

Trong nhà trường dạy trẻ, Bác đòi hỏi các thầy, các cô phải thật sự làm gương cho thiếu niên, nhi đồng noi theo. Bởi vì, trong các mối quan hệ tổng hợp của giáo dục toàn diện thì nhà trường giữ vai trò then chốt trong việc hình thành đạo đức nhân cách và tri thức cho lớp trẻ-Phần nhiều do giáo dục mà nên. Cho nên Bác dặn các thầy, các cô phải có đức, có tâm, có trí, phải không ngừng học tập vươn lên xứng đáng là người thầy của các em, của thế hệ kế tục sự nghiệp mai sau… Chăm lo cho sự nghiệp cách mạng, chính là việc “trồng người”. “Trồng người” trước hết phải trồng cái đức, cái nhân, cái trí. Chăm sóc, giáo dục thiếu niên và nhi đồng chính là một công việc quan trọng của sự nghiệp trồng người. Tháng 9-1945, nhân ngày khai trường đầu tiên, Bác gửi thư cho thầy, cô giáo và học sinh, Người nói: non sông Việt Nam có thể trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các em.

Trước lúc đi xa, Bác để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân, cho các cháu thanh niên, thiếu niên và nhi đồng yêu mến. Người dặn: “Đảng, chính phủ và nhân dân ta chăm lo xây dựng đất nước đều nhằm mục đích xây dựng cho các em có một đời sống tươi vui, sung sướng. Gia đình, trường học và xã hội chăm lo giáo dục, đều nhằm mục đích làm cho các em mai sau trở nên những công dân tốt, những cán bộ tốt, những người tốt của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.(4)
 
Bài 13: Hồ Chí Minh - Nhà báo cách mạng




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1437&pop=1&page=0&Itemid=5 Cũng như hầu hết các lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cách mạng bằng làm báo, viết báo và tuyên truyền bằng báo. Sinh thời, khi Vôlađimia I lich Lênin tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống sự suy thoái trong Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, giác ngộ giai cấp công nhân và nông dân Nga, đã sáng lập tờ Tia lửa. Người nói khi cho ra đời tờ báo này: Từ một tia lửa sẽ bùng lên thành ngọn lửa… Người còn dạy rằng: Báo chí không những là công cụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ mà báo chí còn là công cụ tổ chức của giai cấp cách mạng. Báo chí có sức mạnh hết sức to lớn, nó tác động vào quảng đại quần chúng, định hướng cho họ và tổ chức họ.
13.jpg

Hồ Chủ tịch tại Đại hội III Hội Nhà báo Việt Nam (9/1962)

Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh cũng học cách viết báo, làm báo. Bác coi báo chí là công cụ sắc bén để phò chính trừ tà. Tức là bảo vệ và phát triển cái chính nghĩa, cái trung thực, cái đúng đắn và đấu tranh với những hành vi ăn cướp, thực dân và bóc lột, đấu tranh với những suy thoái, thất đức, bất nhân… Báo chí Hồ Chí Minh là báo chí cách mạng, báo chí phục vụ và phụng sự sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Báo chí cách mạng mang trong mình nội dung nhân đức cao cả. Vì vậy, người làm báo, người viết báo phải có đức, có nhân, có dũng khí. Có lần Bác nói về các nhà báo là nhà báo cũng là người chiến sĩ; cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Nhà báo cách mạng phải như thế đấy. Hồ Chí Minh là nhà báo cách mạng nhà đạo đức cách mạng.
Người ra đi tìm con đường giải phóng khi dân tộc còn lầm than. Bài báo đầu tiên của Người viết ngay trên đất nước của kẻ thù xâm lược, bài “Yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đó là những yêu cầu được gửi tới các nguyên thủ quốc gia dự hội nghị Vecsai 1919. Phải có bản lĩnh và đạo đức, phải có quyết tâm và dũng khí mới giữ được bản yêu sách này và đưa bản yêu sách này lên công luận, để người Pháp và các dân tộc khác hiểu cái gọi là “khai hóa văn minh” trong khi chúng không cho các dân tộc thuộc địa được hưởng bất cứ một quyền dân tộc nào. Bài “Tâm địa thực dân” tiếp theo là “Yêu sách của nhân dân Việt Nam” của Bác đã vạch trần bản chất bóc lột, vô nhân đạo của thực dân Pháp.
Dòng chảy báo chí Hồ Chí Minh là dòng chảy từ chính cuộc đời đã cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại của Người. Người làm báo, viết báo để phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân loại. Trong cuộc đấu tranh đó, có cuộc đấu tranh chống cái xấu, cái sai ở mỗi con người ở trong Đảng, trong tổ chức, trong dân tộc, để xây dựng cái đúng, cái tiến bộ, biểu dương cái tốt, việc tốt.
Người sử dụng báo chí làm công cụ giác ngộ và thức tỉnh - Báo Người cùng khổ 1922 và báo Thanh niên 1925 đã tập trung vào mục tiêu đó. Với báo Người cùng khổ, Bác vừa là người sáng lập, vừa là người lãnh đạo, chủ bút, phóng viên và thậm chí có lúc còn kiêm luôn nhiệm vụ phát hành nữa. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội ác của bọn xâm lược tại các thuộc địa để cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới thấy rõ và ủng hộ cho cuộc đấu tranh đòi quyền sống, quyền con người, quyền dân tộc của các dân tộc thuộc địa. Năm 1925, sáng lập báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc đã dùng tờ báo làm công cụ tuyên truyền con đường cách mạng giải phóng dân tộc, để tập hợp và giác ngộ quần chúng, để tiến tới thành lập một tổ chức lãnh đạo đội tiên phong lãnh đạo giai cấp và dân tộc…
Mục đích làm báo, viết báo của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, Người nói: Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng… cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng, cây bút, trang giấy cũng là vũ khí sắc bén của họ. Mỗi khi viết một bài báo, người viết phải tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho đơn giản, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát, đặc biệt là viết ngắn… Viết để phục vụ quần chúng, phục vụ công, nông, binh. Trong kháng chiến, trong đấu tranh, báo chí tập hợp và kêu gọi, động viên, cổ vũ nhân dân và đồng bào, chiến sĩ vượt qua hy sinh gian khổ để chiến thắng kẻ thù… Những ngày sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, hàng trăm thứ giặc đe dọa sự tồn tại của dân tộc, trước hết giải quyết giặc đói, báo chí đăng lời Bác, đăng hình ảnh Bác gầy gò, hốc hác: Tôi kêu gọi đồng bào cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi bữa một bơ, lấy gạo đó cứu đói. Xin phép đồng bào cho tôi thực hiện trước. Vị lãnh tụ của dân tộc, Chủ tịch nước đã nói như vậy và đã làm như vậy, trong lúc cực kỳ khó khăn như vậy, cả nước theo Người, làm theo Người, cứu đói và thắng giặc đói… giặc dốt, giặc ngoại xâm… Khi thực dân Pháp quyết tâm cướp nước ta một lần nữa, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, hết sức ngắn gọn, đọc lên như có lửa ở trong lòng. Bài ấy Bác đã đọc trực tiếp trên Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam: Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Ai có súng, dùng súng. Ai có gươm, dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc…. Cả dân tộc theo lời Người kêu gọi: chín năm kháng chiến thánh thần/gậy tầm vông đánh tan quân bạo tàn… Rồi đế quốc Mỹ vào miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, trên báo, đăng lời Bác: Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi. Và tình cảm của Bác với miền Nam: Miền Nam trong trái tim tôi, chừng nào miền Nam chưa giải phóng, Tổ quốc chưa thống nhất thì tôi ăn chưa ngon, ngủ chưa yên… Chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa; Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác có thể bị tàn phá. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn… Cả nước theo Người, 21 năm trường kỳ kháng chiến, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, để cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội theo tâm nguyện của Người.
Báo chí thể hiện tâm nguyện và đức độ của Bác như một tấm gương trong cho đồng bào và chiến sĩ noi theo, cho dân tộc và nhân loại noi theo. Khi đất nước đã giành được độc lập, Đảng đã cầm quyền, Bác sớm phát hiện ngay thấy căn bệnh cố hữu, được hình thành như một quy luật trong những người có chức, có quyền, đó là bệnh quan cách mạng, quan liêu, hủ hóa, tham ô, lãng phí, kéo bè kéo cánh, cục bộ địa phương, lười học, ăn trên ngồi trước, thiếu trung thực, báo cáo hay, làm thì dở, xu nịnh, a dua… Người viết các bài báo. Sửa đổi lối làm việc và các bài cần, kiệm, liêm, chính, đạo đức cách mạng. Người phê phán, thậm chí lên án các căn bệnh ấy, coi đó là một thứ giặc nội xâm, một kẻ thù của Đảng, của dân tộc. Nó còn ác hơn là đế quốc. Bác dạy cán bộ, chiến sĩ và toàn dân ta bằng tấm gương đạo đức trong sáng của Người, nói đi đôi với làm, tận tụy suốt đời như một công bộc của dân, của nước. Bên cạnh việc phê phán đấu tranh với những hành động và tư tưởng thoái hóa, biến chất xuất hiện trong bộ máy của Đảng, những hành động tốt, Người đề nghị báo chí mở chuyên mục “Người tốt, việc tốt” và chính người là người viết những tấm gương tốt để mọi người cùng học hỏi, cùng noi theo.
Hồ Chí Minh chú ý đặc biệt đến việc giáo dục đạo đức bằng tấm gương thật, tấm gương sống. Một tấm gương sống có giá trị gấp hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người dạy, muốn giáo dục người thì bản thân mình phải là người được giáo dục và có giáo dục, giáo dục đạo đức, thì người giáo dục đạo đức trước hết phải là người có đạo đức trong sáng.
Hồ Chí Minh là nhà báo cách mạng. Báo chí phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người - một sự nghiệp hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội một xã hội công bằng, văn minh và tiến bộ. Nói như Bác, đó là xã hội mà mọi người đều được ấm no, tự do và hạnh phúc - Một xã hội của đạo đức xây dựng từ cái đức trong sáng của Bác Hồ, vị lãnh tụ, nhà cách mạng, nhà báo kiệt xuất của dân tộc Việt Nam và nhân loại.
 
Bài 14: Hồ Chí Minh - Báo chí và Cách mạng




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1438&pop=1&page=0&Itemid=5 Ngày 21-6-1925 là ngày Báo “Thanh niên” cơ quan ngôn luận của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội ra số đầu tiên. Tờ báo ấy, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Ngày 21-6 hằng năm trở thành ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.
Với Bác, làm báo là một phần của công tác cách mạng. Làm cách mạng là đấu tranh để xây dựng cái tốt, loại bỏ cái xấu, đấu tranh giành độc lập dân tộc và hạnh phúc cho đồng bào. Có lẽ Bác đã nói duyên nợ của Người với báo chí là như vậy. Suốt 50 năm làm báo, làm cách mạng, Bác đã để lại một di sản vô cùng đồ sộ với hơn 2000 bài báo, 500 truyện, ký và 300 bài thơ. Khi nói đến cách làm báo, Bác quan tâm đặc biệt đến tư cách người làm báo. Người coi nhà báo là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Người nói: bài báo là tờ hịch của cách mạng. Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung. Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại ấy, nhà báo phải có đủ phẩm chất của người cán bộ cách mạng, tức là người đi tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ người khác, trước hết phải làm gương cho người khác. Người coi một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người đòi hỏi người làm báo khi nói đến cần, kiệm, liêm, chính thì trước hết mình phải cần, kiệm, liêm, chính và đặc biệt khi cầm bút phải phản ánh trung thực, khách quan, tức là nói phải có sách, mách phải có chứng. Nói sự việc xảy ra thì xảy ra ở đâu, khi nào; nói tham ô, gây thiệt hại phải rõ ràng, số lượng bao nhiêu, thiệt hại thế nào, chứ không nói chung chung, phê bình chung chung. Cái khó của người làm báo là ở chỗ đó. Người dạy: “Viết phải thiết thực, nói có sách, mách có chứng... chống tham ô, lãng phí, thì nêu rõ ai tham ô? Ai lãng phí? Lãng phí cách nào? Ngày tháng nào?... Chớ có viết lung tung”.(1)
14.jpg

Bác Hồ làm việc với báo Sự Thật ở Việt Bắc

Người đem kinh nghiệm làm báo của mình để tâm sự với các nhà báo. Trường học làm báo của Bác là trường đời. Người dạy Bác làm báo đầu tiên cũng yêu cầu Bác viết hết sức thực tế, đầu tiên Bác viết 3, 4 dòng, sau đó viết 10 dòng, rồi viết 1 cột, 1 cột rưỡi, rồi lại viết ngắn lại còn 10 dòng, 5 dòng. Bác học cách làm báo chính từ sự khổ luyện đó. Cho nên Bác luôn luôn khuyên các nhà báo phải học: “ Học ở đâu, học với ai. Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng”.(2)
Muốn có tài liệu nhà báo phải lăn vào thực tế, vào quần chúng. “Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là:
1. Nghe: lắng nghe các cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để lấy tài liệu mà viết.
2. Hỏi: những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những tình hình, những việc ở các nơi.
3. Thấy: Mình phải đến, xem xét mà thấy.
4. Xem: Xem báo chí, xem sách vở, xem báo chí trong nước và nước ngoài
5. Ghi: Những gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã học được thì ghi chép để dùng mà viết. Có khi xem mấy bài báo mà chỉ được một tài liệu mà thôi. Tìm tài liệu cũng như các công tác khác, phải chịu khó”. (3)
Sâu sát thực tế, sâu sát quần chúng, nói lên sự thật đó là phong cách làm báo của nhà báo Hồ Chí Minh. Bác dạy rằng viết báo không những chỉ viết những cái tốt mà còn phải viết những cái xấu để phê phán một cách đúng đắn, chân thành. Người cũng phê phán những phong cách làm báo của một số nhà báo thiếu đi sâu vào đời sống thực tiễn nên viết càn, viết ba hoa, viết “dây cà ra dây muống” hoặc “tầm chương trích cú” khiến cho người đọc như “lắt chắt vào rừng xanh”...
Nhà báo, nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã làm báo, làm thơ và viết văn từ máu thịt của mình để phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân, để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, giải phóng loài người...
Tám mươi hai năm qua, từ tờ báo “Thanh niên”, tờ báo cách mạng đầu tiên của dân tộc ta, đến nay, báo chí cách mạng đã có hàng trăm tờ với nhiều thể loại phong phú: Báo điện tử, báo ảnh, báo hình, báo phát thanh và truyền hình… Cả nước hiện có 687 cơ quan báo chí với khoảng 800 ấn phẩm gồm 172 báo, 448 tạp chí, 67 đài phát thanh, 5 báo điện tử, 105 trang tin điện tử. Báo chí đã kịp thời phản ánh công cuộc chiến đấu và xây dựng của nhân dân ta... Những năm tháng chiến tranh, báo chí như thắp lên ngọn lửa cho lớp lớp thanh niên và toàn dân chiến đấu giải phóng dân tộc... Trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, báo chí và nhà báo đang đứng trước những thách thức mới. Đất nước mở cửa và hội nhập. Kẻ thù chĩa mũi nhọn vào mặt trận văn hóa tư tưởng với ý đồ làm giảm lòng tin của nhân dân ta vào Đảng và chế độ. Chúng khoét sâu vào những khuyết điểm của một số đảng viên, khoét sâu vào sự thoái hóa biến chất, quan liêu, hách dịch, tham ô, tham nhũng của bộ phận cán bộ, đảng viên đó nhằm mục đích bôi nhọ Đảng và nhà nước ta. Hàng trăm tờ báo của các tổ chức phản động trong và ngoài nước, được nuôi dưỡng bằng sự thù địch, hằn học muốn phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta… Những tờ báo như Chiêu đường, Việt luận, Nhân quyền... thiếu hơi thở của thực tiễn cuộc sống và xây dựng của nhân dân trong nước, thường là sự vay mượn “ nói leo” từ những tin tức chân thật của những kênh thông tin chính thống, rồi tán tụng, thổi phồng, khuyếch đại lên làm cho đồng bào ta ở nước ngoài tưởng như nhân dân trong nước sống trong một chế độ hà khắc, mất dân chủ, phân biệt đối xử với các tôn giáo các thành phần dân tộc… Báo chí và các nhà báo cách mạng không những phải phản ánh một cuộc sống không ngừng phát triển và đổi mới của đất nước, phản ánh các chính sách phát huy quyền dân chủ của nhân dân, nhưng đồng thời phải chống lại các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, của những kẻ mượn danh dân chủ và nhân quyền, thực hiện những ý đồ chính trị xấu. Bên cạnh đó, trước những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ, công chức và trong nhân dân báo chí phải đấu tranh một cách trung thực, chân thành. Các nhà báo cách mạng trong công cuộc đổi mới đã vượt qua những cám dỗ, thậm chí cả sự đe dọa đến tính mạng của bản thân và gia đình để đấu tranh vạch trần những cái ác như những cái ác trong những kẻ chủ mưu và đồng lõa Trương Văn Cam, vụ PMU 18, vụ đất đai ở Đồ Sơn Hải Phòng… Nếu không có sự đấu tranh trung thực của báo chí, chắc có những vụ không được phanh phui... Các nhà báo trong quá trình “ hành nghề” cũng phải thực sự có dũng khí để vượt qua chính mình, vượt qua sự cám dỗ của trăm ngàn những “mánh lới, lợi lộc” đời thường mới có thể không “ bẻ cong” ngòi bút. Trong thực tế, nhà báo cũng là con người, ngòi bút có thể làm khuynh gia bại sản những tập đoàn kinh tế lớn nếu đưa tin thiếu chính xác, và cũng có thể tôn vinh và làm rạng danh giả hiệu những kẻ lừa lọc dối trá trên thương trường. Bên cạnh các nhà báo tâm huyết và cách mạng, cũng đã xuất hiện một số nhà báo “bán mình cho quỷ sứ”, có người đã nhận những bản án nghiêm khắc, sự trừng phạt của pháp luật.
Bác Hồ kính yêu - tấm gương trong các thế hệ nhà báo cách mạng Việt Nam; Những lời dạy của Người như kim chỉ nam cho báo chí và các nhà báo. Sâu sắc nhất của người làm báo đó là sự lĩnh hội từ Bác Hồ cái tâm, cái đức của nghề báo. Thiếu điều đó không thể trở thành nhà cách mạng giỏi. Từ cái tâm, cái đức của người làm báo sẽ định hướng cho việc học hỏi suốt đời, cho tính trung thực, sự bảo đảm cho người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng của Đảng. Suy cho cùng, viết báo, làm báo phải học và làm theo Bác Hồ, báo chí phải luôn mang tính xây dựng cái tốt, cái mới, đấu tranh với những cái xấu, cái sai, phản ánh trung thực và chân thành sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 
Bài 15: Cả gia đình Bác hóa thân vào non sông đất nước



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1439&pop=1&page=0&Itemid=5 Trong lịch sử, hiếm có một gia đình Việt Nam nào như gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến thế hệ của Bác, Bác không có vợ, không có con. Chị của Bác, bà Nguyễn Thị Thanh cũng không có gia đình riêng. Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, cũng không có vợ, con. Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm ra thăm Bác, sau đó về quê, tham gia các tổ chức kháng chiến chống Pháp và làm ăn nuôi nhau. Ông Khiêm mất 1950, bà Thanh mất 1954.
15.jpg

Đoàn đại biểu thường trực MTDTGPMNVN tại miền Bắc đến chào Hồ Chủ tịch (1966)

Cha Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra trong một gia đình phú nông đã phá sản ở làng Kim Liên, xã Chung Cự , tổng Lâm Thịnh, tỉnh Nghệ An. Mới 3 tuổi, ông đã mồ côi cha, lên 4 tuổi mồ côi mẹ, phải ở cùng vợ chồng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ, và phải lao động, chăn trâu, cắt cỏ như bao đứa trẻ cùng trang lứa ở quê. Do tư chất thông minh, ham học, ông được cụ tú Hoàng Xuân Đường xin đưa về nuôi dạy. Ông Sắc đến ở nhà cụ tú Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được chăm lo cho việc học hành. Vợ chồng cụ Tú Đường không có con trai, chỉ có hai người con gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An, nên vợ chồng ông Tú rất quý mến cậu Sắc và đã quyết định chọn cậu làm con rể. Năm 1881, cậu Sắc 18 tuổi kết hôn với con gái đầu lòng của cụ Tú là Hoàng Thị Loan 13 tuổi. Ba năm sau, năm Hoàng Thị Loan 16 tuổi, sinh cô con gái đầu lòng, chị Bác, Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau sinh anh của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, và hai năm sau đó sinh Bác, Nguyễn Sinh Cung. Cũng như những thanh niên trí thức lúc đó, ông Sắc tham gia các kỳ thi của triều đình, năm 1894 (sau khi cụ Tú Đường mất 1893) ông thi đậu cử nhân tại kỳ thi Hương, trường thi Nghệ An. 1895 ông thi Hội ở triều đình, nhưng không đỗ. Đến 1901 sau khi vợ mất, ông thi đậu Phó bảng. Không ra làm quan ngay, trở về quê dạy học, ông sống trong sạch và cương trực. Mãi đến tháng 5-1906, ông mới vào Huế nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Tháng 5-1909 ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tại đây, căm ghét bọn tham quan, ô lại, ông thường thăm thú dân chúng, rồi những người tù bị bắt do oan khuất, do đấu tranh chống sưu, thuế nặng nề được thả. Bọn cường hào, ác bá ở Bình Khê đã tìm cách kiện ông ra triều đình. Ông bị triệu về triều, bị Hội đồng Nhiếp chính xử 100 trượng, giáng 4 cấp và bị triệt hồi. Không về quê, ông đi về Nam, vừa đi vừa bốc thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Ông mất ngày 27-11-1929 tại Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay).
Mẹ Bác, bà Hoàng Thị Loan là con cụ tú Hoàng Xuân Đường và cụ bà Nguyễn Thị Kép. Được học hành và được dạy dỗ trong gia đình nho học, bà là một điển hình của người phụ nữ thời đó, hết lòng hết sức lo sự nghiệp của chồng và con cái. Ông Sắc vào Huế học và thi cử lận đận. Bà và các con trai cũng vào, vừa dệt vải vừa chăm lo cho chồng cho con. Thuở thiếu thời, trong lời ru của mẹ, tình yêu quê hương đất nước đã được thấm đậm, in sâu trong lòng anh chị em Bác. Những tình cảm ấy được nhân lên, khắc ghi trong lòng Bác kính yêu suốt cả cuộc đời mình.
Năm 1901, bà Loan lâm bệnh nặng và qua đời. Phần mộ của bà sau này được bà Thanh và ông Khiêm mang từ Huế về đặt trên sườn núi Động Tranh, một trong những ngọn núi của dãy Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Khi cha vào kinh thành nhậm chức, bà ở nhà tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Nghệ An và miền Trung. Bị giặc bắt, chịu án phạt 100 trượng, tù khổ sai 9 năm, đày cách quê hương 3000 dặm. Bà là người phụ nữ cách mạng, kiên quyết, có nhan sắc mặn mòi, nhưng cũng không có chồng, con. Thời trẻ, nhiều đám mai mối, có cả những đám con của gia đình gia thế, đến những đám của những người đồng niên ở quê.
Nhà văn Sơn Tùng, thương binh 1/4 , người có nhiều tác phẩm rất hay và chi tiết về Bác và gia đình Bác, người đã từng gặp và trò chuyện với chị Thanh, anh Khiêm và với cả người yêu của Bác Hồ là Lê Thị Huệ kể lại, nhà văn có lần hỏi bà Thanh: vì sao cô không xây dựng gia đình? Bà Thanh trầm tư u uẩn, nhìn vào cõi xa xăm như không muốn nói, nhưng như nuốt những đau đớn vào trong, bà kể rằng: khi bị bắt, chúng khám thấy trong người và dưới vạt giường nằm của bà có giấu súng, chúng còn biết bà là con gái của Nguyễn Sinh Sắc, chị gái của Nguyễn Ái Quốc - người vừa gây tiếng vang lớn trên diễn đàn các nguyên thủ quốc gia ở Vécsai nước Pháp, chúng rất căm giận. Mọi ngón đòn tra tấn, đánh đập, bà chỉ nhận về mình, không khai bất kỳ chi tiết nào liên quan đến đồng chí mình. Một hôm để khuất phục bà, bắt bà phải khai, chúng dùng một chiếc mâm đồng, đặt lên lò than nung đỏ rực, lột trần bà ra, rồi đẩy bà ngồi bệt vào chiếc mâm nóng đỏ đó. Thịt da cháy xèo xèo, đến xương, tủy, bà ngất đi. Sau đó nhiều tháng, nhờ sự thương cảm của các bạn tù, bà tự chữa bệnh bằng một số thứ thuốc nam kiếm được, vết thương lành, nhưng toàn bộ phần thịt cháy nham nhở, lồi lõm và luôn luôn tấy đỏ, đau đớn, mặc cảm hằng ngày. Bà không nghĩ đến việc lấy chồng. Những năm kháng chiến chống Pháp, bà tham gia Hội mẹ chiến sĩ ở quê, bốc thuốc nam chữa bệnh cứu người cho đến lúc đi xa.
Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Năm 1908, hai anh em Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, sau đó bị trường Quốc học Huế buộc thôi học; Cậu Thành đi về Nam, mưu cứu nước, cha bị đày đi làm tri huyện Bình Khê, ông Khiêm về quê, cùng chị hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp của đội Quyên, ấp Võ. Năm 1914, ông Khiêm bị giặc Pháp bắt, bị chúng xử 9 năm khổ sai, đày vào tận Nha Trang. Mãi đến năm 1920, giặc Pháp mới đưa ông về giam lỏng ở Huế. Tiếp theo là những ngày gặp lại chị gái. Hai chị em tham gia các phong trào cứu nước ở quê cho đến lúc ra đi. Ông Khiêm cũng không lấy vợ, không có con. Giữa rừng già Việt Bắc, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi bên đống lửa, chúng tôi chân tình hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sao chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình. Chủ tịch cười ôn tồn nói với chúng tôi rằng: lúc còn trẻ mải mê đi làm nhiệm vụ, không có điều kiện lập gia đình, bây giờ già rồi không còn nhu cầu ấy nữa.
Như vậy, Bác cũng như chúng ta, là con người bình thường, ai cũng khát vọng yêu thương, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình. Nhưng Người đã trở nên vĩ đại bởi vì đã vượt lên trên cái bình thường của chính mình với mục đích đem lại cái bình thường và hạnh phúc cho nhân dân, cho các thế hệ mai sau.
Cả gia đình Bác đã hy sinh cho nhân dân, cho đất nước. Cả gia đình Bác đã hòa tan vào mỗi gia đình người Việt Nam hôm nay và mai sau. Mỗi gia đình Việt Nam như có Bác, có hình Bác. Trong trí óc trẻ thơ, tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều có Bác. Cả dân tộc đi theo con đường Người chọn, học tập và làm theo lời Người dạy. Gia đình của Người, sống mãi trường tồn cùng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
 
Bài 16: Bác Hồ - Người đặt nền móng cho quan hệ Việt - Mỹ



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1440&pop=1&page=0&Itemid=5 Nhân dân Việt Nam không hề muốn có chiến tranh. Dân tộc ta luôn khát khao hòa bình, nhưng kẻ thù xâm lược thì ngược lại. Là người suốt đời đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, đem lại hạnh phúc cho đồng bào, Hồ Chí Minh luôn muốn hòa bình, Người đã tìm mọi cách để bảo vệ hòa bình, đã nhân nhượng đến “vạn biến” để quyết tâm giữ lấy cái “bất biến”. Bác rất muốn và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn cho tất cả các dân tộc khác trên thế giới..
Với Hoa Kỳ, 1913, Nguyễn Tất Thành đã đến đây, đến chân tượng Nữ thần Tự do ở New York, biểu tượng cho tự do của nhân dân Mỹ. Người đã đến nhiều nơi trên đất Mỹ, đã lao động, đã sống và tìm hiểu cuộc sống của nhân dân ở đây. Hồi đó, Mỹ đã giàu và mạnh. Sau thế chiến thứ nhất Mỹ giàu và mạnh hơn và sau thế chiến thứ hai, Mỹ trở thành cường quốc giàu và mạnh bậc nhất thế giới. Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, trước Cách mạng Tháng Tám 1945 đã có những cơ duyên vô cùng tốt đẹp và thuận lợi. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1-9-1939), trên đường về nước, Nguyễn Ái Quốc đã thấu hiểu chiến tranh và xác định cách mạng giải phóng dân tộc của dân tộc ta đứng về phe Đồng Minh chống phát xít. Sau khi Người về nước, Nghị quyết BCHTW Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 (Khóa I) đã ghi rõ tư tưởng này. Nghị quyết còn chỉ rõ: phát xít Đức sẽ tấn công Liên Xô, chúng sẽ thất bại, chủ nghĩa phát xít sẽ thất bại, thời cơ sẽ đến với nhân dân Việt Nam (phe Đồng Minh lúc đó bao gồm Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô và các dân tộc tiến bộ khác chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh). Sau khi thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), Nguyễn Ái Quốc rất muốn tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ. Cuối 1944, một máy bay do thám Mỹ trên bầu trời Bắc Việt Nam bị pháo cao xạ Nhật bắn hạ, Trung úy phi công William Saw nhảy dù xuống Cao Bằng và được Việt Minh cứu thoát khỏi vòng vây của Nhật-Pháp. Trung úy Saw được Bác Hồ tiếp đón thân mật và Người tìm cách đưa viên phi công về Trung Quốc cho Tập đoàn không quân số 14 Mỹ. Đầu tháng 3-1945, nhân danh lực lượng Việt Nam giải cứu cho Trung úy Saw, Hồ Chí Minh tiếp xúc với AGAS. Phía Mỹ cảm ơn và tặng người thuốc men, tiền bạc. Người không nhận tiền.
16.jpg

Ngày 17-3-1945, Hồ Chí Minh gặp Charles Fenn - Trung úy OSS. Charles Fenn đã thỏa thuận trên nguyên tắc giúp đỡ Việt Minh. Ngày 29-3-1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Chennault. Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Bác, Người khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít. Những quan điểm lớn giữa Việt Nam và Mỹ được thống nhất.
Sau khi Bác về nước, Người vẫn giữ mối liên lạc với các cơ quan quân sự Mỹ. Tháng 6-1945, phía Mỹ, thông qua Thiếu tá A.Patty yêu cầu phía Việt Minh chuẩn bị một sân bay cho máy bay cỡ nhỏ có thể lên, xuống được, và Mỹ sẽ cho một đội sĩ quan, do một sĩ quan cao cấp sẽ nhảy dù xuống Tuyên Quang. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Bác giao nhiệm vụ chuẩn bị địa điểm làm sân bay. Sân bay được đặt tại xã Lũng Cò, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. “Ngày 17-7-1945 đội “Con Nai” gồm 5 người do Thiếu tá Mỹ E.Tômat phụ trách nhảy dù xuống Tân Trào”, làm nhiệm vụ hoạt động huấn luyện cho khoảng 2000 bộ đội ta.
Ngày 13-8-1945, có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Tổng khởi nghĩa và Ủy ban khởi nghĩa đã ban hành Quân lệnh số 1.
Tổng thống Mỹ Truman đã có tuyên bố trước thế giới rằng: ông sẵn sàng ủng hộ việc giành độc lập chủ quyền của các dân tộc bị các nước đế quốc chiếm đóng. Trên cơ sở này, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã viết thư cho các sĩ quan Mỹ, gửi thư cho Tổng thống Truman đề nghị Mỹ công nhận độc lập, chủ quyền độc lập dân tộc của dân tộc ta, công nhận thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và chính phủ ta. Bác cũng gửi thư cho chính phủ Pháp, bức thư đề ngày 18-8-1945 yêu cầu Pháp công nhận chính phủ Việt Minh, đồng thời Việt Minh sẽ bảo vệ một số quyền lợi về kinh tế của Pháp ở Việt Nam.
Thiếu tá L.A.Patty trong hồi ký: “Why VietNam” kể lại rằng: Hồ Chủ tịch, ông Võ Nguyên Giáp đã mời cơm ông 16h chiều ngày 26-8-1945. Và tiếp đó ngày 29-8-1945, Hồ Chủ tịch gửi danh thiếp cho mời ông. Cùng tiếp khách bên cạnh Bác còn có đồng chí Trường Chinh. Hồ Chí Minh đọc cho Patti nghe bản “Tuyên ngôn độc lập” dự thảo. A. Patti đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy Hồ Chủ tịch đưa vào đó một số câu trong “Tuyên ngôn độc lập” 1776 của Hoa Kỳ. Sau đó Patti đã nhận trách nhiệm chuyển bức điện của Bác cho đại sứ Mỹ Hurley. Nội dung chính của bức điện Bác đã nhấn mạnh việc Việt Minh đã đứng về phe Đồng Minh chống phát xít và đã đứng lên giành độc lập dân tộc. Bác mong muốn Mỹ công nhận chính phủ Việt Minh và nhờ Mỹ gửi thông điệp này tới các nước Đồng Minh.
Ngày 1-9-1945 “16h 30 phút, Hồ Chí Minh mời A. Patti và Grelecki dự bữa cơm thân mật trước ngày lễ độc lập của Việt Nam tại Bắc Bộ phủ. Cùng dự tiếp có ông Võ Nguyên Giáp và ông Hoàng Minh Giám.
Với một giọng thân mật, Hồ Chí Minh tỏ lòng biết ơn đối với những người bạn Mỹ đã ủng hộ vật chất và tinh thần mà phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam đã nhận được mấy năm gần đây, đặc biệt cảm ơn sự giúp đỡ của cơ quan phục vụ chiến lược (OSS). Người cũng nhắc đến Tướng Chennault, Đại tá Helliwell, Glass, các Thiếu tá Thomas và Holland cùng những người khác trong toán công tác của họ. Người tỏ ý rằng: tinh thần “hợp tác hữu ái” đó sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới…”(*).
Quan hệ Việt - Mỹ những năm 1944 - 1945 đã có những bước phát triển tốt đẹp. Những người bạn Mỹ đã đến Việt Nam, đã giúp đỡ vật chất và tinh thần cho cách mạng Việt Nam. Rất tiếc là sau đó, Hồ Chí Minh dù cố gắng tìm mọi cách để phát triển quan hệ này cho tốt đẹp hơn, nhưng phía Mỹ lại tìm mọi cách để lảng ra.
Ngày 25-8-1969 (trước lúc đi xa một tuần) Bác Hồ đã viết thư cho Tổng thống Mỹ. Người đã gợi mở cho Tổng thống Mỹ rằng : Trong thư, Ngài bày tỏ lòng mong muốn hành động cho một nền hòa bình công bằng (Tổng thống Mỹ đã gởi thư cho Bác-TG). Muốn vậy, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam… Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự… Tư tưởng ấy của Bác thể hiện rất rõ trong các điều khoản của Hiệp định Pari 1-1973, tạo điều kiện để Mỹ rút quân trong danh dự.
Nhân dân Việt Nam bao giờ cũng mong muốn hòa bình và căm ghét chiến tranh. Nhân dân Việt Nam chỉ cầm súng khi kẻ thù xâm lược lấn tới cướp nước. Khi quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của một dân tộc bị đe dọa, thì dân tộc Việt Nam đã thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…
Hơn 30 năm đã qua, cuộc chiến đã lùi xa, cái bắt tay thân thiện giữa Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Tổng thống Mỹ George.W.Bush đánh dấu sự phát triển mới trong quan hệ Việt-Mỹ 10h 50 phút ngày 22-6-2007: Chúng ta nên nắm tay nhau hướng tới tương lai. Cuộc hội ngộ này chậm mất hơn nửa thế kỷ. Lúc đó, Bác Hồ đã hết sức cố gắng, các sĩ quan Mỹ cũng đã cố gắng. Nhưng người đứng đầu Nhà Trắng chưa hiểu thiện chí của Bác, của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền độc lập của các quốc gia dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, quan hệ bình đẳng, cùng có lợi… Đó cũng chính là những tư tưởng chủ đạo trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, của Tư tưởng Hồ Chí Minh: Luôn luôn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, phát triển và tiến bộ.
 
Bài 17: Văn hóa hành động “Uống nước nhớ nguồn” Hồ Chí Minh




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1441&pop=1&page=0&Itemid=5 Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển những tinh hoa văn hóa đạo đức của truyền thống dân tộc và nhân loại. Sự kết hợp đó trong văn hóa Hồ Chí Minh nhuần nhuyễn và hài hòa, cho nên có nhà văn hóa phương Tây khi tiếp xúc với Người đã phát biểu: ở Hồ Chí Minh tỏa ra một thứ ánh sáng văn hóa của tương lai. Hiện tại và tương lai bắt nguồn từ quá khứ. Người ta không thể sống bằng quá khứ, song không thể có hiện tại và tương lai nếu không có quá khứ. Quá khứ, cội nguồn, là gốc của nền tảng tạo thành truyền thống văn hóa như dòng máu mang “gen” chảy trong mỗi con người.
Trong tổng thể truyền thống văn hóa Việt Nam, có một nét truyền thống văn hóa độc đáo: “uống nước nhớ nguồn”, trân trọng và tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc với những biểu hiện gần gũi nhất, ăn sâu vào tâm khảm và hành vi của mỗi con người Việt Nam, đó là văn hóa tín ngưỡng: tín ngưỡng đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên; tín ngưỡng đối với các bậc anh hùng hào kiệt, những bậc danh nhân, những người có công khai phá cơ nghiệp, khởi dựng từng vùng đất, từng nghề nghiệp, từng phát kiến, cho đến những người đã đổ máu hy sinh cho non sông, đất nước… Văn hóa giữ nước, truyền thống bất khuất, đấu tranh cho độc lập tự do, gắn liền với văn hóa truyền thống tín ngưỡng, văn hóa làng, nước, văn hóa nhân văn, thương người, đùm bọc, cưu mang, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn, văn hóa đoàn kết tạo sức mạnh vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam…
Hồ Chí Minh thấu hiểu và bản thân Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn những tinh hoa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại… Ba mươi ba năm xa Tổ quốc đi tìm đường cứu nước, Người không quên từ giọng hát dân ca, cho đến vị ngọt của nước tương Nam Đàn, xứ Nghệ, không quên hàng rào râm bụt trước sân nhà ở làng Sen, làng Hoàng Trù quê nội, quê ngoại ở xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, Nghệ An… Người thấy và chỉ rõ để giác ngộ cho toàn thể đồng bào: ta là ai, cho nên: dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam; để đoàn kết, để giành độc lập, để xây dựng non nước này hơn mười ngày nay. Điều đó được thể hiện trong bài “Lịch sử nước ta” gồm 208 câu lục bát, trình bày lịch sử nước ta từ thời Hùng Vương dựng nước (năm Nhâm Ngọ 2879 TCN) đến 1945, tập trung chủ yếu vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, nêu bật truyền thống yêu nước, bất khuất và đoàn kết của dân tộc…
Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh ghi lại: ngày 13-9-1945 (11 ngày sau ngày Tuyên ngôn độc lập) 8 giờ, Hồ Chủ tịch dự lễ khai giảng Trường Quân chính Việt Nam (trước đây là Trường Quân chính kháng Nhật). Người nhận làm Hiệu trưởng của trường và căn dặn học viên cố gắng rèn luyện, nắm chắc mục tiêu bảo vệ nền độc lập dân tộc, có tinh thần anh dũng hy sinh, chịu gian khổ, nhẫn nại và chống quan liêu. Người nhấn mạnh: “chớ quên làm cách mạng là vì Tổ quốc, vì dân tộc”.
Sau 10 giờ, Chủ tịch tiếp các đại biểu tôn giáo (Giatô giáo, đạo Phật, đạo Cao Đài). Người nói: “Dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được giải phóng. Lúc này chỉ có Quốc gia mà không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc”.
13 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và dự lễ dâng hương Lý Bát Đế tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh (ngày giỗ 8 vua triều Lý 8 tháng 8 âm lịch hằng năm. Năm 1945 vào 13-9 dương lịch).
Sau khi thắp hương làm lễ trước bàn thờ Lý Bát Đế, Người nói chuyện với bà con dự lễ: “Chắc đồng bào cũng biết ở Nam Bộ, chúng ta đang đánh giặc ngoại xâm; ở Bắc Bộ, đồng bào nhiều tỉnh bị nạn lụt, hạn hán, thật là đói khổ. Vậy bổn phận chúng ta là phải ủng hộ đồng bào Nam Bộ, giúp đỡ đồng bào Bắc Bộ. Như thế là đồng bào đã giúp đỡ chính phủ giữ cho nền độc lập được vững vàng. Bây giờ, chính phủ là chính phủ của dân thì các cụ cũng nên theo ý dân và nên hết sức cần kiệm, cho xứng đáng là dân con trong lúc Tổ quốc đang lâm nạn” (1).
Thành kính và ngưỡng mộ trước anh linh của Tổ tiên, hành vi của Chủ tịch nước đầu tiên của nền cộng hòa Việt Nam dân chủ trong lúc chính phủ mới thành lập, trong lúc đất nước đang đứng trước những khó khăn thử thách chưa từng có, nhưng ngày giỗ Lý Bát Đế - ngày giỗ của một triều đại hiển vinh trong lịch sử dân tộc, của độc lập và chủ quyền sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, Bác dành cả buổi đến dâng hương.
Lịch sử ghi lại, thời tiền Lê, Lê Hoàn đánh thắng quân Tống. Trên ngôi vua 24 năm, năm 65 tuổi (1005), ông mất; các con tranh giành chém giết nhau để giành ngôi báu, cuối cùng vương quyền thuộc về Lê Long Đĩnh. Ông vua này dâm ô, bạo ngược, chơi bời vô độ, tàn ác, dã man, sau 4 năm làm vua thì chết, quân thần tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn có công dời Đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long khi ông nằm mơ thấy đất Đại La có rồng vàng bay lên. Triều Lý đã làm rạng danh nước Đại Việt; viết nên những trang sử oanh liệt trong dựng nước và giữ nước…
Trong bộn bề công việc của chính quyền dân chủ nhân dân mới ra đời, cả nước trông ở Bác, cả nước tin ở Người, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu trường kỳ không cân sức giữa một bên là thực dân Pháp, dù mới đại bại và bị phát xít Đức thống trị nhưng có đầy đủ vũ khí hiện đại: máy bay, xe tăng, xe bọc thép, pháo hạng nặng… với một dân tộc vừa mới giành được độc lập, vừa qua cơn đói khát, vừa qua cơn dốt nát… trong tay chỉ có vũ khí thô sơ là chủ yếu: gậy tầm vông, giáo, mác… Lúc đó, Bác đã ví cuộc chiến đấu của dân tộc ta chống bọn thực dân xâm lược như “châu chấu đá xe”. Cuộc chiến đấu giữa dân tộc Việt Nam lúc đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Bác Hồ vĩ đại đã từng bước thắng thực dân xâm lược Pháp, có sự tiếp sức của đế quốc Mỹ. Sự thật đó như một điều kỳ lạ, như một huyền thoại sau thế chiến thứ hai.
Ngày 7-5-1954 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 20-7-1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Theo đó, miền Bắc được giải phóng khỏi ách quân xâm lược, thực dân Pháp và ngụy quyền, ngụy quân phải rút khỏi miền Bắc và từng bước rút khỏi miền Nam. Trong vòng 2 năm kể từ ngày ký hiệp định, hai miền Nam - Bắc sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước…
Thực hiện hiệp định Giơ-ne-vơ, bộ đội ta vào tiếp quản Thủ đô. Trên đường về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và dâng hương tại đền Hùng. Ngày 19-9-1954, Bác đã đến đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, rồi xuống đền Giếng. Tại đền Giếng, Người đã nói chuyện với các chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong (sau này đại đoàn gọi là sư đoàn) trên đường về tiếp quản Thủ đô. Người nói: “Bác cháu ta gặp nhau ở đây trong tình cờ nhưng lại rất có ý nghĩa. Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước (2).
Thành kính với đấng sinh thành, nơi phát tích của cội nguồn dân nước Việt, đó chính là hành động văn hóa của Bác Hồ kính yêu. Từ cõi sâu thẳm của tâm linh, nơi các bậc tổ tiên đã cầm gươm mở nước, tiếp nối ngàn đời cho con cháu hôm nay. Nét đẹp truyền thống, luôn nhớ về cội nguồn, uống nước nhớ nguồn là hành trang của cả dân tộc, như một trong những nét đẹp văn hóa, tinh thần mang cái đặc thù của dân tộc con Lạc cháu Hồng mà ít có một dân tộc nào trên thế giới có được. Nét đẹp đó, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển cộng hưởng với văn hóa xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mac- Lênin, tinh hoa văn hóa nhân loại trở thành một bộ phận quan trọng trong công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta - Mãi mãi đi theo con đường Bác Hồ đã chọn
 
Bài 18: Nghĩa cử cao đẹp Hồ Chí Minh: Chăm sóc và biết ơn những người đã hy sinh vì Tổ quốc




https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1442&pop=1&page=0&Itemid=5 Để có non nước Việt Nam ngày nay, đã có biết bao thế hệ người Việt Nam đã đổ máu, hy sinh để dựng xây nên Tổ quốc. Người Việt Nam có một nếp sống văn hóa đạo đức độc đáo đó là thành kính với đấng sinh thành, ngưỡng mộ những người có công dựng nước và thờ cúng ông bà tổ tiên. Nét đẹp văn hóa đó, pháp luật hiện nay tôn trọng gọi là tín ngưỡng…
Đi khắp năm châu, bốn bể tìm đường cứu nước, khi về đến đất nước, khởi dậy ngọn cờ dân tộc giải phóng, Hồ Chí Minh sáng tác bài “Lịch sử Việt Nam” tóm tắt những trang lịch sử oanh liệt và những Anh hùng tiêu biểu cho mỗi thời đại đã làm rạng rỡ dân tộc ta. Sau Cách mạng Tháng Tám, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được là phải có một ngày kỷ niệm, nhớ ơn những người con của dân tộc đã hy sinh thân mình, hoặc hy sinh một phần máu thịt của mình cho sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “ngày thương binh” để nhân dân có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh đã họp ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên), nhất trí lấy ngày 27-7-1947 làm Ngày Thương binh - Liệt sĩ đầu tiên trong cả nước. Từ đó ngày 27-7 hằng năm đã trở thành “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” (tính đến ngày 27-7-2007 tròn 60 năm).
Từ thực tế, những mất mát hy sinh của đồng bào, chiến sĩ ta trong cuộc kháng chiến thần thánh lần thứ nhất chống sự xâm lược của thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Bác Hồ đã đưa ra sáng kiến chọn một ngày để nhớ ơn các thương binh và liệt sĩ. Sáng kiến của Bác đã được thống nhất, trở thành ý chí của toàn dân, hành động của toàn dân.
Ngày 27-7-1947, ngày kỷ niệm đầu tiên, nhớ ơn các thương binh và liệt sĩ, Bác Hồ đã gửi thư nói rõ ý nghĩa của ngày kỷ niệm và kêu gọi mọi người có hành động thiết thực giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ:
“Thương binh là những người hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí ấy chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy.
Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc rằng đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ các chiến sĩ bị thương.
Ngày 27-7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh. Nhưng tôi e trong lúc thi hành, hăng hái thái quá, vậy tôi xin đề nghị:
1/ Hôm đó các cụ già thượng thọ, các cháu bé sơ sinh, các bộ đội, các mặt trận, những đồng bào đang đau yếu, thì không nên nhịn. Còn các cơ quan, các bộ đội, các trường học, các đoàn thể và toàn thể đồng bào cả nước đều nhịn ăn một bữa.
2/ Đó là một việc nghĩa, mọi người tự động làm, tuyệt đối không được cưỡng bức.
3/ Các làng, huyện, tỉnh, khu phải thiết thực báo cáo kết quả lên Ban thường trực toàn quốc. Nơi nào 100% tham gia thì Ban thường trực sẽ đăng báo khen. Kết quả cũng phải tính sổ tập trung về Ban thường trực toàn quốc để phân phối cho khắp.
4/ Hôm đó tuy khác giới, các tổ chức đều hăng hái tham gia, đặc biệt là đoàn thể phụ nữ, thanh niên và nhi đồng cần phải hăng hái tuyên truyền, giải thích và giúp việc.
Luôn luôn tin vào lòng nhường cơm, sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng “ngày thương binh” sẽ có kết quả mĩ mãn”.(1)
Ngày 27-7 đầu tiên đã diễn ra theo những lời hướng dẫn ân cần của Bác. Hoàn cảnh cụ thể thời đó còn vô cùng gian khổ và thiếu thốn, còn đói cơm, rách áo, cho nên để có thể đóng góp cho thương binh và gia đình liệt sĩ, nhiều người đã thật sự nhịn ăn một bữa để lấy gạo “của ít, lòng nhiều” đóng góp nghĩa tình, ân nghĩa đối với những người đã cống hiến, hy sinh.
Với Hồ Chí Minh, Bác là người khởi xướng, người phát động, song người thật sự đã làm gương. Trong nhiều công việc Bác rất coi trọng việc làm gương, văn hóa “làm gương” lời nói đi đôi với việc làm. “Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, và của các nhân viên tại Phủ chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127 đ)”.
Hành động của người đứng đầu đất nước thật giản dị, không hề có chút hoa mĩ, hô hào chung chung, mà xuất phát từ thịnh tình, từ đức độ của chính bản thân Bác đối với những người đã đổ máu đã hy sinh cho đất nước.
Ngày 27-7-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được báo cáo, hưởng ứng “ngày thương binh”, bà Bá Huy - một điền chủ đã giúp đất, trâu bò, thóc lúa và tiền bạc để lập một “An dưỡng đường” cho thương binh; Bác đã gởi thư khen bà như một “kiểu mẫu” để nêu gương cho mọi người cùng hành động. Trong thư, Người viết kèm theo hai câu thơ:
“Có tiền giúp tiền, có sức giúp sức
Đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành công”

Bác đã nói lên tấm lòng của sự tri ân, trong đời sống, không phải ai cũng có tiền, có của và có hảo tâm như bà Bá Huy, có những ngưới không có tiền, có của, thì có thể góp sức để “góp gió thành bão” giúp đỡ cho các gia đình thương binh, liệt sĩ giảm bớt những khó khăn, vơi đi nỗi đau thương, mất mát để vươn lên.
Từ ý nghĩa của ngày 27-7, Bác chỉ rõ, đây là nghĩa vụ của nhà nước, của mỗi người dân đối với thương binh, gia đình liệt sĩ.
“Về đồng bào:
Nên coi đó là nghĩa vụ của nhân dân đối với những người chiến sĩ bị thương, bị bệnh; không nên coi đó là một việc “làm phúc”… Cần phải tổ chức sẵn sàng việc giúp đỡ cho anh em có thể tự túc dần dần (giúp đỡ về tinh thần và vật chất)”.(2)
Đối với bản thân thương binh và gia đình liệt sĩ, một mặt Bác yêu cầu nhà nước và xã hội, mỗi người dân quan tâm, chăm sóc, nhưng mặt khác phải vượt khó vươn lên để có một cuộc sống tự lập.
“Về phần anh em thương binh, bệnh binh:
Phải hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân.
Phải tránh tâm lý “công thần”, coi thường lao động, coi thường kỷ luật.
Chớ bi quan chán nản. Phải luôn cố gắng. Trước kia anh em đã xung phong diệt giặc thì ngày nay anh em sẽ tùy điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất”.(
3)
Sinh thời, ngày27-7 hằng năm, Bác đều có quà, có thư, có một phần tiền từ đồng lương của Người đóng góp vào quỹ giúp đỡ, giải quyết những khó khăn cho thương binh, gia đình liệt sĩ. Trong “Di chúc” trước lúc đi xa, Người còn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…). Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây vườn hoa và bia kỷ niệm, ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ đói rét.Theo tấm gương của Người, kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh - Liệt sĩ và mãi mãi mai sau, chắc chắn xã hội và mỗi con người mãi mãi ghi ơn những người con đã hy sinh cho sự độc lập tự do của Tổ quốc, cho sự bình yên của cuộc sống hôm nay.
 
Bài 19: Hồ Chí Minh - Kiên định một lập trường



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1443&pop=1&page=0&Itemid=5 Mục đích của cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu là đem lại độc lập tự do của Tổ quốc, đem lại hạnh phúc cho đồng bào. Chính vì mục đích cao cả ấy mà Người đã “không có của riêng”. Cuộc đời và sự nghiệp của Người trở thành tài sản của non sông đất nước và nhân loại.
Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, tìm thấy con đường cứu nước 1920; thực chất của con đường cứu nước mà Bác tìm thấy là con đường theo chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường gắn chặt giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Mục tiêu giải phóng giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác-Lênin mà Hồ Chí Minh tìm thấy đó là giải phóng dân tộc. Chính chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu điều đó: giai cấp công nhân ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải trở thành giai cấp dân tộc. Nếu giai cấp công nhân ở mỗi nước mà không giành được chính quyền thì không thể có điều kiện lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn dân tộc mình và như vậy càng không thể có điều kiện để giúp đỡ, làm nghĩa vụ giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng các dân tộc khác. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin coi đó là nhiệm vụ trước hết của giai cấp công nhân tất cả các nước.
19.jpg

Khi tìm thấy con đường cứu nước chân chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận xác đáng đó là: Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng tin tưởng nhất, chắc chắn nhất đó là chủ nghĩa Lênin; Con đường giải phóng dân tộc không có con đường nào khác đó là con đường cách mạng vô sản; Cách mạng phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải giữ chủ nghĩa cho vững… Đảng phải gắn bó với quần chúng và trưởng thành trong phong trào cách mạng của quần chúng. Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo…
Năm 1924, Hồ Chí Minh về Trung Quốc. Năm 1925, Người sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên) và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào tổ chức này. Những bài giảng của Bác sau này được “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông” xuất bản thành cuốn “Đường kách mệnh”, ấn hành năm1927. Mở đầu tác phẩm, Bác viết lời dạy của Lênin trong tác phẩm “Làm gì?”: “không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi cách mệnh tiền phong”. Nói Bác truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, nhưng Bác đã “biến” chủ nghĩa Mác-Lênin thành cách hiểu của Người để truyền bá, chứ không “tầm chương, trích cú” từng câu, từng chữ, từng trang, dòng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Năm 1930, Bác về thành lập Đảng Cộng sản. Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng đã có giai cấp công nhân, mặc dù về số lượng giai cấp công nhân chỉ là thiểu số so với các giai cấp khác trong xã hội Việt Nam lúc đó (1% dân số); nhưng giai cấp công nhân Việt Nam là đại biểu cho cả dân tộc đang bị áp bức và nô lệ, cho nên nhiệm vụ cốt tử của giai cấp công nhân là tập hợp, đoàn kết với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng rằng: nhiệm vụ giải phóng dân tộc của giai cấp công nhân và của mỗi người dân Việt Nam là một. Thực hiện nhiệm vụ này, không ai có thể làm thay, làm hộ dân tộc Việt Nam được. Từ đó, Người dạy rằng; có tự lập mới có độc lập, có tự cường mới có tự do; công việc giải phóng cho ta phải do ta tự làm lấy… Điều đó thể hiện rất rõ là không thể áp đặt ý chí của dân tộc này lên dân tộc khác… Chính những nhận thức đúng đắn trong hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam khi thành lập Đảng, nên Bác đã tổ chức hợp nhất 3 tổ chức cộng sản Việt Nam là Đông Dương Cộng sản đảng; An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua các văn kiện do Bác soạn thảo. Các văn kiện này đã bảo đảm cho Đảng có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn ngay từ khi thành lập. Các văn kiện đó là: “Chánh cương vắn tắt của Đảng”; “Chương trình tóm tắt của Đảng”; “Sách lược vắn tắt của Đảng”; “Điều lệ vắn tắt của Đảng” và “Lời kêu gọi”; bên cạnh đó còn có một văn kiện ngắn gọn nhưng hết sức quan trọng đó là: “Năm điểm lớn”. Trong các văn kiện Bác đã chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng phải coi công, nông là gốc của cách mạng, nhưng phải “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập Hiến… thì phải đánh đổ” (1) “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung, đánh đổ các đảng phái phản cách mạng như Đảng Lập Hiến…” (2).
Quốc tế Cộng sản lúc đó đứng đầu là Xtalin đã nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc là người theo chủ nghĩa dân tộc, lợi dụng chủ nghĩa cộng sản chỉ để giải phóng riêng cho dân tộc mình, cho nên Quốc tế yêu cầu Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng lại chỉ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trên quốc gia Việt Nam là chủ yếu. Trong đường lối của Đảng, Quốc tế Cộng sản cho rằng, đã là cộng sản thì chỉ có thể liên minh công nông chứ cộng sản không thể liên minh với giai cấp tiểu tư sản, địa chủ, phú nông và tư sản.
Quốc tế Cộng sản chỉ biết một lợi ích của giai cấp công nhân chứ chưa thật sự thấy lợi ích của dân tộc trong hoàn cảnh thuộc địa nửa phong kiến. Trong hoàn cảnh này, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc gắn liền với lợi ích quốc gia. Đất nước bị giặc ngoại xâm xâm lược, mọi người dân của dân tộc đó đều là người dân mất nước, đều có chung một nguyện vọng, một nhu cầu trên hết và cấp bách là giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm. Lực lượng lãnh đạo dân tộc mà không hướng tới mục tiêu này, không tập hợp được lực lượng toàn dân tộc thì lực lượng đó sớm hay muộn cũng sẽ thất bại.
Ở thời điểm đó, tuy Nguyễn Ái Quốc đúng, nhưng Quốc tế Cộng sản chưa nhận thức được cái đúng đó, cho nên Đảng ta đã phải đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930). Cũng tại Hội nghị tháng 10-1930, có một Nghị quyết thủ tiêu các văn kiện thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc (Văn kiện Đảng Tập 2- NXBCTQG - Hà Nội 1998-Trang 112).
Về hoạt động của Bác, ngày 6-6-1931, Người bị bắt ở Hương Cảng, cho mãi đến ngày 21-1-1933 mới được tự do. Hơn một năm sau đó, tháng 6-1934, Bác mới trở lại Mat-xcơ-va và được cử đi học tại trường Quốc tế Lênin.
Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương từ 27 đến 31-3-1935 tại Ma Cao (tô giới Bồ Đào Nha - Trung Quốc), trong số 13 ủy viên Trung ương Đảng được bầu có 10 ủy viên chính thức; 2 ủy viên dự khuyết và 1 ủy viên dự bị. Trong danh sách Nguyễn Ái Quốc đứng thứ 13 (dự bị)(3).
Ngày 17-1-1937, Bác được chọn cùng 20 học viên của trường Quốc tế Lênin đi làm nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ngày 6-6-1938 Người viết thư cho một lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, bức thư viết bằng tiếng Pháp trong đó có nội dung: “Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng Kông. Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này” (4).
Ngày 29-9-1938, Trưởng phòng cán bộ Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa Ka-pê Nô-vi-côp đã ký quyết định cho Nguyễn Ái Quốc rời khỏi biên chế của Viện để về nước.
Tám năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, về đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam và bản thân Người chịu những thử thách lớn lao. Lịch sử qua đi càng chứng minh là Bác hết sức sáng suốt và đúng đắn. Hồ Chí Minh đã kiên định một lập trường cứu nước, cứu dân trên cơ sở của đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo. Cái đúng đó của Bác, ở thời điểm đó bị phê phán và đã hơn một lần người đã giải thích nhưng không được chấp thuận mà còn buộc phải chấp nhận một thời gian dài trong tình trạng không hoạt động…
Bác Hồ kính yêu đã kiên định một lập trường cách mạng đúng đắn: giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm và giải phóng dân tộc khỏi nghèo nàn, lạc hậu bằng sức mạnh của khối Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Lập trường ấy, đường lối ấy soi sáng cho dân tộc ta, cho Đảng ta mãi mãi đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn.
 
Bài 20: Hồ Chí Minh - Sáng tỏ con đường giải phóng dân tộc



https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1444&pop=1&page=0&Itemid=5 Đất nước đau thương và nô lệ, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với mục tiêu chính là tìm con đường giải phóng dân tộc. Khi tìm gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chân chính.
20.jpg

Bác Hồ tại Mặt trận Đông Khê (1950)

Năm 1925, Người sáng lập tổ chức Thanh niên; 1930 sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người bị thực dân Anh bắt ở Hương Cảng 1931, cho mãi đến cuối 1934 mới thoát khỏi nanh vuốt thực dân Anh ở Hồng Kông. Người được cử đi học trường Quốc tế Lênin tại Liên Xô, sau đó được chọn làm nghiên cứu sinh tại “Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Tháng 6-1938, Người xin về nước. Tháng 10-1938, sau khi nhận quyết định của “Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Nguyễn Ái Quốc lên xe lửa tại ga Iarôlapxki rời Mátxcơva về Trung Quốc. Các đồng chí Đảng Cộng sản Trung Quốc hết lòng giúp đỡ Người bắt liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương. Mãi đến tháng 2-1940, Bác mới liên lạc được với đồng chí Vũ Anh, Phùng Chí Kiên trong Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng. Bác hoạt động ở Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) gần một năm. Ngày 28-1-1941 (tức ngày mùng 2 tết Tân Tỵ), Bác cùng các đồng chí vượt biên giới về nước tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Hôm sau, Người đến ở tại hang Cốc Bó, thuộc địa phận làng Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Hành trình của Người, bắt đầu từ ngày 5-6-1911, trên bến cảng Nhà Rồng, ba mươi năm sau trở về đầu nguồn Tổ quốc.
Bác đã chọn thời điểm để về nước vào lúc chủ nghĩa phát xít đang chuẩn bị gây ra chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngay từ tháng 7-1935, tại Đại hội lần thứ VII, Quốc tế Cộng sản đã phát động phong trào dân chủ, chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Song chủ nghĩa phát xít vẫn lấn tới, nguy cơ bùng nổ chiến tranh đang tới gần. Nhận định của Bác là: Chiến tranh sẽ tạo ra những điều kiện, những thời cơ thuận lợi cho cách mạng giải phóng các dân tộc, trong đó có dân tộc ta. Với nhãn quan chính trị sắc bén và dự báo tài tình, tháng 6-1938, Bác xin về nước. Và đúng như dự đoán của Người, ngày 1-9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.
Bác về, Người thực hiện thí điểm ngay Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh Hội để tập hợp tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, thành phần giai cấp, thành phần dân tộc, cùng hướng tới mục tiêu đánh đuổi thực dân cướp nước, giải phóng dân tộc. Nếu tập hợp được đông đảo nhân dân, sẽ cô lập được bọn cường hào, một số quan lại, các đảng phái phản động có quyền lợi gắn bó với đế quốc xâm lược.
Về vấn đề Mặt trận, Bác về, tổ chức Mặt trận riêng của dân tộc Việt Nam, không áp đặt cả Đông Dương. Trước đó, từ tháng 10-1930 các tổ chức Mặt trận, đoàn thể đều mang tên Đông Dương. Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết thư cho Quốc tế Cộng sản giải thích lý do vì sao Người chỉ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mà không thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương: Đảng Cộng sản Việt Nam có trách nhiệm đoàn kết, giúp đỡ cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, khi nào các nước này có đủ điều kiện thì thành lập đảng cộng sản của mỗi nước.
Bác về, Người bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII. Hội nghị đã tiến hành từ 10-5 đến 19-5-1941 tại Pắc Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng.
Hội nghị đã thảo luận và có những kết luận sáng suốt, soi đường cho Cách mạng Tháng Tám thắng lợi và soi đường cho toàn bộ công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Nhận định về tình hình thế giới, Hội nghị kết luận “Nếu cuộc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”…“ Liên Xô sẽ thắng trận”(1). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
Về tình hình trong nước, sau khi phân tích sự phát triển của kinh tế thực dân ở Việt Nam, sự bần cùng hóa nhân dân và sự bùng nổ của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương… đã báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ khởi nghĩa vũ trang để giải phóng dân tộc.
Về vấn đề dân tộc, Hội nghị đặt vấn đề: Vấn đề giai cấp không hề bị thủ tiêu, mà giải quyết vấn đề giai cấp trong lòng vấn đề dân tộc. Dân tộc không được giải phóng thì giai cấp không thể giải phóng: “Nhưng trong giai đoạn hiện tại, quốc gia trước hết, thì tất thảy những yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của toàn thể, của giai cấp mà có hại đến quyền lợi của dân tộc thì phải gác lại để giải quyết sau. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng trong vấn đề dân tộc. Một điều thứ hai nữa là nói đến vấn đề dân tộc tức là đã nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc”(2). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
Hội nghị xác định lực lượng cách mạng là “các tầng lớp nhân dân phản đế toàn quốc” và xác định mâu thuẫn chủ yếu nổi lên hàng đầu lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược, cho dù bọn đế quốc đó là bọn đế quốc da trắng hay bọn đế quốc da vàng và bọn tay sai phản động.
Về xác định lực lượng cách mạng, Hội nghị chỉ rõ: “Vậy lực lượng cách mạng Đông Dương hiện nay là gì ? Chính là nhân dân Đông Dương không phân biệt dân tộc nào, giai cấp nào. Nhiệm vụ đánh đuổi Pháp - Nhật không phải riêng của giai cấp vô sản và dân cày mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương” (3). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
“Mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay không thể gọi như trước là Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực để hiệu triệu và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại. Vậy Mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh, hay gọi tắt là Việt Minh. Đảng ta và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương độc lập đồng minh”(4). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
“Việt Nam độc lập đồng minh sẽ lấy ngọn cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu. Việt Nam độc lập đồng minh có một bản chương trình đưa ra hiệu triệu nhân dân, khẩu hiệu chính hiện nay của Việt Minh là: Phản Pháp, kháng Nhật, liên Hoa - độc lập”(5). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
Hội nghị còn dự kiến thời cơ cách mạng, xây dựng các đoàn thể và lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa: “Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện mà đánh lại kẻ thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc Tổng khởi nghĩa to lớn”(6). Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đảng toàn tập-Tập7-NXBCTQG-HN2000-Tr 96-136.
Con đường giải phóng dân tộc sáng tỏ bằng Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Tám của Đảng, từ trí tuệ sáng suốt của Bác Hồ. Điểm nổi bật của Nghị quyết Trung ương Tám là giải quyết thấu đáo vấn đề dân tộc, trong đó có vấn đề giải phóng dân tộc và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc Đông Dương. Từ quan điểm sáng suốt này, Đảng xác định đúng đắn mâu thuẫn chủ yếu trong mâu thuẫn cơ bản, vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng, dự kiến thời cơ và phương pháp cách mạng để giành chính quyền.
Bác về, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc sáng tỏ. Con đường ấy là con đường cách mạng vô sản nhưng không phải chỉ do một mình giai cấp vô sản, giai cấp nông dân làm mà là sức mạnh của cả dân tộc, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, đảng phái, tôn giáo, thành phần giai cấp, thành phần dân tộc. Tất cả đều tập hợp dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ luận điểm sáng tạo này, Hồ Chí Minh nêu lên khẩu hiệu Đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân - sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top