Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Cao Bằng - Cội nguồn cách mạng
Cao Bằng, miền đất địa đầu Tổ quốc , nơi có truyền thống lịch sử và văn hoá rất đáng tự hào và trân trọng. Lịch sử truyền thống của Cao Bằng gắn liền lịch sử truyền thống dân tộc Việt Nam từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước.
Nhắc đến Cao Bằng là nói đến nhiều địa danh ghi dấu cho một thời kỳ lịch sử oai hùng: Pác Bó, Rừng Trần Hưng Đạo, Đông Khê, Lam Sơn…đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho thi, ca, nhạc, hoạ. Những chiến sĩ năm xưa, thế hệ trẻ hôm nay coi Cao Bằng là cội nguồn cách mạng. Đến với Cao Bằng là hành hương về cội nguồn, thăm lại những khu di tích lịch sử của đất nước, tìm hiểu về một quá trình lịch sử anh dũng, hào hùng của dân tộc.
Pác Bó – Cao Bằng, nơi đầu tiên được Bác chọn về nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài. Bác Hồ sống, làm việc và vạch ra con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại đây. Suối Lê-nin, núi Các Mác với non xanh nước biếc ẩn hiện trong sương mờ khiến lòng người bâng khuâng, lưu luyến... Vẫn còn đó cột mốc 108 và cây si già như chứng tích lịch sử chứng kiến giây phút đầu tiên Bác trở về Tổ quốc sau 30 năm xa cách. Ở lưng chừng núi, hang Cốc Bó quanh năm lạnh lẽo và ẩm ướt đã từng là nơi ở của Người. Xa xa, bên bờ suối là chiếc “bàn đá chông chênh” nơi Bác ngồi “dịch sử Đảng”.... .Những kỷ vật đơn sơ, giản dị mà Bác đã từng dùng, từ chiếc máy chữ, chiếc làn mây cũ, đến đôi dép cao su giản dị...ở Nhà trưng bày khu di tích Pác Bó đều trở nên thiêng liêng, nhắc nhở chúng ta nhớ về những trang sử vĩ đại của dân tộc.
Khu rừng Trần Hưng Đạo, nơi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Bây giờ, ngay dưới chân núi đã dựng một nhà bia tưởng niệm. Một số cứ liệu lịch sử về “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và tên của 34 đội viên được khắc lên tấm bia bốn mặt, đặt chính giữa nhà tưởng niệm... Từ chân núi, theo những bậc xi măng lên đỉnh Slam Cao - là đỉnh cao nhất trong dãy Khau Giáng. Hai bên đường lá khô rụng dày thành thảm. Khu rừng này vẫn giữ được vẻ hoang sơ. Lên đến đỉnh là vạt đất bằng phẳng, có dựng một cột cờ và tấm bia ghi dấu nơi đã từng đặt đài quan sát đồn Phai Khắt của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Quần thể Khu di tích lịch sử Lam Sơn, nơi Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo cách mạng hoạt động và mở lớp huấn luyện chính trị (5/1942)...
Di tích lưu niệm Hoàng Đình Giong ở làng Nà Toàn, xã Đề Thám,Thị xã Cao Bằng nơi sinh ra và nuôi dưỡng đồng chí Hoàng Đình Giong. Đồng chí là người dân tộc Tày, sinh năm 1904 là một trong những Đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng và cũng là người trực tiếp rèn luyện và xây dựng Đảng bộ Cao Bằng.
Khu di tích anh hùng liệt sỹ Kim Đồng, nơi có Mộ anh Kim Đồng và tượng đai Anh khang trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh rừng cây nghíên xanh biếc, luôn toả bóng mát với những làn gió vi vu, như ru anh yên nghỉ.
Tượng đài anh Kim Đồng với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư, trước tượng đài có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng, cả nước thường tụ hội tại đây cắm trại, vui chơi ca hát.
Di tích Kéo Oai (Kéo Vai) thôn Lam Sơn. Đây là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng thường xuyên mở các lớp huấn luyện; tổ chức các hội cứu quốc trong những năm 1941 - 1943. Đồng thời nơi đây là trạm giao liên do đồng chí Kế Hùng phụ trách. Tại Bó Kéo Oai trháng 10/1941 thành lập đội Việt Minh Châu, thành lập đội võ trang của tỉnh và là trạm chờ nhận nhiệm vụ của các đồng chí cán bộ Trung ương, địa phương...
Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa những di tích lịch sử cách mạng trên mảnh đất anh hùng này. Thế hệ trẻ ngày nay vẫn thường xuyên tổ chức các chuyến hành trình về với cội nguồn cách mạng, để tìm đến với những di tích lịch sử quý giá này.
Non nước Cao Bằng
Non nước Cao Bằng như một bức tranh thủy mặc khổng lồ của người họa sĩ thiên nhiên khoáng đạt với núi với sông, với hồ với thác. Thác Bản Giốc, Hồ Thang hen, Hồ Khuổi Lái, những hang động có nguyên vẻ hoang sơ (Ngườm Ngao, Ngườm Sập…) được đánh giá là đẹp vào bậc nhất ở Đông Nam Á.
Thác Bản Giốc - tuyệt tác của thiên nhiên ban tặng cho Cao Bằng, được đánh giá là một thác nước đẹp bậc nhất ở Việt Nam. Nằm ở địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, cách thị xã Cao Bằng 89km theo tỉnh lộ 206 về phía Bắc và cách thị trấn Trùng Khánh (Trung Quốc) 26km, Thác Bản Giốc thuộc dòng Quây Sơn chảy từ Trung Quốc sang và hạ lưu lại đổ về Trung Quốc. Ở phía bờ sông bên này, cảnh quan đẹp nên thơ, không khí mát lành với thảm cỏ, rừng cây xanh ngắt, mây trắng bồng bềnh chen lẫn với vẻ thanh bình nơi làng quê của đồng bào các dân tộc miền núi. Bờ bên kia là nước láng giềng Trung Quốc. Thác Bản Giốc có độ cao 53m và độ rộng 300m, chia thành ba tầng, gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xoá. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy cây xẻ dòng sông thành ba luông nước như ba dải lụa trắng. Vào những ngày hè oi ả, không khí ở đây vẫn mát lạnh và vào mỗi ban mai ánh mặt trời chiếu qua làn hơi nước đã tạo thành dải cầu vồng lung linh huyền ảo.
Nằm trong lòng những dãy núi đá vôi, cách Thác Bản Giốc 3km, Động Ngườm Ngao là một trong những hang động đẹp nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng được hình thành từ sự phong hoá lâu đời của đá vôi. Với chiều dài 2.144m, Động Ngườm Ngao tương đối lớn, gồm ba cửa chính và cảnh đẹp như chốn non tiên trải khắp chiều sâu động. Vòm động khép lại rồi lại mở ra, tạo cho người xem một sự thích thú bất ngờ. Nhũ đá mọc từ dưới lên, thả từ trên xuống, nhũ thẳng đứng, nhũ to, nhũ nhỏ…tất cả đan xen tạp thành một mê cung kỳ diệu. Thiên nhiên đã khéo léo tạo nên dáng hình cho các khối đá vô tri vô giác, như hình người, cây rừng, con vật, nàng tiên đang chải tóc, búp sen….Tất cả phủ lên động một không gian huyền ảo, hoà quyện giữa đá và nước.
Động Ngườm Ngao- Ảnh: InternetHồ Khuổi Lái nằm giữa các sườn đồi thuộc địa phận huyện Hoà An, cách thị xã Cao Băng 13km về phía Nam theo Quốc lộ 3 là Khu du lịch Hồ Khuổi Lái. Hồ rộng 72ha, nước trong xanh, phẳng lặng quanh năm. Không gian thơ mộng của Hồ Khuổi Lái là địa điểm lý tưởng cho những chương trình du lịch sinh thái, câu cá, săn bắn, du thuyền dạo quanh hồ…
Hồ Thăng Hen, một hồ đẹp trong số 36 hồ nằm ở trên núi của nước ta. Hồ nằm giữa một vùng núi non và màu xanh của cây vươn mình trên các vách đá cheo leo soi bóng xuống mặt nước trong, uốn lượn theo lòng lũng mấp mô những mỏ đá ngầm. Phía đầu nguồn là một cái hang rộng, từ trong hang nguồn nước chảy ra suốt ngày đêm. Đặc biệt nước hồ Thang Hen hàng ngày lại có hai đợt “thủy triều” lên và xuống. Vào mùa lũ, trong khi các hồ khác nước đỏ lựng thì nước hồ Thang Hen vẫn luôn trong xanh. Mùa cạn nước sâu chừng 10m. Ngày nay, Hồ Thăng Hen trở thành một điểm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng lý tưởng.
Văn hoá Cao Bằng
Cao Bằng, xứ sở của những cọn nước, của các suối nguồn trong vắt và những cô gái áo chàm. Không chỉ nổi tiếng gạo trắng, nước trong, đây còn là một vùng văn hoá đa dạng, phong phú vởi sự giao hoà văn hoá của nhiều dân tộc anh em.
Các dân tộc tiêu biểu ở Cao Bằng bao gồm Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Kinh, Mông và dân tộc Hoa.Trong đó, dân tộc Tày chiếm ưu thế (khoảng 42%), dân tộc Nùng (35%), còn lại là các dân tộc khác như Dao (9,8%), H’mong (6,3%), Kinh (5,5%)… Mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa truyền thống độc đáo của riêng mình.
Người Tày chiếm số lượng khá lớn trong tỉnh Cao Bằng. Nét đặc sắc về văn hoá của người Tày được thể hiện trong những làn điệu Lượn, Hát then, Lượn Slương, Lượn cọi, Lượn ngạn, múa Sluông, múa chầu, cây đàn tín, Phướng lỵ. Đàn ông Tày xưa vốn trang phục áo dài chàm, quần trắng, đầu đội khăn xếp, đỉnh chếch về phía sau, chân đi hài xảo, giầy vải. Phụ nữ Tày đầu vấn ngang, ngoài chùm khăn vuông mỏ quạ, áo dài màu chàm gài khuy đồng bên phải, ngang lưng thắt dải chàm, hai đuôi dải buông dài xuống đằng sau. Chất liệu vải chàm đều bằng tự dệt, tự nhuộm.
Dân tộc Nùng, sống đan chen trên các địa dư cùng người Tày. Dân tộc Nùng có nhiều tộc, căn cứ vào ăn mặc và tiếng nói để phân biệt: Nùng Inh, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng Giang v.v..Trang phục dân tộc Nùng phong phú hơn vì dân tộc Nùng có nhiều ngành nhưng nhìn chung các nét cơ bản là giống nhau. Phụ nữ Nùng ống tay áo rộng, cổ tay, cổ áo trang trí bằng những mảnh vải nhiều màu sáng. Người Nùng có múa quạt, múa khăn, cây nhị và bộ xóc đồng lục lạc, có xướng Dá hai là một dạng tuồng cổ của đồng bào có lịch sử cách hơn 300 năm đang được phục hồi trong giai đoạn hiện nay.
Làm đồng và Lấy củi- Ảnh: InternetDân tộc Dao ở Cao Bằng lại có bản chất cần cù lao động, sống chủ yếu ở vùng đồi núi thấp, vừa làm nương, vừa làm ruộng, phong tục tập quán còn nặng nề. Trang phục dân tộc Dao rất đặc sắc và da dạng về hình thức. Đặc trưng tộc Dao ở Cao Bằng là Dao tiền và Dao đỏ. Phụ nữ Dao đỏ ăn mặc lộng lẫy. Trên nền vải đen. các mảnh vải đỏ được thêu hoặc gắn vào sặc sỡ, khăn quấn đầu Cà pha dài 8 sải quấn quanh đầu trông như vành nón, bên người quấn che một dải vải phả xí thêu thùa nhiều hoạ tiết bằng chỉ đỏ, thắt lưng xi lơ chin được thêu thùa công phu với nhiều hoa văn cầu kỳ quấn vòng quang eo bụng phủ xuống đằng sau ngang tà áo được trang trí công phu tỉ mỉ, áo dài quá đầu gối, ống tay rộng trang trí viền, áo hở ngực, bên trong mặc yếm màu sáng nhạt, có hai chuỗi bông ngù (nom làng gẩu) mỗi bên có 8 bông. Quần hầu tảo ống rộng trang trí các ô vuông xanh hoặc đỏ, nâu, trắng. Đằng sau lưng khoác vuông vải nòm kie thể hiện tài năng thêu thùa trang trí của bàn tay khéo léo . Người Dao có múa Chuông, múa trống,
Dân tộc H’Mong hầu hết sống trên triển núi đá cao, vùng sâu, vùng xa, tập trung đông ở Bảo Lạc, Ba Bể, Thông Nông, Hà Quảng; sống du canh du cư, đốt rẫy làm nương, chủ yếu trồng ngô. Người H’Mông có múa ô, múa khèn ống trúc bè ngang, khèn lá, khèn môi.
Đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng có các phong tục, tập quán truyền thống rất đặc trưng mà chúng ta cần tìm hiểu kỹ để tránh các điều kiêng kỵ khi đến thăm làng bản, nhà của họ. Khi vào nhà, cần quan sát kỹ nếu thấy ở cửa nhà, đầu cầu thang có cắm một cành lá xanh, đó là dấu hiệu không muốn người lạ vào nhà.
Trong nhà, bàn thờ thường để ở giữa gian nhìn ra cửa chính, có nơi đặt ở đầu hồi. Khách cần tránh đến gần, không đặt các vật dụng, không sờ tay lên các đồ thờ cúng. Khi ngồi, không quay lưng vào nơi linh thiêng ấy, nhất là nữ giới.
Người Nùng thường đặt ống hương ở ngoài sân đẻ cúng phi hang chàn (ma gầm sàn). Người lạ không đến gần ống hương ấy.
Người Tày có tục thờ phi phíng phiầy (ma bếp lửa). Kiêng việc to tiếng cãi lộn bên bếp lửa.
Trong dịp Tết nguyên đán, người Mông kiêng cầm dao, kéo giết, mổ gia súc. Mọi người quan niệm rằng nếu không kiêng như vậy thì sẽ có nhiều điều chẳng lành, không may xảy ra đối với gia đình mình. Người Dao thường mời thầy cúng khấn vái trời đất, ông bà, tổ tiên, cầu cho mưa thuận, gió hoà, sinh sôi nảy nở. Đây là nghi lễ quan trọng. Trong thời gian làm lễ (một ngày, một đêm) kiêng không cho người ngoài vào nhà.
Thường ở mỗi cánh đồng người ta lập một miếu thờ thần Nông, người Tày gọi là Thiêng slấn. Thiêng slấn thường được dựng ở vạt rừng, có nhiều cây cổ thụ, có mỏ nước. Đồng bào kiêng bẻ cành, chặt cây, làm ô uế ở gần Thiêng slấn.
Lễ hội cũng là những di sản văn hoá phi vật thể mang mang bản sắc riêng của văn hoá Cao Bằng. Hội đền chùa được tổ chức vào khoảng từ mùng 6 - 15 tháng giêng âm lịch hàng năm ở hầu hết các đền, chùa trong tỉnh (hội đền Vua Lê, hội chùa Đà Quận, hội đền Kỳ Sầm, hội chùa Sùng Phúc,..); Lễ hội mời mẹ trăng - của người Tày được tổ chức vào đầu xuân ở từng bản người dân tộc; Lễ hội Lồng Tổng (xuống đồng) - của dân tộc Tày - Nùng để mở mùa gieo trồng mới; Hội Thanh Minh tổ chức ở xã Phúc Sen huyện Quảng Uyên; Hội Nàng Hai - tục cầu mùa được tổ chức ở huyện Phục Hoà và Thạch An và hội Pháo hoa tổ chức vào mùng 2 tháng 2 âm lịch tại huyện Quảng Uyên,...mỗi lễ hội đều có những nét độc đáo riêng, gắn liền với bản sắc văn hoá dân tộc của từng địa phương từ lâu đã trở thành một hình thức của sinh hoạt văn hoá cộng đồng và đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây.
Cao Bằng còn là vùng đất của một nền ẩm thực phong phú. Những món ăn của vùng đất này mang hương vị đậm đà của núi rừng, của tình người nồng ấm. Chỉ cần thưởng thức bánh cuốn nóng chan nước canh xương và phở chua bạn sẽ cảm nhận được điều đó.
Bánh cuốn và phở Cao Bằng mang một vị riêng đặc sắc không thể lẫn vào đâu được. Bánh cuốn ở đây vừa dai, vừa thơm vì được làm bằng thứ gạo Cao Bằng ngọt dẻo, và còn lôi cuốn bởi phương thức pha trộn trong vị ngọt đậm của nước canh xương thoang thoảng mùi vị ớt măng ngâm quả mác mật, thảo quả.
Phở chua thì có vẻ cầu kỳ hơn một chút với nhiều gia vị trộn lẫn trong bánh phở và miến, khoai, thịt ba chỉ, dạ dày lợn thái nhỏ từng sợi chao mỡ vàng rộm, rưới nước dấm ớt và lạc.
Một nét độc đáo khác của ẩm thực Cao Bằng là các món ăn chế biến từ thịt lợn như thịt lợn ướp bột gạo chua của Bảo Lâm, Bảo Lạc, thịt nướng, chả cuốn mác mật Quảng Uyên rồi vịt quay, lợn sữa quay nhồi lá mác mật vàng rộm. Người Cao Bằng đã khéo léo kết hợp nguồn gia vị thực phẩm phong phú sẵn có của núi rừng tạo được nhiều món ngon đặc sắc như ong đất xào măng, lẩu cá chua, xôi trám đen thơm ngậy, rêu đá Tầu Quầy xào, cốm hạt dẻ, bánh khảo, khẩu sli,…Thưởng thức những món ăn ấy cùng rượu rượu Lẩu Pảng huyện Hà Quảng (thứ rượu được trưng cất từ bột cây báng lâu năm trên núi đá, men làm từ quả trầm hương, ủ bột xuống đất gần một tháng, đợi tiết trời vào thu có nhiều sương thì đem phơi rồi mới đem trưng cất) thì thật tuyệt vời.
Vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt mỹ, phong cảnh núi non hùng vĩ cùng nhiều di tích lịch sử nổi tiếng và những nét sinh hoạt văn hoá đa dạng, đậm đà bản đã khiến Cao Bằng trở thành điểm du lịch hấp dẫn, điểm đến của du khách trong và ngoài nước.
Cao Bằng, miền đất địa đầu Tổ quốc , nơi có truyền thống lịch sử và văn hoá rất đáng tự hào và trân trọng. Lịch sử truyền thống của Cao Bằng gắn liền lịch sử truyền thống dân tộc Việt Nam từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước.
Nhắc đến Cao Bằng là nói đến nhiều địa danh ghi dấu cho một thời kỳ lịch sử oai hùng: Pác Bó, Rừng Trần Hưng Đạo, Đông Khê, Lam Sơn…đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho thi, ca, nhạc, hoạ. Những chiến sĩ năm xưa, thế hệ trẻ hôm nay coi Cao Bằng là cội nguồn cách mạng. Đến với Cao Bằng là hành hương về cội nguồn, thăm lại những khu di tích lịch sử của đất nước, tìm hiểu về một quá trình lịch sử anh dũng, hào hùng của dân tộc.
Pác Bó – Cao Bằng, nơi đầu tiên được Bác chọn về nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài. Bác Hồ sống, làm việc và vạch ra con đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại đây. Suối Lê-nin, núi Các Mác với non xanh nước biếc ẩn hiện trong sương mờ khiến lòng người bâng khuâng, lưu luyến... Vẫn còn đó cột mốc 108 và cây si già như chứng tích lịch sử chứng kiến giây phút đầu tiên Bác trở về Tổ quốc sau 30 năm xa cách. Ở lưng chừng núi, hang Cốc Bó quanh năm lạnh lẽo và ẩm ướt đã từng là nơi ở của Người. Xa xa, bên bờ suối là chiếc “bàn đá chông chênh” nơi Bác ngồi “dịch sử Đảng”.... .Những kỷ vật đơn sơ, giản dị mà Bác đã từng dùng, từ chiếc máy chữ, chiếc làn mây cũ, đến đôi dép cao su giản dị...ở Nhà trưng bày khu di tích Pác Bó đều trở nên thiêng liêng, nhắc nhở chúng ta nhớ về những trang sử vĩ đại của dân tộc.
Khu rừng Trần Hưng Đạo, nơi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Bây giờ, ngay dưới chân núi đã dựng một nhà bia tưởng niệm. Một số cứ liệu lịch sử về “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” và tên của 34 đội viên được khắc lên tấm bia bốn mặt, đặt chính giữa nhà tưởng niệm... Từ chân núi, theo những bậc xi măng lên đỉnh Slam Cao - là đỉnh cao nhất trong dãy Khau Giáng. Hai bên đường lá khô rụng dày thành thảm. Khu rừng này vẫn giữ được vẻ hoang sơ. Lên đến đỉnh là vạt đất bằng phẳng, có dựng một cột cờ và tấm bia ghi dấu nơi đã từng đặt đài quan sát đồn Phai Khắt của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Quần thể Khu di tích lịch sử Lam Sơn, nơi Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo cách mạng hoạt động và mở lớp huấn luyện chính trị (5/1942)...
Di tích lưu niệm Hoàng Đình Giong ở làng Nà Toàn, xã Đề Thám,Thị xã Cao Bằng nơi sinh ra và nuôi dưỡng đồng chí Hoàng Đình Giong. Đồng chí là người dân tộc Tày, sinh năm 1904 là một trong những Đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng và cũng là người trực tiếp rèn luyện và xây dựng Đảng bộ Cao Bằng.
Khu di tích anh hùng liệt sỹ Kim Đồng, nơi có Mộ anh Kim Đồng và tượng đai Anh khang trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh rừng cây nghíên xanh biếc, luôn toả bóng mát với những làn gió vi vu, như ru anh yên nghỉ.
Tượng đài anh Kim Đồng với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư, trước tượng đài có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng, cả nước thường tụ hội tại đây cắm trại, vui chơi ca hát.
Di tích Kéo Oai (Kéo Vai) thôn Lam Sơn. Đây là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng thường xuyên mở các lớp huấn luyện; tổ chức các hội cứu quốc trong những năm 1941 - 1943. Đồng thời nơi đây là trạm giao liên do đồng chí Kế Hùng phụ trách. Tại Bó Kéo Oai trháng 10/1941 thành lập đội Việt Minh Châu, thành lập đội võ trang của tỉnh và là trạm chờ nhận nhiệm vụ của các đồng chí cán bộ Trung ương, địa phương...
Và còn rất nhiều, rất nhiều nữa những di tích lịch sử cách mạng trên mảnh đất anh hùng này. Thế hệ trẻ ngày nay vẫn thường xuyên tổ chức các chuyến hành trình về với cội nguồn cách mạng, để tìm đến với những di tích lịch sử quý giá này.
Non nước Cao Bằng
Non nước Cao Bằng như một bức tranh thủy mặc khổng lồ của người họa sĩ thiên nhiên khoáng đạt với núi với sông, với hồ với thác. Thác Bản Giốc, Hồ Thang hen, Hồ Khuổi Lái, những hang động có nguyên vẻ hoang sơ (Ngườm Ngao, Ngườm Sập…) được đánh giá là đẹp vào bậc nhất ở Đông Nam Á.
Thác Bản Giốc - tuyệt tác của thiên nhiên ban tặng cho Cao Bằng, được đánh giá là một thác nước đẹp bậc nhất ở Việt Nam. Nằm ở địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, cách thị xã Cao Bằng 89km theo tỉnh lộ 206 về phía Bắc và cách thị trấn Trùng Khánh (Trung Quốc) 26km, Thác Bản Giốc thuộc dòng Quây Sơn chảy từ Trung Quốc sang và hạ lưu lại đổ về Trung Quốc. Ở phía bờ sông bên này, cảnh quan đẹp nên thơ, không khí mát lành với thảm cỏ, rừng cây xanh ngắt, mây trắng bồng bềnh chen lẫn với vẻ thanh bình nơi làng quê của đồng bào các dân tộc miền núi. Bờ bên kia là nước láng giềng Trung Quốc. Thác Bản Giốc có độ cao 53m và độ rộng 300m, chia thành ba tầng, gồm nhiều ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi, tạo thành một màn bụi nước trắng xoá. Giữa thác có một mô đá rộng phủ đầy cây xẻ dòng sông thành ba luông nước như ba dải lụa trắng. Vào những ngày hè oi ả, không khí ở đây vẫn mát lạnh và vào mỗi ban mai ánh mặt trời chiếu qua làn hơi nước đã tạo thành dải cầu vồng lung linh huyền ảo.

Thác Bản Giốc-Ảnh: Chu du
Nằm trong lòng những dãy núi đá vôi, cách Thác Bản Giốc 3km, Động Ngườm Ngao là một trong những hang động đẹp nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng được hình thành từ sự phong hoá lâu đời của đá vôi. Với chiều dài 2.144m, Động Ngườm Ngao tương đối lớn, gồm ba cửa chính và cảnh đẹp như chốn non tiên trải khắp chiều sâu động. Vòm động khép lại rồi lại mở ra, tạo cho người xem một sự thích thú bất ngờ. Nhũ đá mọc từ dưới lên, thả từ trên xuống, nhũ thẳng đứng, nhũ to, nhũ nhỏ…tất cả đan xen tạp thành một mê cung kỳ diệu. Thiên nhiên đã khéo léo tạo nên dáng hình cho các khối đá vô tri vô giác, như hình người, cây rừng, con vật, nàng tiên đang chải tóc, búp sen….Tất cả phủ lên động một không gian huyền ảo, hoà quyện giữa đá và nước.

Động Ngườm Ngao- Ảnh: Internet
Hồ Thăng Hen, một hồ đẹp trong số 36 hồ nằm ở trên núi của nước ta. Hồ nằm giữa một vùng núi non và màu xanh của cây vươn mình trên các vách đá cheo leo soi bóng xuống mặt nước trong, uốn lượn theo lòng lũng mấp mô những mỏ đá ngầm. Phía đầu nguồn là một cái hang rộng, từ trong hang nguồn nước chảy ra suốt ngày đêm. Đặc biệt nước hồ Thang Hen hàng ngày lại có hai đợt “thủy triều” lên và xuống. Vào mùa lũ, trong khi các hồ khác nước đỏ lựng thì nước hồ Thang Hen vẫn luôn trong xanh. Mùa cạn nước sâu chừng 10m. Ngày nay, Hồ Thăng Hen trở thành một điểm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng lý tưởng.
Văn hoá Cao Bằng
Cao Bằng, xứ sở của những cọn nước, của các suối nguồn trong vắt và những cô gái áo chàm. Không chỉ nổi tiếng gạo trắng, nước trong, đây còn là một vùng văn hoá đa dạng, phong phú vởi sự giao hoà văn hoá của nhiều dân tộc anh em.
Các dân tộc tiêu biểu ở Cao Bằng bao gồm Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Kinh, Mông và dân tộc Hoa.Trong đó, dân tộc Tày chiếm ưu thế (khoảng 42%), dân tộc Nùng (35%), còn lại là các dân tộc khác như Dao (9,8%), H’mong (6,3%), Kinh (5,5%)… Mỗi dân tộc đều có những di sản văn hóa truyền thống độc đáo của riêng mình.
Người Tày chiếm số lượng khá lớn trong tỉnh Cao Bằng. Nét đặc sắc về văn hoá của người Tày được thể hiện trong những làn điệu Lượn, Hát then, Lượn Slương, Lượn cọi, Lượn ngạn, múa Sluông, múa chầu, cây đàn tín, Phướng lỵ. Đàn ông Tày xưa vốn trang phục áo dài chàm, quần trắng, đầu đội khăn xếp, đỉnh chếch về phía sau, chân đi hài xảo, giầy vải. Phụ nữ Tày đầu vấn ngang, ngoài chùm khăn vuông mỏ quạ, áo dài màu chàm gài khuy đồng bên phải, ngang lưng thắt dải chàm, hai đuôi dải buông dài xuống đằng sau. Chất liệu vải chàm đều bằng tự dệt, tự nhuộm.
Dân tộc Nùng, sống đan chen trên các địa dư cùng người Tày. Dân tộc Nùng có nhiều tộc, căn cứ vào ăn mặc và tiếng nói để phân biệt: Nùng Inh, Nùng An, Nùng Lòi, Nùng Giang v.v..Trang phục dân tộc Nùng phong phú hơn vì dân tộc Nùng có nhiều ngành nhưng nhìn chung các nét cơ bản là giống nhau. Phụ nữ Nùng ống tay áo rộng, cổ tay, cổ áo trang trí bằng những mảnh vải nhiều màu sáng. Người Nùng có múa quạt, múa khăn, cây nhị và bộ xóc đồng lục lạc, có xướng Dá hai là một dạng tuồng cổ của đồng bào có lịch sử cách hơn 300 năm đang được phục hồi trong giai đoạn hiện nay.

Làm đồng và Lấy củi- Ảnh: Internet
Dân tộc H’Mong hầu hết sống trên triển núi đá cao, vùng sâu, vùng xa, tập trung đông ở Bảo Lạc, Ba Bể, Thông Nông, Hà Quảng; sống du canh du cư, đốt rẫy làm nương, chủ yếu trồng ngô. Người H’Mông có múa ô, múa khèn ống trúc bè ngang, khèn lá, khèn môi.
Đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng có các phong tục, tập quán truyền thống rất đặc trưng mà chúng ta cần tìm hiểu kỹ để tránh các điều kiêng kỵ khi đến thăm làng bản, nhà của họ. Khi vào nhà, cần quan sát kỹ nếu thấy ở cửa nhà, đầu cầu thang có cắm một cành lá xanh, đó là dấu hiệu không muốn người lạ vào nhà.
Trong nhà, bàn thờ thường để ở giữa gian nhìn ra cửa chính, có nơi đặt ở đầu hồi. Khách cần tránh đến gần, không đặt các vật dụng, không sờ tay lên các đồ thờ cúng. Khi ngồi, không quay lưng vào nơi linh thiêng ấy, nhất là nữ giới.
Người Nùng thường đặt ống hương ở ngoài sân đẻ cúng phi hang chàn (ma gầm sàn). Người lạ không đến gần ống hương ấy.
Người Tày có tục thờ phi phíng phiầy (ma bếp lửa). Kiêng việc to tiếng cãi lộn bên bếp lửa.
Trong dịp Tết nguyên đán, người Mông kiêng cầm dao, kéo giết, mổ gia súc. Mọi người quan niệm rằng nếu không kiêng như vậy thì sẽ có nhiều điều chẳng lành, không may xảy ra đối với gia đình mình. Người Dao thường mời thầy cúng khấn vái trời đất, ông bà, tổ tiên, cầu cho mưa thuận, gió hoà, sinh sôi nảy nở. Đây là nghi lễ quan trọng. Trong thời gian làm lễ (một ngày, một đêm) kiêng không cho người ngoài vào nhà.
Thường ở mỗi cánh đồng người ta lập một miếu thờ thần Nông, người Tày gọi là Thiêng slấn. Thiêng slấn thường được dựng ở vạt rừng, có nhiều cây cổ thụ, có mỏ nước. Đồng bào kiêng bẻ cành, chặt cây, làm ô uế ở gần Thiêng slấn.
Lễ hội cũng là những di sản văn hoá phi vật thể mang mang bản sắc riêng của văn hoá Cao Bằng. Hội đền chùa được tổ chức vào khoảng từ mùng 6 - 15 tháng giêng âm lịch hàng năm ở hầu hết các đền, chùa trong tỉnh (hội đền Vua Lê, hội chùa Đà Quận, hội đền Kỳ Sầm, hội chùa Sùng Phúc,..); Lễ hội mời mẹ trăng - của người Tày được tổ chức vào đầu xuân ở từng bản người dân tộc; Lễ hội Lồng Tổng (xuống đồng) - của dân tộc Tày - Nùng để mở mùa gieo trồng mới; Hội Thanh Minh tổ chức ở xã Phúc Sen huyện Quảng Uyên; Hội Nàng Hai - tục cầu mùa được tổ chức ở huyện Phục Hoà và Thạch An và hội Pháo hoa tổ chức vào mùng 2 tháng 2 âm lịch tại huyện Quảng Uyên,...mỗi lễ hội đều có những nét độc đáo riêng, gắn liền với bản sắc văn hoá dân tộc của từng địa phương từ lâu đã trở thành một hình thức của sinh hoạt văn hoá cộng đồng và đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây.
Cao Bằng còn là vùng đất của một nền ẩm thực phong phú. Những món ăn của vùng đất này mang hương vị đậm đà của núi rừng, của tình người nồng ấm. Chỉ cần thưởng thức bánh cuốn nóng chan nước canh xương và phở chua bạn sẽ cảm nhận được điều đó.
Bánh cuốn và phở Cao Bằng mang một vị riêng đặc sắc không thể lẫn vào đâu được. Bánh cuốn ở đây vừa dai, vừa thơm vì được làm bằng thứ gạo Cao Bằng ngọt dẻo, và còn lôi cuốn bởi phương thức pha trộn trong vị ngọt đậm của nước canh xương thoang thoảng mùi vị ớt măng ngâm quả mác mật, thảo quả.
Phở chua thì có vẻ cầu kỳ hơn một chút với nhiều gia vị trộn lẫn trong bánh phở và miến, khoai, thịt ba chỉ, dạ dày lợn thái nhỏ từng sợi chao mỡ vàng rộm, rưới nước dấm ớt và lạc.
Một nét độc đáo khác của ẩm thực Cao Bằng là các món ăn chế biến từ thịt lợn như thịt lợn ướp bột gạo chua của Bảo Lâm, Bảo Lạc, thịt nướng, chả cuốn mác mật Quảng Uyên rồi vịt quay, lợn sữa quay nhồi lá mác mật vàng rộm. Người Cao Bằng đã khéo léo kết hợp nguồn gia vị thực phẩm phong phú sẵn có của núi rừng tạo được nhiều món ngon đặc sắc như ong đất xào măng, lẩu cá chua, xôi trám đen thơm ngậy, rêu đá Tầu Quầy xào, cốm hạt dẻ, bánh khảo, khẩu sli,…Thưởng thức những món ăn ấy cùng rượu rượu Lẩu Pảng huyện Hà Quảng (thứ rượu được trưng cất từ bột cây báng lâu năm trên núi đá, men làm từ quả trầm hương, ủ bột xuống đất gần một tháng, đợi tiết trời vào thu có nhiều sương thì đem phơi rồi mới đem trưng cất) thì thật tuyệt vời.
Vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt mỹ, phong cảnh núi non hùng vĩ cùng nhiều di tích lịch sử nổi tiếng và những nét sinh hoạt văn hoá đa dạng, đậm đà bản đã khiến Cao Bằng trở thành điểm du lịch hấp dẫn, điểm đến của du khách trong và ngoài nước.
( Sưu tầm)