Với chủ trương đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng  ta đã có cống hiến to lớn, mang ý nghĩa lịch sử đối với Đảng, với dân,  với nước. Đại hội tuyên bố: "Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu  bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn".
 
Đây quả là những chữ vàng sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm  khảm của mỗi người dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, mỗi  khi Đảng ta trở về với tư tưởng Hồ Chí  Minh trong những hoàn cảnh  cách mạng gặp khó khăn, đất nước lại như từ chỗ tối bước sang chỗ sáng,  từ ngõ cụt bước ra con đường lớn rộng thênh thang. Và công lao bất hủ  của Đại hội VI là đã sáng suốt trở về với tư tưởng đổi mới của Hồ Chí  Minh, đề xướng chủ trương đổi mới để Đảng ta lãnh đạo toàn Đảng, toàn  dân và toàn quân đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, bế tắc và  khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện từ cuối những năm 70, ngay sau  khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nếp cũ, bằng những  biện pháp hành chính, mệnh lệnh, chủ quan duy ý chí nhằm thực hiện việc  quá độ trực tiếp lên CHXH trên phạm vi cả nước. 
 
Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh,  chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới liên tục trong nhận  thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể  nói, Hồ  Chí Minh  là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi  mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh  là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi  mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm  1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách  nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc  lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953,  Người đã đưa ra luận điểm bất diệt: 
 
“Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động  cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không  đi đến đâu cả” (chúng tôi nhấn mạnh - N.H).
 Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại  những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm  vụ mà Hồ  Chí Minh  đã xác định trong Di chúc của  Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.  Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử.
 
Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với  những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý  nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường  của nó - "muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn  giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết,  muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí  Minh. Đến khi 15 tuổi,  Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người  tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu  nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan  Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ.  Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau  theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp  và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
 
Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết  chiến lược, sách lược là gì, không rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác  nhau thế nào, cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần  phải có quyết định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu  chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra  quyết định đúng đắn.
 
Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc  biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc  chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm  vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc  giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vô sản ở  chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không  như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm  đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn.  Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương  tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ  Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần  chúng để giải phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản  giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành  lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của  Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ  trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp, chứ không  phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành.  Đây là tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí  Minh về cách mạng giải  phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem  xét kỹ lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư  tưởng: cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô  sản ở các nước tư bản chính quốc và giúp cho phong trào công nhân ở các  nước chính quốc.
 Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết  trong Báo cáo trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí  phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí  Minh. Nó chỉ có thể là sản  phẩm phi thường của một trí tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi  thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí  Minh đã viết báo cáo đó  trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm  trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là  ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và  trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối  với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác  thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của  đất nước làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn  phong của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự  thật về tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều  đó, không thể chối cãi được". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa  là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ phải không ai chối  cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong Tuyên  ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền  của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính  đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam). 
 
Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi  thường ban đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới  hết sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới  chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt  Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện  giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện  "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo  của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là  trong điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha  hình thành và với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có  thể áp dụng học thuyết đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên  chính vô sản quá độ trực tiếp lên CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được  không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm:  "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ  nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác  về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân tộc Viễn  Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế độ nô lệ, chế độ nông nô - N.H)  không?". Có thể nói, những nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên  chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương cao ngọn cờ dân tộc  dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước đầu được  xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn  chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong Thường thức chính  trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với  những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời  đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi...". "Thời đại mới khiến cách mạng  Việt Nam  phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo  hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo  con đường khác nhau để đi đến CHXH.
 
Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH  từ xã hội phong kiến thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ dân chủ mới,  rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về  chính trị và kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực  hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát triển nền kinh tế 5 thành  phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước,  trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo).
 
Rõ ràng, Báo cáo về Bắc  Kỳ, Trung Kỳ  và Nam Kỳ thực sự là một bản báo cáo hết sức phi thường. Nó thể hiện  tính độc lập tự chủ, đổi mới trong tư duy, trong nhận thức lý luận và  tính trung thực, thái độ tôn trọng chân lý, tôn trọng sự thật, tinh thần  đồng cảm và khí phách cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó báo hiệu sự hình  thành, sự ra đời tất yếu của một hệ thống tư tưởng mới của Hồ Chí Minh.  Ở đây, có thể nêu lên một số điểm mang tính khái quát trong hệ thống tư  tưởng mới đó, để chúng ta cùng suy ngẫm:
 Từ "dùng sức ta mà giải phóng cho ta" đến cách mạng giải  phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính  quốc.
 
Từ "trở về trước, đi vào quần chúng... đưa họ ra đấu  tranh giành tự do độc lập" đến "không có gì quý hơn độc lập tự do".
 
Từ "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" đến  cách mạng dân tộc dân chủ, Nhà nước dân chủ, "nước ta là nước dân chữ  đến Đảng chỉ có thể là Đảng của một quốc gia.
 
Từ "thời đại mới là thời đại cách mạng thắng lợi" đến  "cách mạng Việt Nam  là cách mạng dân chủ mới".
 
Từ "Đảng của nhân dân, Đảng của dân tộc" đến Mặt trận  đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc.
 
Từ "quyền dân tộc của nhân dân Việt nam" đến Mặt trận  quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam.
 
Từ "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", "nhân,  nghĩa, trí, dũng, tín" đến "trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
 Từ chiến lược, sách lược đánh thắng hai đế quốc to đến  chiến lược đối ngoại hòa bình, làm bạn với tất cả các nước, không gây  thù oán với một ai.
 
Từ "ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau”, "nếu  mình có một chương trình kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể  giúp mình" đến thực hiện chính sách mở cửa", mở rộng “lưu thông trong  ngoài" để phát triển nền kinh tế "theo hướng chủ nghĩa xã hội" của đất  nước.
 
Từ đấu tranh vũ trang đến đường lối ứng xử hiện đại:  cùng giữ gìn hoà bình, cùng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, cùng  đối thoại bình đẳng, cùng hiểu biết nhau, cùng thành thực tin cậy nhau,  cùng nhân nhượng, cùng thỏa thuận và hợp tác cũng có lợi.
 Từ đổi mới nhận thức về CHXH đến con đường định hướng  XHCN thích hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
 
Từ "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường  kỳ kháng chiến” đến "dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân", tiến hành  đổi mới "chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới  mẻ, tốt tươi", tiến tới xây dựng và thực hiện thành công CHXH ở nước ta.  
 
Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư  tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta  thấy, chúng xứng đáng được mệnh đanh là một học thuyết mới - học thuyết  Hồ Chí Minh.  Chúng ta không kìm được tự hỏi: Chúng sản sinh như thế nào? Trên cơ sở  nào? Trong một bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà cách mạng lão  thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có lý khi đề cập đến phương pháp  luận, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở dẫn đến sự hình  thành tư tưởng Hồ  Chí Minh.  Ông viết: "Suốt đời mình, Cụ Hồ  có tính quen là quan sát thực tế... Sát thực tế là tính Cụ Hồ", "óc phân  tích tổng hợp của Cụ  Hồ rất sắc sảo". Và, "Cụ Hồ  là người Việt Nam  đầu tiên đề cao tầm quan trọng của lý luận. Theo Cụ  Hồ, lý luận đối với một  chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người. Song người ta thấy  Cụ Hồ sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên  thì chú trọng đặc biệt đến thực tiễn. Thực tiễn có thể chứng minh hoặc  bác bỏ, hoặc đòi sửa đổi chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay  thiếu sót thì can đảm sửa, bổ sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là  ưu tiên. Cụ  Hồ là người dám nhìn thẳng  vào sự thật. Cụ xem thực tiễn là trọng yếu số một. Cụ không thích lý  luận tư biện cũng như không thích thực tiễn mù quáng". 
 
Đúng vậy. Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời như trên  trong các tác phẩm của Hồ Chí  Minh: nói theo tiếng nói của thực tiễn trên cơ sở phép  biện chứng duy vật và lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo  chân lý duy nhất. Trong thư từ biệt gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp  trước khi rời Paris  năm 1923, Người viết: 
 
“Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy  một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối  với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức  tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc  lập".
 
30 năm sau, Người viết rất rõ trong Thường thức chính  trị: "Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống  sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản. Nhưng để đi đến mục  đích ấy, mỗi nước phải tuỳ theo  điều kiện của mình mà tiến dần"...
 
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã lội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam  phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ củ  phong kiến, thực hiện "người cày có ruộng", xây dựng chính trị và kinh  tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ  cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát  triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên  CHXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
 
Thật rõ ràng, không thể đặt vấn đề một cách máy móc,  giáo điều, Việt Nam nhất định sẽ đi đến CHXH nhưng từ điểm xuất phát là  xã hội thuộc của và phong kiến, nên phải theo một con đường riêng thích  hợp, mọi chủ trương chính sách đều phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tế,  cụ thể của đất nước và mỗi khi tình hình biến đối, có điều kiện mới nảy  sinh thì phải kịp thời có sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng và trong  hành động, kể cả trong chiến lược, sách lược cách mạng, vận dụng linh  hoạt phép biện chứng duy vật, lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm  thước đo chân lý duy nhất, coi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân trên  hết. Đó là những cơ sở khiến cho Hồ Chí Minh, với trí tuệ phi thường của  mình, sáng tạo nên một hệ thống những quan điểm mới về chiến lược, sách  lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và tính chất  của thời đại mới, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng  lợi khác. Chúng ta không thể không chú ý, khi nói đến ưu điểm của chủ  nghĩa Mác, Hồ  Chí Minh  chỉ nêu "phương pháp làm việc biện chứng" thôi. Đương nhiên, điều này  trước hết có nghĩa là phép biện chứng duy vật vẫn giữ nguyên giá trị cho  đến ngày nay. Những gì trái với nó đều không có cơ sở để tồn tại. Và,  đối với chúng ta, việc vận dụng nó chỉ có thể đem lại hiệu quả khi thực  sự xuất phát từ thực tế, không thoát ty điều kiện vật chất thực tế và  lấy lợi ích ủa Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất. Xét  đến cùng, theo học thuyết Hồ Chí Minh, lợi ích của tổ quốc, của nhân dân  mới là “cái bất biến”, tất cả mọi cái khác, kể cả những quan điểm, tư  tưởng, nếu muốn duy trì địa vị là chân lý hoặc trở thành chân lý mới,  đều phải phù hợp với "cái bất biến" đó. Những gì trái với nó đều không  phải là chân lý, càng không phải là chân lý mới. Người nói: “Chân lý là  cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ  quốc, của nhân dân tức không phải chân lý".
 
Đương nhiên, việc phát hiện và nêu lên những quan điểm  mới, những chân lý mới là một việc rất không giản đơn và dễ dàng. Những  thế lực ra đời trên cơ sở những quan điểm cũ và được lợi (về chính trị,  vật chất và tinh thần) trong việc duy trì những quan điểm cũ sẽ tìm trăm  phương nghìn kế chống lại bất kỳ một quan điểm mới nào mà họ cho là có  thể làm tổn hại lợi ích hoặc tình cảm riêng tư của họ. Cho nên, một  người đám nêu lên những quan điểm mới, nhất là những quan điểm mới trong  lĩnh vực khoa học xã hội, thực sự là một người "trí, nhân, dũng". Và, Hồ Chí Minh  chính là một con người "trí, nhân, dũng" vĩ đại. 
Nhìn chung, có thể thấy hệ thống những quan điểm mới của Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của sự kế thừa biện chứng và sự phát triển nâng cao về chất của Người đối với những giá trị tinh thần và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được giá trị trong thời đại mới và những giá trị quý báu trong kho tàng tinh thần và tư tưởng của phương Đông, phương Tây, của toàn nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng tài tình hai quy luật của phép biện chứng duy vật, hai quy luật quy định tiến trình vận động và phát triển của xã hội: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, Người còn kết hợp, vận dụng một cách linh loạt và tài tình một quy luật khác nữa, đó là quy luật đổi mới công bằng. Luận điểm mang tính tiên tri đã nuêu của Người phản ánh yêu cầu tổng quát, mang tính tất yếu của quy luật này: nếu cứ duy trì phương pháp tư duy cũ, tư tưởng và quan niệm cũ và cách làm (bao gồm cả chiến lược, sách lược) cũ, là không đi đến đâu cả, có nghĩa là đi vào chỗ bế tắc, đi vào ngõ cụt. Thực ra, quy luật này cũng là một quy luật vận động của xã hội loài người. Con người thường vẫn vận dụng nó, nhưng không nhận thức ra nó. Trong thời đại mới ngày nay, sự hoạt động của nó trở nên hết sức sôi động, mạnh mẽ và nếu con người biết vận đụng nó một cách đúng đắn thì có thể đạt được những kết quả khả quan trong sự phát triển. Quy luật này yêu cầu: thứ nhất, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh và tình hình thực tế ở trong nước và thế giới mà tiến hành đổi mới trong tư duy, nhận thức và hành động thực tiễn, thử hai, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, triệt để và nhất quán, bảo đảm duy trì được sự cân bằng giữa các mặt, các bộ phận cấu thành hữu cơ của chỉnh thể từ vĩ mô đến vi mô, từ đó duy trì được sự phát triển với tốc độ cao và bền vững trong sự ổn định của chỉnh thể, thử ba, đổi mới phải năng động, kịp thời, chắc chắn, tương ứng với đòi hỏi đổi mới của thực tiễn.
 Nhìn chung, có thể thấy hệ thống những quan điểm mới của Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của sự kế thừa biện chứng và sự phát triển nâng cao về chất của Người đối với những giá trị tinh thần và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được giá trị trong thời đại mới và những giá trị quý báu trong kho tàng tinh thần và tư tưởng của phương Đông, phương Tây, của toàn nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng tài tình hai quy luật của phép biện chứng duy vật, hai quy luật quy định tiến trình vận động và phát triển của xã hội: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, Người còn kết hợp, vận dụng một cách linh loạt và tài tình một quy luật khác nữa, đó là quy luật đổi mới công bằng. Luận điểm mang tính tiên tri đã nuêu của Người phản ánh yêu cầu tổng quát, mang tính tất yếu của quy luật này: nếu cứ duy trì phương pháp tư duy cũ, tư tưởng và quan niệm cũ và cách làm (bao gồm cả chiến lược, sách lược) cũ, là không đi đến đâu cả, có nghĩa là đi vào chỗ bế tắc, đi vào ngõ cụt. Thực ra, quy luật này cũng là một quy luật vận động của xã hội loài người. Con người thường vẫn vận dụng nó, nhưng không nhận thức ra nó. Trong thời đại mới ngày nay, sự hoạt động của nó trở nên hết sức sôi động, mạnh mẽ và nếu con người biết vận đụng nó một cách đúng đắn thì có thể đạt được những kết quả khả quan trong sự phát triển. Quy luật này yêu cầu: thứ nhất, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh và tình hình thực tế ở trong nước và thế giới mà tiến hành đổi mới trong tư duy, nhận thức và hành động thực tiễn, thử hai, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, triệt để và nhất quán, bảo đảm duy trì được sự cân bằng giữa các mặt, các bộ phận cấu thành hữu cơ của chỉnh thể từ vĩ mô đến vi mô, từ đó duy trì được sự phát triển với tốc độ cao và bền vững trong sự ổn định của chỉnh thể, thử ba, đổi mới phải năng động, kịp thời, chắc chắn, tương ứng với đòi hỏi đổi mới của thực tiễn.
Quy luật này cũng là một quy luật của phép biện chứng.  Trong thời đại mới ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát  triển như vũ bão, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và nhanh  chóng, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó đặt ra  vấn đề "Đổi mới hay là chết ?" trước tất cả các nước, nhất là các nước  đang phát triển (ở những nước này, nếu đưa ra khẩu hiệu "Chủ nghĩa xã  hội hay là chết” thì như Ph.Ăngghen đã nói trong thư gửi Iôxíp Vâyđơmaiơ, ngày 12/4/ 1858, sẽ là  "quá sớm"). Muốn tránh tụt hậu, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách và đuổi  kịp các nước phát triển tiên tiến, muốn tránh không rơi vào tình trạng  trì trệ, khủng hoảng và bế tắc, muốn duy trì củ sự phát triển với tốc độ  cao và bền vững, hạ thì phải vận dụng có hiệu quả quy luật này đi đôi  với việc vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính  chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ  tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tuỳ theo sự thay đổi của điều  kiện và tình hình thực tế ở trong và ngoài nước mà kịp thời tiến hành  đổi mới năng động, thực hiện được sự cân bằng động trong quá trình phát  triển. Sự cân bằng động này dựa trên cơ sở sự phát triển không ngừng của  lực lượng sản xuất, là sản phẩm của sự phát triển không ngừng của lực  lượng sản xuất. Trong điều kiện phát triển bình thường, nó có thể đạt  được thông qua sự đổi mới mang tính điều chỉnh cục bộ. Còn trong tình  trạng khủng hoảng toàn cục thì nó đòi hỏi phải tiến hành đổi mới căn  bản, toàn điện và đồng bộ. Nhìn chung,  nó bao hàm một chuỗi bất tận những sự cân bằng tĩnh tương đối của sự  vật, ở đây là xã hội. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, những  nhân tố phá vỡ sự cân bằng tĩnh tương đối dần dần sản sinh và tích tụ,  đến một trình độ nào đó sẽ đòi hỏi phải thiết lập một sự cân bằng tĩnh  tương đối mới, và đây chính là lúc con người phải kịp thời nhận thức và  hành động, tiến hành việc đổi mới, nhằm tạo nên một sự cân bằng tĩnh  tương đối mới ở trình độ cao hơn cho sự vật, bảo đảm duy trì được sự  phát riển liên tục, không để cho sự vật rơi vào tình trạng khủng hoảng,  bế tắc và đổ vỡ. Đây chính là mục đích của việc nhận thức và vận dụng  quy luật đổi mới cân bằng động theo tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh,  gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù  hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy  luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng theo quan điểm duy  vật biện chứng khi áp dụng vào việc nghiên cứu xã hội của C.Mác và  Ph.Ăngghen.
 
Nhìn lại thực tế đổi mới trong hơn 15 năm qua, chúng ta  thấy, từ những thành quả bước đầu rất đáng khích lệ đến những vấn đề còn  cần được tiếp tục đổi mới, tất cả đều nói lên một điều mà Cố vấn Phạm  Văn Đồng đã nêu trong Văn hóa và đổi mới: đổi mới là quy luật. Càng suy  ngẫm, chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu xa của luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh.  Quả vậy, đúng như thực tế ta cho thấy, trong thời đại mới ngày một phát  triển ngày nay, "nếu cứ giữ cái nếp cũ”, những cái đã trở nên lỗi thời,  lạc hậu trong tư duy và hành động, không đổi mới là không có lối ra, là  đi vào ngõ cụt, là đổ vỡ. Điều này thích hợp với mỗi quốc gia, mỗi  doanh nghiệp và với cả mỗi cá nhân con người.
 
Chúng ta cần có sự suy ngẫm và nhận thức đầy đủ đối với  luận điểm thể hiện chân lý và tính quy luật của thời đại mới nêu trên  của Hồ  Chí Minh.  Thứ nhất, phải nhận thức và vận đụng cho tốt quy luật đổi mới cân bằng  động nêu trên. Thứ hai, phải đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ đối  với "cái nếp cũ” nói chung cũng  như đối với “cái nếp cũ” cụ thể trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội.  Chúng ta không chỉ phải nghiên cứu sự đổi mới “cái nếp cũ” trong tư  tưởng và hành động của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng chiến lược,  sách lược cách mạng, mà còn phải nghiên cứu những tư tưởng đổi mới của  Người đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: nếp  nhà, nếp làng, nếp nước, nếp tu thân - lối làm người, nếp tư duy - lối  suy nghĩ, nếp hành động - lối làm việc, nếp diễn đạt - lối viết lối nói,  nếp giao tiếp - lối ứng xử, nếp sinh hoạt - lối sống... Chắc chắn, tư  tưởng đổi mới của Hồ  Chí Minh  trong các lĩnh vực này cũng hết sức độc đáo, đặc sắc, sáng ngời chân -  thiện - mỹ. Nghiên cứu bộ phận tư tưởng này của Hồ Chí Minh  cũng sẽ giúp chúng ta giải quyết tất mối quan hệ giữa cái quá khứ, cái  hiện tại và cái tương lai. ở đây, chúng tôi xin phép được nêu lên một  nhận xét chung là: con người bao giờ cũng sinh ra trong một hoàn cảnh mà  trong đó, đã có sẵn "cái nếp cũ”, trong đó bao gồm cả những cái vốn là  truyền thống nhưng nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, được sản sinh và  tồn tại từ trước trong quá khứ. Con người được thừa hướng những mặt tốt  đẹp do quá khứ để lại, nhưng cũng phải gánh chịu những mặt tiêu cực của  những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời của quá khứ trong "cái nếp cũ” đó. Vì  thế, con người bao giờ cũng đứng trước một nhiệm vụ kép, một mặt phải  kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tất đẹp, những cái vẫn phù hợp  hoặc thích ứng được với cuộc sống hiện tại, mặt khác, phải khắc phục  hoặc uốn nắn những cái cổ hủ, lạc hậu và những cái đã trở nên lỗi thời  trước cuộc sống thực tế hiện tại, nói chung là phải khắc phục "cái nếp  cũ” của quá khứ để lại kể cả những tập quán, quan niệm, thiết chế, hình  thức truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Muốn hoàn thành tốt  trách nhiệm kép này, con người phải tiến hành đổi mới đối với "cái nếp  cũ” trong tất cả các lĩnh vực, trước hết là cái nếp cũ trong chiến lược,  sách lược cách mạng, bởi nhìn chung, đây là nhân tố quyết định chiều  hướng và tính chất của sự đổi mới "cái nếp cũ” trong các lĩnh vực khác,  sau đó, phải tiến hành sự đổi mới tương ứng "cái nếp cũ” ấy trong tất cả  các lĩnh vực khác còn lại, nhất là trong lĩnh vực triển khai thực hiện  cụ thể chiến lược, sách lược cách mạng đã được đổi mới.
 Đương nhiên, con người không thể phủ nhận, nhất là không  được chống lại quá khứ. Bởi vì, như thế tức là tự phủ nhận, là tự chống  lại chính mình. Nhưng mà, vì lợi ích hiện tại và tương lai của mình,  con người cũng không nên để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ của  quá khứ, nhất là không được để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ  của "cái nếp cũ” do quá khứ để lại, là "cái nếp" đã trở nên lỗi thời,  không còn phù hợp với thực tế hiện tại đã thay đổi và còn tiếp tục thay  đổi. Trong khi kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tốt đẹp của quá  khứ để lại, một mặt, con người cần phải tỉnh táo, không tự đánh mất mình  trong cái vinh quang có sẵn, mặt khác, phải biết để cho những cái lạc  lậu, lỗi thời - "cái nếp cũ” nằm yên trong quá khứ, không để mình bị  chúng trói buộc chân tay, và hơn nửa, phải biết lấy chúng làm bài học  lịch sử cho việc đổi mới hiện tại, chuẩn bị tất cho tương lai.
 Trở lại một cách toàn diện và triệt để với hệ thống tư  tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, với học thuyết Hồ Chí Minh đó là cơ sở,  là điều kiện, là tiền đề cho việc đưa đất nước phát triển thành công  theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thực hiện dân giàu, nước  mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến nhanh đến mục tiêu CHXH.
Nguyễn Huy
Tạp chí Triết học
Nguyễn Huy
Tạp chí Triết học