Thandieu2

Thần Điêu
Đôi mắt thuộc số những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng tám 1945. Đọc Đôi mắt, đầu tiên ta nhận ra một mảng hiện thực thời kì đầu của cuộc kháng chiến gian khổ. Vần chưa thây Nam Cao, đột phá qua lớp vỏ hiện thực, ta nhận ra tầng ngầm tâm trạng của một thế hệ trí thức văn nghệ sĩ hồi ấy. vẫn chưa thực sự thấy Nam Cao. Phải đào đến lớp thứ ba, ta mới bắt gặp tầng tư tưởng, tức là tầng ý nghĩa nhân sinh mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác phẩm. Ấy là vấn đề “đôi mắt”, vấn đề nhận đường, vấn đề xác định cái nhìn đúng đối với nhân dân và kháng chiến. Nhà văn Tô Hoài nhận xét rất đúng ràng: “Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ”.

đôi mắt.jpg

Như vậy, Đôi mắt cơ bản là một tác phẩm luận đề, nó muốn đề xuất, tranh luận một vấn đề thuộc về cách nhìn, về lập trường quan điểm, về nhân sinh quan và thế giới quan. Tính hấp dẫn của vấn đề mà Đôi mắt đặt ra đã hút nhiều cây bút phân tích tác phẩm này lao vào cuộc luận chiến tư tưởng, say mê khai thác cái nhìn đúng của Độ, cái nhìn sai của Hoàng, biến bài bình luận văn chương thành bài kiểm điểm tư cách công dân. Đúng là có một nhà tư tưởng Nam Cao trong Đôi mắt – một nhà tư tưởng sâu sắc, không ồn ào mà thâm trầm ý nhị. Nhưng nhà tư tưởng Nam Cao đã giao hòa tuyệt diệu với nhà nghệ sĩ Nam Cao, tạo ra một nụ cười ẩn hiện khắp tác phẩm, một nụ cười trí tuệ thâm thuý, có sức hấp dẫn lớn đối với người đọc. Phải chăng đọc Đôi mắt là đọc được nụ cười rất Nam Cao ấy, đọc ra nhà tư tưởng trong nhà nghệ sĩ chứ không phải nhà nghệ sĩ trong nhà tư tưởng.

Đầu tiên, hãy khảo sát nhân vật thành công nhất của Đôi mắt là văn sĩ Hoàng. Đọc luận đề Đôi mắt nên đọc từ hình tượng, qua hình tượng ấy, đồng thời nên thấy nụ cười Nam Cao ẩn hiện trong đó, người đọc sẽ thấy bao nhiêu là thú vị. Chẳng tình cờ chút nào khi Nam Cao chọn điểm xuất phát cho câu chuyện về Hoàng lại bằng hình ảnh con chó Tây hung hăng mở đầu tác phẩm. Một con chó cao lớn như con bê, rất hung tợn, đến mức mỗi lần Độ đến chơi, mặc dù đã được anh Hoàng ra đứng tấn yểm trợ, Độ cũng chỉ đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó đế vào phòng khách. Độ phải thú thực: “Tôi rất sợ con chó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nồi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng tấn để giữ nó mà lại buồn rầu báo cho tôi biết nó chết rồi, thì mặc dầu có làm ra mặt tiếc với anh, thật tình tôi thấy nhẹ cả người”. Tại sao câu chuyện về Hoàng lại bắt đầu từ con chó?

Phải chăng, trước hết, đó là chi tiết có khả năng đập mạnh vào ấn tượng của người đọc, tạo sức cuốn hút ngay từ đầu. Song quan trọng hơn, Nam Cao muốn gián tiêp gợi ấn tượng hài hước và bao trùm về Hoàng (ông chủ con chó): phú quý – thời dân chết đói đầy đường mà Hoàng vẫn kiếm đủ mỗi ngày vài lạng thịt bò nuôi chó thì đâu phải loại người thường – và dữ dằn nữa. Liền sau hình ảnh chó dữ (đã chết) là chân dung biếm họa của Hoàng. Đây là loại chân dung khôi hài rất sở trường của Nam Cao, khiến ông dựng Hoàng nổi hình nổi khối lên, cựa quậy rất kì thú: “Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tun ngủn như ngắn quá”. Đúng là một chân dung khiến người đọc phải nhờn ngấy lên. Nam Cao còn bổ sung vào đấy “một cái vành móng ngựa ria” đặc thị dân. Chỉ mới xuất hiện, Hoàng đã hiện lên rất sống: đầy ứ sự no nê múp míp, sự nhàn hạ phong lưu, khiến anh ta trở nên rất chướng trong hoàn cảnh cả một dân tộc đang gian lao kháng chiến.

Qua hồi tưởng của Độ, Nam Cao dùng phép đồng hiện làm hiện ra một Hoàng của quá khứ, tạo thêm bề dày cho hình tượng. Hoàng vôn là kẻ đố kị, cơ hội, lật lọng, giả dôi.. Đặc biệt Hoàng có cái tật “đá bạn” một cách đột ngột, có lúc đã ra báo chửi bạn bè.

Nam Cao không đao to búa lớn với Hoàng, như Hoàng đã từng đao to búa lớn báng bổ nông dân. Nhiều chỗ, ngòi bút của nhà văn rất kín, thoáng đọc chẳng thấy gì, nhưng càng ngầm càng thấy đầy thâm ý. Ví như đoạn tả Hoàng đón Độ. Thoạt nhìn thì có vẻ thân tình, nhìn kì thì hóa ra đóng kịch. Hoàng cầu kì, phức tạp, tạo dáng trong một hệ thống động tác, trau chuốt đến cả những cái chìa tay, hé miệng, rồi lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng… Nam Cao đã “kịch hóa” hành động của nhân vật, bắt anh ta phải bộc lộ tận cùng sự giả dối trong bản chất.

Mà nào đã hết. Cái nghề của Hoàng cũng có một điều gì thật bất ổn: Hoàng là nhà văn kiêm tay buôn chợ đen. Quả là một kết hợp cọc cạch, lạc điệu. Nhà văn hướng thiện, tay buôn hướng lợi. Ở Hoàng, nhà văn không lấn át được con buôn, mà ngược lại “con buôn hóa”, nên Hoàng luôn so bì tính toán, sợ thiệt.


Nhiều người đã cho rằng bản thân cách sống thanh lịch của Hoàng không có gì đáng phê phán cả. Hoàng cũng không phải là phản động, là kẻ thù của kháng chiến. Vậy đánh giá cách sông của Hoàng như thế nào? Phải đặt Hoàng vào hoàn cảnh cả dân tộc kháng chiến.

Trong lúc mọi người quên cá nhân mình Đề ng và chiến đấu cho độc lập, tự do của tổ quốc thì Hoàng lại chăm sóc cá nhân quá kĩ lường: đi tản cư vẫn dùng thuốc lá thơm, và còn đủ thời gian tỉa tót vành ria mép… Đấy là lối sống kiểu cách, xa lạ, vô trách nhiệm, bộc lộ bản chất ích kỉ của Hoàng.

Cách sống ấy có nguyên nhân từ cách nhìn, nhìn lệch thì sống lệch. Cái nhìn của Hoàng không phải sai cả, nhưng cơ bản, Hoàng nhìn rất méo mó về nhân dân (đặc biệt là nông dân), về kháng chiến. Người xưa nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Nhưng Hoàng lại sống rất vô trách nhiệm, ngôi nhà luôn đóng kín cổng của anh như một biểu tượng cho thái độ đứng ngoài cuộc, cho cái lạnh lẽo dửng dưng của kẻ đã khước từ kháng chiến. Ấy thế mà Hoàng lại thích dứng ngoài để chửi đổng – chửi đổng nhân dân, chửi đổng kháng chiến. Hoàng sắc sảo đến hiếm có khi giễu cợt nhân dân: nào là chị dâu bị em đuổi ra vườn mà đẻ; nào là người nhà quê hay nhòm ngó, khách lạ vào làng thì đếm được từng nốt ruồi trên mặt, từng lỗ rách ở ống quần bên trái; nào là người nhà quê thích xét giấy, thích nói chuyện chính trị…, tóm lại là toàn những người “vừa ngố vừa nhặng xị”.


Hoàng còn có tài bình luận bộc lộ thái độ đánh giá theo kiểu chê bai một cách nồng nhiệt đến trắng trợn. “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lai như ngửi thây mùi xác thối”. Đồng minh với thái độ độc ác này là vợ Hoàng. Cô ta nghe chồng kể, khoái trá tới mức cười rú lên, cười đến phát ho, đến chảy cả nước mắt.. Hoàng càng tỏ ra sắc sảo càng trở nên phiến diện. Độ nhận xét rất chính xác: cách nhìn đời, nhìn người của Hoàng là cách nhìn “một phía”, (mà ỉại là phía hiện tượng, phía bên ngoài), hoàn toàn mù mờ về bản chất tốt đẹp bên trong của những người nông dân kháng chiến, nên anh ta đã khinh bỉ họ dến tàn nhẫn, dẫn đến thái độ bi quan trước tiền đồ của cuộc kháng chiến là một tất yếu. Chính Hoàng tự nhận: “Tôi bi lắm”. Bi vì không công nhận vai trò lịch sử của nhân dân, Hoàng chỉ biết sùng bái cá nhân lãnh tụ. Mà Hoàng sùng bái Cụ Hồ một cách ngô nghê, nực cười, nhất là khi Hoàng tỏ ý thương cho Ông cụ: “Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho Ông cụ lắm (…) dù dân mình có tồi đi nữa, ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường”. Đây là cái nhìn của một con người bị cầm tù trong chủ nghĩa cá nhân, làm hỏng tư cách công dân lẫn tư cách nhà văn ở Hoàng.

Nam Cao để Hoàng thả sức “chửi đổng” đối với cuộc kháng chiến, rồi bất ngờ lại để Hoàng sa vào cái bàn tổ tôm với bọn trí thức cặn bã ở Hà Nội thải về. Nam Cao còn để Hoàng than phiền rằng không có một cái bàn cho ra hồn để viết văn, và y ao ước sẽ viết về cái thời này như Vũ Trọng Phụng từng viết Số đỏ. Lại một cơ hội để Nam Cao phơi bày không thương tiếc cái nhìn hời hợt mà tàn nhẫn của Hoàng. Chao ôi! Chỉ có loại người như Hoàng mới dám táo tợn đánh đồng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc với cái ô hợp, phi lí thời Vũ Trọng Phụng, đặt cuộc kháng chiến trong một cái nhìn giễu cợt. Đến đây thì toàn bộ bản chất của Hoàng đã bị lột trần trước tiếng cười biếm họa sắc sảo, thâm thuý của Nam Cao.

Hoàng tràn ngập trong Đôi mắt, nhưng nói thế giới của Đôi mắt là thế giới của Hoàng thì lại không ổn. Vì cạnh Hoàng là Độ. Cuộc gặp gỡ giữa Hoàng và Độ là cuộc gặp gỡ của hai cái nhìn, hai cách sống trái ngược. Độ là một nhà văn cũ nhưng có cái nhìn mới, sống gắn bó với kháng chiến. Nếu Hoàng đầy ắp ngôn ngữ đến mức ngoa ngoắt thì Độ lại đầy ắp suy tư.

Hai nhân yật tương phản nhau gay gắt ở cả tính cách, cái nhìn lẫn bút pháp miêu tả của Nam Cao.

Truyện còn có một chi tiêt rất dí dỏm: Do Độ từng ngủ chung với công nhân xưởng in, nên khi năm chung với Hoàng, Độ lo ngay ngáy mấy con rận trong bộ quần áo tây của mình “du lịch” sang cái chăn bông thoang thoảng mùi nước hoa của Hoàng. Một chi tiết nhỏ mà đủ dựng lên thế đối lập hài hước giữa hai cách sống: Chiếc chăn bông thơm nức sự sang trọng là chân dung của một lối sống xa hoa lạc lõng, còn bộ quần áo tây có “cái giống kí sinh trùng hay phản chủ ấy” lại tiêu biểu cho lối sống gắn bó với nhân dân kháng chiến đang lam lũ trong cuộc đấu tranh sinh tử.

Nhưng phép tương phản của Nam Cao chỉ tỏ ra sâu sắc nhất là lúc nhà văn đặt Độ và Hoàng cùng đứng trước một tình thế: anh nông dân dọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”. Đây là phép thử quan trọng nhằm phân biệt triệt để hai con người rất khác nhau này. Điều gì đả xảy ra? Hoàng nồng nhiệt phì ra bao nhiêu khinh bỉ cùng những triết lí tăm tối, trong lúc Độ chi lặng lẽ hạ một nhận xét ngắn: “Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù”. Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt giữa hai kiểu tư duy: Hoàng thiên về cái nhìn bề ngoài nên hời hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng cái nhìn vào bản chất, mục đích nên thông cám, tin yêu nhân dân. Cái nhìn của Độ thể hiện một quá trình phát triển, từ phiến diện đến toàn diện. Độ bộc lộ chân thành: trước cùng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng, nay đã thấy những anh “rằng đen mắt toét”, “gọi lựu đạn là nựu đạn” mà “lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm”. Miêu tả quá trình chuyển hóa của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh chân thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp nhà văn cũ đi theo kháng chiến, kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có đôi mắt mới, tình cảm mới. Nhìn đời, nhìn người đúng. Độ đã biết hòa nhập với kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và Hoàng là sự đối lập giữa cái mới và cái cù. Miêu tả sự đối lập đó, tác giả Nam Cao nhằm tăng sức phê phán cái cũ, khẳng định cái mới.

Đúng như Tô Hoài đánh giá, Đồi mắt là một bản tuyên ngôn nghệ thuật. Đại hội văn hóa toàn quốc năm 1948 kêu gọi trí thức và vãn nghệ sĩ “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Nhạy cảm với phương hướng đó, Đôi mắt trở thành tuyên ngôn về cái nhìn tin yêu đối với nhân dân và thời đại, tuyên ngôn về chỗ đứng của nhà văn trong kháng chiến: Hãy biết tin vào sức mạnh nhân dân, hãy biết đứng vào hàng ngủ của họ, đem tài năng dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng. Đôi mắt còn là tuyên ngôn về một quan điểm mĩ học mới: cái, đẹp thuộc về nhân dân, nhân dân là nhân vật trung tâm, là nguồn cảm hứng lớn của nền văn nghệ mới. Đây là vấn đề sinh tử, là chấn lí muôn đời của nghệ thuật. Một nền nghệ thuật đánh mất nhân dân là một nền nghệ thuật tự diệt.

Đặt trong thế giới nhân vật trí thức khá đông đúc của Nam Cao (như Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, Điền trong truyện ngắn Trăng sáng, Hài trong truyện ngắn Mua nhà, Thứ, Đích, San… trong tiếu thuyết Sống mòn…), nhân vật Độ và Hoàng thể hiện tài nghệ xuất sắc của Nam Cao trong việc miêu tả nhân vật. Nhân vật của ông sâu sắc về tư tưởng mà không khô khan trong khái niệm, vừa giàu cá tính mà vẫn rất khái quát, có thể từ trang sách bước ra cuộc đời. Ở hình tượng nhân vật Hoàng, ông đã phối hợp miêu tả được cả chân dung, hành vi với ngôn ngữ, giọng điệu rất nhuần nhuyễn khiến Hoàng như con người có thật, rất thật, đang hung hãng cười nói, tức giận, sùi cả bọt mép trước mắt ta. Ví như cách Nam Cao kết thúc thiên truyện bằng cái vỗ đùi đắc ý và lời khen Tào Tháo của Hoàng – một chi tiết thật tài năng, lột tả cảm xúc hết mình của Hoàng với một thế giới xưa cũ trong sách, trong khi rất thờ ơ với cuộc đời kề cận. Đó là một niềm vui lạc lõng như thứ quả trái mùa của đôi mắt nhìn đời, nhìn người lệch về một phía. Tài năng của Nam Cao chính là ở sự kết hợp sâu sắc giữa tính tư tưởng đầy sức khái quát với tính hình tượng cực kì sinh động này.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đôi mắt của Nam Cao được coi như là bản Tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ chúng tôi, hồi ấy.Với hàm ý là một tuyên ngôn nghệ thuật, Đôi mắt đã truyền niềm tin lạc quan, kiên định, sức mạnh cho những người cầm bút, không riêng gì thế hệ nhà văn như Nam Cao, Tô Hoài... Với tuyên ngôn ấy, văn nghệ sĩ đã tham gia cách mạng, kháng chiến hết mình và sẵn sàng hy sinh vì lẽ sống của dân tộc như trường hợp Nam Cao.
 
Sửa lần cuối:

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top