Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Dấu ấn văn hoá Việt trong kinh thi
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ButNghien" data-source="post: 109280" data-attributes="member: 18"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><span style="color: #993300"><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Navy">DẤU ẤN VĂN HÓA VIỆT TRONG KINH THI</span></span></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><span style="color: #993300"><strong><span style="font-size: 15px"><span style="color: Navy"></span></span></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><span style="color: #993300"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><span style="color: #993300"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><span style="color: #993300"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></span></span></p><p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><img src="https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4b/Vietnamese_dragon.gif" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Kinh Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao đẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trước trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo Tư Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban đầu có tới 3000 bài, Khổng tử san định đã bỏ đi 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm văn học cổ điển có ảnh hưởng sâu rộng đến tâm hồn và trí tuệ phương Ðông, quan trọng đến mức Khổng tử nói “bất học thi vô dĩ ngôn!” (Không học Thi biết gì mà nói). Thời nhà Tần nó cũng bị đốt nhưng sau đó được khôi phục và xếp vào Ngũ kinh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Hàng nghìn năm nay, kinh Thi mặc nhiên được coi như sản phẩm đặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy, ba chục năm trước, khi học giả Lương Kim Ðịnh cho rằng <em><strong>Kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc </strong></em><em>(1)</em> đã gây nên sự phản ứng của không ít người. Dễ hiểu thôi, thay đổi một thói quen từng hằn vào cân não hàng nghìn năm đâu phải là việc một sớm một chiều! </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Ðiều dễ nhận ra là kinh Thi đã bị Hán nho rồi Tống nho đánh tráo một cách trơ trẽn: Những sáng tác dân gian sinh ra nơi ruộng lúa nương dâu bị biến thành sản phẩm cung đình, một thứ văn chương xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi nào đó! Chính ở đây, tầng lớp Hán nho đã ăn cắp tác quyền của dân gian trao cho vương triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách đánh tráo, ăn cắp tác quyền khác tinh vi hơn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hơn trong tâm lý: đứng trước nền văn hóa khổng lồ của người láng giềng phương bắc, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé đi, đến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngơ trước ông thầy vĩ đại! Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn đi, không dám nghĩ đến cái điều bị coi là hoang tưởng thậm chí phạm thượng: <em>kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc!</em> </span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Ðể phân định điều này, ta phải xét từ cội nguồn: Tìm về lịch sử hình thành kinh Thi. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Vào thập niên 70 của thế kỷ trước tồn tại 2 giả thuyết về cội nguồn dân tộc Việt. Một cho rằng, tổ tiên người Việt từ cao nguyên Thiên Sơn di cư vào đất Trung Hoa sau đó bị người Hán chèn ép nên tràn xuống Việt Nam tiêu diệt người bản địa, lập ra nước Văn Lang. Giả thuyết thứ hai cho rằng tổ tiên người Việt đã từ Mã Lai đi lên. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Ngày nay, với những thành tựu mới nhất của di truyền học, lần đầu tiên chúng ta có bản viết chính xác về tiền sử Đông Á: Người hiện đại Homo Sapiens đã từ châu Phi lên Trung Đông rồi từ đây theo bờ biển Nam Á đến Việt Nam khoảng 60-70000 năm trước. Dừng lại đây trong khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng lai. Những chủng người này sinh sôi nảy nở lan khắp lục địa, hải đảo Đông Nam Á rồi sang châu Úc. Khoảng 40.000 năm trước, khi băng hà tan, người từ Đông Nam Á đi lên phía bắc, chiếm lĩnh lục địa Trung Hoa rồi sau đó vượt qua eo Bering tới châu Mỹ. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Cho đến thiên niên kỷ thứ IV TCN, người Đông Nam Á mà sau này sử sách gọi là Bách Việt sống khắp duyên hải Đông Á với nhân số chiếm khoảng 54% nhân loại. Trong đó người Lạc Việt có khoảng 15-20% và giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Người Bách Việt Đông Nam Á kiến tạo nền văn minh nông nghiệp tiến bộ nhất thế giới: Nghề trồng lúa phát triển với giống lúa được tuyển chọn tốt, biết cày bằng trâu bò, đắp bờ giữ nước. Nghề chăn nuôi gia súc trở thành nghề sản xuất chính, biết nuôi tằm dệt lụa. Nghề đúc đồng ra đời. Khoa thiên văn quan sát tượng trời tượng đất dự báo thời tiết ở trình độ cao. Kiến thức âm dương ngũ hành, dịch số được tích luỹ. Từ kết nút để ghi nhớ đã có chữ Khoa đẩu. Là cộng đồng nông nghiệp nên sinh hoạt văn hoá phát triển với ca dao, dân ca, đồng dao, nhạc múa, trai gái luyến ái tự nhiên theo tục dã hợp… </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Cũng trong khoảng thời gian trên, có phần chắc là muộn hơn, một số nhóm người Mongoloid từ Đông Nam Á đi lên miền đồng cỏ phía Tây Bắc Trung Hoa, sinh sống bằng du mục, tách biệt với khối dân cư còn lại. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Khoảng 2600 năm TCN, những bộ lạc du mục thiểu số này vượt Hoàng Hà chiếm đất của dân Bách Việt nông nghiệp, lập ra thời đại Hoàng Đế. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Tuy chiến thắng về quân sự nhưng do số người ít và văn hoá kém phát triển nên kẻ chiến thắng bị đồng hoá cả về di truyền cả về văn hoá. Người Mongoloid vốn có nước da sáng hơn người Australod lại sống ở phía bắc từ lâu nên nước da càng trắng hơn. Vì vậy kẻ thống trị gọi người bản địa là lê dân – dân đen - để phân biệt. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Vào đất Bách Việt, người Hán Mông Cổ choáng ngợp trước số dân đông đúc và kinh tế sung túc nên lập tức bỏ nghề du mục, chuyển sang làm quan, làm công nghiệp, nhà buôn - những công việc đặc quyền của kẻ thống trị. </span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Không lâu sau, chỉ một vài trăm năm, toàn bộ người Hán Mông Cổ xuống Trung Nguyên bị hoà huyết với dân đen bản địa thành chủng người mới, khoa học gọi là <em>Mongoloid phương Nam</em> hay <em>nhóm loại hình Đông Nam Á</em>. Trong quá trình hoà huyết thì văn hoá cũng hoà đồng: Trước hết là tiếng nói. Lớp con lai dùng trộn trạo từ vựng của bố của mẹ. Với thời gian, hai hệ tiếng nói bổ sung cho nhau, hoà vào nhau tạo nên tiếng nói chung phong phú của lớp dân mới. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng, một quốc gia bao giờ cũng theo cách nói của trung tâm, của thủ đô. Người Hán Mông tập trung ở đô thị nên trong khi học thêm từ vựng Việt thì họ cố giữ <em>cách nói-văn phạm </em>truyền thống Hán. Dần dần toàn bộ dân cư chuyển sang dùng cách nói thống nhất như các đô thị, kết quả là trong giao tiếp cùng nói theo cách của người Hán. Đồng thời trong quá trình chung sống, các phong tục tập quán của hai tộc người ban đầu cũng hoà vào nhau. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Người Hán Mông Cổ bỏ vật tổ truyền thống của mình là con cọp trắng để chuyển sang thờ vật tổ của dân bách Việt là con cá sấu được thần hoá thành con rồng. Người Hán Mông Cổ cũng nhận những ông tổ xa xưa của người Việt là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông làm tổ của mình. Điều này không có gì sai trái mà hợp lý vì do hoà huyết nên về huyết thống, những thế hệ người Hán từ sau Hoàng Đế như Đế Cốc, Đế Chí đều là con cháu của Thần Nông. Họ có toàn quyền nhận tổ tiên cũng như văn hoá nông nghiệp làm của mình, bình đẳng với những người Bách Việt mới thuộc chủng Mongoloid phương Nam. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Từ lịch sử đó, chúng ta thử tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của kinh Thi. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Từ thời vua Vũ nhà Hạ (2205-1783 TCN), các nước chư hầu dâng cống vật cho thiên tử thì trong phương vật, có cả những câu ca của dân quê nơi thôn dã. Thiên tử xem những câu ca ấy để hiểu thuần phong mỹ tục trong thiên hạ, để đánh giá sự cai trị của vua chư hầu. Cái lễ cống tồn tại dài dài mãi sau này nhưng việc cống những câu ca nơi thôn cùng xóm vắng chỉ tồn tại đến thời nhà Chu (1134-247 TCN). </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Nhưng thử hỏi thiên hạ Trung Hoa thời Xuân Thu là ai? Lúc này đã 2000 năm qua đi từ trận Trác Lộc <em>Hoàng Đế chiến Si Vưu.</em> Trong cương thổ nhà Chu rộng khoảng 115.000 km2 với 15 tiểu quốc, hai chủng tộc chính ban đầu là Hán Mông Cổ và Bách Việt đã hoà huyết thành chủng mới Mongoloid phương Nam. Cùng với máu huyết, giữa người Việt và người Hán cũng có sự hoà đồng về văn hoá. Trong cộng đồng Hán tộc mới này, lực lượng đông đảo nhất là lê dân, là dân đen tức những người gốc Tam Miêu. Chính do số đông áp đảo, chính xuất phát từ nền văn hoá cao hơn nên những người gốc Bách Việt giữ vai trò chủ đạo trong nền văn hoá. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Đặc điểm nổi bật của dân Miêu Việt là sống hồn nhiên vui vẻ, ưa ca múa, khá thoải mái trong chuyện luyến ái gái trai. Kinh Thư ghi nhận, khi vì bất bình mà người Miêu Việt nổi dậy, dẹp không được, vua Thuấn phải sai ông Quỳ dùng ca múa phủ dụ mới yên. Từ kinh nghiệm trên, các ông vua hiền thời cổ ở Trung Quốc đã phần nào dựa vào những lời ca cất lên nơi thôn cùng xóm vắng mà biết nguyện vọng của dân để kịp thời điều chỉnh chính sách của mình. Chính những lời ca dân dã ấy được thu thập lưu giữ trong tàng thư của nhà vua. Và từ những thư tịch trong cung vua nhà Chu, Khổng tử (551- 479 TCN) đã đem ra san định thành kinh Thi.</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Những nguyên nhân trên đã tạo nên tinh thần nông nghiệp Việt tộc bàng bạc trong kinh Thi ngay từ bài đầu tiên và quan trọng nhất: Quan thư.</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Quan quan thư cưu</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><strong><em> <span style="font-size: 15px"> Tại hà tri châu</span></em></strong></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Yểu điệu thục nữ</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Quân tử hảo cầu.</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em><span style="font-size: 15px"></span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Bài ca là hình ảnh một bãi nổi trên sông với những loài chim nước cặp đôi cùng người trai người gái tình tự phản ánh cuộc sống hồn nhiên của dân cư nông nghiệp miền sông nước. Hảo cầu là từ đa nghĩa. Tản Ðà dịch là tốt đôi vợ chồng nhưng theo Kim Ðịnh, một bản Latinh lại dịch là giao cấu (copulary). Dịch như vậy mới phản ánh đúng cái thần câu ca: quan hệ tính giao tự nhiên như vậy chỉ có ở văn hóa phồn thực của Viêm Việt nông nghiệp. Dịch như Tản Ðà là dịch theo quan điểm thanh giáo mà Hán nho rồi Tống nho áp đặt để xuyên tạc kinh Thi. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Một bài khác cũng mang cái phong vị trữ tình như vậy, bài Hán Quảng :</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Trên bờ sông Hán ai ơi,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><strong><em> <span style="font-size: 15px"> Có cô con gái khó ai mơ màng</span></em></strong></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Mênh mông sông Hán sông Giang</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> Lặn sang chẳng được, bè sang khó lòng</em>. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Sông Hán là chi lưu của sông Dương Tử, miền đất châu Kinh, châu Dương, châu Hoài... địa bàn cư trú lâu đời của người Bách Việt, một bằng chứng cho thấy người Việt là chủ nhân những câu ca trên. Một bài khác <em>Thảo trùng:</em> người con gái lên núi hái rau, nhìn thấy châu chấu theo nhau bay nhảy liền mong tưởng đến chồng trở về: <em></em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em>Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm đắc di.</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Tản Ðà dịch: <em>bao giờ cho thấy mặt chàng,</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> </em></span></span></span><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng.</span></em></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Dịch vậy là quá khéo, bởi chữ <em>cấu </em>có nghĩa là giao hoan. Nở nang tấm lòng vừa có nghĩa vui mừng lại có nghĩa thai nghén sinh nở! </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Bài <em>Dã hữu tử huân (con nai chết trên đồng) </em>có câu: </span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"> <em>Có cô con gái xuân tình,</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> </em></span></span></span><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> Cậu giai tốt đẹp dỗ dành muốn ve</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em></em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">cũng là bằng chứng của lối sống phồn thực Viêm Việt. Cuộc sống phồn thực luyến ái tự nhiên là đặc điểm của văn hóa Việt tộc. Ta thấy điều này trong sinh hoạt hội mùa xuân: đến hội xuân, tất cả trai gái làng này đến hát đối với trai gái làng bên cạnh (là hai bộ lạc). Trai chưa vợ gái chưa chồng xem mặt nhau rồi chọn lựa trong lúc hát hò. Tan đám hát, họ chia nhau từng đôi, tặng nhau kỷ vật rồi dẫn nhau vào những lùm cây bãi cỏ giao hoan, gọi là dã hợp. Không ai chê bai ngăn cản việc này. Những đứa trẻ sinh ra trong cuộc hôn phối tự nhiên ấy là điềm may. Chỉ khi các thánh hiền phương Bắc xuất hiện mới coi là <em>xướng ca vô loại</em>,chêlà<em> dâm bôn, </em>ra sức cấm đoán rồi vỗ ngực ca ngợi công việc ấy của mình là <em>cải hóa phong tục của man di!</em> Nếu trong cuộc đời thực, Hán nho, Tống nho tiếp tay cho vương triều phong kiến xóa bỏ văn hóa Việt tộc thì trên phương diện chữ nghĩa, họ cũng một mặt ăn cắp tác quyền những dân ca và ca dao Việt trao cho vua chúa, mặt khác chú giải Thi theo hướng có lợi cho vương triều, cổ xúy chủ nghĩa thanh giáo. Kim Ðịnh phát hiện ra mưu đồ này nhưng có lẽ ông đã quá lời khi nói: "Có thể xẩy ra những cuộc tráo trộn do chính Viêm tộc làm ra: nó ở tại đem vào những bài ca của dân gian một ít lời để lái một bài thơ phương Nam ra vẻ của phương Bắc, hoặc để nguyên cả một bài hay một chuỗi bài như Châu Nam, Thiệu Nam mà đặt vào vùng núi Kỳ ở Thiểm Tây để cho người phương Bắc dễ chấp nhận." (VLTN 135). Có lẽ không phải vậy. Người dân quê hồn hậu không nghĩ rằng những câu ca nơi đồng nội của mình sẽ thành kinh điển nên phải tự sửa mình đi cho vừa khẩu vị kẻ xâm chiếm thống trị. Họ chỉ tự nhiên nhi nhiên hát lên lời hát của lòng mình mà vì nó hay nên vương triều không thể bỏ phải lượm lặt đem về. Nhưng rồi việc biên tập, nhuận sắc, chú giải diễn ra, nội dung nhiều bài thay đổi đồng thời tác quyền bị chuyển cho người khác. Việc làm này của Hán nho là có ý thức. Tuy nhiên, cái việc vụng trộm ấy cũng không hoàn toàn vô tang mà đã để lại dấu vết. Không những không thể xóa hết tinh thần Viêm Việt bàng bạc trong khắp tập kinh mà ở nhiều bài còn lộ rõ dấu vết trong cách đặt câu, trong cú pháp. Ta biết, so với tiếng Việt, cú pháp chữ Hán nói ngược: Việt nói trong lòng là <em>trung tâm </em>thì Hán nói <em>tâm trung.</em> Nhưng trong kinh Thi, có hiện tượng rất lạ là <em>nhiều câu vẫn giữ cấu trúc ngữ pháp Việt:</em></span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"> <em>Túc túc thỏ ta, thi vu <strong>trung lâm</strong></em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em><strong> </strong></em></span></span></span><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> (Thỏ ta: Lưới thỏ mà căng giữa rừng.)</em> </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Ðúng ra <em>giữa rừng</em> viết theo cú pháp chữ Hán phải là <em>lâm trung</em> mà ở đây lại là <em>trung lâm</em>. Hay</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"> <em>Hước lãng tiếu ngạo, <strong>trung tâm</strong> thị niệu </em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> (Chung phong: Cũng là bỡn cợt mà thôi,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em> chỉ thêm đau ruột cho người xót thương).</em> </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"> Có thể kể ra nhiều nữa:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"> <em>- Hồ vi hồ <strong>trung lộ</strong> (Thức vi: trong sương)</em></span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em>-<strong> Trung tâm</strong> rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy )</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em>-<strong> Trung tâm</strong> hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn)</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px">- Di vu <strong>trung cốc</strong> (Cát đàm: trong hang)</span></em></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em>-<strong> Trung tâm</strong> dao dao (thử ly: trong lòng nao nao)</em></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px">- Tại bỉ <strong>trung hà</strong> (Bách châu: giữa dòng sông)</span></em></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"><em>-<strong> Trung cấu</strong> chi ngôn (Tường hữu từ: lời nói trong buồng kín )</em></span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói lên điều gì? Phải chăng là sự vô tình? Phải chăng là những người biên tập, san định, chú giải vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy? Mấy nghìn năm nay chưa ai giải thích điều này. Trong bài <em>Dẫn nhập</em> in ở đầu cuốn <em>kinh Thi</em>, ông Trần Văn Chánh nhận xét: <em>"Trong kinh Thi, chữ "trung" (ở trong, ở giữa) thường đặt sau danh từ, thay vì ngược lại, so với văn ngôn các đời Hán, Ðường... về sau."(4)</em> Ông cho rằng đó là một trong những nguyên tắc, những mô hình cấu trúc cần nhận biết khi đọc Thi. Ðiều này đã hẳn nhưng nó cũng gợi lên thắc mắc: vì sao lại có hiện tượng khác thường đó? Và vì sao qua hàng nghìn năm phấn đấu <em>xa đồng quỹ, thư đồng văn, </em>qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những đại nho của muôn đời không sửa chữa, không lượm đi những "hạt sạn"? Ðúng là chữ nghĩa thời kinh Thi chưa ổn định và có khác thời Hán thời Ðường. Nhưng thử hỏi, nguyên nhân của sự không ổn định ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. <strong><em>Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm trên đường chuyển hóa từ cách nói của người Việt sang cách nói của người Hán</em></strong>. Cách nói của người Hán cuối cùng đã thắng nhưng trong ca dao, dân ca vẫn tồn tại cách nói Việt phản ánh tư duy Việt. Khi ca dao dân ca của người Việt được đưa vào kinh điển, người san định tuy đã nhuận sắc sửa đổi nhưng không thể sửa chữa tất cả vì buộc phải tôn trọng vần điệu của thơ. Trong 2700 bài thơ bị loại bỏ, ai biết có bao nhiêu bài của Việt tộc? Những bài còn lại là những bài không thể bỏ. Những cấu trúc ngữ pháp không bình thường trong các bài đó cũng là không thể sửa đổi! <em>Cái không thể sửa đổi </em>đã trở thành những "hòn sạn" trong ngôn ngữ của Thi. Nhưng chính những "hòn sạn" tưởng như ngẫu nhiên này lại là những<strong><em> hóa thạch ngôn ngữ</em></strong> chứng minh về sự đóng góp của tiếng Việt vào kinh Thi, vào ngôn ngữ Trung Hoa! Không chỉ trong Thi, cách nói Việt này cũng để lại dấu ấn trong một số tên gọi: Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, Ðế Chí rồi Ðế Minh, Ðế Lai... Cách nói đó không thể phủ nhận được là cách nói Việt. Có lẽ cũng do những nguyên nhân lịch sử bất khả kháng mà người ta không thể sửa thành Nông Thần, Nghiêu đế... theo cách nói của người Hán! </span></span></span><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Nói như ông Kim Ðịnh <em>Kinh thi là quyển kinh điển của Việt tộc</em> e rằng quá lời. Bởi lẽ không hiểu những bài bị loại bỏ ra sao, còn căn cứ vào những bài hiện có, ta thấy trong đó nhiều bài mang đặc tính chung của con người, cái chất <em>uy-manh </em>chả của riêng ai, thật khó tách bạch. Trong đó bên cạnh những bài đậm sắc thái Việt lại có những bài mang tố chất Hán tộc như bài <em>Thạc nhân:</em></span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Người đâu dong dỏng như ai,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Trong mặc áo gấm phủ ngoài áo lương.</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Ấy người con gái họ Khương,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Em ông thái tử cưới sang vua Vệ hầu.</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Còn như bề giượng là đâu?</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em><span style="font-size: 15px"> </span></em><em> <span style="font-size: 15px"> Có Ðàm công với Hình hầu hai vua.</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em><span style="font-size: 15px"></span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Từ phục sức đến nhân thân cho thấy đó là người đàn bà quý tộc. Nhân vật này không phải đối tượng của văn chương dân gian. Nhiều khả năng đây là sản phẩm của nhà thơ cung đình nào đó mượn phong cách dân gian làm thơ phục vụ vương quyền. Không phải trong tầng lớp vương giả không có người Việt nhưng người đàn bà này đích thực là người Hán:</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Tay ai như cái cỏ gianh non,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Da như mỡ đọng, cổ như con nhậy dài, </span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Hạt bầu thời như thể răng ai,</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em> <span style="font-size: 15px"> Ðầu trăn mà lại mày ngài thêm xinh...</span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em><span style="font-size: 15px"></span></em></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Tay, da, đầu có thể là cái đẹp chung của người Hán người Việt nhưng rõ ràng, cái răng: <em>hạt bầu như thể</em>... cũng như<em> đầu trăn </em>(Tản Đà giảng con trăn như con ve mà bé) là vẻ đẹp theo chuẩn mực thẩm mỹ Hán tộc. Thời ấy, vẻ đẹp của người Việt là nhuộm răng đen, xăm mình. Trong Sở từ, đau vì thân phận dòng Việt của mình, Khuất Nguyên than: răng đen mình trổ dọc ngang! </span></span></span><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Nhưng điều thú vị là, ngay ở đây cũng hiển lộ yếu tố văn hoá Việt: <em>mày ngài! </em>Trồng dâu nuôi tằm là bản nghệ của dân nông nghiệp phương Nam. Do chăm chút con tằm từ <em>ăn một ăn hai đến ra né, chọn giống, cho ngài đẻ</em>… mà người nuôi tằm nhận ra vẻ đẹp kỳ diệu của cặp râu con ngài. Sự so sánh tuyệt vời nảy sinh: râu con ngài được ví với lông mày con gái. Thành ngữ <em>mày ngài </em>ra đời! Đấy là sản phẩm của văn hoá nông nghiệp Bách Việt. </span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Khi đưa nghề tằm tang từ Văn hoá Hoà Bình lên Trung Nguyên, người Việt cũng đưa luôn thành ngữ <em>mày ngài </em>lên quê hương mới. Thành ngữ này, cũng như những từ vựng khác, nhập tịch ngôn ngữ Trung Hoa rồi một cách vô thức phát lộ trong câu ca dao mang nhiều sắc thái Hoa tộc nhất. Điều này là ví dụ tuyệt vời chứng tỏ sự đóng góp của văn hoá Bách Việt vào văn hoá Trung Hoa.</span></span></span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Như vậy, có lẽ sẽ công bằng hơn khi nói rằng, <em><strong>kinh Thi là đứa con lai giữa hai nền văn hóa Hán và Việt mà trong đó phần hồn phần cốt là văn hóa của Bách Việt nông nghiệp.</strong></em> </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: Black"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"></span></span></p><p> <p style="text-align: right"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #333333"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="color: Black"><em>ST</em></span></span></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ButNghien, post: 109280, member: 18"] [CENTER][FONT=Arial][COLOR=Black][COLOR=#993300][B] [SIZE=4][COLOR=Navy]DẤU ẤN VĂN HÓA VIỆT TRONG KINH THI [/COLOR] [/SIZE][/B][/COLOR][/COLOR][/FONT][/CENTER] [CENTER][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][IMG]https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4b/Vietnamese_dragon.gif[/IMG][/COLOR][/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Kinh Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao đẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trước trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Theo Tư Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban đầu có tới 3000 bài, Khổng tử san định đã bỏ đi 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm văn học cổ điển có ảnh hưởng sâu rộng đến tâm hồn và trí tuệ phương Ðông, quan trọng đến mức Khổng tử nói “bất học thi vô dĩ ngôn!” (Không học Thi biết gì mà nói). Thời nhà Tần nó cũng bị đốt nhưng sau đó được khôi phục và xếp vào Ngũ kinh. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Hàng nghìn năm nay, kinh Thi mặc nhiên được coi như sản phẩm đặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy, ba chục năm trước, khi học giả Lương Kim Ðịnh cho rằng [I][B]Kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc [/B][/I][I](1)[/I] đã gây nên sự phản ứng của không ít người. Dễ hiểu thôi, thay đổi một thói quen từng hằn vào cân não hàng nghìn năm đâu phải là việc một sớm một chiều! [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Ðiều dễ nhận ra là kinh Thi đã bị Hán nho rồi Tống nho đánh tráo một cách trơ trẽn: Những sáng tác dân gian sinh ra nơi ruộng lúa nương dâu bị biến thành sản phẩm cung đình, một thứ văn chương xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi nào đó! Chính ở đây, tầng lớp Hán nho đã ăn cắp tác quyền của dân gian trao cho vương triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách đánh tráo, ăn cắp tác quyền khác tinh vi hơn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hơn trong tâm lý: đứng trước nền văn hóa khổng lồ của người láng giềng phương bắc, chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé đi, đến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngơ trước ông thầy vĩ đại! Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn đi, không dám nghĩ đến cái điều bị coi là hoang tưởng thậm chí phạm thượng: [I]kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc![/I] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Ðể phân định điều này, ta phải xét từ cội nguồn: Tìm về lịch sử hình thành kinh Thi. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Vào thập niên 70 của thế kỷ trước tồn tại 2 giả thuyết về cội nguồn dân tộc Việt. Một cho rằng, tổ tiên người Việt từ cao nguyên Thiên Sơn di cư vào đất Trung Hoa sau đó bị người Hán chèn ép nên tràn xuống Việt Nam tiêu diệt người bản địa, lập ra nước Văn Lang. Giả thuyết thứ hai cho rằng tổ tiên người Việt đã từ Mã Lai đi lên. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Ngày nay, với những thành tựu mới nhất của di truyền học, lần đầu tiên chúng ta có bản viết chính xác về tiền sử Đông Á: Người hiện đại Homo Sapiens đã từ châu Phi lên Trung Đông rồi từ đây theo bờ biển Nam Á đến Việt Nam khoảng 60-70000 năm trước. Dừng lại đây trong khoảng 10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng lai. Những chủng người này sinh sôi nảy nở lan khắp lục địa, hải đảo Đông Nam Á rồi sang châu Úc. Khoảng 40.000 năm trước, khi băng hà tan, người từ Đông Nam Á đi lên phía bắc, chiếm lĩnh lục địa Trung Hoa rồi sau đó vượt qua eo Bering tới châu Mỹ. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Cho đến thiên niên kỷ thứ IV TCN, người Đông Nam Á mà sau này sử sách gọi là Bách Việt sống khắp duyên hải Đông Á với nhân số chiếm khoảng 54% nhân loại. Trong đó người Lạc Việt có khoảng 15-20% và giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Người Bách Việt Đông Nam Á kiến tạo nền văn minh nông nghiệp tiến bộ nhất thế giới: Nghề trồng lúa phát triển với giống lúa được tuyển chọn tốt, biết cày bằng trâu bò, đắp bờ giữ nước. Nghề chăn nuôi gia súc trở thành nghề sản xuất chính, biết nuôi tằm dệt lụa. Nghề đúc đồng ra đời. Khoa thiên văn quan sát tượng trời tượng đất dự báo thời tiết ở trình độ cao. Kiến thức âm dương ngũ hành, dịch số được tích luỹ. Từ kết nút để ghi nhớ đã có chữ Khoa đẩu. Là cộng đồng nông nghiệp nên sinh hoạt văn hoá phát triển với ca dao, dân ca, đồng dao, nhạc múa, trai gái luyến ái tự nhiên theo tục dã hợp… [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Cũng trong khoảng thời gian trên, có phần chắc là muộn hơn, một số nhóm người Mongoloid từ Đông Nam Á đi lên miền đồng cỏ phía Tây Bắc Trung Hoa, sinh sống bằng du mục, tách biệt với khối dân cư còn lại. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Khoảng 2600 năm TCN, những bộ lạc du mục thiểu số này vượt Hoàng Hà chiếm đất của dân Bách Việt nông nghiệp, lập ra thời đại Hoàng Đế. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Tuy chiến thắng về quân sự nhưng do số người ít và văn hoá kém phát triển nên kẻ chiến thắng bị đồng hoá cả về di truyền cả về văn hoá. Người Mongoloid vốn có nước da sáng hơn người Australod lại sống ở phía bắc từ lâu nên nước da càng trắng hơn. Vì vậy kẻ thống trị gọi người bản địa là lê dân – dân đen - để phân biệt. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Vào đất Bách Việt, người Hán Mông Cổ choáng ngợp trước số dân đông đúc và kinh tế sung túc nên lập tức bỏ nghề du mục, chuyển sang làm quan, làm công nghiệp, nhà buôn - những công việc đặc quyền của kẻ thống trị. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Không lâu sau, chỉ một vài trăm năm, toàn bộ người Hán Mông Cổ xuống Trung Nguyên bị hoà huyết với dân đen bản địa thành chủng người mới, khoa học gọi là [I]Mongoloid phương Nam[/I] hay [I]nhóm loại hình Đông Nam Á[/I]. Trong quá trình hoà huyết thì văn hoá cũng hoà đồng: Trước hết là tiếng nói. Lớp con lai dùng trộn trạo từ vựng của bố của mẹ. Với thời gian, hai hệ tiếng nói bổ sung cho nhau, hoà vào nhau tạo nên tiếng nói chung phong phú của lớp dân mới. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng, một quốc gia bao giờ cũng theo cách nói của trung tâm, của thủ đô. Người Hán Mông tập trung ở đô thị nên trong khi học thêm từ vựng Việt thì họ cố giữ [I]cách nói-văn phạm [/I]truyền thống Hán. Dần dần toàn bộ dân cư chuyển sang dùng cách nói thống nhất như các đô thị, kết quả là trong giao tiếp cùng nói theo cách của người Hán. Đồng thời trong quá trình chung sống, các phong tục tập quán của hai tộc người ban đầu cũng hoà vào nhau. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Người Hán Mông Cổ bỏ vật tổ truyền thống của mình là con cọp trắng để chuyển sang thờ vật tổ của dân bách Việt là con cá sấu được thần hoá thành con rồng. Người Hán Mông Cổ cũng nhận những ông tổ xa xưa của người Việt là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông làm tổ của mình. Điều này không có gì sai trái mà hợp lý vì do hoà huyết nên về huyết thống, những thế hệ người Hán từ sau Hoàng Đế như Đế Cốc, Đế Chí đều là con cháu của Thần Nông. Họ có toàn quyền nhận tổ tiên cũng như văn hoá nông nghiệp làm của mình, bình đẳng với những người Bách Việt mới thuộc chủng Mongoloid phương Nam. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Từ lịch sử đó, chúng ta thử tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của kinh Thi. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Từ thời vua Vũ nhà Hạ (2205-1783 TCN), các nước chư hầu dâng cống vật cho thiên tử thì trong phương vật, có cả những câu ca của dân quê nơi thôn dã. Thiên tử xem những câu ca ấy để hiểu thuần phong mỹ tục trong thiên hạ, để đánh giá sự cai trị của vua chư hầu. Cái lễ cống tồn tại dài dài mãi sau này nhưng việc cống những câu ca nơi thôn cùng xóm vắng chỉ tồn tại đến thời nhà Chu (1134-247 TCN). [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Nhưng thử hỏi thiên hạ Trung Hoa thời Xuân Thu là ai? Lúc này đã 2000 năm qua đi từ trận Trác Lộc [I]Hoàng Đế chiến Si Vưu.[/I] Trong cương thổ nhà Chu rộng khoảng 115.000 km2 với 15 tiểu quốc, hai chủng tộc chính ban đầu là Hán Mông Cổ và Bách Việt đã hoà huyết thành chủng mới Mongoloid phương Nam. Cùng với máu huyết, giữa người Việt và người Hán cũng có sự hoà đồng về văn hoá. Trong cộng đồng Hán tộc mới này, lực lượng đông đảo nhất là lê dân, là dân đen tức những người gốc Tam Miêu. Chính do số đông áp đảo, chính xuất phát từ nền văn hoá cao hơn nên những người gốc Bách Việt giữ vai trò chủ đạo trong nền văn hoá. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Đặc điểm nổi bật của dân Miêu Việt là sống hồn nhiên vui vẻ, ưa ca múa, khá thoải mái trong chuyện luyến ái gái trai. Kinh Thư ghi nhận, khi vì bất bình mà người Miêu Việt nổi dậy, dẹp không được, vua Thuấn phải sai ông Quỳ dùng ca múa phủ dụ mới yên. Từ kinh nghiệm trên, các ông vua hiền thời cổ ở Trung Quốc đã phần nào dựa vào những lời ca cất lên nơi thôn cùng xóm vắng mà biết nguyện vọng của dân để kịp thời điều chỉnh chính sách của mình. Chính những lời ca dân dã ấy được thu thập lưu giữ trong tàng thư của nhà vua. Và từ những thư tịch trong cung vua nhà Chu, Khổng tử (551- 479 TCN) đã đem ra san định thành kinh Thi.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Những nguyên nhân trên đã tạo nên tinh thần nông nghiệp Việt tộc bàng bạc trong kinh Thi ngay từ bài đầu tiên và quan trọng nhất: Quan thư.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Quan quan thư cưu[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][B][I] [SIZE=4] Tại hà tri châu[/SIZE][/I][/B][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Yểu điệu thục nữ[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Quân tử hảo cầu. [/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Bài ca là hình ảnh một bãi nổi trên sông với những loài chim nước cặp đôi cùng người trai người gái tình tự phản ánh cuộc sống hồn nhiên của dân cư nông nghiệp miền sông nước. Hảo cầu là từ đa nghĩa. Tản Ðà dịch là tốt đôi vợ chồng nhưng theo Kim Ðịnh, một bản Latinh lại dịch là giao cấu (copulary). Dịch như vậy mới phản ánh đúng cái thần câu ca: quan hệ tính giao tự nhiên như vậy chỉ có ở văn hóa phồn thực của Viêm Việt nông nghiệp. Dịch như Tản Ðà là dịch theo quan điểm thanh giáo mà Hán nho rồi Tống nho áp đặt để xuyên tạc kinh Thi. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Một bài khác cũng mang cái phong vị trữ tình như vậy, bài Hán Quảng :[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Trên bờ sông Hán ai ơi,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][B][I] [SIZE=4] Có cô con gái khó ai mơ màng[/SIZE][/I][/B][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Mênh mông sông Hán sông Giang[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I] Lặn sang chẳng được, bè sang khó lòng[/I]. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Sông Hán là chi lưu của sông Dương Tử, miền đất châu Kinh, châu Dương, châu Hoài... địa bàn cư trú lâu đời của người Bách Việt, một bằng chứng cho thấy người Việt là chủ nhân những câu ca trên. Một bài khác [I]Thảo trùng:[/I] người con gái lên núi hái rau, nhìn thấy châu chấu theo nhau bay nhảy liền mong tưởng đến chồng trở về: [I] Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm đắc di.[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Tản Ðà dịch: [I]bao giờ cho thấy mặt chàng, [/I][/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng.[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Dịch vậy là quá khéo, bởi chữ [I]cấu [/I]có nghĩa là giao hoan. Nở nang tấm lòng vừa có nghĩa vui mừng lại có nghĩa thai nghén sinh nở! [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Bài [I]Dã hữu tử huân (con nai chết trên đồng) [/I]có câu: [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [I]Có cô con gái xuân tình, [/I][/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I] Cậu giai tốt đẹp dỗ dành muốn ve [/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]cũng là bằng chứng của lối sống phồn thực Viêm Việt. Cuộc sống phồn thực luyến ái tự nhiên là đặc điểm của văn hóa Việt tộc. Ta thấy điều này trong sinh hoạt hội mùa xuân: đến hội xuân, tất cả trai gái làng này đến hát đối với trai gái làng bên cạnh (là hai bộ lạc). Trai chưa vợ gái chưa chồng xem mặt nhau rồi chọn lựa trong lúc hát hò. Tan đám hát, họ chia nhau từng đôi, tặng nhau kỷ vật rồi dẫn nhau vào những lùm cây bãi cỏ giao hoan, gọi là dã hợp. Không ai chê bai ngăn cản việc này. Những đứa trẻ sinh ra trong cuộc hôn phối tự nhiên ấy là điềm may. Chỉ khi các thánh hiền phương Bắc xuất hiện mới coi là [I]xướng ca vô loại[/I],chêlà[I] dâm bôn, [/I]ra sức cấm đoán rồi vỗ ngực ca ngợi công việc ấy của mình là [I]cải hóa phong tục của man di![/I] Nếu trong cuộc đời thực, Hán nho, Tống nho tiếp tay cho vương triều phong kiến xóa bỏ văn hóa Việt tộc thì trên phương diện chữ nghĩa, họ cũng một mặt ăn cắp tác quyền những dân ca và ca dao Việt trao cho vua chúa, mặt khác chú giải Thi theo hướng có lợi cho vương triều, cổ xúy chủ nghĩa thanh giáo. Kim Ðịnh phát hiện ra mưu đồ này nhưng có lẽ ông đã quá lời khi nói: "Có thể xẩy ra những cuộc tráo trộn do chính Viêm tộc làm ra: nó ở tại đem vào những bài ca của dân gian một ít lời để lái một bài thơ phương Nam ra vẻ của phương Bắc, hoặc để nguyên cả một bài hay một chuỗi bài như Châu Nam, Thiệu Nam mà đặt vào vùng núi Kỳ ở Thiểm Tây để cho người phương Bắc dễ chấp nhận." (VLTN 135). Có lẽ không phải vậy. Người dân quê hồn hậu không nghĩ rằng những câu ca nơi đồng nội của mình sẽ thành kinh điển nên phải tự sửa mình đi cho vừa khẩu vị kẻ xâm chiếm thống trị. Họ chỉ tự nhiên nhi nhiên hát lên lời hát của lòng mình mà vì nó hay nên vương triều không thể bỏ phải lượm lặt đem về. Nhưng rồi việc biên tập, nhuận sắc, chú giải diễn ra, nội dung nhiều bài thay đổi đồng thời tác quyền bị chuyển cho người khác. Việc làm này của Hán nho là có ý thức. Tuy nhiên, cái việc vụng trộm ấy cũng không hoàn toàn vô tang mà đã để lại dấu vết. Không những không thể xóa hết tinh thần Viêm Việt bàng bạc trong khắp tập kinh mà ở nhiều bài còn lộ rõ dấu vết trong cách đặt câu, trong cú pháp. Ta biết, so với tiếng Việt, cú pháp chữ Hán nói ngược: Việt nói trong lòng là [I]trung tâm [/I]thì Hán nói [I]tâm trung.[/I] Nhưng trong kinh Thi, có hiện tượng rất lạ là [I]nhiều câu vẫn giữ cấu trúc ngữ pháp Việt:[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [I]Túc túc thỏ ta, thi vu [B]trung lâm [/B][/I][/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I] (Thỏ ta: Lưới thỏ mà căng giữa rừng.)[/I] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Ðúng ra [I]giữa rừng[/I] viết theo cú pháp chữ Hán phải là [I]lâm trung[/I] mà ở đây lại là [I]trung lâm[/I]. Hay[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [I]Hước lãng tiếu ngạo, [B]trung tâm[/B] thị niệu [/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] (Chung phong: Cũng là bỡn cợt mà thôi,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I] chỉ thêm đau ruột cho người xót thương).[/I] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] Có thể kể ra nhiều nữa:[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [I]- Hồ vi hồ [B]trung lộ[/B] (Thức vi: trong sương)[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I]-[B] Trung tâm[/B] rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy )[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I]-[B] Trung tâm[/B] hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn)[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4]- Di vu [B]trung cốc[/B] (Cát đàm: trong hang)[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I]-[B] Trung tâm[/B] dao dao (thử ly: trong lòng nao nao)[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4]- Tại bỉ [B]trung hà[/B] (Bách châu: giữa dòng sông)[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black][I]-[B] Trung cấu[/B] chi ngôn (Tường hữu từ: lời nói trong buồng kín )[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói lên điều gì? Phải chăng là sự vô tình? Phải chăng là những người biên tập, san định, chú giải vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy? Mấy nghìn năm nay chưa ai giải thích điều này. Trong bài [I]Dẫn nhập[/I] in ở đầu cuốn [I]kinh Thi[/I], ông Trần Văn Chánh nhận xét: [I]"Trong kinh Thi, chữ "trung" (ở trong, ở giữa) thường đặt sau danh từ, thay vì ngược lại, so với văn ngôn các đời Hán, Ðường... về sau."(4)[/I] Ông cho rằng đó là một trong những nguyên tắc, những mô hình cấu trúc cần nhận biết khi đọc Thi. Ðiều này đã hẳn nhưng nó cũng gợi lên thắc mắc: vì sao lại có hiện tượng khác thường đó? Và vì sao qua hàng nghìn năm phấn đấu [I]xa đồng quỹ, thư đồng văn, [/I]qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những đại nho của muôn đời không sửa chữa, không lượm đi những "hạt sạn"? Ðúng là chữ nghĩa thời kinh Thi chưa ổn định và có khác thời Hán thời Ðường. Nhưng thử hỏi, nguyên nhân của sự không ổn định ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. [B][I]Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm trên đường chuyển hóa từ cách nói của người Việt sang cách nói của người Hán[/I][/B]. Cách nói của người Hán cuối cùng đã thắng nhưng trong ca dao, dân ca vẫn tồn tại cách nói Việt phản ánh tư duy Việt. Khi ca dao dân ca của người Việt được đưa vào kinh điển, người san định tuy đã nhuận sắc sửa đổi nhưng không thể sửa chữa tất cả vì buộc phải tôn trọng vần điệu của thơ. Trong 2700 bài thơ bị loại bỏ, ai biết có bao nhiêu bài của Việt tộc? Những bài còn lại là những bài không thể bỏ. Những cấu trúc ngữ pháp không bình thường trong các bài đó cũng là không thể sửa đổi! [I]Cái không thể sửa đổi [/I]đã trở thành những "hòn sạn" trong ngôn ngữ của Thi. Nhưng chính những "hòn sạn" tưởng như ngẫu nhiên này lại là những[B][I] hóa thạch ngôn ngữ[/I][/B] chứng minh về sự đóng góp của tiếng Việt vào kinh Thi, vào ngôn ngữ Trung Hoa! Không chỉ trong Thi, cách nói Việt này cũng để lại dấu ấn trong một số tên gọi: Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, Ðế Chí rồi Ðế Minh, Ðế Lai... Cách nói đó không thể phủ nhận được là cách nói Việt. Có lẽ cũng do những nguyên nhân lịch sử bất khả kháng mà người ta không thể sửa thành Nông Thần, Nghiêu đế... theo cách nói của người Hán! [/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Nói như ông Kim Ðịnh [I]Kinh thi là quyển kinh điển của Việt tộc[/I] e rằng quá lời. Bởi lẽ không hiểu những bài bị loại bỏ ra sao, còn căn cứ vào những bài hiện có, ta thấy trong đó nhiều bài mang đặc tính chung của con người, cái chất [I]uy-manh [/I]chả của riêng ai, thật khó tách bạch. Trong đó bên cạnh những bài đậm sắc thái Việt lại có những bài mang tố chất Hán tộc như bài [I]Thạc nhân:[/I][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Người đâu dong dỏng như ai,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Trong mặc áo gấm phủ ngoài áo lương.[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Ấy người con gái họ Khương,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Em ông thái tử cưới sang vua Vệ hầu.[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Còn như bề giượng là đâu? [/SIZE][/I][I] [SIZE=4] Có Ðàm công với Hình hầu hai vua. [/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Từ phục sức đến nhân thân cho thấy đó là người đàn bà quý tộc. Nhân vật này không phải đối tượng của văn chương dân gian. Nhiều khả năng đây là sản phẩm của nhà thơ cung đình nào đó mượn phong cách dân gian làm thơ phục vụ vương quyền. Không phải trong tầng lớp vương giả không có người Việt nhưng người đàn bà này đích thực là người Hán:[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Tay ai như cái cỏ gianh non,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Da như mỡ đọng, cổ như con nhậy dài, [/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Hạt bầu thời như thể răng ai,[/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black][I] [SIZE=4] Ðầu trăn mà lại mày ngài thêm xinh... [/SIZE][/I][/COLOR][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Tay, da, đầu có thể là cái đẹp chung của người Hán người Việt nhưng rõ ràng, cái răng: [I]hạt bầu như thể[/I]... cũng như[I] đầu trăn [/I](Tản Đà giảng con trăn như con ve mà bé) là vẻ đẹp theo chuẩn mực thẩm mỹ Hán tộc. Thời ấy, vẻ đẹp của người Việt là nhuộm răng đen, xăm mình. Trong Sở từ, đau vì thân phận dòng Việt của mình, Khuất Nguyên than: răng đen mình trổ dọc ngang! [/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Nhưng điều thú vị là, ngay ở đây cũng hiển lộ yếu tố văn hoá Việt: [I]mày ngài! [/I]Trồng dâu nuôi tằm là bản nghệ của dân nông nghiệp phương Nam. Do chăm chút con tằm từ [I]ăn một ăn hai đến ra né, chọn giống, cho ngài đẻ[/I]… mà người nuôi tằm nhận ra vẻ đẹp kỳ diệu của cặp râu con ngài. Sự so sánh tuyệt vời nảy sinh: râu con ngài được ví với lông mày con gái. Thành ngữ [I]mày ngài [/I]ra đời! Đấy là sản phẩm của văn hoá nông nghiệp Bách Việt. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Khi đưa nghề tằm tang từ Văn hoá Hoà Bình lên Trung Nguyên, người Việt cũng đưa luôn thành ngữ [I]mày ngài [/I]lên quê hương mới. Thành ngữ này, cũng như những từ vựng khác, nhập tịch ngôn ngữ Trung Hoa rồi một cách vô thức phát lộ trong câu ca dao mang nhiều sắc thái Hoa tộc nhất. Điều này là ví dụ tuyệt vời chứng tỏ sự đóng góp của văn hoá Bách Việt vào văn hoá Trung Hoa.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial] [SIZE=4][COLOR=Black]Như vậy, có lẽ sẽ công bằng hơn khi nói rằng, [I][B]kinh Thi là đứa con lai giữa hai nền văn hóa Hán và Việt mà trong đó phần hồn phần cốt là văn hóa của Bách Việt nông nghiệp.[/B][/I] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][COLOR=Black] [/COLOR][/FONT] [RIGHT] [SIZE=4][COLOR=#333333][FONT=Arial][COLOR=Black][I]ST[/I][/COLOR][/FONT][/COLOR][/SIZE][/RIGHT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Dấu ấn văn hoá Việt trong kinh thi
Top