Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Đại Cương Về Tiến Trình Văn Hoá Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 6166" data-attributes="member: 699"><p><strong>III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP </strong></p><p></p><p> Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn hoá ở thiên niên kỷ đầu công nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau.</p><p> </p><p> <strong><em>Nền văn hoá Óc Eo </em></strong>ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ VIII, dường như chỉ còn ánh hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư liệu và thư tịch nữa.</p><p> </p><p> Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một nhà vương quốc. Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. <em><strong>Nền văn hoá Chăm Pa </strong></em>trở thành nền văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc người Việt Nam.</p><p></p><p> Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền <strong>văn hoá Đại Việt. </strong> </p><p></p><p> Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm 938 đến năm 1858. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc gia. </p><p></p><p> <strong>-</strong> Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự chủ: nhà Ngô (939 - 967), nhà Đinh (967 - 981), nhà Tiền Lê (981 - 1010), nhà Lý (1010 - 1225), nhà trần (1226 - 1400), nhà Hậu Lê (1427 - 1527), nhà Mạc (1527 - 1592), Trịnh - Nguyễn (1592 -1788), Tây Sơn (1778 - 1802), tên nước Đại Việt được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt Nam. </p><p></p><p> <strong>- </strong>Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc: chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc Thanh xâm lược. </p><p></p><p> <strong>- </strong>Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một quá trình phát triển về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. </p><p></p><p> <strong>- </strong>Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập: </p><p></p><p> + Lần thứ nhất vào thời Lý Trần. </p><p></p><p> + Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV. </p><p></p><p> + Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII. </p><p></p><p><strong>1. Đặc điểm văn hoá thời Lý - Trần </strong> </p><p></p><p> <strong>a.</strong> <strong>Hệ tư tưởng chủ đạo </strong>trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho, Phật, Đạo, trong đó nổi trội là Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam giáo đồng nguyên'. </p><p></p><p> <strong><em>- Phật giáo </em></strong>tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật giáo thời này cũng đã tác động đến tư tưởng, tâm lý , phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó ảnh hưởng to lớn đến văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt trong điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác hẳn các giai đoạn về sau.</p><p></p><p> <strong><em>- Nho giáo </em></strong>trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập trật tự trong xã hội. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được coi trọng. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Dần dần Nho giáo đã có địa vị trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho giáo, đã chính quy hoá chế độ thi cử. Năm 1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi, dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên trong triều, lấn át tư tưởng Phật giáo.</p><p></p><p> <em><strong>b. Nền văn hoá bác học </strong></em>bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội ngũ trí thức Phật giáo và Nho giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư, đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ văn tất nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang tính nhân văn và giá trị văn hoá sâu sắc, như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)... </p><p></p><p> Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự - chữ Nôm. Chữ Nôm được đưa vào sáng tác văn học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ Nôm thời kỳ này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh hoa yên tự phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ Nôm vừa chữ Hán). </p><p></p><p>Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như chèo, tuồng. </p><p></p><p><strong>2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê</strong> </p><p></p><p> <strong>a . Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần. </strong> </p><p></p><p> Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt. </p><p></p><p> Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc. trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào thời kỳ phục hưng lần thứ hai. </p><p></p><p> <strong> b. Thành tựu văn hoá:</strong> </p><p></p><p> - Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức / Lê triều hình luật. Bộ luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền thời phong kiến. </p><p></p><p> - Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy Nho giáo làm chuẩn mực, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn hiền tài, bổ nhiệm vào bộ máy nhà nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu, gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa hầu hết qua thi cử. Chính vì vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà Hậu Lê.</p><p> </p><p> - Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và phát triển. Với Quốc Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam. </p><p></p><p> - Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập thành toán pháp (Lương Thế Vinh), Đại thành toán pháp (Vũ Hữu).</p><p> </p><p> - Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật, được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh) - tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền. Về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng. Sự tác động của hệ thống tư tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình tượng con rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của cư dân nông nghiệp thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê, nơi thờ thần làng cũng mang chức năng mới - Công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước. </p><p></p><p><strong>3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858 </strong> </p><p></p><p> <strong>a. Nét đặc trưng của lịch sử </strong>thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt, sự xung đột Lê Mạc, Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng khổ sở dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. </p><p></p><p>Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long, đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng. </p><p></p><p> <strong>b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư tưởng Nho giáo.</strong> Tuy nhiên, giai cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống xã hội, nhất là ở thời nhà Nguyễn (từ vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc dù vậy, Nho giáo vẫn không có được vị thế như thế kỷ XV. </p><p></p><p>Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một bộ phận trong đời sống tư tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo. </p><p></p><p> <strong>c. Ki tô giáo vào Việt Nam </strong>đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 - 1651, Alếc xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới. </p><p></p><p> <strong>d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật</strong>, trong đó có văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI - XVII phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được xác định chắc chắn tại các làng quê. </p><p></p><p> <strong>e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về </strong>phía nam, dẫn đến sự hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài. </p><p></p><p> Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đến, ở đây đã có một nền văn hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình cộng cư, người Chăm và người Việt đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình.Do đó, văn hoá của người Việt ở Đàng Trong, về cơ bản vẫn đảm bảo tính thống nhất.</p><p></p><p><strong>IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢ</strong>C </p><p></p><p> <strong>1. </strong>Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10 năm, từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực thực dân Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. </p><p></p><p> <strong>2. </strong>Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng thực dân Pháp, công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục đứng lên chống Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa. </p><p></p><p> <strong>3. </strong>Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây phương (Pháp), và đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ phu - những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau: </p><p></p><p> - Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây. </p><p></p><p> - Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. </p><p></p><p> - Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc. </p><p></p><p> <strong>4. </strong>Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực: </p><p></p><p> <em><strong> - Văn hoá vật chất</strong></em>: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát triển của kiến trúc đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đô thị có nguồn gốc phương Tây...</p><p> </p><p> <em><strong>- Văn hoá tinh thần</strong></em>: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Về sau các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo chế độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc sảo xã hội của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)...</p><p></p><p><strong>V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NA</strong><strong>Y </strong> </p><p></p><p> <strong>1</strong>. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vòng một nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. </p><p></p><p> <strong>2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này:</strong> </p><p></p><p> - Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng...</p><p> </p><p>- Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin. </p><p></p><p>-Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá nhân loại.</p><p></p><p><em><p style="text-align: right">( Sưu tầm )</p><p></em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 6166, member: 699"] [B]III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP [/B] Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn hoá ở thiên niên kỷ đầu công nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau. [B][I]Nền văn hoá Óc Eo [/I][/B]ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ VIII, dường như chỉ còn ánh hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư liệu và thư tịch nữa. Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một nhà vương quốc. Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. [I][B]Nền văn hoá Chăm Pa [/B][/I]trở thành nền văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc người Việt Nam. Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền [B]văn hoá Đại Việt. [/B] Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm 938 đến năm 1858. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc gia. [B]-[/B] Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự chủ: nhà Ngô (939 - 967), nhà Đinh (967 - 981), nhà Tiền Lê (981 - 1010), nhà Lý (1010 - 1225), nhà trần (1226 - 1400), nhà Hậu Lê (1427 - 1527), nhà Mạc (1527 - 1592), Trịnh - Nguyễn (1592 -1788), Tây Sơn (1778 - 1802), tên nước Đại Việt được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt Nam. [B]- [/B]Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc: chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc Thanh xâm lược. [B]- [/B]Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một quá trình phát triển về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. [B]- [/B]Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập: + Lần thứ nhất vào thời Lý Trần. + Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV. + Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII. [B]1. Đặc điểm văn hoá thời Lý - Trần [/B] [B]a.[/B] [B]Hệ tư tưởng chủ đạo [/B]trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho, Phật, Đạo, trong đó nổi trội là Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam giáo đồng nguyên'. [B][I]- Phật giáo [/I][/B]tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật giáo thời này cũng đã tác động đến tư tưởng, tâm lý , phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó ảnh hưởng to lớn đến văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt trong điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác hẳn các giai đoạn về sau. [B][I]- Nho giáo [/I][/B]trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập trật tự trong xã hội. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được coi trọng. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Dần dần Nho giáo đã có địa vị trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho giáo, đã chính quy hoá chế độ thi cử. Năm 1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi, dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên trong triều, lấn át tư tưởng Phật giáo. [I][B]b. Nền văn hoá bác học [/B][/I]bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội ngũ trí thức Phật giáo và Nho giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư, đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ văn tất nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang tính nhân văn và giá trị văn hoá sâu sắc, như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)... Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự - chữ Nôm. Chữ Nôm được đưa vào sáng tác văn học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ Nôm thời kỳ này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh hoa yên tự phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ Nôm vừa chữ Hán). Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như chèo, tuồng. [B]2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê[/B] [B]a . Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần. [/B] Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt. Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc. trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào thời kỳ phục hưng lần thứ hai. [B] b. Thành tựu văn hoá:[/B] - Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức / Lê triều hình luật. Bộ luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền thời phong kiến. - Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy Nho giáo làm chuẩn mực, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn hiền tài, bổ nhiệm vào bộ máy nhà nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu, gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa hầu hết qua thi cử. Chính vì vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà Hậu Lê. - Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và phát triển. Với Quốc Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam. - Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập thành toán pháp (Lương Thế Vinh), Đại thành toán pháp (Vũ Hữu). - Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật, được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh) - tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền. Về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng. Sự tác động của hệ thống tư tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình tượng con rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của cư dân nông nghiệp thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê, nơi thờ thần làng cũng mang chức năng mới - Công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước. [B]3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858 [/B] [B]a. Nét đặc trưng của lịch sử [/B]thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt, sự xung đột Lê Mạc, Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng khổ sở dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long, đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng. [B]b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư tưởng Nho giáo.[/B] Tuy nhiên, giai cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống xã hội, nhất là ở thời nhà Nguyễn (từ vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc dù vậy, Nho giáo vẫn không có được vị thế như thế kỷ XV. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một bộ phận trong đời sống tư tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo. [B]c. Ki tô giáo vào Việt Nam [/B]đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 - 1651, Alếc xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới. [B]d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật[/B], trong đó có văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI - XVII phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được xác định chắc chắn tại các làng quê. [B]e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về [/B]phía nam, dẫn đến sự hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài. Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đến, ở đây đã có một nền văn hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình cộng cư, người Chăm và người Việt đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình.Do đó, văn hoá của người Việt ở Đàng Trong, về cơ bản vẫn đảm bảo tính thống nhất. [B]IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢ[/B]C [B]1. [/B]Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10 năm, từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực thực dân Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. [B]2. [/B]Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng thực dân Pháp, công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục đứng lên chống Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa. [B]3. [/B]Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây phương (Pháp), và đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ phu - những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau: - Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây. - Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. - Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc. [B]4. [/B]Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực: [I][B] - Văn hoá vật chất[/B][/I]: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát triển của kiến trúc đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đô thị có nguồn gốc phương Tây... [I][B]- Văn hoá tinh thần[/B][/I]: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Về sau các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo chế độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc sảo xã hội của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)... [B]V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NA[/B][B]Y [/B] [B]1[/B]. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vòng một nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. [B]2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này:[/B] - Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng... - Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin. -Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá nhân loại. [I][RIGHT]( Sưu tầm )[/RIGHT][/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Đại Cương Về Tiến Trình Văn Hoá Việt Nam
Top