Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Đặc trưng văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="thu hoang" data-source="post: 97186" data-attributes="member: 82944"><p><strong><em> Khái niệm văn hóa</em></strong> Theo <em>Từ điển tiếng Việt</em> (chủ biên), văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con ngời sáng tạo trong quá trình lịch sử. <em>Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn hóa phơng đông. Nền văn hóa cổ</em>. 2. Những hoạt động của con ngời nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát). <em>Phát triển văn hóa. Công tác văn hóa</em>. 3. Tri thức, kiến thức, khoa học (nói khái quát). <em>Học văn hóa. Trình độ văn hóa</em> (10, tr.1062). Chúng tôi sử dụng khái niệm văn hóa với nghĩa thứ nhất. Theo cách hiểu nghĩa thuộc nhóm thứ nhất này thì giá trị tinh thần có nhiều biểu hiện, trong đó có ngôn ngữ. Còn tác giả F. Mayor (nguyên Tổng bí th UNESCO) thì phát biểu: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc". Theo định nghĩa thứ hai này thì ngôn ngữ, chính là sản phẩm của quá trình hoạt động sáng tạo của con ngời và chúng tạo nên các giá trị mà không ai chối cãi. Qua ngôn ngữ, chúng ta nhận ra những nét văn hóa riêng của một dân tộc, trong số đó có ngời</p><p></p><p><strong><em>Về sự tồn tại của lớp từ ngữ chỉ cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh văn hóa lúa nước </em></strong></p><p> Khảo sát cuốn <strong><em>Tục ngữ Việt Nam chọn lọc</em></strong> của Vương Trung Hiếu, NXB Văn nghệ, 1996 (618 trang) với 96 chủ đề, chúng tôi nhận thấy dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ khá rõ. Trong tổng số 2400 phát ngôn tục ngữ thì có đến 446 phát ngôn có chứa các từ ngữ xuất hiện thành trường đề cập đến cây lúa và sản phẩm từ cây lúa. Số lượng lớn các từ này nói lên dấu ấn văn hóa lúa nước của người Việt để lại khá rõ trong kho tàng tục ngữ. Sau đây chúng tôi đi vào miêu tả từng nhóm cụ thể.</p><p></p><p> <strong>-Các từ gọi tên cây lúa và sản phẩm từ cây lúa</strong></p><p> Khảo sát các phát ngôn tục ngữ, chúng tôi nhận thấy lớp từ gọi tên hạt lúa - kết quả cuối cùng của công đoạn trồng cây lúa - xuất hiện khá nhiều. Người Việt canh tác lúa nước với mục đích lấy hạt lúa làm lương thực chính. Cây lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ, người ta thu hoạch về lấy hạt, được gọi là hạt lúa. Nhưng khi đã mang về nhà (có thể phơi khô để cất giữ) còn được gọi là thóc. Nếu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch thì không gọi là hạt thóc mà gọi là hạt lúa. Trong tư liệu của chúng tôi có bốn từ được dùng với tần số cao là <em>lúa, thóc</em> với 44 lần xuất hiện: <em>Thóc</em> hoa dâu, trầu lá mặt; Hạt <em>lúa</em> vàng, hạt <em>thóc</em> cũng vàng; Ăn không thì hóc, chẳng xay <em>thóc</em> thì phải ẵm em; Chứa tiền chứa <em>thóc</em> thì giàu; Khen nhà giàu lắm <em>thóc</em>; Có <em>thóc</em> mới bóc nên gạo; Có <em>thóc</em> mới cho vay gạo; Con học <em>thóc</em> vay... Trong sử dụng từ <em>lúa </em>có biến thể ngữ âm là <em>ló</em> (Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có <em>ló</em> cũng khôn). </p><p></p><p> Về tên gọi từng loại lúa dùng để ăn vào những dịp khác nhau chủ yếu có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nấu thành cơm dùng trong bữa ăn hàng ngày, còn lúa nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa nếp ngon hơn lúa tẻ: Đắt <em>lúa</em> tẻ, rẻ <em>lúa</em> nếp; Gần chùa chẳng được ăn <em>xôi</em>;<em> Cơm tẻ </em>no<em> xôi vò </em>chẳng thiết; Ăn mày đòi <em>xôi</em> gấc; Thí trẻ ăn <em>xôi </em>gấc; Có <em>xôi </em>nói <em>xôi</em> dẻo, có thịt nói thịt bùi; Muốn ăn xôi, ngồi gần bếp. Ca dao, một thể loại có nội dung gần gũi với tục ngữ cũng ghi lại niềm mơ ước của người dân lao động: Chẳng thà chết quách thì thôi, sống thời có lúc no <em>xôi</em> chán chè.</p><p></p><p> Ngoài những từ thuộc hai nhóm trên, ta còn gặp các từ khác là sản phẩm của lúa, được tách từ hạt lúa ra: <em>cám, mẳn, tấm, trấu...</em> Theo <em>Từ điển tiếng Việt</em> của Hoàng Phê thì <em>cám </em>(danh từ)có nghĩa: chất màu vàng nâu, do lớp vỏ mềm bao ngoài hạt gạo nát vụn ra khi giã, xát, dùng làm thức ăn cho lợn (10, tr.104); <em>mẳn</em> (danh từ) có nghĩa: mảnh hạt, thường là hạt rất nhỏ, vụn (nói khái quát). <em>Ăn tấm, ăn</em> <em> mẳn </em>(tr.597); <em>tấm</em> (danh từ) có nghĩa: mảnh vỡ nhỏ của hạt gạo do xay giã. <em>Nhỏ như hạt tấm. Cơm tấm</em> (tr. 866); <em>trấu</em> (danh từ) có nghĩa: lớp vỏ cứng đã tách ra của hạt thóc. <em>Bếp đun trấu, Muỗi như trấu</em> (tr.996). Trong tục ngữ, ta gặp các từ <em>cám</em> xuất hiện với tần số 21 lần, <em>trấu</em> 7 lần, <em>tấm</em> 11 lần trong các câu: Ra tay gạo xay ra <em>cám</em>; Trai đi giày đến đám, trai về nhà bốc <em>cám rang</em>; <em>Trấu</em> trong nhà, thả gà đi đâu; Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì trấu tươi; No cơm <em>tấm</em>, ấm ổ rơm; Xay lúa Đồng Nai, <em>tấm cám</em> về ngài, thóc gạo về tôi). Từ <em>cơm</em> xuất hiện 66 lần (Lớn bát <em>cơm</em>, to bó lúa; Nồi <em>cơm</em> không rế mất một hạt, bờ ruộng không phạt mất một bó), từ <em>gạo</em> xuất hiện 24 lần (Mẹ đần lại đẻ con đần, <em>gạo</em> chiêm đem giã mấy lần vẫn chiêm; <em>Gạo</em> chợ, nước sông, củi đồng, trầu miếng; Ra tay <em>gạo</em>, xay ra cám). Không chỉ trong tục ngữ mà ca dao cũng phản ánh những từ chỉ sản phẩm từ lúa này: Ra đường võng giá nghênh ngang, về nhà hỏi <em>vợ cám</em> rang đâu mày? <em>Cám rang</em> tôi để cối xay, hễ chó ăn hết thì mày với tao.</p><p></p><p> Ngoài ra, ta bắt gặp những tổ hợp từ ghép đẳng lập hai âm tiết: <em>thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, lúa má, cơm cháo, tấm cám</em>: Xay lúa Đồng Nai, <em>thóc gạo</em> về ngài, <em>tấm cám</em> về tôi; <em>Thóc lúa</em> về nhà, lợn gà ra chợ; <em>Thóc gạo</em> đầy bồ cũng nhờ anh phạt bờ cuốc gốc; <em>Thóc gạo</em> có tinh; <em>Lúa thóc</em> đi đâu bồ câu theo đấy.</p><p></p><p></p><p> - <strong>Các từ gọi tên thực phẩm chế biến từ hạt lúa</strong></p><p> a. Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp nhiều nhất là <em>cơm</em>. Cơm là lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày của người Việt. Người Việt thu hoạch lúa về, quạt sạch, phơi khô, đem xay, giã trắng và nấu thành cơm. Vì thế, tiêu chuẩn để đánh giá sự no đủ của người Việt là phải có cơm ăn no: No <em>cơm </em>ấm áo; No <em>cơm</em> ấm cật; <em>Cơm</em> no bò cưỡi; No chê <em>cơm nguội,</em> đói đánh cả rau thiu. Cơm có nhiều loại khác nhau với những tên gọi theo những nguồn gốc khác nhau. Ta có <em>cơm cày, cơm cấy</em> trong <em>Cơm cày cơm cấy</em> ai thấy thì ăn để chỉ cơm ăn vào dịp thời vụ làm mùa; <em>cơm hom</em> trong Ăn <em>cơm hom</em>, nằm giường hòm để chỉ loại cơm ngon đắt tiền; <em>cơm</em> <em>chăm</em> trong <em>Cơm mùa</em> treo chái chùa cũng chín để chỉ lúa mùa dễ chín; <em>cơm mùa</em> trong <em>Cơm chăm</em>, mắm chườm để chỉ hai thứ ăn với nhau (cơm chăm ăn với mắm chườm) trong bữa ăn của người việt được xem là ngon miệng, ăn được nhiều; <em>cơm muối</em> trong <em>Cơm muối</em> hơn chuối chết để chỉ cơm chấm muối còn tốt hơn rất nhiều nếu ăn các chuối mà bị chết rồi mới làm thịt cá để nấu lên; <em>cơm tẻ</em> trong <em>Cơm tẻ</em> no, xôi vò chẳng thiết; <em>Cơm tẻ</em> mẹ ruột để chỉ loại cơm nấu từ gạo (khác với loại xôi nấu từ nếp) luôn gắn bó thân thiết với bữa ăn hàng ngày của người Việt; <em>cơm hàng </em>trong <em>Cơm hàng</em> cháo chợ, ai lỡ thì ăn để chỉ cơm nấu với mục đích bán cho người qua đường. </p><p> Bên cạnh đó, còn có những câu tục ngữ phản ánh cách thức nấu cơm thành các kiểu cơm: <em>Cơm ráo</em>, cháo dừ; <em>Cơm sống </em>là cơm thảo, <em>cơm nhão</em> là cơm hà tiện; <em>Cơm sống</em> tại nồi, cơm sôi tại lửa; <em>Cơm sống</em> vì nồi, không sống vì vung. Tục ngữ cũng phản ánh cách thức ăn cơm khác với ăn cháo: <em>Cơm</em> và, <em>cháo</em> húp. Chính vì thế, nấu cơm cháo cũng đều phải học: Học chọc bát <em>cơm</em>, học đơm bát <em>cháo. </em>Khi ăn cơm cần biết chỗ cơm nào thì ngon: <em>Cơm</em> quanh rá, <em>mạ</em> quanh bờ là nói đến phong tục trước đây của người Việt khi ăn cơm thì xới cơm ra ở rá, sau đó mới xới vào bát cho từng người. Cơm xung quanh rá thường nguội, không ngon, giống như mạ quanh bờ thì rời rạc, không đều, không tốt.</p><p></p><p> Tục ngữ còn phản ánh cách gọi tên đơn vị đo lường lượng cơm ăn hàng ngày. Ta có các câu: Cơm ba <em>bát</em> áo ba manh; Cơm ba <em>bát</em>, thuốc ba thang là nhằm nói đến liều lượng ăn, mặc vừa độ thì sẽ luôn giữ được sức khỏe. Cơm còn được dùng để đánh giá tính cách con người: Cắn hột <em>cơm</em> không vỡ để chỉ người có tính keo kiệt so đo. Ca dao cũng sử dụng từ chỉ đơn vị đo lường lượng cơm trong bát, như: Cơm ăn mỗi bữa mỗi <em>lưng</em>, uống nước cầm chừng để dạ thương ai. </p><p></p><p> b. Ngoài từ <em>cơm</em>, ta còn bắt gặp từ <em>cháo</em>. Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nấu lâu hơn. Đặc biệt, vào những ngày đói kém, thiếu gạo, hay yếu mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo để ăn: <em>Cháo</em> nóng húp quanh, công nợ trả dần; ăn <em>cháo</em> đá bát; Cơm hàng <em>cháo</em> chợ ai lỡ thì ăn; Ăn một bát <em>cháo</em>, chạy ba quãng đồng; Nói như <em>cháo</em> chảy. </p><p></p><p> c. Cùng với <em>cháo</em>, còn phải kể đến các thứ quà bánh được chế biến từ gạo tẻ, gạo nếp: <em>bánh đúc, hàng xáo, bánh cuốn, hồ, bánh dày, bánh chưng, cốm</em>. Bánh đúc là một món ăn ngon, bổ dưỡng của người Việt trước đây, được mọi người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi (hoặc hàn the), quấy đều và đun lên, sau đó đổ theo khuôn, đặt ở sàng: <em>Bánh đúc </em>bày sàng. Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm tôm ngon đến mức: <em>Bánh đúc</em> bẻ ba, mắm tôm quệt ngược cả nhà tan hoang; Muốn ăn no <em>bánh đúc</em>; ăn bánh đúc đục mặt. Từ gạo tẻ hoặc nếp có thể xay thành bột, chế biến thành hồ: Có bột mới gột nên <em>hồ</em>; làm hàng xáo; Đấu hàng <em>xáo</em>, gáo hàng dầu (với nghĩa là vật dùng để đo lường đối với từng loại); Hàng xay hàng <em>xáo</em> láo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết. Nếp (cũng là một loại gạo nhưng quí hơn) để gói bánh chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy câu: <em>ăn chực đòi bánh chưng</em> hoặc <em>ăn mày đòi xôi gấc</em> để nói đến người đi ăn chực không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự hảo tâm của người cho. Nếp xay thành bột để làm bánh như bánh dày, bánh dẻo: Khôn khéo <em>bánh dầy</em>, vụng dại chày cối. Nếp còn được làm thành cốm, chẳng hạn câu: Giã gạo thì ốm giã <em>cốm</em> thì khỏe là nói đến những người thích ăn mà nhác làm. <em>Cốm</em> được làm từ lúa nếp còn xanh, chưa chín già, người ta thu hoạch về, lấy hạt rồi tách vỏ và rang lên gọi là cốm. Tục ngữ có câu: Gần nhà giàu đau răng ăn <em>cốm</em>, gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn là nói đế việc ở gần nhà giàu phải chịu khổ giống như người đau răng mà ăn cốm thì càng đau hơn do cốm giắt vào răng rất khó chịu. Gần kẻ trộm thì bị vạ lây giống như người ốm vốn đã yếu sẵn mà lại chịu thêm đòn thì càng đau nặng hơn .</p><p></p><p></p><p> - <strong>Các từ gọi tên các công cụ để chế biến hạt lúa</strong></p><p> Các từ gọi tên các công cụ thực hiện các hành động theo tên của chúng trong việc chế biến từ lúa, thóc thành gạo, như <em>chày, cối, cối xay, dần, sàng, nia</em>: Khôn khéo vá may, vụng về <em>chày cối</em>; Nhác đâm thì đổi <em>chày</em>, nhác xay thì đổi <em>cối</em>; Nói trặc họng <em>cối xay</em>; Hát khi <em>xay</em> lúa, múa khi tối trời; <em>Xay</em> lúa thì đừng ẵm em; <em>xay</em> thóc có <em>chàng</em>, việc làng có mõ; Gà què ăn quẩn <em>cối xay</em>, ăn đi ăn lại tối ngày cũng no; Nhác đâm thì đổi <em>chày</em>, nhác xay thì đổi <em>cối</em>; Hơn thóc, nhọc <em>xay</em>. Thậm chí, cối xay thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ con // (thì) học, cối // (thì) xay thóc. <em>Nia, dần, sàng, thúng</em> là vật dụng có công dụng khác nhau: nia để đựng thóc gạo ở dưới khi dần sàng; dần để dần tấm, sàng dùng để sàng gạo (lỗ to hơn cái dần); thúng để đựng gạo; mẹt để sảy gạo: Bánh đúc bày <em>sàng</em>; Đá <em>thúng</em> đụng <em>nia</em>. Ca dao cũng có những câu dùng các từ <em>nia, sàng</em> để chỉ dụng cụ sàng sảy gạo: Ra đường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi <em>cái nia, cái sàng</em>.</p><p></p><p></p><p> - <strong>Các từ gọi tên các thời kì phát triển của cây lúa</strong></p><p> a. Cây lúa có quá trình phát triển khoảng bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, nó được gọi bằng những tên khác nhau: <em>Giống, mạ (má), lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín</em>. Khi gặt xong cắt phần trên thì gọi là rạ hay gốc rạ, còn phần trên của cây lúa phơi khô thì gọi là <em>rơm</em>. Ta bắt gặp tên gọi này qua các câu tục ngữ: <strong>Giống</strong>: Không nhặt mà rặt <em>giống</em>; Nhất nước nhì phân, tam cần tư <em>giống, </em>Muốn ănlúaphải tìm<em> giống</em>; <strong>Mạ:</strong> <em>Mạ</em> chiêm đào sâu chôn chặt <em>mạ</em> mùa chôn chặt mà đi; Khoai ưa lạ, <em>mạ</em> ưa quen; Trồng khoai đất lạ, gieo <em>mạ</em> đất quen; <em>Mạ già</em> ruộng ngấu; <em>Mạ</em> mùa sướng cao, <em>mạ</em> chiêm ao thấp; <strong>Lúa vào thời kì</strong> <strong>phát triển</strong>: <em>Lúa chiêm lấp ló</em> đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên; <strong>Lúa trổ bông</strong>: <em>Lúa trổ mâm xôi</em>, dẫy nồi chồng vợ; <strong>Lúa chín</strong>: <em>Lúa chín</em> hoa ngâu đi đâu chẳng gặt; R<strong>ơm, rạ</strong>: là những phần thuộc thân dưới và phần trên của cây lúa. Sau khi thu hoạch, người ta cắt về và phơi khô để dùng trong những công việc khác nhau, như làm gối, nằm cho ấm, đun nấu thay củi: <em>Gối rơm theo phận gối rơm; No cơm tấm ấm ổ rơm; </em>Lúa giỗ ngã mạ, vàng <em>rạ </em>mạ xuống. Vì vậy, các từ <em>rơm, rạ</em> còn được dùng trong các câu tục ngữ với nghĩa bóng để chỉ các quan hệ xã hội:Lửa gầm <em>rơm </em>lâu ngày cũng bén; Ôm <em>rơm</em> dặm bụng; Gái có chồng như chông như mác, gái không chồng như rác như <em>rơm </em>.</p><p></p><p></p><p> -. <strong>Các từ gọi tên thời tiết, thời vụ gắn với việc trồng lúa</strong></p><p> a. Trong canh tác, có nhiều loại lúa khác nhau, nhưng chủ yếu có hai loại lúa được trồng vào hai khoảng thời gian khác nhau và thu hoạch cũng khác nhau, đó là lúa chiêm và lúa mùa. Trong tục ngữ, những câu ca dao nói về hai loại lúa trồng theo hai thời vụ chính này khá nhiều, có 32 câu: <em>Chiêm</em> đi đơn, <em>mùa</em> đi kép; <em>Chiêm</em> bơ bải, <em>mùa</em> phải thời; <em>Chiêm</em> ba giá, <em>mùa</em> ba mưa; <em>Chiêm</em> bóc vỏ, <em>mùa </em>xỏ tây; <em>Chiêm</em> cứng, <em>ré </em>mềm; <em>Chiêm</em> cấy gửi, <em>mùa </em>dúi sâu; Chiêm gon tìm đòn mà gánh, mùa gon cõng con lên rừng; Chiêm thối cỏ, mùa nỏ đất; Chiêm yên gốc, mùa trốc rể... Ca dao cũng có phản ánh tên gọi lúa chiêm và lúa mùa này: <em>Lúa chiêm</em> lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.</p><p></p><p> b. Thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc trồng lúa. Chính vì vậy, tục ngữ đã phản ánh kinh nghiệm nhận biết về thời tiết có liên quan đến thời kì phát triển, trồng lúa. Đó là kinh nghiệm trông sao và trăng: <em>Sao rua</em> đứng trốc, lúa lốc được ăn; <em>Tua rua</em> một tháng mười ngày, cấy trốc luống cày cũng được <em>lúa xôi</em>; <em>Tua rua</em> bằng mặt cất bát cơm chăm, <em>tua rua</em> đi nằm, cơm chăm đã cạn (Tua rua <em>bằng</em> <em>mặt</em> có nghĩa là trông thấy). Hay kinh nghiệm trông trăng: Muốn ăn lúa tháng năm trông <em>trăng rằm</em> tháng Tám; Muốn ăn lúa tháng mười trông <em>trăng</em> mồng tám tháng tư; <em>Trăng mờ</em> tốt lúa nỏ, <em>trăng tỏ</em> tốt lúa sâu; <em>Trăng mười bốn</em> được tằm, tỏ <em>trăng hôm rằm</em> thì được lúa gieo.</p><p> Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió để biết trước mất mùa hay được mùa: a1) Về nắng, mưa: <em>Nắng</em> tốt dưa <em>mưa</em> tốt <em>lúa</em>; Mồng tám tháng tám <em>không mưa</em> bỏ cả cày bừa mà nhổ <em>lúa</em> đi; Mồng <em>chín</em> tháng chín <em>không mưa</em>, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng chín có <em>mưa</em>, mẹ con bán cả cày bừa mà<em> ăn</em>; Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc; a2) Về sấm: Tháng mười có<em> sấm</em> cấy trên nấm cũng có ăn; Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng <em>sấm </em>phất cờ mà lên; a3) Về gió: Trời <em>nồm</em> tốt mạ, trời giá tốt rau; Gió <em>đông</em> là chồng lúa chiêm, gió <em>bấc </em>là duyên lúa mùa. </p><p> b. Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa chăm). Như vậy, hàng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: <em>Chiêm</em> xấp xới, <em>mùa</em> đợi nhau; <em>Chiêm</em> bơ bãi, <em>mùa</em> phải thời, nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: <em>Tua rua</em> đi bắc mạ <em>mùa</em>.</p><p></p><p></p><p> - <strong>Các từ gọi tên kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa nước</strong></p><p> a. Liên quan đến kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa phải nói đến trường ngữ nghĩa gồm những từ chỉ công cụ sản xuất lúa nước, như <em>cái cày, cái bừa, cái liềm,</em> đặc biệt con vật gắn bó mật thiết với con người là con trâu: <em>Con trâu</em> là đầu cơ nghiệp; Ruộng sâu <em>trâu</em> nái không bằng con gái đầu lòng, <em>Trâu</em> lên mạ xuống; Chín gang<em> trâu </em>cười, mười gang trâu khóc; Con trâu là đầu cơ nghiệp. Tuy nhiên do giới hạn về phạm vi khảo sát, chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến trường ngữ nghĩa nói về loài vật gắn với việc canh tác lúa nước trong đó có cả trâu.</p><p> b. Các từ ngữ gọi tên thứ tự của việc canh tác lúa nước.</p><p> Trong các từ được sắp xếp theo trình tự về tính cần thiết người ta quan tâm trước hết là nước. Nước là nguồn gốc của sự sống và nó cũng là nhân tố đầu tiên nói đến khi trồng lúa: Nhất <em>nước</em> nhì <em>phân</em>, tam <em>cần,</em> tứ <em>giống</em>; Nhất <em>ruộng</em>, nhì <em>mạ,</em> thứ ba canh <em>điền</em>; Nhất canh <em>trì,</em> nhì canh <em>viên</em>, ba canh <em>điền</em>; <em>Cày cấy</em>, <em>bón phân</em> phải kể anh <em>phạt bờ cuốc gốc</em>. </p><p> c. Cách thức làm đất là phải chú trọng đất ải. Trong câu: <em>Đất không ải, rải thêm phân</em> là nói đến kinh nghiệm làm đất, nhưng câu: <em>Đất chổng lên, nền vạc phẳng, ải tảng băng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm</em> lại là chê cách làm đất, cách canh tác không đúng. Đất phải làm thật ải: <em>ải</em> <em>bở </em>chồng con ở, <em>ải sương</em> chồng con đi; Một cục <em>đất ải</em> bằng một bãi phân. Cùng với việc làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu đất: <em>ải thâm </em>không bằng <em>dầm ngấu</em>; Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì <em>ngấu tươi</em>, chú trọng cách thức làm đất để gieo mạ: Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn <em>trưa.</em> </p><p> d. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ. cỏ luô cùng tồn tại cùng với việc trồng lúa: Ăn cơm làm <em>cỏ</em> chẳng bỏ đi đâu; Một búi <em>cỏ</em>, một giỏ thóc; Một lượt <em>cỏ</em>, thêm một giỏ thóc; Gánh phân làm<em> cỏ</em> chẳng bỏ đi đâu.</p><p> đ. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: <em>Cày</em> cạn khoẻ trâu, <em>cày</em> sâu tốt lúa; <em>Cày</em> gãi <em>bừa</em> chùi, lúa thui thóc lép: <em>Cày</em> sâu <em>bừa</em> kép, lúa đẹp bông sây; <em>Cày</em> sâu làm đầu lúa tốt; Thứ nhất <em>cày nỏ</em> thứ nhì bỏ phân. Sau đây là kiểu cày chưa đúng cách: <em>Cao vây nhỏ sống</em> thì rỗng đường cày; Cấy sáng cấy tối, gặp phải <em>chân bừa dối</em> toi ăn. Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhau: Chiêm đi <em>đơn</em>, mùa đi <em>kép.</em> </p><p> Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy như một nhận thức tất yếu: Chẳng <em>cấy</em> lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi cấy được phản ánh bằng những động tác khác nhau: Cấy <em>bằng mặt</em>, gặt bằng đầu. Tục ngữ còn phản ánh cách thức cấy lúa: Cấy <em>thưa</em> thừa thóc, cấy <em>dày</em> thì cóc được ăn; Cấy <em>cạn</em> đẻ nhiều là điều nhà nông; Gié thừa cấy <em>nỏ</em>, chiêm thừa bỏ đi; Lúa mùa thì cấy cho <em>sâu</em>, lúa chiêm thì gửi <em>cành dâu</em> cũng vừa; Vụ mùa cấy lúa <em>cao</em>, vụ chiêm cấy lúa trũng. </p><p> Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới nước, cách thức tưới nước cho ruộng: Đất điền đất thổ, ruộng cao <em>tưới trước</em>, ruộng thấp <em>tưới sau</em>; <em>Không nước</em> không phân chuyên cần vô ích; Phân tro không bằng no nước; Mây kéo xuôi cầm <em>gàu</em> tát ngược, mây kéo ngược cầm cuốc phá bờ; Làm ruộng thì phải đắp <em>đìa</em>, vừa dễ giữ nước, khi về dễ đi; Làm ruộng thì phải đắp <em>bờ</em>, may cờ thì phải viền đường mép; Mạ mùa <em>sướng </em>cao, mạ chiêm <em>ao</em> thấp. Công cụ để tưới nước ở những ruộng cao thấp khác nhau: Cao bờ thì tát <em>gàu dai</em>, <em>gàu sòng</em> chỉ tát được nơi thấp bờ. ..</p><p> e. Làm ruộng phải bón phân thì lúa mới tốt cho thu hoạch sản lượng cao. Ta có các câu: Mạ chiêm không có <em>bèo dâu</em>, khác nào như thể ăn trầu không vôi; Mạ chiêm mà đổ kín <em>bèo</em>, như con nhà nghèo trời đổ của cho; Một búi cỏ, một <em>giỏ phân</em>; Nhất nước, nhì <em>phân</em>, tam cần, tứ giống; Thứ nhất <em>phân</em> ngấu, thứ nhì trấu tươi; Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. </p><p> Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó có hình giống như chữ A): Lúa phơi màu, trông nhau <em>liềm hái</em>; Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi; Đánh một <em>lưỡi A</em> bằng ba công việc <em>lưỡi</em> <em>hái</em>.</p><p></p><p></p><p> - <strong>Các từ gọi tên giá trị hàng hoá lấy thóc lúa làm đơn vị so sánh</strong></p><p> Sự độc canh cây lúa (và lương thực nói chung) tạo ra tâm lý lấy hạt lúa (hoặc lương thực) làm hệ quy chiếu, hệ chuẩn mực trong nhận, đánh giá mọi quan hệ khác. Vì vậy, thóc gạo được coi là thước đo nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Ta gặp một số lượng các câu tục ngữ phản ánh giá trị này. </p><p> Trước hết thóc gạo thước đo mối quan hệ thân sơ giữa người với người trong cộng đồng: Ông tiền ông <em>thóc</em>, ông cóc gì ai; Bà tiền bà <em>thóc</em>, bà cóc gì ai; Không tiền không <em>gạo</em> mạnh bạo gì thầy; Không tiền không <em>gạo </em>mạnh bạo xó bếp; Ngồi đống <em>thóc</em>, móc đống tiền. </p><p> Thứ hai nó là thước đo sự giàu nghèo: Làm ruộng không trâu, làm giàu không <em>thóc</em>; Nhà giàu mua vải tháng ba, bán <em>gạ</em>o tháng tám mới ra nhà giàu; Khen nhà giàu lắm <em>thóc</em>; Chứa tiền chứa <em>thóc</em> thì giàu; Làm ruộng không trâu làm giàu không <em>thóc</em>; Con học, <em>thóc </em>vay; Con không học, <em>thóc</em> chẳng vay. </p><p> Thứ ba thóc gạo là thước đo tính giá trị trong lời nói: Lời nói quan tiền thúng <em>thóc</em>. </p><p> Cuối cùng thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có <em>ló </em>cũng khôn; Mạnh vì <em>gạo</em> bạo vì tiền khôn ngoan dù mốc.</p><p></p><p></p><p> -<strong>Các từ gọi tên đơn vị đong đếm đo lường thóc hoặc chứa đựng, lúa, gạo, cơm.</strong></p><p> Trong tục ngữ, ta bắt gặp những danh từ chỉ đơn vị gọi tên vật dùng để đong đếm thóc gạo: Ba <em>thưng</em> cũng vào một <em>đấu</em>; <em>Đấu</em> hàng xáo, gáo hàng dầu; Được vài <em>đấu </em>thóc khấn trời làm mưa.</p><p> Từ chỉ vật chứa đựng thóc, lúa, gạo, cơm như <em>bồ, cót, bát, giỏ, thúng</em>: Tháng giêng ăn nghiêng <em>bồ</em> thóc; Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con<em> bồ </em>còn thóc hết; Thóc <em>cót</em> thóc <em>bồ</em>; Thóc gạo đầy <em>bồ</em> cũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc; Dòm <em>giỏ </em>bỏ thóc; Một lượt cỏ, một <em>giỏ</em> thóc; Nắm cỏ <em>giỏ</em> thóc; Lời nói <em>thúng</em> thóc, lời nói dùi đục cẳng tay. </p><p> Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm bằng <em>bát, đọi</em>. Khác các nước sống bằng nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa, nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng <em>đũa, bát, chén, đọi, môi</em> ..., như: Bớt <em>bát</em> cơm mặt còn hơn nợ nần; Có <em>bát</em> mát mặt; Lớn <em>bát</em> cơm to bó lúa; Một nút lạt một <em>bát</em> cơm; Cơm ba <em>bát</em> áo ba manh; Ngồi mát ăn <em>bát</em> đầy, lầy cầy không đầy <em>bát</em>; Sợ <em>bát</em> cơm đầy không sợ thầy to tiếng; Ăn cháo đá <em>bát</em>; Một quả cà bằng ba <em>bát/ chén</em> thuốc; Một <em>chén</em> thuốc ta bằng ba <em>chén</em> thuốc tàu; Lời nói <em>đọi</em> máu; Ba voi không được <em>đọi </em>xáo. </p><p> </p><p></p><p><strong><em> Về tên gọi các từ ngữ </em></strong><strong><em>phản ánh sự cư trú của những chủ nhân trong làng</em></strong> <strong><em>xã gắn với nghề canh tác lúa nước</em></strong></p><p> -.<strong>Về sự cư trú của những chủ nhân trồng lúa trong làng</strong> <strong>xã </strong></p><p> Đặc điểm văn hoá của cư dân Đông Nam á nói chung và người Việt nói riêng là cư trú thành xóm, làng, bản, buôn, sóc. Đây là văn hoá của những người nông dân trong cộng đồng làng, bản, buôn gắn với nghề nghiệp canh tác lúa nước, nền kinh tế tự cung tự cấp và khép kín, vì vậy nền văn hoá đậm sắc thái địa phương. Điều này được phản ánh khá rõ qua các câu tục ngữ chứa các lớp từ phản ánh tục lệ dựng vợ gả chồng, chẳng hạn: Ruộng đầu chợ, vợ đầu <em>làng</em>; Ruộng giữa đồng, chồng giữa <em>làng</em>; Tậu ruộng giữa đồng, lấy chồng giữa <em>làng</em>; Lấy chồng giữa <em>làng</em> hơn lấy chồng sang thiên hạ; Nuôi lợn thì phải vớt bèo, lấy vợ thì phải nộp cheo cho <em>làng. </em>Ngoài ra, ta còn gặp sự đáng giá sức lao động qua việc sinh đẻ gái hay trai để có thêm người làm ruộng: Ruộng sâu trâu nái không bằng <em>con gái</em> đầu làng. Con người đi đến đâu thì phải lao động sản xuất để sống, gắn với họ là con vật phục vụ cho trồng lúa: <em>Con trâu</em> là đầu cơ nghiệp.</p><p></p><p></p><p> - <strong>Về cơ cấu của làng</strong> </p><p> Đặc điểm văn hóa của sự cư trú thành làng còn thể hiện qua lớp từ nói về quyền lực của làng. Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp những phát ngôn phản ánh tính quyền lực của làng khá ró nét, trở thành những luật tục trong làng buộc mọi người phải tuân theo. Người ta còn sợ hơn là phép nước như: Lệnh <em>làng</em> hơn phép nước, câu này có nghĩa là dù phép nước được vua ban ra nhưng ở xa, còn lệnh của làng lại gần nên tính hiệu lực của làng mạnh hơn, bắt buộc mỗi người dân phải thực hiện. Tương tự, ta có câu: <em>Quan</em> thời xa, <em>bản nha</em> thời gần; Phép <em>vua </em>thua lệ <em>làng</em>; <em>Quan</em> cứ lệnh, <em>lính</em> cứ truyền. Đến mức mà người dân khái quát thành phương châm ứng xử: Thà thiếu thuế <em>vua</em> hơn thua lệ <em>làng</em>. Làng có tổ chức của làng mà đứng đầu mỗi làng đều có lí trưởng đốc thúc mọi việc nên có câu: áo cứ tràng, <em>làng</em> cứ lí trưởng như một điều hiển nhiên, không phải bàn cãi. Người đi ban lệnh của làng là mõ: Xay thóc có chàng, việc <em>làng</em> có mõ. <em>Chàng</em> có nơi còn gọi là cái giằng xay ngoắc vào tai cối xay, không có nó thì cối xay không thể quay được. Cũng tương tự, việc làng muốn chạy suôn sẻ thì có mõ đi rao khắp làng. Làng xã luôn có những quy định luật tục riêng: <em>Làng</em> theo lệ làng,<em> nước </em>theo phép nước. Sự kính trọng cũng có sự phân biệt: Triều đình trọng tước, <em>hương đảng</em> trọng xỉ, nghĩa là triều đình trọng tước vị, còn trong làng lại trọng người cao tuổi. Quan sang cũng bởi <em>làng</em> mà ra.</p><p></p><p></p><p> <strong><em>Kết luận</em></strong></p><p> Khảo sát lớp từ ngữ phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ, chúng tôi nhận thấy nổi rõ nhất qua hệ thống từ ngữ - tên gọi cây lúa và các sản phẩm từ lúa, tên gọi các công đoạn của nghề trồng lúa, kĩ thật canh tác lúa, thời vụ trồng lúa, các dụng cụ để tạo ra lúa. Đặc biệt, sự cư trú thành làng xã của những con người vốn là chủ thể trồng lúa, tạo nên thiết chế làng xã, về nguyên nhân sâu xa, chính là do nền sản xuất trồng lúa quyết định. Sự tồn tại của làng xã luôn gắn với địa danh, với con người, hoàn cảnh địa lý, sản vật.</p><p>( Theo Gs.TS Đỗ Thị Kim Liên )</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="thu hoang, post: 97186, member: 82944"] [B][I] Khái niệm văn hóa[/I][/B] Theo [I]Từ điển tiếng Việt[/I] (chủ biên), văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con ngời sáng tạo trong quá trình lịch sử. [I]Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn hóa phơng đông. Nền văn hóa cổ[/I]. 2. Những hoạt động của con ngời nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát). [I]Phát triển văn hóa. Công tác văn hóa[/I]. 3. Tri thức, kiến thức, khoa học (nói khái quát). [I]Học văn hóa. Trình độ văn hóa[/I] (10, tr.1062). Chúng tôi sử dụng khái niệm văn hóa với nghĩa thứ nhất. Theo cách hiểu nghĩa thuộc nhóm thứ nhất này thì giá trị tinh thần có nhiều biểu hiện, trong đó có ngôn ngữ. Còn tác giả F. Mayor (nguyên Tổng bí th UNESCO) thì phát biểu: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc". Theo định nghĩa thứ hai này thì ngôn ngữ, chính là sản phẩm của quá trình hoạt động sáng tạo của con ngời và chúng tạo nên các giá trị mà không ai chối cãi. Qua ngôn ngữ, chúng ta nhận ra những nét văn hóa riêng của một dân tộc, trong số đó có ngời [B][I]Về sự tồn tại của lớp từ ngữ chỉ cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh văn hóa lúa nước [/I][/B] Khảo sát cuốn [B][I]Tục ngữ Việt Nam chọn lọc[/I][/B] của Vương Trung Hiếu, NXB Văn nghệ, 1996 (618 trang) với 96 chủ đề, chúng tôi nhận thấy dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ khá rõ. Trong tổng số 2400 phát ngôn tục ngữ thì có đến 446 phát ngôn có chứa các từ ngữ xuất hiện thành trường đề cập đến cây lúa và sản phẩm từ cây lúa. Số lượng lớn các từ này nói lên dấu ấn văn hóa lúa nước của người Việt để lại khá rõ trong kho tàng tục ngữ. Sau đây chúng tôi đi vào miêu tả từng nhóm cụ thể. [B]-Các từ gọi tên cây lúa và sản phẩm từ cây lúa[/B] Khảo sát các phát ngôn tục ngữ, chúng tôi nhận thấy lớp từ gọi tên hạt lúa - kết quả cuối cùng của công đoạn trồng cây lúa - xuất hiện khá nhiều. Người Việt canh tác lúa nước với mục đích lấy hạt lúa làm lương thực chính. Cây lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ, người ta thu hoạch về lấy hạt, được gọi là hạt lúa. Nhưng khi đã mang về nhà (có thể phơi khô để cất giữ) còn được gọi là thóc. Nếu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch thì không gọi là hạt thóc mà gọi là hạt lúa. Trong tư liệu của chúng tôi có bốn từ được dùng với tần số cao là [I]lúa, thóc[/I] với 44 lần xuất hiện: [I]Thóc[/I] hoa dâu, trầu lá mặt; Hạt [I]lúa[/I] vàng, hạt [I]thóc[/I] cũng vàng; Ăn không thì hóc, chẳng xay [I]thóc[/I] thì phải ẵm em; Chứa tiền chứa [I]thóc[/I] thì giàu; Khen nhà giàu lắm [I]thóc[/I]; Có [I]thóc[/I] mới bóc nên gạo; Có [I]thóc[/I] mới cho vay gạo; Con học [I]thóc[/I] vay... Trong sử dụng từ [I]lúa [/I]có biến thể ngữ âm là [I]ló[/I] (Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có [I]ló[/I] cũng khôn). Về tên gọi từng loại lúa dùng để ăn vào những dịp khác nhau chủ yếu có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nấu thành cơm dùng trong bữa ăn hàng ngày, còn lúa nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa nếp ngon hơn lúa tẻ: Đắt [I]lúa[/I] tẻ, rẻ [I]lúa[/I] nếp; Gần chùa chẳng được ăn [I]xôi[/I];[I] Cơm tẻ [/I]no[I] xôi vò [/I]chẳng thiết; Ăn mày đòi [I]xôi[/I] gấc; Thí trẻ ăn [I]xôi [/I]gấc; Có [I]xôi [/I]nói [I]xôi[/I] dẻo, có thịt nói thịt bùi; Muốn ăn xôi, ngồi gần bếp. Ca dao, một thể loại có nội dung gần gũi với tục ngữ cũng ghi lại niềm mơ ước của người dân lao động: Chẳng thà chết quách thì thôi, sống thời có lúc no [I]xôi[/I] chán chè. Ngoài những từ thuộc hai nhóm trên, ta còn gặp các từ khác là sản phẩm của lúa, được tách từ hạt lúa ra: [I]cám, mẳn, tấm, trấu...[/I] Theo [I]Từ điển tiếng Việt[/I] của Hoàng Phê thì [I]cám [/I](danh từ)có nghĩa: chất màu vàng nâu, do lớp vỏ mềm bao ngoài hạt gạo nát vụn ra khi giã, xát, dùng làm thức ăn cho lợn (10, tr.104); [I]mẳn[/I] (danh từ) có nghĩa: mảnh hạt, thường là hạt rất nhỏ, vụn (nói khái quát). [I]Ăn tấm, ăn[/I] [I] mẳn [/I](tr.597); [I]tấm[/I] (danh từ) có nghĩa: mảnh vỡ nhỏ của hạt gạo do xay giã. [I]Nhỏ như hạt tấm. Cơm tấm[/I] (tr. 866); [I]trấu[/I] (danh từ) có nghĩa: lớp vỏ cứng đã tách ra của hạt thóc. [I]Bếp đun trấu, Muỗi như trấu[/I] (tr.996). Trong tục ngữ, ta gặp các từ [I]cám[/I] xuất hiện với tần số 21 lần, [I]trấu[/I] 7 lần, [I]tấm[/I] 11 lần trong các câu: Ra tay gạo xay ra [I]cám[/I]; Trai đi giày đến đám, trai về nhà bốc [I]cám rang[/I]; [I]Trấu[/I] trong nhà, thả gà đi đâu; Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì trấu tươi; No cơm [I]tấm[/I], ấm ổ rơm; Xay lúa Đồng Nai, [I]tấm cám[/I] về ngài, thóc gạo về tôi). Từ [I]cơm[/I] xuất hiện 66 lần (Lớn bát [I]cơm[/I], to bó lúa; Nồi [I]cơm[/I] không rế mất một hạt, bờ ruộng không phạt mất một bó), từ [I]gạo[/I] xuất hiện 24 lần (Mẹ đần lại đẻ con đần, [I]gạo[/I] chiêm đem giã mấy lần vẫn chiêm; [I]Gạo[/I] chợ, nước sông, củi đồng, trầu miếng; Ra tay [I]gạo[/I], xay ra cám). Không chỉ trong tục ngữ mà ca dao cũng phản ánh những từ chỉ sản phẩm từ lúa này: Ra đường võng giá nghênh ngang, về nhà hỏi [I]vợ cám[/I] rang đâu mày? [I]Cám rang[/I] tôi để cối xay, hễ chó ăn hết thì mày với tao. Ngoài ra, ta bắt gặp những tổ hợp từ ghép đẳng lập hai âm tiết: [I]thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, lúa má, cơm cháo, tấm cám[/I]: Xay lúa Đồng Nai, [I]thóc gạo[/I] về ngài, [I]tấm cám[/I] về tôi; [I]Thóc lúa[/I] về nhà, lợn gà ra chợ; [I]Thóc gạo[/I] đầy bồ cũng nhờ anh phạt bờ cuốc gốc; [I]Thóc gạo[/I] có tinh; [I]Lúa thóc[/I] đi đâu bồ câu theo đấy. - [B]Các từ gọi tên thực phẩm chế biến từ hạt lúa[/B] a. Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp nhiều nhất là [I]cơm[/I]. Cơm là lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày của người Việt. Người Việt thu hoạch lúa về, quạt sạch, phơi khô, đem xay, giã trắng và nấu thành cơm. Vì thế, tiêu chuẩn để đánh giá sự no đủ của người Việt là phải có cơm ăn no: No [I]cơm [/I]ấm áo; No [I]cơm[/I] ấm cật; [I]Cơm[/I] no bò cưỡi; No chê [I]cơm nguội,[/I] đói đánh cả rau thiu. Cơm có nhiều loại khác nhau với những tên gọi theo những nguồn gốc khác nhau. Ta có [I]cơm cày, cơm cấy[/I] trong [I]Cơm cày cơm cấy[/I] ai thấy thì ăn để chỉ cơm ăn vào dịp thời vụ làm mùa; [I]cơm hom[/I] trong Ăn [I]cơm hom[/I], nằm giường hòm để chỉ loại cơm ngon đắt tiền; [I]cơm[/I] [I]chăm[/I] trong [I]Cơm mùa[/I] treo chái chùa cũng chín để chỉ lúa mùa dễ chín; [I]cơm mùa[/I] trong [I]Cơm chăm[/I], mắm chườm để chỉ hai thứ ăn với nhau (cơm chăm ăn với mắm chườm) trong bữa ăn của người việt được xem là ngon miệng, ăn được nhiều; [I]cơm muối[/I] trong [I]Cơm muối[/I] hơn chuối chết để chỉ cơm chấm muối còn tốt hơn rất nhiều nếu ăn các chuối mà bị chết rồi mới làm thịt cá để nấu lên; [I]cơm tẻ[/I] trong [I]Cơm tẻ[/I] no, xôi vò chẳng thiết; [I]Cơm tẻ[/I] mẹ ruột để chỉ loại cơm nấu từ gạo (khác với loại xôi nấu từ nếp) luôn gắn bó thân thiết với bữa ăn hàng ngày của người Việt; [I]cơm hàng [/I]trong [I]Cơm hàng[/I] cháo chợ, ai lỡ thì ăn để chỉ cơm nấu với mục đích bán cho người qua đường. Bên cạnh đó, còn có những câu tục ngữ phản ánh cách thức nấu cơm thành các kiểu cơm: [I]Cơm ráo[/I], cháo dừ; [I]Cơm sống [/I]là cơm thảo, [I]cơm nhão[/I] là cơm hà tiện; [I]Cơm sống[/I] tại nồi, cơm sôi tại lửa; [I]Cơm sống[/I] vì nồi, không sống vì vung. Tục ngữ cũng phản ánh cách thức ăn cơm khác với ăn cháo: [I]Cơm[/I] và, [I]cháo[/I] húp. Chính vì thế, nấu cơm cháo cũng đều phải học: Học chọc bát [I]cơm[/I], học đơm bát [I]cháo. [/I]Khi ăn cơm cần biết chỗ cơm nào thì ngon: [I]Cơm[/I] quanh rá, [I]mạ[/I] quanh bờ là nói đến phong tục trước đây của người Việt khi ăn cơm thì xới cơm ra ở rá, sau đó mới xới vào bát cho từng người. Cơm xung quanh rá thường nguội, không ngon, giống như mạ quanh bờ thì rời rạc, không đều, không tốt. Tục ngữ còn phản ánh cách gọi tên đơn vị đo lường lượng cơm ăn hàng ngày. Ta có các câu: Cơm ba [I]bát[/I] áo ba manh; Cơm ba [I]bát[/I], thuốc ba thang là nhằm nói đến liều lượng ăn, mặc vừa độ thì sẽ luôn giữ được sức khỏe. Cơm còn được dùng để đánh giá tính cách con người: Cắn hột [I]cơm[/I] không vỡ để chỉ người có tính keo kiệt so đo. Ca dao cũng sử dụng từ chỉ đơn vị đo lường lượng cơm trong bát, như: Cơm ăn mỗi bữa mỗi [I]lưng[/I], uống nước cầm chừng để dạ thương ai. b. Ngoài từ [I]cơm[/I], ta còn bắt gặp từ [I]cháo[/I]. Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nấu lâu hơn. Đặc biệt, vào những ngày đói kém, thiếu gạo, hay yếu mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo để ăn: [I]Cháo[/I] nóng húp quanh, công nợ trả dần; ăn [I]cháo[/I] đá bát; Cơm hàng [I]cháo[/I] chợ ai lỡ thì ăn; Ăn một bát [I]cháo[/I], chạy ba quãng đồng; Nói như [I]cháo[/I] chảy. c. Cùng với [I]cháo[/I], còn phải kể đến các thứ quà bánh được chế biến từ gạo tẻ, gạo nếp: [I]bánh đúc, hàng xáo, bánh cuốn, hồ, bánh dày, bánh chưng, cốm[/I]. Bánh đúc là một món ăn ngon, bổ dưỡng của người Việt trước đây, được mọi người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi (hoặc hàn the), quấy đều và đun lên, sau đó đổ theo khuôn, đặt ở sàng: [I]Bánh đúc [/I]bày sàng. Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm tôm ngon đến mức: [I]Bánh đúc[/I] bẻ ba, mắm tôm quệt ngược cả nhà tan hoang; Muốn ăn no [I]bánh đúc[/I]; ăn bánh đúc đục mặt. Từ gạo tẻ hoặc nếp có thể xay thành bột, chế biến thành hồ: Có bột mới gột nên [I]hồ[/I]; làm hàng xáo; Đấu hàng [I]xáo[/I], gáo hàng dầu (với nghĩa là vật dùng để đo lường đối với từng loại); Hàng xay hàng [I]xáo[/I] láo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết. Nếp (cũng là một loại gạo nhưng quí hơn) để gói bánh chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy câu: [I]ăn chực đòi bánh chưng[/I] hoặc [I]ăn mày đòi xôi gấc[/I] để nói đến người đi ăn chực không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự hảo tâm của người cho. Nếp xay thành bột để làm bánh như bánh dày, bánh dẻo: Khôn khéo [I]bánh dầy[/I], vụng dại chày cối. Nếp còn được làm thành cốm, chẳng hạn câu: Giã gạo thì ốm giã [I]cốm[/I] thì khỏe là nói đến những người thích ăn mà nhác làm. [I]Cốm[/I] được làm từ lúa nếp còn xanh, chưa chín già, người ta thu hoạch về, lấy hạt rồi tách vỏ và rang lên gọi là cốm. Tục ngữ có câu: Gần nhà giàu đau răng ăn [I]cốm[/I], gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn là nói đế việc ở gần nhà giàu phải chịu khổ giống như người đau răng mà ăn cốm thì càng đau hơn do cốm giắt vào răng rất khó chịu. Gần kẻ trộm thì bị vạ lây giống như người ốm vốn đã yếu sẵn mà lại chịu thêm đòn thì càng đau nặng hơn . - [B]Các từ gọi tên các công cụ để chế biến hạt lúa[/B] Các từ gọi tên các công cụ thực hiện các hành động theo tên của chúng trong việc chế biến từ lúa, thóc thành gạo, như [I]chày, cối, cối xay, dần, sàng, nia[/I]: Khôn khéo vá may, vụng về [I]chày cối[/I]; Nhác đâm thì đổi [I]chày[/I], nhác xay thì đổi [I]cối[/I]; Nói trặc họng [I]cối xay[/I]; Hát khi [I]xay[/I] lúa, múa khi tối trời; [I]Xay[/I] lúa thì đừng ẵm em; [I]xay[/I] thóc có [I]chàng[/I], việc làng có mõ; Gà què ăn quẩn [I]cối xay[/I], ăn đi ăn lại tối ngày cũng no; Nhác đâm thì đổi [I]chày[/I], nhác xay thì đổi [I]cối[/I]; Hơn thóc, nhọc [I]xay[/I]. Thậm chí, cối xay thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ con // (thì) học, cối // (thì) xay thóc. [I]Nia, dần, sàng, thúng[/I] là vật dụng có công dụng khác nhau: nia để đựng thóc gạo ở dưới khi dần sàng; dần để dần tấm, sàng dùng để sàng gạo (lỗ to hơn cái dần); thúng để đựng gạo; mẹt để sảy gạo: Bánh đúc bày [I]sàng[/I]; Đá [I]thúng[/I] đụng [I]nia[/I]. Ca dao cũng có những câu dùng các từ [I]nia, sàng[/I] để chỉ dụng cụ sàng sảy gạo: Ra đường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi [I]cái nia, cái sàng[/I]. - [B]Các từ gọi tên các thời kì phát triển của cây lúa[/B] a. Cây lúa có quá trình phát triển khoảng bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, nó được gọi bằng những tên khác nhau: [I]Giống, mạ (má), lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín[/I]. Khi gặt xong cắt phần trên thì gọi là rạ hay gốc rạ, còn phần trên của cây lúa phơi khô thì gọi là [I]rơm[/I]. Ta bắt gặp tên gọi này qua các câu tục ngữ: [B]Giống[/B]: Không nhặt mà rặt [I]giống[/I]; Nhất nước nhì phân, tam cần tư [I]giống, [/I]Muốn ănlúaphải tìm[I] giống[/I]; [B]Mạ:[/B] [I]Mạ[/I] chiêm đào sâu chôn chặt [I]mạ[/I] mùa chôn chặt mà đi; Khoai ưa lạ, [I]mạ[/I] ưa quen; Trồng khoai đất lạ, gieo [I]mạ[/I] đất quen; [I]Mạ già[/I] ruộng ngấu; [I]Mạ[/I] mùa sướng cao, [I]mạ[/I] chiêm ao thấp; [B]Lúa vào thời kì[/B] [B]phát triển[/B]: [I]Lúa chiêm lấp ló[/I] đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên; [B]Lúa trổ bông[/B]: [I]Lúa trổ mâm xôi[/I], dẫy nồi chồng vợ; [B]Lúa chín[/B]: [I]Lúa chín[/I] hoa ngâu đi đâu chẳng gặt; R[B]ơm, rạ[/B]: là những phần thuộc thân dưới và phần trên của cây lúa. Sau khi thu hoạch, người ta cắt về và phơi khô để dùng trong những công việc khác nhau, như làm gối, nằm cho ấm, đun nấu thay củi: [I]Gối rơm theo phận gối rơm; No cơm tấm ấm ổ rơm; [/I]Lúa giỗ ngã mạ, vàng [I]rạ [/I]mạ xuống. Vì vậy, các từ [I]rơm, rạ[/I] còn được dùng trong các câu tục ngữ với nghĩa bóng để chỉ các quan hệ xã hội:Lửa gầm [I]rơm [/I]lâu ngày cũng bén; Ôm [I]rơm[/I] dặm bụng; Gái có chồng như chông như mác, gái không chồng như rác như [I]rơm [/I]. -. [B]Các từ gọi tên thời tiết, thời vụ gắn với việc trồng lúa[/B] a. Trong canh tác, có nhiều loại lúa khác nhau, nhưng chủ yếu có hai loại lúa được trồng vào hai khoảng thời gian khác nhau và thu hoạch cũng khác nhau, đó là lúa chiêm và lúa mùa. Trong tục ngữ, những câu ca dao nói về hai loại lúa trồng theo hai thời vụ chính này khá nhiều, có 32 câu: [I]Chiêm[/I] đi đơn, [I]mùa[/I] đi kép; [I]Chiêm[/I] bơ bải, [I]mùa[/I] phải thời; [I]Chiêm[/I] ba giá, [I]mùa[/I] ba mưa; [I]Chiêm[/I] bóc vỏ, [I]mùa [/I]xỏ tây; [I]Chiêm[/I] cứng, [I]ré [/I]mềm; [I]Chiêm[/I] cấy gửi, [I]mùa [/I]dúi sâu; Chiêm gon tìm đòn mà gánh, mùa gon cõng con lên rừng; Chiêm thối cỏ, mùa nỏ đất; Chiêm yên gốc, mùa trốc rể... Ca dao cũng có phản ánh tên gọi lúa chiêm và lúa mùa này: [I]Lúa chiêm[/I] lấp ló đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên. b. Thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc trồng lúa. Chính vì vậy, tục ngữ đã phản ánh kinh nghiệm nhận biết về thời tiết có liên quan đến thời kì phát triển, trồng lúa. Đó là kinh nghiệm trông sao và trăng: [I]Sao rua[/I] đứng trốc, lúa lốc được ăn; [I]Tua rua[/I] một tháng mười ngày, cấy trốc luống cày cũng được [I]lúa xôi[/I]; [I]Tua rua[/I] bằng mặt cất bát cơm chăm, [I]tua rua[/I] đi nằm, cơm chăm đã cạn (Tua rua [I]bằng[/I] [I]mặt[/I] có nghĩa là trông thấy). Hay kinh nghiệm trông trăng: Muốn ăn lúa tháng năm trông [I]trăng rằm[/I] tháng Tám; Muốn ăn lúa tháng mười trông [I]trăng[/I] mồng tám tháng tư; [I]Trăng mờ[/I] tốt lúa nỏ, [I]trăng tỏ[/I] tốt lúa sâu; [I]Trăng mười bốn[/I] được tằm, tỏ [I]trăng hôm rằm[/I] thì được lúa gieo. Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió để biết trước mất mùa hay được mùa: a1) Về nắng, mưa: [I]Nắng[/I] tốt dưa [I]mưa[/I] tốt [I]lúa[/I]; Mồng tám tháng tám [I]không mưa[/I] bỏ cả cày bừa mà nhổ [I]lúa[/I] đi; Mồng [I]chín[/I] tháng chín [I]không mưa[/I], mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng chín có [I]mưa[/I], mẹ con bán cả cày bừa mà[I] ăn[/I]; Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc; a2) Về sấm: Tháng mười có[I] sấm[/I] cấy trên nấm cũng có ăn; Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng [I]sấm [/I]phất cờ mà lên; a3) Về gió: Trời [I]nồm[/I] tốt mạ, trời giá tốt rau; Gió [I]đông[/I] là chồng lúa chiêm, gió [I]bấc [/I]là duyên lúa mùa. b. Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người Chiêm (hay chăm) nên có thêm lúa chiêm (hay lúa chăm). Như vậy, hàng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: [I]Chiêm[/I] xấp xới, [I]mùa[/I] đợi nhau; [I]Chiêm[/I] bơ bãi, [I]mùa[/I] phải thời, nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: [I]Tua rua[/I] đi bắc mạ [I]mùa[/I]. - [B]Các từ gọi tên kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa nước[/B] a. Liên quan đến kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa phải nói đến trường ngữ nghĩa gồm những từ chỉ công cụ sản xuất lúa nước, như [I]cái cày, cái bừa, cái liềm,[/I] đặc biệt con vật gắn bó mật thiết với con người là con trâu: [I]Con trâu[/I] là đầu cơ nghiệp; Ruộng sâu [I]trâu[/I] nái không bằng con gái đầu lòng, [I]Trâu[/I] lên mạ xuống; Chín gang[I] trâu [/I]cười, mười gang trâu khóc; Con trâu là đầu cơ nghiệp. Tuy nhiên do giới hạn về phạm vi khảo sát, chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến trường ngữ nghĩa nói về loài vật gắn với việc canh tác lúa nước trong đó có cả trâu. b. Các từ ngữ gọi tên thứ tự của việc canh tác lúa nước. Trong các từ được sắp xếp theo trình tự về tính cần thiết người ta quan tâm trước hết là nước. Nước là nguồn gốc của sự sống và nó cũng là nhân tố đầu tiên nói đến khi trồng lúa: Nhất [I]nước[/I] nhì [I]phân[/I], tam [I]cần,[/I] tứ [I]giống[/I]; Nhất [I]ruộng[/I], nhì [I]mạ,[/I] thứ ba canh [I]điền[/I]; Nhất canh [I]trì,[/I] nhì canh [I]viên[/I], ba canh [I]điền[/I]; [I]Cày cấy[/I], [I]bón phân[/I] phải kể anh [I]phạt bờ cuốc gốc[/I]. c. Cách thức làm đất là phải chú trọng đất ải. Trong câu: [I]Đất không ải, rải thêm phân[/I] là nói đến kinh nghiệm làm đất, nhưng câu: [I]Đất chổng lên, nền vạc phẳng, ải tảng băng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm[/I] lại là chê cách làm đất, cách canh tác không đúng. Đất phải làm thật ải: [I]ải[/I] [I]bở [/I]chồng con ở, [I]ải sương[/I] chồng con đi; Một cục [I]đất ải[/I] bằng một bãi phân. Cùng với việc làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu đất: [I]ải thâm [/I]không bằng [I]dầm ngấu[/I]; Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì [I]ngấu tươi[/I], chú trọng cách thức làm đất để gieo mạ: Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn [I]trưa.[/I] d. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ. cỏ luô cùng tồn tại cùng với việc trồng lúa: Ăn cơm làm [I]cỏ[/I] chẳng bỏ đi đâu; Một búi [I]cỏ[/I], một giỏ thóc; Một lượt [I]cỏ[/I], thêm một giỏ thóc; Gánh phân làm[I] cỏ[/I] chẳng bỏ đi đâu. đ. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: [I]Cày[/I] cạn khoẻ trâu, [I]cày[/I] sâu tốt lúa; [I]Cày[/I] gãi [I]bừa[/I] chùi, lúa thui thóc lép: [I]Cày[/I] sâu [I]bừa[/I] kép, lúa đẹp bông sây; [I]Cày[/I] sâu làm đầu lúa tốt; Thứ nhất [I]cày nỏ[/I] thứ nhì bỏ phân. Sau đây là kiểu cày chưa đúng cách: [I]Cao vây nhỏ sống[/I] thì rỗng đường cày; Cấy sáng cấy tối, gặp phải [I]chân bừa dối[/I] toi ăn. Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhau: Chiêm đi [I]đơn[/I], mùa đi [I]kép.[/I] Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy như một nhận thức tất yếu: Chẳng [I]cấy[/I] lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi cấy được phản ánh bằng những động tác khác nhau: Cấy [I]bằng mặt[/I], gặt bằng đầu. Tục ngữ còn phản ánh cách thức cấy lúa: Cấy [I]thưa[/I] thừa thóc, cấy [I]dày[/I] thì cóc được ăn; Cấy [I]cạn[/I] đẻ nhiều là điều nhà nông; Gié thừa cấy [I]nỏ[/I], chiêm thừa bỏ đi; Lúa mùa thì cấy cho [I]sâu[/I], lúa chiêm thì gửi [I]cành dâu[/I] cũng vừa; Vụ mùa cấy lúa [I]cao[/I], vụ chiêm cấy lúa trũng. Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới nước, cách thức tưới nước cho ruộng: Đất điền đất thổ, ruộng cao [I]tưới trước[/I], ruộng thấp [I]tưới sau[/I]; [I]Không nước[/I] không phân chuyên cần vô ích; Phân tro không bằng no nước; Mây kéo xuôi cầm [I]gàu[/I] tát ngược, mây kéo ngược cầm cuốc phá bờ; Làm ruộng thì phải đắp [I]đìa[/I], vừa dễ giữ nước, khi về dễ đi; Làm ruộng thì phải đắp [I]bờ[/I], may cờ thì phải viền đường mép; Mạ mùa [I]sướng [/I]cao, mạ chiêm [I]ao[/I] thấp. Công cụ để tưới nước ở những ruộng cao thấp khác nhau: Cao bờ thì tát [I]gàu dai[/I], [I]gàu sòng[/I] chỉ tát được nơi thấp bờ. .. e. Làm ruộng phải bón phân thì lúa mới tốt cho thu hoạch sản lượng cao. Ta có các câu: Mạ chiêm không có [I]bèo dâu[/I], khác nào như thể ăn trầu không vôi; Mạ chiêm mà đổ kín [I]bèo[/I], như con nhà nghèo trời đổ của cho; Một búi cỏ, một [I]giỏ phân[/I]; Nhất nước, nhì [I]phân[/I], tam cần, tứ giống; Thứ nhất [I]phân[/I] ngấu, thứ nhì trấu tươi; Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân. Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm (còn gọi là A, vì nó có hình giống như chữ A): Lúa phơi màu, trông nhau [I]liềm hái[/I]; Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi; Đánh một [I]lưỡi A[/I] bằng ba công việc [I]lưỡi[/I] [I]hái[/I]. - [B]Các từ gọi tên giá trị hàng hoá lấy thóc lúa làm đơn vị so sánh[/B] Sự độc canh cây lúa (và lương thực nói chung) tạo ra tâm lý lấy hạt lúa (hoặc lương thực) làm hệ quy chiếu, hệ chuẩn mực trong nhận, đánh giá mọi quan hệ khác. Vì vậy, thóc gạo được coi là thước đo nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Ta gặp một số lượng các câu tục ngữ phản ánh giá trị này. Trước hết thóc gạo thước đo mối quan hệ thân sơ giữa người với người trong cộng đồng: Ông tiền ông [I]thóc[/I], ông cóc gì ai; Bà tiền bà [I]thóc[/I], bà cóc gì ai; Không tiền không [I]gạo[/I] mạnh bạo gì thầy; Không tiền không [I]gạo [/I]mạnh bạo xó bếp; Ngồi đống [I]thóc[/I], móc đống tiền. Thứ hai nó là thước đo sự giàu nghèo: Làm ruộng không trâu, làm giàu không [I]thóc[/I]; Nhà giàu mua vải tháng ba, bán [I]gạ[/I]o tháng tám mới ra nhà giàu; Khen nhà giàu lắm [I]thóc[/I]; Chứa tiền chứa [I]thóc[/I] thì giàu; Làm ruộng không trâu làm giàu không [I]thóc[/I]; Con học, [I]thóc [/I]vay; Con không học, [I]thóc[/I] chẳng vay. Thứ ba thóc gạo là thước đo tính giá trị trong lời nói: Lời nói quan tiền thúng [I]thóc[/I]. Cuối cùng thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có [I]ló [/I]cũng khôn; Mạnh vì [I]gạo[/I] bạo vì tiền khôn ngoan dù mốc. -[B]Các từ gọi tên đơn vị đong đếm đo lường thóc hoặc chứa đựng, lúa, gạo, cơm.[/B] Trong tục ngữ, ta bắt gặp những danh từ chỉ đơn vị gọi tên vật dùng để đong đếm thóc gạo: Ba [I]thưng[/I] cũng vào một [I]đấu[/I]; [I]Đấu[/I] hàng xáo, gáo hàng dầu; Được vài [I]đấu [/I]thóc khấn trời làm mưa. Từ chỉ vật chứa đựng thóc, lúa, gạo, cơm như [I]bồ, cót, bát, giỏ, thúng[/I]: Tháng giêng ăn nghiêng [I]bồ[/I] thóc; Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con[I] bồ [/I]còn thóc hết; Thóc [I]cót[/I] thóc [I]bồ[/I]; Thóc gạo đầy [I]bồ[/I] cũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc; Dòm [I]giỏ [/I]bỏ thóc; Một lượt cỏ, một [I]giỏ[/I] thóc; Nắm cỏ [I]giỏ[/I] thóc; Lời nói [I]thúng[/I] thóc, lời nói dùi đục cẳng tay. Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm bằng [I]bát, đọi[/I]. Khác các nước sống bằng nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa, nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng [I]đũa, bát, chén, đọi, môi[/I] ..., như: Bớt [I]bát[/I] cơm mặt còn hơn nợ nần; Có [I]bát[/I] mát mặt; Lớn [I]bát[/I] cơm to bó lúa; Một nút lạt một [I]bát[/I] cơm; Cơm ba [I]bát[/I] áo ba manh; Ngồi mát ăn [I]bát[/I] đầy, lầy cầy không đầy [I]bát[/I]; Sợ [I]bát[/I] cơm đầy không sợ thầy to tiếng; Ăn cháo đá [I]bát[/I]; Một quả cà bằng ba [I]bát/ chén[/I] thuốc; Một [I]chén[/I] thuốc ta bằng ba [I]chén[/I] thuốc tàu; Lời nói [I]đọi[/I] máu; Ba voi không được [I]đọi [/I]xáo. [B][I] Về tên gọi các từ ngữ [/I][/B][B][I]phản ánh sự cư trú của những chủ nhân trong làng[/I][/B] [B][I]xã gắn với nghề canh tác lúa nước[/I][/B] -.[B]Về sự cư trú của những chủ nhân trồng lúa trong làng[/B] [B]xã [/B] Đặc điểm văn hoá của cư dân Đông Nam á nói chung và người Việt nói riêng là cư trú thành xóm, làng, bản, buôn, sóc. Đây là văn hoá của những người nông dân trong cộng đồng làng, bản, buôn gắn với nghề nghiệp canh tác lúa nước, nền kinh tế tự cung tự cấp và khép kín, vì vậy nền văn hoá đậm sắc thái địa phương. Điều này được phản ánh khá rõ qua các câu tục ngữ chứa các lớp từ phản ánh tục lệ dựng vợ gả chồng, chẳng hạn: Ruộng đầu chợ, vợ đầu [I]làng[/I]; Ruộng giữa đồng, chồng giữa [I]làng[/I]; Tậu ruộng giữa đồng, lấy chồng giữa [I]làng[/I]; Lấy chồng giữa [I]làng[/I] hơn lấy chồng sang thiên hạ; Nuôi lợn thì phải vớt bèo, lấy vợ thì phải nộp cheo cho [I]làng. [/I]Ngoài ra, ta còn gặp sự đáng giá sức lao động qua việc sinh đẻ gái hay trai để có thêm người làm ruộng: Ruộng sâu trâu nái không bằng [I]con gái[/I] đầu làng. Con người đi đến đâu thì phải lao động sản xuất để sống, gắn với họ là con vật phục vụ cho trồng lúa: [I]Con trâu[/I] là đầu cơ nghiệp. - [B]Về cơ cấu của làng[/B] Đặc điểm văn hóa của sự cư trú thành làng còn thể hiện qua lớp từ nói về quyền lực của làng. Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp những phát ngôn phản ánh tính quyền lực của làng khá ró nét, trở thành những luật tục trong làng buộc mọi người phải tuân theo. Người ta còn sợ hơn là phép nước như: Lệnh [I]làng[/I] hơn phép nước, câu này có nghĩa là dù phép nước được vua ban ra nhưng ở xa, còn lệnh của làng lại gần nên tính hiệu lực của làng mạnh hơn, bắt buộc mỗi người dân phải thực hiện. Tương tự, ta có câu: [I]Quan[/I] thời xa, [I]bản nha[/I] thời gần; Phép [I]vua [/I]thua lệ [I]làng[/I]; [I]Quan[/I] cứ lệnh, [I]lính[/I] cứ truyền. Đến mức mà người dân khái quát thành phương châm ứng xử: Thà thiếu thuế [I]vua[/I] hơn thua lệ [I]làng[/I]. Làng có tổ chức của làng mà đứng đầu mỗi làng đều có lí trưởng đốc thúc mọi việc nên có câu: áo cứ tràng, [I]làng[/I] cứ lí trưởng như một điều hiển nhiên, không phải bàn cãi. Người đi ban lệnh của làng là mõ: Xay thóc có chàng, việc [I]làng[/I] có mõ. [I]Chàng[/I] có nơi còn gọi là cái giằng xay ngoắc vào tai cối xay, không có nó thì cối xay không thể quay được. Cũng tương tự, việc làng muốn chạy suôn sẻ thì có mõ đi rao khắp làng. Làng xã luôn có những quy định luật tục riêng: [I]Làng[/I] theo lệ làng,[I] nước [/I]theo phép nước. Sự kính trọng cũng có sự phân biệt: Triều đình trọng tước, [I]hương đảng[/I] trọng xỉ, nghĩa là triều đình trọng tước vị, còn trong làng lại trọng người cao tuổi. Quan sang cũng bởi [I]làng[/I] mà ra. [B][I]Kết luận[/I][/B] Khảo sát lớp từ ngữ phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ, chúng tôi nhận thấy nổi rõ nhất qua hệ thống từ ngữ - tên gọi cây lúa và các sản phẩm từ lúa, tên gọi các công đoạn của nghề trồng lúa, kĩ thật canh tác lúa, thời vụ trồng lúa, các dụng cụ để tạo ra lúa. Đặc biệt, sự cư trú thành làng xã của những con người vốn là chủ thể trồng lúa, tạo nên thiết chế làng xã, về nguyên nhân sâu xa, chính là do nền sản xuất trồng lúa quyết định. Sự tồn tại của làng xã luôn gắn với địa danh, với con người, hoàn cảnh địa lý, sản vật. ( Theo Gs.TS Đỗ Thị Kim Liên ) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Đặc trưng văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ
Top