PHÚC KEYNES
New member
- Xu
- 0
CÔNG BẰNG
Ivan Gobry
Le vocabulaire grec de la philosophie
Éd. Ellipses, 2000.
--- o0o ---
Thuật ngữ này có hai lớp nghĩa : thiết chế, hay công bằng [trong] chính trị; đức hạnh, hay công bằng [trong] luân lý. Các nhà tư tưởng Hy Lạp bận tâm tới cả hai phương diện này, và công đầu phải kể tới là Platon và Aristote.
Những từ đồng nghĩa đôi khi cũng được sử dụng: dikê, dikaïotês, dikaïon (to): công chính, cái công chính.
Sự công bằng về cơ bản là thước đo (mésotês, méson). Và vì đặc điểm này là đặc điểm của đức hạnh nói chung (Aristote, Éth. Nic., II, VIII), công bằng trở thành đức hạnh quan trọng nhất và đáng ngưỡng mộ nhất; và về điều này, Aristote (ibid. V, I) trích dẫn một câu thơ của Théognis: “Trong công bằng đã có toàn bộ đức hạnh”. Mặt khác, kể từ Platon trở đi, công bằng trở thành một trong bốn phẩm chất chính yếu, nó đi cùng hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự minh triết (Platon, Rep., IV, 429e-441c), hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự khôn ngoan thực hành (Zénon, Plotin, I, II, 7). x. Arétê.
Những người phái Pythagore có thái độ hết sức cung kính trước sự công bằng, vì trong hệ thống của họ, sự hài hòa là nguyên tắc thống nhất vũ trụ, tâm lý và luân lý, và theo lời của Polos phái Pythagore[1]: “công bằng là sự hài hòa của linh hồn” (Athénée, IX, 54). Một câu thơ trong Paroles d’or / Lời vàng (13) ra mệnh lệnh là phải thực hành sự công bằng. Theo Aristoxène, Pytagore khẳng định ta phải đặt công bằng chính trị trên cơ sở “Nguyên tắc thần thánh” (Jamblique, Vie de Pythagore / Cuộc đời của Pythagore, 174). Archytas đã viết một chuyên luận Bàn về luật pháp và sự công bằng.
Platon đã xác lập một mối liên hệ mật thiết giữa công bằng luân lý và công bằng chính trị nhờ vào quan niệm của thuyết Pythagore về sự hài hòa. Về mặt luân lý, trong số ba đức hạnh thì mỗi một đức hạnh có liên quan đến một bộ phận trong linh hồn của con người; và có vẻ như chúng độc lập với nhau (autonomes); chính sự công bằng là cái làm cho ba đức hạnh này hòa hợp lại. Về mặt chính trị, thì mỗi đức hạnh có quan hệ với một tầng lớp xã hội riêng biệt; chính sự công bằng xác lập sự hòa hợp giữa ba đức hạnh này, vì qua nó mỗi một tầng lớp xã hội thực hiện một chức năng đóng góp vào lợi ích chung của thành quốc (Rep. IV, 435b-443e). Ngược lại, sự không-công bằng (adikia) là sự không hòa hợp giữa ba phần của linh hồn và ba tầng lớp của xã hội (Rep., IV 434b-c; 444b-d).
Aristote[2]có ý định xử lý vấn đề công bằng luân lý và công bằng chính trị theo cách tách rời nhau, vì con người tư nhân và con người công cộng vốn thực hiện những hoạt động khác nhau (Pol., III, 3-7).Tuy nhiên, ông không thể xử lý vấn đề trước, ông dành cả một quyển để bàn riêng về nó, mà lại không dựa vào luật pháp: công bằng được xác định qua quyền bình đẳng và tính hợp pháp; vì sự công bằng chỉ có với những ai sống theo pháp luật, cần điều chỉnh các quan hệ của mình (Éth. Nic. V, II, VI).Tuy nhiên, để có đức hạnh thì hành động công minh cần phải được đi kèm một cách tự nguyện (ibid., V, II, 1-3; V, 1; VIII, 1-4). Mặt khác, Aristote tiến hành phân loại những hình thức khác nhau của sự công bằng: công bằng phân phối (thời Trung đại, chữ này không có trong văn bản), một hình thức phân phối danh vọng và tài sản (ibid., V, II, 12; III, 7; IV, 2);công bằng tu chỉnh (sunallagmatikê), tức là cái không tự nguyện, và coi việc sửa lại sự không công bằng là công việc của quan tòa. Chúng ta hãy trở lại với luật pháp. Trong Chính trị học, thay vì xét sự công bằng như là thiết chế, Aristote xem xét nó như là đức hạnh công dân, cốt ở chỗ nó phục vụ cho lợi ích chung (III, IV, 1-7).
Đối với Archélaos, sự công bằng và không-công bằng không tự nhiên có được, mà là do thỏa ước (D. L., II, 16). Theo ông, Épicure đã quy sự công bằng về khế ước (sunthêkê) và đặt nó trên cơ sở tính hữu ích (Maximes / Các châm ngôn, 33, 36, 37). Plotin không mấy quan tâm đến vấn đề sự công bằng; có một sự công chính (dikê) phổ quát, được giả định bởi Linh hồn, và là cái phối hợp với sự chuyển động của các thiên thể (II, III, 8); và đối với từng linh hồn của con người, sự công chính cốt ở chỗ lựa chọn thể xác thích hợp với nó khi nó hiện thân (IV, III, 13).
[1] Hay là Polo xứ Lucanie, đừng lầm với biện sĩ Polos xứ Agrigente.[2] Theo Cicéron (Rep., III, 8), Aristote đã viết chuyên luận Bàn về sự công bằng thành bốn quyển.
Ivan Gobry
Le vocabulaire grec de la philosophie
Éd. Ellipses, 2000.
--- o0o ---
DIKAOSUNÊ (HÊ) : CÔNG BẰNG (SỰ)
[t. Latinh : justitia; t.Pháp : la justice]
[t. Latinh : justitia; t.Pháp : la justice]
Thuật ngữ này có hai lớp nghĩa : thiết chế, hay công bằng [trong] chính trị; đức hạnh, hay công bằng [trong] luân lý. Các nhà tư tưởng Hy Lạp bận tâm tới cả hai phương diện này, và công đầu phải kể tới là Platon và Aristote.
Những từ đồng nghĩa đôi khi cũng được sử dụng: dikê, dikaïotês, dikaïon (to): công chính, cái công chính.
Sự công bằng về cơ bản là thước đo (mésotês, méson). Và vì đặc điểm này là đặc điểm của đức hạnh nói chung (Aristote, Éth. Nic., II, VIII), công bằng trở thành đức hạnh quan trọng nhất và đáng ngưỡng mộ nhất; và về điều này, Aristote (ibid. V, I) trích dẫn một câu thơ của Théognis: “Trong công bằng đã có toàn bộ đức hạnh”. Mặt khác, kể từ Platon trở đi, công bằng trở thành một trong bốn phẩm chất chính yếu, nó đi cùng hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự minh triết (Platon, Rep., IV, 429e-441c), hoặc với sự điều độ, lòng can đảm và sự khôn ngoan thực hành (Zénon, Plotin, I, II, 7). x. Arétê.
Những người phái Pythagore có thái độ hết sức cung kính trước sự công bằng, vì trong hệ thống của họ, sự hài hòa là nguyên tắc thống nhất vũ trụ, tâm lý và luân lý, và theo lời của Polos phái Pythagore[1]: “công bằng là sự hài hòa của linh hồn” (Athénée, IX, 54). Một câu thơ trong Paroles d’or / Lời vàng (13) ra mệnh lệnh là phải thực hành sự công bằng. Theo Aristoxène, Pytagore khẳng định ta phải đặt công bằng chính trị trên cơ sở “Nguyên tắc thần thánh” (Jamblique, Vie de Pythagore / Cuộc đời của Pythagore, 174). Archytas đã viết một chuyên luận Bàn về luật pháp và sự công bằng.
Platon đã xác lập một mối liên hệ mật thiết giữa công bằng luân lý và công bằng chính trị nhờ vào quan niệm của thuyết Pythagore về sự hài hòa. Về mặt luân lý, trong số ba đức hạnh thì mỗi một đức hạnh có liên quan đến một bộ phận trong linh hồn của con người; và có vẻ như chúng độc lập với nhau (autonomes); chính sự công bằng là cái làm cho ba đức hạnh này hòa hợp lại. Về mặt chính trị, thì mỗi đức hạnh có quan hệ với một tầng lớp xã hội riêng biệt; chính sự công bằng xác lập sự hòa hợp giữa ba đức hạnh này, vì qua nó mỗi một tầng lớp xã hội thực hiện một chức năng đóng góp vào lợi ích chung của thành quốc (Rep. IV, 435b-443e). Ngược lại, sự không-công bằng (adikia) là sự không hòa hợp giữa ba phần của linh hồn và ba tầng lớp của xã hội (Rep., IV 434b-c; 444b-d).
Aristote[2]có ý định xử lý vấn đề công bằng luân lý và công bằng chính trị theo cách tách rời nhau, vì con người tư nhân và con người công cộng vốn thực hiện những hoạt động khác nhau (Pol., III, 3-7).Tuy nhiên, ông không thể xử lý vấn đề trước, ông dành cả một quyển để bàn riêng về nó, mà lại không dựa vào luật pháp: công bằng được xác định qua quyền bình đẳng và tính hợp pháp; vì sự công bằng chỉ có với những ai sống theo pháp luật, cần điều chỉnh các quan hệ của mình (Éth. Nic. V, II, VI).Tuy nhiên, để có đức hạnh thì hành động công minh cần phải được đi kèm một cách tự nguyện (ibid., V, II, 1-3; V, 1; VIII, 1-4). Mặt khác, Aristote tiến hành phân loại những hình thức khác nhau của sự công bằng: công bằng phân phối (thời Trung đại, chữ này không có trong văn bản), một hình thức phân phối danh vọng và tài sản (ibid., V, II, 12; III, 7; IV, 2);công bằng tu chỉnh (sunallagmatikê), tức là cái không tự nguyện, và coi việc sửa lại sự không công bằng là công việc của quan tòa. Chúng ta hãy trở lại với luật pháp. Trong Chính trị học, thay vì xét sự công bằng như là thiết chế, Aristote xem xét nó như là đức hạnh công dân, cốt ở chỗ nó phục vụ cho lợi ích chung (III, IV, 1-7).
Đối với Archélaos, sự công bằng và không-công bằng không tự nhiên có được, mà là do thỏa ước (D. L., II, 16). Theo ông, Épicure đã quy sự công bằng về khế ước (sunthêkê) và đặt nó trên cơ sở tính hữu ích (Maximes / Các châm ngôn, 33, 36, 37). Plotin không mấy quan tâm đến vấn đề sự công bằng; có một sự công chính (dikê) phổ quát, được giả định bởi Linh hồn, và là cái phối hợp với sự chuyển động của các thiên thể (II, III, 8); và đối với từng linh hồn của con người, sự công chính cốt ở chỗ lựa chọn thể xác thích hợp với nó khi nó hiện thân (IV, III, 13).
Đinh Hồng Phúc dịch
[1] Hay là Polo xứ Lucanie, đừng lầm với biện sĩ Polos xứ Agrigente.[2] Theo Cicéron (Rep., III, 8), Aristote đã viết chuyên luận Bàn về sự công bằng thành bốn quyển.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: