Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Câu đối Tết
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vosong" data-source="post: 18956" data-attributes="member: 92"><p><span style="font-family: 'arial'">Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ:</span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"><em>Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên</em></span></p><p><span style="font-family: 'arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'arial'">(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;</span></p><p><span style="font-family: 'arial'">Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)</span></p><p></p><p>Ở làng tranh Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối:</p><p></p><p><em>Từ thời xuân tại thủ</em></p><p><em>Ngũ phúc thọ vi tiên</em></p><p></p><p>Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông.</p><p></p><p>Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành: "ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn): "Đức lưu quang" (Đức chan hoà ánh sáng).</p><p></p><p>Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng.</p><p></p><p>Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Đồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Đó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Độ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Đào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa.</p><p></p><p>Đời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gưi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết. Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.</p><p></p><p><em>Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;</em></p><p><em>Triều đình chu tử tổng ngõ gia.</em></p><p><em></em></p><p><em>(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ</em></p><p><em>Đỏ tía triều đình tự cửa ta)</em></p><p></p><p>Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Đây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:</p><p></p><p><em>Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa</em></p><p><em>Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.</em></p><p></p><p>Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao.</p><p></p><p><em>Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết</em></p><p><em>Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.</em></p><p></p><p>Gần 10 năm nay, người Hà Nội đã quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà Nho: Bùi Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn... Hàng ngày cùng với việc bốc thuốc dạy học nghiên cứu các vị còn say xưa, viết chữ chân, thảo, lệ... tặng cho những người yêu Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày thường đã cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đã thành lệ đẹp vào dịp Tết, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chúc triển lãm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số nhà nho lại được mời đến viết câu đối tết. Vẻ xưa khơi dậy đã thu hút hàng ngàn người trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng. (Trích từ Văn Hóa Việt)</p><p> </p><p>Câu đối Việt Nam được <span style="color: #0000ff">Dương Quảng Hàm</span> phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau: <ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối mừng</strong>: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới... <em>Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.</em> <em>Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm</em> (<span style="color: #0000ff">Nguyễn Khuyến</span>, viết mừng một <span style="color: #0000ff">chánh tổng</span> trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối phúng</strong>: làm để viếng người chết. <em>Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,</em> <em>tất tưởi chân nam chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc</em> <em>Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,</em> <em>gật gù tay đũa tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.</em> (<span style="color: #0000ff">Nguyễn Khuyến</span>: câu đối khóc vợ)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối Tết</strong>: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp <span style="color: #0000ff">Tết Nguyên Đán</span>. <em>Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.</em> <em>Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.</em> (<span style="color: #0000ff">Nguyễn Công Trứ</span>, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối thờ</strong>: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ. <em>Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.</em> <em>Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.</em> (Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc: <em>Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh</em> <em>Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang</em> (Câu đối thờ <span style="color: #0000ff">Tuệ Tĩnh</span> ở đền Bia) <em>Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.</em> <em>Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.</em> (Câu đối khắc ở <span style="color: #0000ff">chùa Diệu Đức</span>, <span style="color: #0000ff">Huế</span>).</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối tự thuật</strong>: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi. <em>Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.</em> <em>Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng ềnh</em> (<span style="color: #0000ff">Nguyễn Công Trứ</span>, câu đối tự thuật)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối đề tặng</strong>: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác. <em>Nếu giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm</em> <em>Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng</em> (<span style="color: #0000ff">Lê Thánh Tông</span>, câu đối đề ở một hàng bán giầu (trầu) nước)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối tức cảnh</strong>: là những câu tả ngay cảnh trước mắt. <em>Giơ tay với thử trời cao thấp</em> <em>Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài</em> (<span style="color: #0000ff">Hồ Xuân Hương</span>, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối chiết tự</strong> (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách <span style="color: #0000ff">chữ Hán</span> hoặc <span style="color: #0000ff">chữ Nôm</span> ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu. <em>Tự</em> (字) <em>là chữ, cất giằng đầu, chữ tử</em> (子) <em>là con, con ai con nấy?</em> <em>Vu</em> (于) <em>là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh</em> (丁) <em>là đứa, đứa nào đứa này?</em></li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối trào phúng</strong>: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó. <em>Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn <strong>hai mắt</strong> lại.</em> <em>Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có <strong>một ngươi</strong> thôi</em> (Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)</li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối tập cú</strong>: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở <span style="color: #0000ff">tục ngữ</span>, <span style="color: #0000ff">ca dao</span>. <em>Gái có chông như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.</em> <em>Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.</em></li> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Câu đối thách (đối hay đố)</strong>: người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa... <em>Con <strong>cóc</strong> leo cây vọng <strong>cách</strong>, nó rơi xuống <strong>cọc</strong>, nó <strong>cạch</strong> đến già</em> <em>Con <strong>công</strong> đi qua chùa <strong>kênh</strong>, nó nghe tiếng <strong>cồng</strong> nó <strong>kềnh</strong> cổ lại</em> (Câu đối có bốn chữ : <em>cóc cách cọc cạch</em> đối với bốn chữ <em>công kênh cồng kềnh</em>)</li> </ul><p>Có những vế câu đối rất khó đối như: <ul> <li data-xf-list-type="ul"><em>Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.</em> Vế này khó đối vì <em>hồi hương</em> (cũng có nghĩa "về quê") và <em>phụ tử</em> (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.</li> <li data-xf-list-type="ul"><em>Vào vụ <strong>đông</strong> trường <strong>nam</strong> bón phân <strong>bắc</strong> trồng khoai <strong>tây</strong>, Sang <strong>xuân hạ</strong> quyết tâm <strong>thu</strong> hàng tấn củ.</em> Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở <span style="color: #0000ff">Việt Nam</span>)</li> <li data-xf-list-type="ul"><em>Da trắng vỗ bì bạch</em></li> <li data-xf-list-type="ul">Vế đối này của <span style="color: #0000ff">Đoàn Thị Điểm</span>, hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển <em><span style="color: #0000ff">Thế giới mới</span></em> được coi là tạm ổn nhất.</li> </ul><p>Câu này là "Tay sơ sờ tí ti" có thể coi là được chăng,câu này có trong "Thế giới mới" Tí cũng là tay, tí ti là một chút xíu, cũng là một từ láy âm tay sơ là tay còn trong sạch, nguyên vẹn. Xin đóng góp thêm một câu đối về câu: "da trắng vỗ bì bạch" "rừng sâu mưa lâm thâm" hay "trời xanh màu thiên thanh".</p><p></p><p style="text-align: right"><strong>Trích từ Wikipedia</strong></p> <p style="text-align: right"></p> <p style="text-align: right"><strong><em>Nguồn: e-cadao.com</em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vosong, post: 18956, member: 92"] [FONT=arial]Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử. Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ: [I]Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên[/I] (Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân; Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)[/FONT] Ở làng tranh Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối: [I]Từ thời xuân tại thủ Ngũ phúc thọ vi tiên[/I] Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông. Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành: "ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn): "Đức lưu quang" (Đức chan hoà ánh sáng). Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng. Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Đồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Đó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Độ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Đào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa. Đời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gưi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết. Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết. [I]Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ; Triều đình chu tử tổng ngõ gia. (Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ Đỏ tía triều đình tự cửa ta)[/I] Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Đây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến: [I]Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.[/I] Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao. [I]Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.[/I] Gần 10 năm nay, người Hà Nội đã quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà Nho: Bùi Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn... Hàng ngày cùng với việc bốc thuốc dạy học nghiên cứu các vị còn say xưa, viết chữ chân, thảo, lệ... tặng cho những người yêu Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày thường đã cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đã thành lệ đẹp vào dịp Tết, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chúc triển lãm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số nhà nho lại được mời đến viết câu đối tết. Vẻ xưa khơi dậy đã thu hút hàng ngàn người trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng. (Trích từ Văn Hóa Việt) Câu đối Việt Nam được [COLOR=#0000ff]Dương Quảng Hàm[/COLOR] phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:[LIST] [*][B]Câu đối mừng[/B]: làm để tặng người khác trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới... [I]Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.[/I] [I]Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm[/I] ([COLOR=#0000ff]Nguyễn Khuyến[/COLOR], viết mừng một [COLOR=#0000ff]chánh tổng[/COLOR] trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.) [*][B]Câu đối phúng[/B]: làm để viếng người chết. [I]Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,[/I] [I]tất tưởi chân nam chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc[/I] [I]Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,[/I] [I]gật gù tay đũa tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.[/I] ([COLOR=#0000ff]Nguyễn Khuyến[/COLOR]: câu đối khóc vợ) [*][B]Câu đối Tết[/B]: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp [COLOR=#0000ff]Tết Nguyên Đán[/COLOR]. [I]Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.[/I] [I]Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.[/I] ([COLOR=#0000ff]Nguyễn Công Trứ[/COLOR], câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.) [*][B]Câu đối thờ[/B]: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ. [I]Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.[/I] [I]Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.[/I] (Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết) hoặc: [I]Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh[/I] [I]Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang[/I] (Câu đối thờ [COLOR=#0000ff]Tuệ Tĩnh[/COLOR] ở đền Bia) [I]Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.[/I] [I]Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.[/I] (Câu đối khắc ở [COLOR=#0000ff]chùa Diệu Đức[/COLOR], [COLOR=#0000ff]Huế[/COLOR]). [*][B]Câu đối tự thuật[/B]: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi. [I]Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.[/I] [I]Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng ềnh[/I] ([COLOR=#0000ff]Nguyễn Công Trứ[/COLOR], câu đối tự thuật) [*][B]Câu đối đề tặng[/B]: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác. [I]Nếu giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm[/I] [I]Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng[/I] ([COLOR=#0000ff]Lê Thánh Tông[/COLOR], câu đối đề ở một hàng bán giầu (trầu) nước) [*][B]Câu đối tức cảnh[/B]: là những câu tả ngay cảnh trước mắt. [I]Giơ tay với thử trời cao thấp[/I] [I]Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài[/I] ([COLOR=#0000ff]Hồ Xuân Hương[/COLOR], vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng) [*][B]Câu đối chiết tự[/B] (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là những câu do sự tách [COLOR=#0000ff]chữ Hán[/COLOR] hoặc [COLOR=#0000ff]chữ Nôm[/COLOR] ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu. [I]Tự[/I] (字) [I]là chữ, cất giằng đầu, chữ tử[/I] (子) [I]là con, con ai con nấy?[/I] [I]Vu[/I] (于) [I]là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh[/I] (丁) [I]là đứa, đứa nào đứa này?[/I] [*][B]Câu đối trào phúng[/B]: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó. [I]Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn [B]hai mắt[/B] lại.[/I] [I]Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có [B]một ngươi[/B] thôi[/I] (Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ) [*][B]Câu đối tập cú[/B]: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở [COLOR=#0000ff]tục ngữ[/COLOR], [COLOR=#0000ff]ca dao[/COLOR]. [I]Gái có chông như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.[/I] [I]Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.[/I] [*][B]Câu đối thách (đối hay đố)[/B]: người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa... [I]Con [B]cóc[/B] leo cây vọng [B]cách[/B], nó rơi xuống [B]cọc[/B], nó [B]cạch[/B] đến già[/I] [I]Con [B]công[/B] đi qua chùa [B]kênh[/B], nó nghe tiếng [B]cồng[/B] nó [B]kềnh[/B] cổ lại[/I] (Câu đối có bốn chữ : [I]cóc cách cọc cạch[/I] đối với bốn chữ [I]công kênh cồng kềnh[/I])[/LIST]Có những vế câu đối rất khó đối như:[LIST] [*][I]Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.[/I] Vế này khó đối vì [I]hồi hương[/I] (cũng có nghĩa "về quê") và [I]phụ tử[/I] (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc. [*][I]Vào vụ [B]đông[/B] trường [B]nam[/B] bón phân [B]bắc[/B] trồng khoai [B]tây[/B], Sang [B]xuân hạ[/B] quyết tâm [B]thu[/B] hàng tấn củ.[/I] Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở [COLOR=#0000ff]Việt Nam[/COLOR]) [*][I]Da trắng vỗ bì bạch[/I] [*]Vế đối này của [COLOR=#0000ff]Đoàn Thị Điểm[/COLOR], hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng chưa chỉnh, câu đối đã được đăng ở quyển [I][COLOR=#0000ff]Thế giới mới[/COLOR][/I] được coi là tạm ổn nhất.[/LIST]Câu này là "Tay sơ sờ tí ti" có thể coi là được chăng,câu này có trong "Thế giới mới" Tí cũng là tay, tí ti là một chút xíu, cũng là một từ láy âm tay sơ là tay còn trong sạch, nguyên vẹn. Xin đóng góp thêm một câu đối về câu: "da trắng vỗ bì bạch" "rừng sâu mưa lâm thâm" hay "trời xanh màu thiên thanh". [RIGHT][B]Trích từ Wikipedia[/B] [B][I]Nguồn: e-cadao.com[/I][/B][/RIGHT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Câu đối Tết
Top