Cả nước trực tiếp chống đế quốc Mĩ xâm lược (1965 - 1973)

Chị Lan

New member
CẢ NƯỚC TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC (1965 - 1973)​


Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trong gần 10 năm, kể từ sau khi đế quốc Mĩ phát động chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đến khi Hiệp định Phụ được kí kết. Đây là thời kì cả nước có chiến tranh dưới những hình thức và mức độ khác nhau.

I- Đế quốc Mĩ leo thang mở rộng chiến tranh xâm lược (1965-1968)

Ngay từ đầu năm 1965, khi chiến lược "chiến tranh đặc biệtt" ở miền Nam Việt Nam phát triển tới đỉnh cao nhất và đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, đế quốc Mĩ vấp phải một tình thế hết sức khó khăn, phải chọn một trong hai giải pháp: Hoặc là tiếp tục dùng quân ngụy đẩy mạnh hơn nữa "chiến tranh đặc biệt", hoặc là chuyển sang một loại hình chiến tranh khác với sự tham gia trực tiếp của quân đội viễn chinh.

Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ không thể tiếp tục chiến lược "chiến tranh đặc biệt" để phải từ bỏ ý đồ xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Vì vậy, từ giữa năm 1965 trở đi, chúng ồ ạt đưa quan dội viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh xâm lược. Đến cuối năm 1965, số lính Mĩ có mặt ở miền Nam Việt Nam đã lên 180.000 quân; số quân chư hầu là 20.000 tên. Đó là chưa kể 70.000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ Mĩ ở Gườm, Philíppin, Thái Lan và Hạm đội 7 trong tư thế sẵn sàng tham chiến khi có lệnh.

Ngày 26-6-1965, Tướng Oétmolen được Chính phủ Mĩ cho phép đưa quân Mĩ ra trận "khi nào thấy cần thiết". Ngày 17-7-1965, Tổng thống Mĩ Giôn xơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mĩ vào miền Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược "Tìm diệt" của Oétmolen. Với quyết định này, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ ở miền Nam chuyển sang giai đoạn mới: Giai đoạn chiến lược “chiến tranh cục bộ ".

"Chiến tranh cục bộ" là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, là một trong ba hình thức chiến tranh trong chiến lược quân sự toàn cầu "Phản ứng linh hoạt". "Chiến tranh cục bộ" bắt đầu từ giữa năm 1965, thay cho "chiến tranh đặc biệt" đã bị phá sản, được tiến hành bằng lực lượng quân đội viễn chinh Mĩ, quân chư hầu 1 và quân ngụy.

Thông qua chiến lược "chiến tranh cục bộ", đế quốc Mĩ nhằm thực hiện 3 âm mưu:

Nhanh chóng tạo ra ưu thế binh lực và hoả lực để có thể áp đảo chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới "tìm diệt", cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang của ta trở về thế phòng ngự, buộc phải phân tán đánh nhỏ, hoặc rút về biên giới, làm cho chiến tranh cách mạng tàn lụi dần.

- Mở rộng và củng cố hậu phương của chúng, lập đội quân "bình định", kết hợp hoạt động càn quét với các hoạt động chính trị và xã hội lừa bịp, tung tiền của để cố thực hiện chu kì được "mặt trận thứ hai", nhằm "tranh thủ trái tim, khối óc". của nhân dân, thực chất là giành lại dân, trước hết là nông dân ở vùng giảiphóng, bắt họ trở lại ách kìm kẹp tàn bạo của Mĩ - ngụy.

- Đe doạ lực lượng cách mạng thế giới.

Mục tiêu chủ yếu của chiến lược "chiến tranh cục bộ" là đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 - 30 tháng (giữa năm 1965 đến cuối năm 1967), với kế hoạch ba giai đoạn:

Giai đoạn 1 : Phá kế hoạch mùa mưa của ta, "chặn chiều hướng thua", bảo đảm triển khai nhanh lực lượng quân viễn chinh Mĩ .

- Giai đoạn 2: Mở các cuộc phản công chiến lược tìm diệt chủ lực của ta và kiểm soát vùng nông thôn.

- Giai đoạn 3 : Hoàn thành việc tiêu diệt khối chủ lực của ta, tiếp tục bình định miền Nam, rút quân Mĩ về nước vào cuối năm 1967.

Để thực hiện được những mục tiêu trên, trong chiến lược "chiến tranh cục bồ", quân viễn chinh Mĩ được coi là con bài chủ yếu, nhưng quân ngụy vẫn được sử dụng như một lực lượng chiến lược quan trọng. Quân Mĩ là lực lượng cơ động chủ yếu để “tìm diệt" bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy là lực lượng chiếm đóng để "bình định", kìm kẹp nhân dân. Quân viễn chinh Mĩ và quân ngụy đều là hai lực lượng chiến lược.

Biện pháp chủ yếu của chiến lược “chiến tranh cục bộ " của Mĩ ở miền Nam Việt Nam là "tìm và diệt"; sau đó "tìm diệt và bình định " được coi như là chiến lược hai gọng kìm; đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc.

Với chiến lược "chiến tranh cục bộ", đế quốc Mĩ đã đi tới một bước leo thang chiến tranh cao nhất và là cố gắng quân sự lớn nhất. Đây cũng là lần đầu tiên Mở đưa nhiều quân nhất đi xâm lược, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong giai đoạn này, Mĩ huy động 70% lục quân, 60% lính thuỷ đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mĩ ; 6,5 triệu lượt thanh niên Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, 22.000 xí nghiệp trên đất nước Mĩ cũng được huy động trực tiếp phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam cùng với việc phát động "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đế quốc Mĩ sử dụng lực lượng không quân và hải quân để tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam.

Đế quốc Mĩ đã sớm nhận thấy vai trò hậu phương của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Vì vậy, ngay từ đầu và trong tất cả các thời kì của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam; chúng luôn luôn tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng xãhội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta.

Từ tháng 3-1964, Tổng thống Giônxơn phê chuẩn kế hoạch dùng tàu khu trục Mĩ tuần tiễu ở vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn con đường tiếp tế trên biển của ta; tiến hành quấy rối, trinh sát vùng ven biển; yểm trợ cho tàu biệt kích ngụy vây bắt ngư dân để khai thác tin tức. Vào trung tuần tháng 4-1964, Hội đồng Tham mưu trưởng - liên quân Mĩ vạch ra kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu đánh phá khi được lệnh.

Đến ngày 31-7-1964, tàu khu trục Ma đốc của Mĩ tiến vào khu vực phía Nam đảo Cồn Cỏ để do thám và uy hiếp ta dọc bờ biển. Cùng ngày và tiếp ngày hôm sau (l-8), máy bay Mĩ từ Lào sang bắn phá đồn biên phòng Nậm Cắn và làng Ngông Dẻ nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ " (đêm 4- 8-1964) lấy cớ đánh trả đũa, giới cầm quyền Mĩ ra lệnh cho không quân ném bom bắn phá một số nơi (cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy, Lạch Trường, thị xã Hòn Gai). Nghị quyết về "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” đã được Quốc hội Mĩ thông qua ngày 7- 8-1964, cho phép chính quyền Giôn xơn áp dụng biện pháp chiến tranh không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam.

Tháng 12-1964, sau khi có nghị quyết của Quốc hội làm hậu thuẫn, Tổng thống Giôn xơn chính thức thông qua "Kế hoạch Mắc Namara - Bân đi - Nâu tơn " nhằm đưa chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam, dự định thực hiện từ giữa năm 1965. Nhưng do bị thất bại nặng nề ở Bình Giã, Mĩ vội vàng thực hiện kế hoạch trên với hi vọng có thể cứu vãn được tình thế.

Ngày 7-2-1965, lấy cớ đánh trả đũa quân giải phóng miền Nam tấn công vào trại lính Mĩ ở Plâycu (đêm 6-2-1965), Giôn xơn ra lệnh cho lực lượng không quân Mĩ mở chiến dịch "Mũi lao lửa ", ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân với quy mô ngày càng lớn, mức độ ngày càng ác liệt. Đế quốc Mĩ coi cuộc chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc như là một biện pháp bổ sung, chứ không phải là biện pháp thay thế cho cuộc chiến tranh trên bộ của chúng ở miền Nam. Thông qua cuộc chiến tranh phá hoại, đế quốc Mĩ nhằm gây sức ép đối với Việt Nam, làm giảm sức tiến công của lực lượng cách mạng miền Nam, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Những mục tiêu cụ thể mà chúng hi vọng có thể đạt được là:

- Phá hoại tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

- Ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài và từ miền Bắc vào miền Nam.

- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc.

Với những mục tiêu trên, đế quốc Mĩ đã huy động vào cuộc chiến tranh một lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau, với các loại vũ khí hiện đại.

Không quân và hải quân Mĩ tập trung đánh phá các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nông trường, các công trình thủy lợi, các khu vực đông dân, các trường học, nhà trẻ, bệnh viện, nhà thờ, đền, chùa...

Trong những năm 1965 - 1968, nhất là trong hai năm 1966 - 1967, máy bay, tàu chiến Mĩ liên tục ném bom, bắn phá khắp mọi nơi, mọi lúc, với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày có tới 300 lần chiếc máy bay ném khoảng 1.600 tấn bom đạn xuống các làng mạc, thành phố, cướp đi sinh mạng và gây thương tích cho nhiều người dân thường vô tội. Bom đạn của chúng cũng đã gây thiệt hại lớn về của cải, tàn phá nhiều cơ sở kinh tế và các công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã tạo ra trong hơn 10 năm trước.

Như vậy, từ năm 1965, với hành động leo thang mở rộng chiến tranh của đế quốc Mĩ, thời kì một nửa có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã chấm dứt. Cả nước ta bước vào thời kì có chiến tranh với những hình thức và mức độ khác nhau.

II- Cả nước trực tiêp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược (1965 - 1968)

1- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ " của đê quốc Mĩ


Ngay từ khi quân viễn chinh Mĩ ồ ạt vào miền Nam trực tiếp tham chiến, tại Hội nghị lần thứ 12 (l2-1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã nhận định: Chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mĩ vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, tính chất và mục đích chính trị của nó không có gì thay đổi. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh sẽ diễn ra ác liệt hơn, bởi vì không chỉ có quân ngụy như trước, mà chúng ta còn phải trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mĩ và quân chư hầu ngày càng tăng và trang bị hiện đại hơn. Đế quốc Mĩ tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược trong thế thua, thế bị động, theo một chiến lược chứa đầy mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa mục đích chính trị của cuộc chiến tranh là nhằm cứu vãn chế độ thực dân mới với biện pháp xâm lược theo lối thực dân kiểu cũ. Quân Mĩ dù được trang bị hiện đại, nhưng tinh thần chiến đấu lại kém do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh. Tình hình đó cùng với chiến lược toàn cầu không cho phép giới cầm quyền Mĩ huy động theo ý muốn tiềm lực kinh tế và quân sự của nước Mĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam.

Mặt khác, việc Mĩ mở rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam, Bắc đã làm cho mâu thuẫn vốn có giữa nhân dân ta với đế quốc Mĩ và tay sai càng sâu sắc, nhân dân hai miền càng gắn bó chặt chẽ với nhau trong chiến đấu. Trong khi đó, cách mạng miền Nam đang ở thế thắng, thế trận chiến tranh nhân dân đã hình thành đều khắp trên toàn miền; công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, thực sự trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam. Từ những phân tích trên đây, Trung ương Đảng đi đến một kết luận rất quan trọng: Mặc dù đế quốc Mĩ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn Vì vậy, cách mạng miền Nam phải tiếp tục giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Cuộc chiến tranh tuy ngày càng gay go, ác liệt nhưng "nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch" .

Tuy nhiên, hoàn cảnh quốc tế lúc này cũng rất phức tạp, vừa có thêm thuận lợi mới cho ta, lại vừa có khó khăn mới. Chủ nghĩa xét lại Khơrútsốp sụp đổ là một bước ngoặt trong đời sống chính trị của Liên Xô và trong chính sách của Liên Xô đối với Việt Nam, có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Liên Xô đã dành cho ta sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả hơn trước.

Nhưng do đánh giá quá cao sức mạnh của Mĩ, Liên Xô trên mọi cách hướng ta đi vào thương lượng với Mĩ dù điều kiện chưa chín muồi . Ở Trung Quốc, cuộc cách mạng văn hoá là một tai hoạ lớn của cách mạng Trung Quốc và tác động ngày càng xấu đến chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam. Một mặt, Trung Quốc vẫn tích cực giúp ta kháng chiến chống Mĩ , mặt khác lại muốn lôi kéo ta theo đường lối của Trung Quốc. Trong hoàn cảnh ấy, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao, tăng cường tiếp xúc cả công khai và bí mật giữa ta với nhiều nước trên thế giới để làm rõ chính nghĩa và thiện chí của ta; góp phần hình thành trên thực tế một mặt trận nhân dân toàn thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mĩ xâm lược. Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương Đảng, với ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, lại được sự phối hợp và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và liên tiếp giành nhiều thắng lợi.

Tiếp theo trận thắng đầu tiên tiêu diệt gọn một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mĩ ở Núi Thành (Quảng Nam, 28-5-1965), là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân ta ở Vạn Tường (8- 1965).

Mờ sáng 18-8-1965, sau khi đã chiếm được Chu Lai (Quảng Nam), khoảng 9.000 lính thuỷ đánh bộ Mĩ mở cuộc hành quân mang tên "ánh sáng sao " vào thôn Vạn Tường (xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngài), với ý đồ tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta, tìm kiếm một thắng lợi quân sự để gây uy thế cho lính thuỷ đánh bộ Mĩ, lấn chiếm vùng giải phóng và mở rộng vùng an toàn cho căn cứ Chu Lai. Để yểm trợ cho lực lượng tham gia càn quét, chúng huy động 6 tàu đổ bộ, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay chiến đấu. Tại Vạn Tường, 1 trung đoàn chủ lực Quân Giải phóng phối hợp với lực lượng du kích và nhân dân địa phương tổ chức chống càn. Sau một ngày chiến đấu, quân và dân ta đã đẩy lùi cuộc hành quân càn quét của địch, diệt 900 tên, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi 13 máy bay. Vạn Tường là trận đầu tiên quân viễn chinh Mĩ trực tiếp chiến đấu với quy mô lớn trên chiến trường miền Nam, sử dụng cả hải, lục không quân và đã bị thất bại nặng nề. Chiến thắng Vạn Tường chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng đế quốc Mĩ về quân sự trong chiến lược "chiến tranh cục bộ". Vạn Tường được coi như là một "ấp Bắc" đối với quân Mĩ. Nó mở đầu cao trào diệt Mĩ trên toàn miền Nam. Một làn sóng "Tìm Mĩ mà đánh, tìm ngụy mà diệt " dâng cao khắp miền Nam. Các "vành đai diệt Mĩ " xuất hiện ở nhiều nơi, điển hình là Chu Lai, Hoà Vang (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)... Tiếp theo trận Vạn Tường, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967.

Trong mùa khô 1965 - 1966, với lực lượng khoảng 720.000 quân, trong đó có gần 220.000 quân viễn chinh và chư hầu, đế quốc Mĩ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất. Cuộc phản công bắt đầu từ tháng 1-1966 và kéo dài trong 4 tháng, gồm 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân "tìm diệt " then chốt, nhằm vào hai hướng chính là đồng bằng Liên khu V và Đông Nam Bộ. Mục tiêu cuộc phản công là nhằm đánh bại chủ lực Quân Giải phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường, củng cố lực lượng ngụy quân. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân và bằng nhiều phương thức tác chiến khác nhau, quân và dân ta đã chặn đánh địch trên mọi hướng, tiến công chúng khắp mọi nơi, điển hình là các trận đánh chặn địch ở Củ Chi (tháng 1 và tháng 2-1966), ở Bắc Bình Định (từ ngày 28-1 đến ngày 7-3-1966); tập kích các sân bay: Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi. . . , các căn cứ của Mĩ - ngụy , tiêu biểu là cuộc tập kích khách sạn Víchtona (l-4-1966) diệt 200 sĩ quan Mĩ ... Tính chung trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 100.000 địch, trong đó có 40.000 lính Mĩ, 3.000 quân chư hầu; bắn rơi và phá huỷ 900 máy bay, phá huỷ 6.000 xe quân sự, trong đó có 350 xe tăng, xe bọc thép .

Bị thất bại nặng nề trong cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, đế quốc Mĩ để một thời gian dài chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Trên cơ sở đã có một lực lượng hơn 980.000 quân, trong đó có 440.000 quân viễn chinh và quân chư hầu, bước vào mùa khô 1966 - 1967, đế quốc Mĩ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Với mục tiêu tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não cách mạng miền Nam, chúng mở tới 895 cuộc hành quân lớn, nhỏ; trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt nhất: Cuộc hành quân Áttơnborơ đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), diễn ra vào tháng 11-1966, gồm 3 lữ đoàn, tương đương 30.000 quân; cuộc hành quân Xêđaphôn đánh vào vùng tam giác Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi, diễn ra vào tháng 1-1967, gồm 3 lữ đoàn Mĩ (30.000 quân) cùng 3 chiến đoàn ngụy; và cuộc hành quân Gianxơn Xiti đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, có quy mô lớn nhất và dài ngày nhất (từ 25-2 đến 15- 3-1967).

Trong cuộc hành quân Gianxơn Xiti, toàn bộ lực lượng cơ động của Mĩ ở vùng Đông Nam Bộ, gồm 6 lữ đoàn pháo binh, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn công binh cùng với 1 chiến đoàn lính thuỷ đánh bộ và một số đơn vị biệt kích ngụy (tổng cộng 45.000 quân), hơn 800 xe tăng và xe bọc thép, hơn 200 khẩu pháo, hàng trăm máy bay chiến đấu, cùng với hàng ngàn xe hơi và hàng trăm máy bay vận tải quân sự 1 được huy động nhằm bao vây, càn quét một khu vực dài 35 km, rộng 25 km, âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não cách mạng miền Nam (Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) và chủ lực Quân Giải phóng; phá hoại kho tàng dự trữ của ta; lấn chiếm, chia cắt và triệt phá căn cứ kháng chiến; phong toả biên giới.

Trong lúc đế quốc Mĩ đang ồ ạt đưa thêm quân vào miền Nam chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, Trung ương Đảng chủ trương mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ngay trong tháng 6-1966, tạo nên hướng tiến công mới trên một địa bàn chiến lược trọng yếu, buộc địch phải phân tán một bộ phận quan trọng quân chủ lực ra phía Bắc. Cùng với những cuộc tiến công địch trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị và các chiến trường khác, quân và dân ta trên toàn miền liên tiếp mở hàng loạt cuộc phản công đánh bại các cuộc hành quân của địch.

Ba cuộc hành quân lớn "tìm diệt " và "bình định " của quân Mĩ đều bị đánh tan, trong đó cuộc hành quân Gian xơn Xin bị thất bại nặng nề nhất: Hơn 11.000 tên địch, hầu hết là Mĩ, bị loại khỏi vòng chiến đấu, 900 xe quân sự các loại bị phá huỷ (có 700 xe tăng và xe bọc thép M.l13), 143 máy bay bị bắn rơi. Tính chung trong mùa khô 1966 - 1967, trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 170.000 địch; trong đó có 70.000 tên Mĩ, 5.000 quân chư hầu; bắn rơi và phá huỷ 1.800 máy bay; phá huỷ 1.700 xe quân sự, 300 khẩu pháo, bắn chìm và bắn cháy 100 tàu, xuồng chiến đấu .

Thắng lợi trên mặt trận quân sự của các lực lượng vũ trang cách mạng đã tạo thế cho phong trào đấu tranh chính trị lan rộng trong các tầng lớp nhân dân.

Ở hầu khắp các vùng nông thôn miền Nam, quần chúng nông dân, được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp, trừng trị bọn ác ôn, phá vỡ từng mảng lớn ấp chiến lược, làm thất bại âm mưu "bình định ", giành dân của Mĩ - ngụy.

Trong hầu hết các thành thị miền Nam, giai cấp công nhân cùng các tầng lớp lao động, học sinh, sinh viên, Phật tử, các binh sĩ ngụy... nổi dậy đấu tranh đòi lật đổ chính phủ bù nhìn Thiệu - Kì, đòi Mĩ rút quân về nước và đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống. Phong trào nổ ra mạnh mẽ ở các thành phố, nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Tại Đà Nẵng, lợi dụng mâu thuẫn giữa các phe phái trong nội bộ ngụy quyền, khi Nguyễn Cao Kì (Thủ tướng bù nhìn) cách chức Nguyễn Chánh Thi (Tư lệnh Quân đoàn I), ngày 10-3- 1966, Đảng bộ địa phương phát động quần chúng đứng lên đấu tranh chống Mĩ - ngụy.

Ngày 19-3-1966, Tổng hội sinh viên Huế cử người vào Đà Nẵng tổ chức cuộc hội thảo về hai vấn đề: Tác hại của đồng đơm, bán nước hay cứu nước, thu hút đông đảo sinh viên và học sinh Đà Nẵng tham gia.

Cùng thời gian trên, tại các thành phố Huế, Đà Nẵng và nhiều nơi khác tổ chức yêu nước mang tên “lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng" ra đời, có cơ sở của ta làm nòng cất, hoạt động công khai trong bộ phận những người làm nghề lái xe, công chức và học sinh...

Từ cuối tháng 3-1966 trở đi, phong trào đấu tranh của nhân dân Huế - Đà Nẵng có bước chuyển biến mới. Nhiều cuộc tổng bãi công, bãi khoá, bãi thị nổ ra đã làm tê liệt mọi hoạt động của địch trong thành phố. Đáng chú ý là cuộc đấu tranh ngày 30-3- 1966 của 100.000 công nhân và các tầng lớp lao động ở thành phố Đà Nẵng. Phối hợp với cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân Đà Nẵng, nhân dân thành phố Huế đốt Phòng thông tin Mĩ, phá Lãnh sự Mĩ và đốt phá nhà cửa của bọn tay sai. Phong trào đấu tranh của nhân dân Huế và Đà Nẵng có ảnh hưởng lớn đến các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân ở Sài Gòn và nhiều thành phố, thị xã khác.

Tại Sài Gòn, ngày 21-6-1966, khoảng 7.000 công nhân trên các công trường xây dựng sân bay Biên Hoà, Tân Sơn Nhất và cảng Sài Gòn tổ chức bãi công chống chủ hãng. Đến ngày 24-6, số lượng công nhân tham gia đấu tranh lên tới 15.000 người, chiếm gần 50% tổng số công nhân của hãng này. Cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn đã làm tê liệt hơn 10 công trình xây dựng quân sự Mĩ ở miền Nam. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của công nhân, ngày 27-6- 1966, Đại sứ Mĩ Ca bết Lốt, Tướng Oetmolen và chủ hãng RMK - BRJ phải chấp nhận giải quyết một phần yêu sách của công nhân, trong đó có yêu sách tăng lương.

Đầu tháng 1-1968, khoảng 3.500 công nhân nhà máy điện và nước thành phố Sài Gòn bãi công phản đối ngụy quyền Thiệu - Kì cắt giảm lương; đồng thời đòi tăng lương cho công nhân. Cuộc bãi công của công nhân nhà máy điện đã làm cho nhiều ngành sản xuất phải ngừng hoạt động vì thiếu điện. Ngụy quyền Sài Gòn một mặt bắt giam một số công nhân, một mặt cho quân đội chiếm nhà máy điện, nước, hòng dập tắt phong trào, nhưng công nhân vẫn tiếp tục bãi công. Hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân điện, nước, ngày 12-1-1968, công nhân cảng Sài Gòn tổ chức bãi công. Ngày 13-1-1968, ngụy quyền Sài Gòn ra lệnh cho cảnh sát dùng áp lực bắt công nhân điện, nước và công nhân bốc vác phải trở lại làm việc; nhưng công nhân kiên quyết chống lệnh, tiếp tục bãi công. Phong trào càng lan rộng. Ngày 15-1- 1968, khoảng 5.700 công nhân lái xe, công nhân nhà máy dệt và nhiều nhà máy khác ở Sài Gòn đấu tranh ủng hộ cuộc bãi công của công nhân điện, nước. Tính đến ngày 16-1-1968, ở thành phố Sài Gòn đã có 17.000 công nhân thuộc nhiều ngành tham gia đấu tranh.

Trước tình hình đó, ngụy quyền Sài Gòn phải nhượng bộ, chấp nhận tăng 12% lương cho công nhân kể từ tháng 9-1967. Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam trong những năm 1965 - 1968 không chỉ nhằm vào ngụy quân, ngụy quyền, mà còn trực tiếp chĩa vào quân viễn chinh Mĩ và quân chư hầu. Ngày 20-1-1967, ở Quảng Ngài, có gần 40.000 người kẻo về thị xã và các thị trấn, tố cáo tội ác của lính Mĩ và lính Phê Chung Hi; gần 10.000 người chặn xe bọc thép Mĩ trên Đường số 1, đòi Mĩ rút quân về nước. Tại căn cứ Chu Lai, hàng vạn người kẻo đến đấu tranh trực diện với lính Phê Chung Hi, đòi chúng chấm dứt các hành động tội ác, đòi bồi thường những thiệt hại do chúng gây ra.

Thắng lợi của phong trào đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân miền Nam mở rộng quyền làm chủ ở các vùng nông thôn và ven đô thị. Uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng không chỉ ở trong nước, mà cả trên trường quốc tế. Tính đến cuối năm 1967, Mặt trận đã có các cơ quan thường trực ở các nước: Liên Xô, Cu Ba, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Campuchia, Cộng hoà Ả Rập Thống nhất, Angiêri, Inđônêxia. Cương lĩnh chính trị của Mặt trận đã được 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ. Nhân dân thế giới cũng ngày càng bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ , cứu nước của nhân dân ta. Hội nghị nhân dân Á - Phi – Mĩ Latinh (1-1966) tại Lahabana (Cu Ba) lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, coi đoàn kết với Việt Nam và việc bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng các nước Á - Phi – Mĩ La - tinh. Trong khi đó, đế quốc Mĩ và tay sai ngày càng bị cô lập trên trường quốc tế.

Theo sáng kiến của nhà bác học Anh Béctơrăng Rútxen, Toà án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam và Đông Dương được thành lập vào giữa năm 1967. Qua hai phiên toà tổ chức trong năm 1967, tội ác chiến tranh của Mĩ được phanh phui trước nhân dân thế giới. Nước Mĩ đứng trước nhiều khó khăn. Kinh tế, tài chính ngày càng giảm sút. Tổng thống Mĩ Giônxơn phải thú nhận: ". Suốt mùa thu năm 1967 và mùa xuân 1968, chúng ta phải đấu tranh với một trong những cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng nhất kém những năm qua... ".

Nội bộ giới cầm quyền Mĩ bị chia rẽ sâu sắc Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trong các tầng lớp nhân dân Mĩ trở nên mạnh mẽ, rộng lớn và đến tháng 12 phát triển trên quy mô cả nước, với "Tuần lễ đòi chấm dứt chiến tranh, chấm dứt quân dịch ". về phía cách mạng miền Nam, sự kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao 2 đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trên cơ sở đó, đặc biệt là sau thắng lợi mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), Hội nghị Bộ Chính trị (12-1967) và Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 14 (1-1968) đi đến một quyết định lịch sử: Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kì mới - thời kì giành thắng lợi quyết định. Nghị quyết Trung ương Đảng chỉ rõ: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định" .

Về phía Mĩ - ngụy, sau thất bại nặng nề trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), chúng tăng quân viễn chinh lên 525.000 người, đưa tổng số quân Mĩ , ngụy và chư hầu lên tới 1 200.000 người. Trên cơ sở đó, chúng mở tiếp cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba (Đông – Xuân 1967 - 1968) vào miền Đông Nam Bộ, mở đầu bằng cuộc hành quân mang tên "Hòn đá vàng " (8-12-1967) của Sư đoàn 25 quân viễn chinh Mĩ đánh vào Kon Tum, Chiến khu C. Vừa bắt đầu triển khai cuộc phản công thì địch phát hiện quân ta đang di chuyển lớn vào các hướng quan trọng trên chiến trường miền Nam. Vì vậy, chúng buộc phải huỷ bỏ kế hoạch phản công, đồng thời rút phần lớn lực lượng về chốt giữ những vùng chiến lược quan trọng chuẩn bị đối phó với các cuộc tiến công của ta.

Biết trước sẽ có cuộc tiến công lớn của Quân Giải phóng, nhưng không phán đoán được hướng tiến công, quy mô, hình thức của cuộc tiến công, nên Mĩ -ngụy chưa có sự chuẩn bị gì cụ thể, mà chỉ ra lệnh báo động trên toàn miền và huỷ bỏ lệnh ngừng bắn trong dịp Tết. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, trong đêm 30 rạng 31-1-1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân), lúc địch có nhiều sơ hở và chủ quan nhất, chủ lực Quân Giải phóng bất ngờ mở cuộc tập kích chiến lược vào 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần. Từ đó, cuộc Tổng tiến công (tức tổng công kích) và nổi dậy (không có nổi dậy đồng loạt, hay tổng khởi nghĩa, như chủ trương đã đề ra) diễn ra qua ba đợt với quy mô rộng lớn: Đợt 1 (30-l - 25-2), đợt 2 (4-5 - 18-6), đợt 3 (17-8 - 23-9-1968).

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ở hầu khắp các thành phố, thị xã, thị trấn, các ấp chiến lược, các vùng nông thôn bị địch kiểm soát; ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, thành, 4 trong tổng số 6 thành phố, 64 trong tổng số 242 thị xã, thị trấn, quận lị. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 1968, khí thế mạnh mẽ nhất ở hai thành phố lớn Sài Gòn và Huế.

Tại Sài Gòn, Quân Giải phóng tiến công đến tận các sào huyệt, các vị trí quan trọng của địch: Toà Đại sứ Mĩ , Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng Nha cảnh sát, Đài phát thanh Sài Gòn, Sân bay Tân Sơn Nhất, Sở chỉ huy các sư đoàn bộ binh Mĩ số 1, 9, 25, 101... Phối hợp với các cuộc tiến công quân sư của lực lượng vũ trang, hàng chục vạn quần chúng nội, ngoại thành nổi dậy trừng trị bọn ác ôn ngoan cố, bọn mật vụ, phá thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ. Tại Huế, sau 4 ngày tiến công (từ rạng sáng 31-l-1968), quân và dân ta đã chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng của địch như Dinh Tỉnh trưởng, Đồn Cảnh sát, Đài Phát thanh, Khách sạn Thuận Hoá và Hương Giang, sân bay... và làm chủ hoàn toàn thành phố trong suất 25 ngày (từ 30-1 đến 25-2-1968).

Được sự hỗ trợ của các đòn tiến công quân sự, quần chúng trong thành phố hăng hái làm nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội, đào hầm, xây chiến luỹ, tiếp tế, cáng thương binh... Các tổ chức quần chúng (Mặt trận thanh niên Huế, Hội binh sĩ yêu nước li khai) ra đời. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều khu vực trong thành phố. Hàng nghìn thanh niên tình nguyện tham gia các đội du kích, tự vệ, các đội công tác.

Ở nhiều địa phương khác Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột, Quảng Trị, Biên Hoà, Bến Tre, Mĩ Tho...), các lực lượng vũ trang tiến công mạnh mẽ, quần chúng nổi dậy, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề.

Trong khi đó, trên nhiều vùng nông thôn, quần chúng nhân dân nổi dậy với khí thế mạnh mẽ, phá vỡ hàng loạt ấp chiến lược, đập tan bộ máy chính quyền và bộ máy kìm kẹp của địch, bức địch rút nhiều đồn bốt, mở rộng vùng giải phóng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã đánh trúng hầu hết các cơ quan đầu não, các sở chỉ huy của Mĩ - ngụy - chư hầu, tiến công hàng loạt các căn cứ, các tuyến phòng thủ, các hệ thống giao thông thuỷ, bộ, các kho tàng, làm tê liệt mọi hoạt động liên lạc, vận chuyển của địch. Chỉ tính riêng đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (30-l - 25-2), quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 địch, trong đó có 43.000 lính Mĩ ; số quân ngụy đào ngũ, rã ngũ là 200.000. Một khối lượng rất lớn vật chất và phương tiện chiến tranh bị phá huỷ: 2.370 máy bay các loại, 230 tàu, xuồng chiến đấu, 1.700 xe tăng và thiết giáp, hàng ngàn xe ô tô, 230 tàu, xuồng chiến đấu, trên 200 kho xăng, gần 250 kho bom đạn...

Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, nhiều lực lượng mới chống Mĩ - ngụy xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ được mở rộng. Tổ chức "Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ”. Được sự hỗ trợ của các đòn tiến công quân sự, quần chúng trong thành phố hăng hái làm nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội, đào hầm, xây chiến luỹ, tiếp tế, cáng thương binh... Các tổ chức quấn chúng (Mặt trận thanh niên Huế, Hội binh sĩ yêu nước li khai) ra dời. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều khu vực trong thành phố. Hàng nghìn thanh niên tình nguyện tham gia các đội du kích, tự vệ, các đội công tác. Ở nhiều địa phương khác Kon Tum, Plâycu, Buôn Ma Thuột, Quảng Trị, Biên Hoà, Bến Tre, Mĩ Tho...), các lực lượng vũ trang tiến công mạnh mẽ, quần chúng nổi dậy, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề.

Trong khi đó, trên nhiều vùng nông thôn, quần chúng nhân dân nổi dậy với khí thế mạnh mẽ, phá vỡ hàng loạt ấp chiến lược, đập tan bộ máy chính quyền và bộ máy kìm kẹp của địch, bức địch rút nhiều đồn bốt, mở rộng vùng giải phóng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã đánh trúng hầu hết các cơ quan đầu não, các sở chỉ huy của Mĩ - ngụy - chư hầu, tiến công hàng loạt các căn cứ, các tuyến phòng thủ, các hệ thống giao thông thuỷ, bộ, các kho tàng, làm tê liệt mọi hoạt động liên lạc, vận chuyển của địch. Chỉ tính riêng đợt 1 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (30-1 - 25-2), quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 địch, trong đó có 43.000 lính Mĩ ; số quân ngụy đào ngũ, rã ngũ là 200.000. Một khối lượng rất lớn vật chất và phương tiện chiến tranh bị phá huỷ: 2.370 máy bay các loại, 230 tàu, xuồng chiến đấu, 1.700 xe tăng và thiết giáp, hàng ngàn xe ô tô, 230 tàu, xuồng chiến đấu, trên 200 kho xăng, gần250 kho bom đạn...

Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, nhiều lực lượng mới chống Mĩ - ngụy xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ được mở rộng. Tổ chức "Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam " đại diện cho các tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị ra đời (20-4-1968), do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch, Kĩ sư Lâm Văn Tết và Hoà thượng Thích Đôn Hậu làm Phó Chủ tịch. Cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu Thân 1968 - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy - là đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng. "Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều bất ngờ, nhưng không có bất ngờ nào làm người ta phải sửng sốt nhiều hơn trận tiến công Tết. Đặc biệt nó lại diễn ra ngay trong Sứ quán Mĩ ởSài Gòn, nơi từng nhiều lần tuyên bố rằng "tình hình tồi tệ đã qua rồi" 2. Tờ Thời báo Mĩ số ra ngày 9-2-1968 gọi cuộc tập kích này "chắc chắn là một hành động bất ngờ thần thánh, một lực lượng địch tản mát và không ai thấy được, bị săn đuổi khắp nơi không lúc nào ngừng, bỗng dưng xuất hiện và đồng loạt tiến công ở hàng trăm trận địa trên khắp nước" 3. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn 500.000 quân Mĩ và gần 1.000.000 quân ngụy), cơ sở ở thành thị còn mạnh, chúng nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công ta ở cả thành thị lẫn nông thôn. Vì vậy, trong đợt 2 và 3 của cuộc tổng tiến công và nổi dậy, yếu tố bất ngờ đối với địch không còn, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất. Thế và lực tiến công của ta yếu hẳn đi, cách mạng mất dân, mất đất trước những cuộc phản kích điên cuồng của địch. Lực lượng của ta phải rút ra khỏi thành phố trong khi nhiều vùng nông thôn bị địch lấn chiếm. Chỗ đứng chân của ta bị thu hẹp và bị đẩy lùi ở nhiều vùng rộng lớn.

Những hạn chế trên bắt nguồn từ tư tưởng chủ quan, nóng vội, đánh giá cao lực lượng ta, đánh giá thấp lực lượng địch, muốn giành thắng lợi lớn, kết thúc chiến tranh nhanh. Trong quá trình chỉ đạo cuộc Tổng tiến công, chúng ta còn cứng nhắc, không chủ động kịp thời điều chỉnh kế hoạch rút khỏi thành phố sau đợt 1, về giữ nông thôn của ta để bảo toàn và củng cố lực lượng Mặc dù có những hạn chế, thiếu sót, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là một đòn giáng mạnh vào Mĩ - ngụy, mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của quân viễn chinh Mĩ , buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Trong cuốn sách "Giải phẫu một cuộc chiến tranh", nhà sử học Mĩ Gabrien Côncô đánh giá: "Tết Mậu Thân là sự kiện quan trọng nhất của cuộc chiến tranh. .. Đối phương đã đạt được các mục tiêu chiến lược mà họ đề ra" . Tổng thống Mĩ Giônxơn cũng phải thừa nhận đó " là một đòn choáng váng đối với tất cả chúng ta ở mức độ này hoặc mức độ khác. Chúng ta đã biết sắp có một hành động phô trương lực lượng; nó ồ ạt hơn mức chúng ta dự đoán... Nhưng chúng ta không nghĩ là họ tiến công nhiều mục tiêu đến như vậy..." .

Ngay sau đợt 1 của cuộc tổng tiến công, ngày 30-3-1968, Tướng Oétmolen đến Sài Gòn phổ biến chủ trương của Chính phủ Mĩ : - Bỏ chiến lược hai gọng kìm "tìm diệt " và "bình định", thay bằng chiến lược "quét và giữ". Chiến lược này do Tướng Abram đề ra và được Chính phủ Mĩ chấp nhận. Theo các nhà chiến lược Mĩ , đây là một chiến lược phòng ngự có "chiều sâu ". Giữ" là giữ các thành thị, các căn cứ quân sự, các đường giao thông và các vị trí chiến lược quan trọng, giữ cho quân Mĩ không bị thiệt hại nặng; giữ cho ngụy quân, ngụy quyền không bị tan rã, sụp đổ; "quét" là một biện pháp để "giữ".

- Quân đội Nam Việt Nam (quân ngụy) sẽ thay dần quân đội Mĩ trên toàn chiến trường và giữ vai trò chính. Tính chất chiến tranh ở Việt Nam sẽ nặng về chống du kích, hành quân quy mô lớn sẽ giảm.

Thực chất đó là chủ trương "phi Mĩ hoá " chiến tranh thay cho "Mĩ hoá" chiến tranh (tức "chiến tranh cục bộ "). Ngày 31- 3-1968, Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kì thứ hai; đồng thời thông báo quyết định hạn chế hoạt động của Mĩ ở Việt Nam, rút dần quân Mĩ về nước; ra lệnh ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Giới cầm quyền Mĩ cũng phải cử phái đoàn do Hariman cầm đầu, sang Pari (Pháp) đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phiên họp đầu tiên giữa đại diện hai bên Chính phủ bắt đầu từ ngày 13-5-1968. Bộ trưởng Xuân Thuỷ phát biểu trước, nhấn mạnh mục đích cuộc nói chuyện này là "để xác định với phía Mĩ việc Mĩ chấm dứt không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau đó nói chuyện về những vấn đề khác liên quan đến hai bên".

Hội nghị hai bên ở Pari sau nhiều phiên họp trong năm 1968 tuy chưa giải quyết được vấn đề gì cơ bản, nhưng đã mở dầu cho thời kì ta tiến công địch trực tiếp về ngoại giao trên bàn hội nghị, là một diễn đàn rất quan trọng để ta vạch trần bộ mặt xâm lược tàn bạo và ngoan cố của đế quốc Mĩ .

Với chủ trương "phi Mĩ hoá " chiến tranh của Giônxơn, trên thực tế, đế quốc Mĩ đã phải chấp nhận sự thất bại hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam.
 
2- Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mĩ, giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực chi vốn cho chiến trường miền Nam.

Cuộc chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ gây ra bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc đã làm cho "tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền" tình hình trên dặt ra cho cách mạng miền Bắc nhiệm vụ vừa chiến đấu, vừa sản xuất; vừa giữ vững sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Chiến đấu và sản xuất là hai nhiệm vụ có quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời có quan hệ với cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam.

Để đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ , Đảng và nhân dân ta không chỉ có quyết tâm cao, mà còn phải có cách đánh thông minh, sáng tạo. Với đường lối chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đồng thời phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều chủ trương và biện pháp tổ chức và sử dụng hợp lí
các lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân gồm có các lực lượng phòng không, không quân, hải quân với những vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại; có các lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu và mọi người dân, không kể già, trẻ, gái, trai, với mọi vũ khí thông thường.

Bước vào cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, miền Bắc thực hiện quân sự hoá toàn dân; đào đắp công sự chiến đấu, hầm, hào phòng tránh; triệt để sơ tán, phân tán người và của ra khỏi những vùng trọng điểm, những nơi đông dân để tránh những thiệt hại lớn.

Chiến đấu và xây dựng là hai nhiệm vụ có quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau và tạo điều kiện cho nhau. Không có hậu phương lớn miền Bắc được tạo ra từ trong quá trình lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội 10 năm trước (1954-1965) thì không thể có thắng lợi trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hơn nữa, bản thân cuộc chiến đấu của nhân dân miền Bắc cũng cần có một hậu phương tại chỗ thực sự vững mạnh. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta trước sau vẫn giữ vững mục tiêu chủ nghĩa xã hội, bất cứ tình hình như thế nào, miền Bắc cũng phải được củng cố, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau khi đế quốc Mĩ gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) đã chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng; trong đó có vấn đề xây dựng kinh tế địa phương. Đây là một chủ trương đã được Đảng
ta đề ra từ trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Đến thời kì này, trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại, điều kiện sơ tán, phân tán, vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế địa phương, tăng cường khả năng hậu cần tại chỗ, lại càng được đặt ra bức thiết hơn.

Chiến tranh phá hoại ác liệt không làm cho nhân dân ta khiếp sợ; trái lại, quân và dân ta luôn nêu cao ý chí "Quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược". Các lực lượng vũ trang nhân dân miền Bắc được rèn luyện bản lĩnh chiến đấu theo khẩu hiệu "Nhằm thẳng quân thù mà bắn ! ". Giai cấp công nhân với khẩu hiệu "Chắc tay súng, vững tay búa ", vừa chiến đấu bảo vệ nhà máy, xí nghiệp, vừa ra sức thi đua phấn đấu đạt "Ba điểm cao " trong
công nghiệp (năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều). Giai cấp nông dân tập thể với khẩu hiệu "Chắc tay súng, vững tay cày ", vừa chiến đấu dũng cảm, vừa lao động cần cù, thi đua phấn đấu đạt "Ba mục tiêu " trong nông nghiệp ( 1 lao động đạt 5 tấn thóc, nuôi 2 con lợn trên 1 héc ta gieo trồng). Cán bộ công nhân viên trong các cơ quan thi đua thực hiện "Ba cải tiến " (Cải tiến công tác, cải tiến tổ chức, cải tiến lề lối làm việc). Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa thi đua thực hiện "Ba quyết tâm " (quyết tâm phục vụ tốt sản xuất và chiến đấu, quyết tâm đẩy mạnh cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, quyết tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa).

Trong thanh niên có phong trào "Ba sẵn sàng ". Trong phụ nữ có phong trào "Ba đảm đang ". Trong các trường học có phong trào thi đua "Hai tốt". Trong thiếu niên nhi đồng có phong trào "Làm nghìn việc tốt", v.v...

Tất cả những phong trào thi đua trên đây là những biểu hiện cụ thể về chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy cao độ trong toàn dân. Nhờ đó, trong hơn 4 năm (5-8-1964 - 1-11- 1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi và bắn cháy 3.234 máy bay Mĩ; trong đó có 6 máy bay B.52, 3 máy bay F.111; diệt và bắt nhiều giặc lái Mĩ ; bắn chìm, bắn hỏng 143 tàu chiến và tàu biệt kích.

Trong chiến đấu đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân anh hùng, gắn với những chiến công xuất sắc. Đó là chiến công của bộ đội tên lửa, trong các ngày 7 và 18-3-1966, bằng 1 quả đạn, hạ 2 chiếc máy bay Mĩ . Đó là đơn vị dân quân xã Hà Thượng (Đại Từ, Thái Nguyên), bằng 18 viên đạn súng máy, súng trường, bắn rơi chiếc máy bay Mĩ RF.4C trong ngày 1-8-1966;
đơn vị lão dân quân xã Hoằng Trùng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá), bằng vũ khí thông thường, bắn rơi máy bay Mĩ trong ngày 14- 10-1967; đơn vị pháo binh dân quân gái Ngư Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình) bắn cháy tàu chiến Mĩ trong ngày 7-2-1968 , v.v. . .

Không chỉ chiến thắng trong chiến đấu, nhân dân miền Bắc còn đạt nhiều thành tựu to lớn trong sản xuất. Với tinh thần "làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm ", giai cấp nông dân tập thể đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất lao động. Số địa phương và hợp tác xã nông nghiệp đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha ngày càng tăng. Năm 1965, chỉ có 7 huyện, 680 hợp tác xã; năm 1966 có 15 huyện, 764 hợp tác xã; đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.600 hợp tác xã đạt 5 tấn thóc/ha.

Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành vân được giữ vững. Ngay từ buổi đầu chiến tranh phá hoại, các cơ sở công nghiệp lớn đã được kịp thời sơ tán, phân tán và sớm đi vào hoạt động, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu, sản xuất và đời sống. Điều đáng chú ý là công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng nhanh so với trước
chiến tranh. Mức đầu tư vào công nghiệp địa phương trong hai năm (1966 - 1967) tăng 1,5 lần so với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cáp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.

Các ngành tiểu thủ công nghiệp cũng được tăng cường cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Hệ thống giao thông vận tải mặc dù bị máy bay giặc Mĩ đánh phá ác liệt, nhưng vẫn giữ vững thông suốt, bảo đảm yêu cầu phục vụ chiến đấu và sản xuất. Đặc biệt, tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam (trên bộ và trên biển) vẫn tiếp tục vươn dài và mở rộng. Thông qua hai tuyến đường vận tải chiến lược đó, trong 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đã đưa vào các chiến
trường và vùng giải phóng miền Nam hơn 300.000 cán bộ, bộ đội; không kể hàng chục vạn tấn vật chất gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men... Tính chung, trong 4 năm vừa chiến đấu, vừa sản xuất, miền Bắc đã chuyển vào miền Nam một khối lượng về sức người, sức của nhiều gấp 10 lần so với thời kì trước.

Do không đạt được mục tiêu của cuộc chiến tranh, lại bị thiệt hại nặng nề trên cả hai miền, từ ngày 31-3-1968, đế quốc Mĩ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; và đến ngày 1-11-1968, chúng phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam.

Như vậy, sau 4 năm leo thang mở rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam, đế quốc Mĩ đã phải đơn phương xuống thang chiến tranh. Nhưng xuống thang không có nghĩa là chấm dứt chiến tranh. Trái lại, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ vẫn tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn trước.

III- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Miền Bắc khôi phục, phát triển kinh tế và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ (1969-1973)

1. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh"


Sau đòn bất ngờ, choáng váng của quân và dân miền Nam từ Tết Mậu Thân năm 1968, đế quốc Mĩ đứng trước một tình thế hết sức khó khăn. Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi rút hết quân đội viễn chinh về nước lan rộng trong các tầng lớp nhân dân Mĩ . Hạ nghị viện Mĩ cũng ra nghị quyết đòi rút tất cả quân đội Mĩ trên bộ ở Việt Nam về nước trong thời
gian ngắn nhất.

Tình trạng bi đát của quân đội Mĩ ở Việt Nam cùng với những thay đổi về so sánh lực lượng trên thế giới không có lợi cho chủ nghĩa đế quốc đã làm cho giới cầm quyền Mĩ nhận thấy cần phải đổi mới trong chiến lược toàn cầu, với hy vọng vừa ổn định được tình hình trong nước, tránh được dư luận đả kích từ nhiều phía, vừa bảo đảm được vai trò "Sen đầm quốc tế" và giữ được nguyên trạng miền Nam Việt Nam trong quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ . Vì vậy, ngay sau khi nhậm chức Tổng thống (l-1969), Níchxơn cho ra đời học thuyết mang tên mình: "Học thuyết Níchxơn ". Với học thuyết này, Níchxơn đề ra một chiến lược toàn cầu mới, chiến lược quân sự "Ngăn đe thực tế" (thay cho chiến lược "Phản ứng linh hoạt " đã bị phá sản), với ba nguyên tắc cơ bản: Sức mạnh của Mĩ , chia sẻ trách nhiệm, sẵn sàng thương lượng trên thế mạnh.

Học thuyết Níchxơn được áp dụng ở Việt Nam trên cơ sở điều chỉnh chính sách "phi Mĩ hoá" của Giônxơn thành "Việt Nam hoá chiến tranh" của Níchxơn; ở Lào là "Lào hoá chiến tranh"; ở Campuchia là "Khơme hoá chiến tranh" và trên toàn Đông Dương là "Đông Dương hoá chiến tranh". Mĩ dự định thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" qua ba giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 (từ năm 1969 đến giữa năm 1972) là quan trọng nhất.

Quá trình "phi Mĩ hoá" chiến tranh, rút dần quân viễn chinh về nước cũng là quá trình tăng cường lực lượng quân ngụy, làm cho quân ngụy từng bước có khả năng thay thế quân Mĩ để đảm nhận cuộc chiến tranh. Cho nên, "Việt Nam hoá chiến tranh", về thực chất, chính là tăng cường chính sách dùng người Việt đánh người Việt.

Tuy nhiên, trong thời kì đầu của "Việt Nam hoá chiến tranh", quân Mĩ vẫn còn đóng vai trò quan trọng, cùng với quân ngụy là hai lực lượng chiến lược. Trong quá trình thực hiện, quân Mĩ rút dần về nước và quân ngụy sẽ từng bước thay thế đảm nhận cuộc chiến tranh. Để đạt được mục tiêu chiến lược của "Việt Nam hoá chiến tranh", đế quốc Mĩ dùng mọi thủ đoạn độc ác về quân sự, chính trị, rất xảo quyệt và nham hiểm về ngoại giao, thực hiện sự kết hợp "chiến tranh huỷ diệt" với "chiến tranh giành dân" và "chiến tranh bóp nghẹt". Trong quá trình thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", đế quốc Mĩ áp dụng 4 biện pháp cơ bản:

1- Tăng cường viện trợ quân sự, tăng cường phát triển lực lượng ngụy quân. Chỉ trong vòng 4 năm (1969 - 1972), số quân thường trực (chủ lực và bảo an) từ 70 vạn tăng lên 110 vạn tên; lực lượng nửa vũ trang (phòng vệ dân sự) từ 150 vạn tăng lên 200 vạn quân.

2- Tăng cường viện trợ kinh tế, giúp ngụy quyền thực hiện cho được bình định, giành đất, giành dân. Bình định là một chính sách cơ bản của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ. Trong tất cả các thời kì của cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, bình định được Mĩ ngụy nâng lên thành quốc sách.

Để thực hiện "quốc sách bình định", đế quốc Mĩ giúp ngụy quyền miền Nam thiết lập một hệ thống chính trị và vũ trang hoàn chỉnh ở cơ sở, được huấn luyện kiểu thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Thủ đoạn của chúng là mua ruộng đất của địa chủ rồi bán cho một bộ phận trong giai cấp nông dân, đồng
thời đưa kĩ thuật mới, giống mới, máy cày tay, máy bơm, phân hoá học... tạo nên một tầng lớp nông dân mới lệ thuộc vào Mĩ .

Mặt khác, lợi dụng sai lầm của ta chậm chuyển hướng tiến công sau Tết Mậu Thân, bỏ lỏng vùng nông thôn, trong suốt 2 năm (giữa năm 1968 đến đầu năm 1970), Mĩ - ngụy tiến hành liên tiếp các kế hoạch "bình định cấp tốc", "bình định đặc biệt", "bình định bổ sung" rất quyết liệt. Đồng thời, chúng kết hợp mở các cuộc hành quân càn quét, đóng hàng ngàn đồn bốt (từ 4.954 lên 9.224 đồn), chiếm lại hầu hết vùng nông thôn của ta, kìm kẹp thêm dân, kiểm soát thêm nhiều vùng. Đây là cuộc phản công rất quyết liệt, huỷ diệt tàn khốc của địch bằng sức mạnh toàn diện, chủ yếu là sức mạnh quân sự, vào địa bàn nông thôn, là cuộc "chiến tranh giành dân", "chiến tranh huỷ diệt" trên quy mô lớn với những biện pháp cực kì dã man và thâm độc, gây
cho ta những khó khăn, tổn thất nặng nề. Địch chiếm lại phần lớn vùng nông thôn rộng lớn, kể cả vùng ta mới mở trong Tết Mậu Thân và vùng giải phóng trước đó. Riêng ở Khu VIII (miền Trung Nam Bộ), địch chiếm lại 119 xã và 680 ấp, chỉ còn 4 xã và 312 ấp giải phóng. Ở Nam Bộ, trong 2 năm 1969-1970, số thương vong của ta gấp 2 lần 7 năm trước (1961 - 1967); địch chiếm thêm gần 3.000 ấp, kiểm soát thêm gần 3 triệu dân . Hầu hết các đơn vị chủ lực của ta hoặc phải kéo àlciiền Bắc để củng cố, hoặc chuyển sang bên kia biên giới; thế và ln công của cách mạng miền Nam bị giảm sút.

3- Ngăn chặn mọi nguồn tiếp tế, chi viện đối với cách mạng miền Nam bằng cách rải mìn phong toả bờ biển và các cửa sông miền Bắc Việt Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, thực hiện âm mưu "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".

Ở Lào, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ dưới hình thức "chiến tranh đặc biệt" bắt đầu diễn ra từ năm 1964, dưới thời Tổng thống Kennơđi và Giôn xơn. ừ năm 1969, dưới thời Ních xơn, ế quốc Mĩ đẩy chiến "tranh đặc biệt" lên đến mức cao nhất, gọi là "chiến tranh đặc biệt tăng cường" ("Lào hoá chiến tranh"), được tiến hành bằng lực lượng phỉ Vàng Pho ("lực lượng đặc biệt") và quân ngụy Viên Chăn, có sự tham gia của quân đội lính đánh thuê Thái Lan và quân ngụy Sài Gòn. Mĩ đóng vai trò chỉ huy thông qua hệ thống cố vấn và yểm trợ bằng hoả lực và không quân.

Cùng với hành động mở rộng chiến tranh sang Lào, đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh xâm lược Campuchia. Không bao lâu sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập tích cực do Xihanúc đứng đầu (18-3-1970), từ ngày 30-4-1970, đế quốc Mĩ huy động 10 vạn quân Mĩ - ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân đánh sang Campuchia. Với hành động này, chúng nhằm cứu vãn sự sụp đổ của ngụy quyền Phnom Pênh, triệt phá "đất thánh Việt Cộng" trên đất Campuchia, chuẩn bị cho việc thực hiện chiến lược "Khơme hoá chiến tranh".

4- Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao xảo quyệt; ra sức lợi dụng mâu thuẫn Trung - Xô, tìm cách thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng hạn chế sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến của ta để thực hiện "chiến tranh bóp nghẹt". Mặt khác, đóng vai trò "sứ giả hoà bình", Níchxơn đi thương lượng với nhiều nước, trước hết là với các
nước lớn, nhằm lôi kéo các nước, nhất là các nước đồng minh "cùng chia sẻ trách nhiệm" với Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương...

Như vậy "Việt Nam hoá chiến tranh" là một chính sách tổng hợp tất cả những yếu tố được coi như là bản chất phản động nhất của đế quốc Mĩ. Đó là bạo lực phản cách mạng, hệ tư tưởng chống chủ nghĩa cộng sản triệt để, là chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.

Tuy được tiến hành bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt và thâm độc, nhưng nó ra đời trong thế thua, thế bị động và chứa đầy mâu thuẫn, bộc lộ nhiều điểm yếu:

- Trước đây, trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", hơn 1,2 triệu quân cả Mĩ và ngụy (trong đó có hơn 50 vạn quân Mĩ ) đã không thể tiêu diệt được lực lượng cách mạng miền Nam, thì khi quân Mĩ rút dần về nước, quân ngụy càng không thể mạnh hơn và thay thế được Mĩ để làm việc đó.

Trước đây, trong thời kì "chiến tranh cục bộ", đảng Dân chủ của Giônxơn có thế lực mạnh và là đảng cầm quyền ở Mĩ ; Giônxơn được Quốc hội trao cho quyền hành rất lớn đã huy động khối lượng lớn sức người, sức của để mong tìm được thắng lợi, nhưng vì thất bại nặng nề, Giônxơn phải tuyên bố chính sách "phi Mĩ hoá", rút dần quân viễn chinh về nước. Đến thời Níchxơn, đảng
Cộng hoà lên cầm quyền trong tình hình không thuận lợi như thời Giônxơn. Đảng Dân chủ tuy đã bị loại ra khỏi Nhà Trắng, nhưng vẫn còn thế lực mạnh; nhiều nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ vẫn lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh của Níchxơn. Vì vậy, điều mà trước đây Giônxơn đã không làm được thì Níchxơn càng không thể thực hiện được.

- Việc mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, thực hiện chiến lược "Đông Dương hoá chiến tranh", càng làm cho nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương căm thù đế quốc Mĩ; nhân dân ba nước càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn để cùng chống kẻ thù chung.

- Trước đây, với chiến lược "tìm diệt" và "bình định", giới cầm quyền Mĩ đã không thực hiện được mục đích chiếm đất, giành dân; nay chuyển sang chiến lược "quét và giữ" hoàn toàn phòng ngự bị động thì chúng lại càng không thể đạt được mục đích ấy. Trong nước Mĩ, khi thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhân dân Mĩ vốn đã có từ năm 1965, đã bùng lên mạnh mẽ, thực sự trở thành "Một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mĩ", làm rung chuyển xã hội Mĩ. Bên cạnh phong trào đấu tranh rầm rộ của công nhân và nhân dân lao động, phong trào người Mĩ da đen, còn nổ ra phong trào sinh viên đòi quyền dân chủ và chống chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phong trào lan rộng khắp các trường đại học ở Mĩ và lan sang các trường trung học, trở thành hạt nhân của phong trào thanh niên Mĩ đấu tranh ngày càng quyết liệt với những hành động đốt thẻ quân dịch. Phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ tác động mạnh đến hàng ngũ binh lính trong nước Mĩ và cả chiến trường miền Nam Việt Nam. Hành động chống chiến tranh trong binh lính Mĩ phát triển mạnh chưa từng thấy trong lịch sử nước Mĩ. Hàng chục tổ chức binh lính chống chiến tranh ra đời ở các đơn vị lính Mĩ ở miền Nam Việt Nam. Trong lúc cựu binh sĩ Mĩ từ Việt Nam về nước vứt bỏ huân chương, huy chương trước Nhà Trắng, thì ở Việt Nam, vào ngày 15-10-1969, binh lính Mĩ tổ chức đeo băng tang.

Đặc biệt ở Mĩ, từ giữa tháng 10-1969, đã bùng nổ "cuộc tiến công mùa thu" diễn ra với quy mô rộng lớn và có cơ sở rộng rãi chưa từng thấy trên 1.200 thành phố, thị xã của 53 bang nước Mĩ.

Mặc dù vậy, trước mắt Mĩ - ngụy vẫn còn có những chỗ mạnh về quân số, hoả lực, khả năng cơ động và địa bàn chiếm giữ. Mĩ là một nước có tiềm lực rất lớn về kinh tế và quân sự. Bởi thế, trong những năm 1969 - 1971, đế quốc Mĩ đã gây cho ta nhiều khó khăn: Cơ sở của ta ở nông thôn bị tổn thất, căn cứ cách mạng bị phá hoại, phong trào quần chúng bị giảm sút.

Trong khi đó, chúng ta chưa đánh giá hết âm mưu và hoạt động của địch và chưa kịp thời chuyển hướng -hoạt động ở cả ba vùng chiến lược.

Đứng trước âm mưu và hành động mới của đế quốc Mĩ và ngụy quyền tay sai, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; tăng cường phối hợp chiến đấu với quân và dân hai nước bạn, kiên quyết đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và "Đông Dương hoá chiến tranh".

Ngày 1-1-196 trong thư chúc mừng năm mới , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát phương hướng chiến lược cho quân và dân ta trong cuộc kháng chiến là "Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào ".

Ngày 20-7-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi "Quân dân cả nước ta, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến, quyết thắng, đánh cho quân Mĩ phải rút sạch, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà" .

Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, quân và dân ta đẩy mạnh thế chiến lược tiến công, giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trên cả ba mặt trận: Quân sự, chính trị và ngoại giao. Ngay từ năm 1969, khi Mĩ - ngụy bắt đầu triển khai chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", quân và dân ta liên tiếp đập tan ba cuộc hành quân "bình định cấp tốc" của 6 tiểu đoàn Mĩ ngụy (trong đó có 1 tiểu đoàn Mĩ hỗ trợ) vào vùng núi Chư Pa (Gia Lai). Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.585 tên địch (có hơn 350 tên Mĩ ), phá huỷ 9 đại bác và súng cối, bắn rơi và bắn cháy 15 máy bay lên thẳng. Trong khi đó, cuộc đàm phán trên bàn Hội nghị hai bên ở Pari cũng có bước tiến mới. Vào nửa cuối năm 1968, tại Hội trường Clêbe (Pari), giữa hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kì đã trải qua nhiều cuộc đấu lí kéo dài về nguồn gốc cuộc chiến tranh Việt Nam, vấn đề Mĩ phải chấm dứt ném bom trên toàn miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam... Trong Tuyên bố ngày 2-11-1968, Chính phủ ta nêu rõ chỉ sau khi Mĩ chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Chính phủ ta sẽ cùng phía Mĩ bàn về các vấn đề khác có liên quan đến hai bên. Sau đó, ta tuyên bố sẵn sàng họp một hội nghị gồm đại diện của: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kì và chính quyền Sài Gòn. Ngày 13-11-1968, Mĩ tán thành hội nghị hai phe bốn bên. Ngày 25-1-1969, phiên họp toàn thể lần thứ nhất của Hội nghị bốn bên (l) về Việt Nam chính thức được khai mạc tại Pari. Trong quá trình Hội nghị, lập trường bốn bên (thực chất là hai bên) rất khác xa (l) Đoàn đại biểu VNDCCH do Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn; tham dự Hội nghị còn có cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và các thành viên Mai Văn Bộ, Phan Hiền, Hà Văn Lâu, Nguyễn Thành Lê, Trần Công Tường. Nguyễn Minh Vĩ . Đoàn MTDTGPMNVN do ông Trần Bửu Kiếm làm Trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình làm Phó trưởng đoàn và các thành viên. Đoàn Hoa Kì do H. Cabốt Lốt làm Trướng đoàn. Đoàn ngụy quyền Sài Gòn do Phạm Đăng Lâm làm Trưởng đoàn nhau. Lập trường của ta luôn giữ vững hai vấn đề cơ bản: Mĩ phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam; Mĩ phải rút hết quân đội viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Lập trường phía Mĩ đòi hai bên cùng rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Cũng do vậy, Hội nghị diễn ra rất gay go, quyết liệt và kéo dài, nhiều khi bị gián đoạn. Buộc phải thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dự cuộc hội nghị về vấn đề Việt
Nam ở Pari, đế quốc Mĩ đã phải chấp nhận sự thất bại bước đầu của chủ trương "thương lượng trên thế mạnh", buộc phải công nhận sức mạnh phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam mà Mặt trận là : người đại diện. Đó là một thắng lợi to lớn, góp phần tạo thế cho quân và dân ta đẩy mạnh tiến công trên mặt trận quân sự.

Từ ngày 22-2 đến ngày 30-3-1969, quân và dân miền Nam mở cuộc tiến công đồng loạt vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lị, thị trấn, 35 sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Sau 35 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã loại 104.000 tên địch, trong đó có 52.000 tên Mĩ và hơn 4.000 lính chư hầu; tiêu diệt và tiêu hao nặng 35 tiểu đoàn và đơn vị hỗn hợp tương đương tiểu đoàn; bắn rơi và phá huỷ 1.600 máy bay các loại; phá huỷ 2.900 xe quân sự (có 1.440 xe tăng và xe bọc thép); bắn chìm và bắn cháy 275 tàu, xuồng chiến đấu; thiêu huỷ và phá nổ 270 kho bom đạn, xăng dầu và phương tiện chiến tranh .

Thắng lợi to lớn và toàn diện của nhân dân miền Nam trong những ngày đầu xuân Kỉ Dậu (1969) đã giáng những đòn mãnh liệt vào chiến lược "quét và giữ" của Abram, vào kế hoạch "bình định cấp tốc", làm cho ngụy quân, ngụy quyền càng thêm rệu rã và ý chí xâm lược của Mĩ càng bị lung lay.

Trong những tháng tiếp theo, từ tháng 4 đến tháng 8-1969, quân và dân miền Nam liên tiếp giành thắng lợi ở nhiều nơi: Đánh bại cuộc hành quân "Cái nêm Atlát" của hơn 10.000 quân Mĩ - ngụy vào vùng Thủ Dầu Một (17 - 27-3-1969), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên, phá huỷ 210 xe tăng, bắn rơi 12 máy bay; tiến công 22 vị trí địch, 4 chi khu quân sự và nhiều đồn bốt tại Vĩnh Long (11 - 14- 4-1969), diệt 1.147 tên, bắn rơi và phá huỷ 100 máy bay; mở chiến dịch Long Khánh (Đông Nam Bộ) (5-5 - 20-6-1969) nhằm phá hoại kế hoạch "bình định cấp tốc" của địch và đánh bại thêm một bước chiến lược "quét và giữ", loại khỏi vòng chiến đấu 7.165 tên, bắn rơi 79 máy bay, phá huỷ 47 khẩu pháo 105 - 155 mm. Từ ngày 8 đến 26-5-1969, quân và dân Bắc Kon Tum dồn dập tiến công địch trong khu vực sân bay Đắc Tô, sân bay Kon Tum, thị trấn Tân Cảnh; vây hãm trại lực lượng đặc biệt Plây Cần, chặn đánh 12 tiểu đoàn chủ lực ngụy ở vùng Tân Cảnh, loại khỏi vòng chiến đấu 3.000 tên, bắn rơi và phá huỷ 68 máy bay, 71 xe quân sự... Từ ngày 6 đến ngày 20-6-1969, lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Quảng Đà cùng một lúc tiến công địch ở thành phố Đà Nẵng, các thị xã, thị trấn, huyện và nhiều đồn bốt, đánh trúng các sân bay Nước Mặn, Xuân Thiều bến tàu quân sự Đà Nẵng, Sơn Trà, đánh phá các căn cứ chỉ huy của sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mĩ số 1 ở Sủng Mây, sở chỉ huy sư đoàn Amêricơn ở Kỉ Hà; loại khỏi vòng chiến đấu 4.710 tên, phá huỷ 78 máy bay, 87 xe bọc thép, 23 đại bác... Từ ngày 1-8 đến ngày 15-9-1969, quân và dân miền Nam tổ chức tiến công địch ở gần 40 thành phố, thị xã, gần 60 sở chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên, hơn 30 sân bay quân sự, nhiều bến tàu, khu hậu cần; loại khỏi vòng chiến đấu hơn 65.000 địch (trong đó có 25,000 Mĩ và chư hầu), bắn rơi 795 máy bay, phá huỷ 2.600 xe quân sự (1.450 xe tăng và xe bọc thép), bắn chìm và bắn cháy 178 tàu, xuồng chiến đấu phá huỷ 280 đại bác và súng cối hạng nặng .

Giữa lúc quân và dân hai miền đất nước đang giành nhiều thắng lợi ngày càng to lớn, vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yêu của toàn thể dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, từ trần.

Ngày 3-9-1969, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị toàn thể khẩn cấp (Hội nghị lần thứ 17), ra Lời kêu gọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài "Triệu người như một hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, dũng cảm tiến lên, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện thắng lợi lí tưởng và hoài bão của Người; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ; ra sức học tập tư tưởng và tác phong của Người" 2. Từ ngày 6 đến ngày 9- 9-1969, lễ viếng và truy điệu được cử hành trọng thể tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.

Ở miền Nam, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn lối cao cũng tổ chức lễ truy điệu hết sức trọng thể. Không những ở vùng giải phóng, mà ngay trong các vùng địch kiểm soát, đồng bào ta cũng tìm cách theo dõi tin về lễ tang và tổ chức lễ truy điệu bằng nhiều hình thức khác nhau. Biến đau thương thành hành động, quân và dân miền Nam tăng cường phối hợp với lực lượng cách mạng hai nước bạn, tiếp tục tiến công và phản công địch trên các chiến trường, lập nhiều chiến công. Từ đêm 10-2-1970, cùng với quân giải phóng Lào, bộ đội ta tiến công vào khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, nơi địch làm bàn đạp uy hiếp căn cứ cách mạng Sầm Nưa. Đến ngày 21-2-1970, cuộc tiến công kết thúc thắng lợi: Toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng được giải phóng, 6.000 tên địch (phần lớn là lực lượng đặc biệt) đã bị loại khỏi vòng chiến đấu; bạn và ta thu, phá huỷ hàng ngàn vũ khí các loại, bắn rơi và phá huỷ 42 máy bay 1. Đây là một đòn giáng mạnh vào đế quốc Mĩ và tay sai, đập tan một cố gắng quân sự cao nhất của chúng trên một địa bàn chiến lược quan trọng ở Lào, so sánh lực lượng tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Lào.

Sau chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lực lượng vũ trang cách mạng Lào - Việt tiếp tục tiến công đuổi địch khỏi vùng Pắc Beng (Uđômxay), Tây Bắc Lào, giải phóng một vùng đất rộng lớn dọc theo sông Mê Công; kết hợp tiến công quân sự với vận động thu phục, quét sạch lực lượng phỉ trong tỉnh Sầm Nưa và một phần tỉnh Luông Phabang... Đêm 28 rạng 29-4, nhằm đánh bại âm mưu của Mĩ định chia cắt, bóp nghẹt cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam và chiến tranh cách mạng Campuchia, bộ đội ta công lực lượng vũ trang cách mạng Lào tiến thẳng vào Atôpơ, một căn cứ của phỉ và biệt kích chuyên đi đánh phá vùng giải phóng và vùng ba biên giới. Ngày 1-5-1970, thị xã Atôpơ và vùng phụ cận, với khoảng 1 vạn dân, được giải phóng. Thừa thắng, quân ta tiếp tục tiến công giải phóng thị xã Xaravan và vùng phụ cận (6-1970). Trên chiến trường Campuchia, Mĩ - ngụy cũng bị thất bại nặng nề. Từ ngày 30-4 đến 30-6, với lực lượng khoảng 10 vạn quân (5 vạn Mĩ và 5 vạn quân ngụy Sài Gòn), chúng mở 23 cuộc hành quân đánh sang Campuchia, trong phạm vi 6 tỉnh biên giới Việt Nam - Campuchia (Takeo, Campốt, Kômpông Chàm, Xoài Riêng, Prây Veng, Ratanakiri). Khi Mĩ - ngụy triển khai cuộc hành quân, Bộ Chính trị Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam:

"Cần tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng và kế hoạch cùng các đồng chí bạn đánh chiếm và mở rộng vùng giải phóng 7 tỉnh biên giới, từ biên giới ta đến bờ sông Mê Công, đồng thời giúp bạn lập khu du kích ở Tây Nam, Bắc và Tây Bắc. Bộ đội chủ lực ở biên giới không những có nhiệm vụ tiếp tục đánh Mĩ - ngụy trên đất ta mà còn có nhiệm vụ tiến công kiên quyết phối hợp với bạn tác chiến mở rộng mặt trận, mở rộng vùng giải phóng phía sau trên đất Campuchia, đánh bại âm mưu của Mĩ " . Bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với quân và dân Campuchia đã tiêu diệt và làm bị thương 17.000 địch, phá huỷ 1.500 xe quân sự (750 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi 20 máy bay, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh Đông Bắc (Stung Treng, Ratanakin, Krachiê, Munđukiri, Prếch Vihia) và phần lớn vùng nông thôn 10 tỉnh khác. Vùng giải phóng Campuchia đã hình thành trên một khu vực rộng lớn với 61 quận trong tổng số 102 quận và .4.545.000 dân trong tổng số 7.000.000 dân. Âm mưu của Mĩ định chia rẽ cách mạng ba nước Đông Dương, cô lập cách mạng Việt Nam bị thất bại. Cách mạng Campuchia có điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng.

Bị thất bại nặng nề, ngày 30-6-1970, đế quốc Mĩ phải tuyên bố rút quân về miền Nam Việt Nam, chấm dứt cuộc hành quân xâm lược Campuchia. Mặc dù vậy, đế quốc Mĩ chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược Campuchia, vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược "Khơme hoá chiến tranh". Chúng để lại một bộ phận quân ngụy Sài Gòn làm chỗ dựa cho quân ngụy Phnom Pênh để thực hiện "Khơme hoá chiến tranh". Cũng do vậy, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với quân và dân Campuchia tiếp tục tiến công tiêu diệt địch.

Chiến thắng Cánh Đồng Chum và việc giải phóng Atôpơ, Xaravan ở Lào cùng với việc giải phóng Đông Bắc Campuchia trong nửa đầu năm 1970 có ý nghĩa rất to lớn. Nó tạo nên một địa bàn chiến lược liên hoàn rộng lớn, nối liền miền Bắc Việt Nam với Thượng Lào và Trung - Hạ Lào, với miền Tây Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, Đông Bắc Campuchia, hình thành một thế trận vững chắc chưa từng có cho cách mạng ba nước. Trên thực tế, Đông Dương trở thành một chiến trường thống nhất. Đó cũng là thất bại nặng nề của đế quốc Mĩ trong âm mưu "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".

Do những thất bại nặng nề trên chiến trường ba nước trong năm 1970, đế quốc Mĩ và tay sai ngày càng rơi vào thế sa lầy trong cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu quân sự mới, hi vọng nhờ đó thoát khỏi tình hình bế tắc. Đầu tháng 2-1971, với lực lượng 45.000 quân, Mĩ - ngụy mở cuộc hành quân chiến lược lớn mang tên "Lam Sơn - 719" đánh lên khu vực biên giới Đường 9 - Nam Lào. Đây là cuộc hành quân điển hình của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".

Thông qua cuộc hành quân này, Mĩ - ngụy nhằm mục đích:

- Phá hành lang chiến lược của ta, "bóp nghẹt từ cuống họng" đường chi viện vào Nam.

- Tập dượt quân ngụy Sài Gòn trong việc thực hiện công thức "bộ binh ngụy + hoả lực Mĩ" của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" bằng cách đưa quân ngụy đối chọi với quân chủ lực của ta tại một chiến trường rừng núi tiếp giáp với miền Bắc Việt Nam.

- Lập một phòng tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương, tạo cho chúng một thế mạnh ở miền Nam, uy hiếp miền Bắc, hỗ trợ cho "chiến tranh đặc biệt tăng cường" ở Lào và "Khơ me hoá chiến tranh" ở Campuchia.

Trước âm mưu và hành động của địch, chủ trương của Đảng ta là: tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mĩ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mĩ, tiến lên giành toàn
thắng cho chiến dịch.

Do nắm đúng ý đồ, dự đoán đúng kế hoạch hành quân của địch, nên chúng ta đã chuẩn bị một kế hoạch tác chiến chu đáo. Nhờ đó, sau hơn 40 ngày đêm chiến đấu (8-2 - 23-3-1971), quân và dân hai nước việt Nam và Lào đập tan cuộc hành quân của địch, tiêu diệt và bắt 23.000 tên, bắn rơi và phá huỷ gần 500 máy bay...

Thắng lợi trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào có ý nghĩa chiến lược to lớn, mở ra khả năng hiện thực đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", làm sa sút nghiêm trọng tinh thần chiến đấu của binh sĩ Mĩ - ngụy. Thắng lợi này cũng bảo vệ được tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh " cùng với toàn bộ hành lang chiến lược của ta.

Cùng với Mặt trận Đường 9 - Nam Lào, trên chiến trường hai nước bạn, Mĩ - ngụy cũng liên tục bị tiến công và phản công. Ở Thượng Lào, ngày 13-2-1971, quân và dân Lào tiến công Long Chẹng - căn cứ biệt kích của CIA và Vàng Pao; ở Hạ Lào, ngày 10-3, lực lượng cách mạng đuổi địch rút chạy khỏi đông nam cao nguyên Bôlôven; sau đó đánh thẳng vào Pắc Soòng, Bản
Nhích, giải phóng hoàn toàn cao nguyên Bôlôven ( 15-5 - 11-6- 1971).

Trên chiến trường Campuchia, lực lượng cách mạng áp sát Phnôm Pênh, tiến công sân bay Pôchentông, phá huỷ nhiều máy bay địch. Thắng lợi lớn nhất là chiến dịch phản công Đường số 7, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân "Toàn thắng 1-71" của 23.000 quân ngụy Sài Gòn dưới sự yểm trợ của không quân Mĩ vào vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia (4-2 - 4-3-1971).
Mở cuộc hành quân này, Mĩ - ngụy nhằm bao vây tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng chủ lực của ta; phá huỷ căn cứ cách mạng, kho tàng, giao thông; giải toả Đường số 7, lập tuyến ngăn chặn ở Đông và Đông Bắc Campuchia. Địch coi đây làm một mũi phối hợp quan trọng với cuộc hành quân "Lam Sơn - 719 " trên mặt trận Đường 9 -Nam Lào. Bị chủ lực của ta cùng với quân và dân Campuchia tiến công liên tiếp, địch phải bỏ dở cuộc hành quân trong tháng 3-1971.

Thất bại nặng nề ở Đường 9 - Nam Lào và Đông Bắc Campuchia, quân ngụy Sài Gòn bộc lộ sự bất lực trong vai trò xung kích trên bán đảo Đông Dương. Tình hình chiến sự cũng làm cho chính quyền Níchxơn nhận thấy cần phải đẩy mạnh xây dựng quân ngụy Phnôm Pênh có khả năng đứng vững và đối phó được với phong trào cách mạng Campuchia, tạo điều kiện để rút bớt quân ngụy Sài Gòn về miền Nam và do đó mới có thể rút thêm quân Mĩ về nước.

Với ý đồ đó từ 20-8-1971, đế quốc Mĩ huy động khoảng 20.000 quân ngụy Phnôm Pênh, có sự yểm trợ của không quân Mĩ và ngụy Sài Gòn, mở cuộc hành quân "Chenla 2", nhằm lấn chiếm vùng giải phóng, chia cắt chiến trường Campuchia thành nhiều khu vực để tiện "bình định" gom dân, cắt đường hành lang của ta từ đông sang tây. Đây là cuộc hành quân đầu tiên và lớn nhất của quân ngụy Phnôm Pênh trong chiến lược "Khơme hoá chiến tranh" của Mĩ. Quân chủ lực ta cùng với quân giải phóng Campuchia tiến công mạnh, tiêu diệt nhiều địch. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngụy quyền Phnôm Pênh phải ra lệnh tàn quân rút khỏi Đường số 6. Ngày 2-12, cuộc hành quân "Chenla 2 " kết thúc bằng cuộc tháo chạy của quân ngụy Phnôm Pênh ra khỏi những mục tiêu chúng vừa chiếm đóng và bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 12.000 tên. Âm mưu "Khơme hoá chiến tranh" của Mĩ bị giáng một đòn mạnh. Vùng giải phóng Campuchia được mở rộng với khoảng 80% đất đai và 60% dân số. Những thắng lợi quân sự của nhân dân ba nước Đông Dương đã đẩy Mĩ -ngụy vào thế bị động, bế tắc cả về chiến lược, chiến thuật, chiến dịch, làm rung chuyển hệ thống phòng ngự từ xa của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".

Ngược lại, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và thắng lợi quân sự cổ vũ, ở hầu khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô thị, quần chúng nhân dân nổi dậy chống ác ôn, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Nhiều ấp chiến lược bị san bằng, chương trình "bình định" nông thôn bị giáng một đòn nặng nề.

Ở các đô thị, đông đảo công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, Phật tử, các tầng lớp lao động tổ chức bãi công, bãi khoá, mít tinh, biểu tình, hội thảo, đưa đơn kiến nghị đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi hoà bình, đòi Mĩ rút về nước... Phong trào nổ ra liên tục và rầm rộ nhất là ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, những nơi có lực lượng học sinh, sinh viên khá đông đảo và thường là
"ngòi nổ" cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.

Từ trong phong trào đấu tranh, họ cất cao tiếng hát"Xuống đường... ", "Dậy mà đi... "; đi vào các ngõ phố, ra ngoài đồng ruộng, gặp gỡ và nói cho đồng bào nghe những thủ đoạn lừa bịp của Mĩ - ngụy, đồng thời nghe đồng bào kể tội ác của Mĩ - ngụy đối với đồng bào. Nhiều học sinh, sinh viên tự nguyện xếp bút nghiên, lên đường ra mặt trận chiến đấu chống bè lũ cướp nước và bán nước.

Cùng với thắng lợi về quân sự, nhân dân ta còn giành được thắng lợi to lớn trên mặt trận chính trị, ngoại giao. Đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng miền Nam, Đại hội quốc dân gồm đại biểu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam cùng đại biểu các lực lượng yêu nước khác ở miền Nam được triệu lập (từ ngày 6 đến ngày 8-6-1969). Đại hội long trọng tuyên bố thành lập chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đề ra những quy định lớn về đường lối đối ngoại và về cơ cấu tổ chức. Đại hội bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Bác sĩ Phùng Văn Cung, Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, ông Nguyễn Đoá - một nhân sĩ trí thức - làm Phó Chủ tịch; Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Phó Chủ tịch.

Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, biểu hiện ý chí của nhân dân miền Nam, thực hiện quyền làm chủ của mình. Sự ra đời của Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đánh dấu một bước hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng của nhân dân miền Nam. Ngay sau khi ra đời (6-1969), Chính phủ cách mạng đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

Ngày 10-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra chương trình hành động, gồm các chính sách lớn về vấn đề đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mĩ; hoà hợp dân tộc; khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá; bảo đảm các quyền tự do dân chủ, trong đó có chính sách về ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Tính đến đầu năm 1971, chính quyền cách mạng đã cấp 1,6 triệu hécta ruộng đất cho nông dân. Nếu tính cả số ruộng đất được chia trong kháng chiến chống Pháp bị cướp đi, nay giành lại được, thì tổng số ruộng đất do nông dân làm chủ là 2,1 triệu hécta trong tổng số 3,5 triệu hécta đất canh tác trên toàn miền Nam.

Cùng thời gian trên, vùng giải phóng được mở rộng thêm 3.600 ấp với khoảng 3 triệu dân. Bốn Ban đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời được thành lập ở bốn miền: Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Uỷ ban nhân dân cách mạng được thành lập ở tất cả 44 tỉnh, 6 thành phố, 182 huyện và hơn 1.500 xã. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , khối liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc Đông Dương được hình thành và ngày càng bền chặt. Ngay từ đầu năm 1965, trước hành động leo thang mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ, từ ngày 1 đến ngày 9-3- 1965, tại Phnôm Pênh đã diễn ra cuộc Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương. Hội nghị nhấn mạnh "sự cần thiết phải củng cố tình đoàn kết chân thành và bền vững của các dân tộc Đông Dương" trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ xâm lược.

Hội nghị có sự tham gia của Đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắc Xạt, lực lượng trung lập yêu nước Lào và các đoàn thể, tổ chức thuộc ba nước hành động ấy , đế quốc Mĩ muốn tạo điều kiện thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", đồng thời liên kết ngụy quyền Sài Gòn, Phnôm Pênh, Viên Chăn thành một trục tay sai đắc lực để chia cắt, cô lập bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

Tình hình đó đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải tăng cường khối đoàn kết chiến đấu ba dân tộc Đông Dương. Đáp ứng yêu cầu ấy, Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương gồm những người đứng đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia được triệu tập trong 2 ngày (24 - 25-4-1970). Hội nghị ra bản Tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương, đồng thời cũng là hiến chương về mối quan hệ giữa nhân dân ba nước láng giềng cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.

Thắng lợi của Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước đánh dấu bước phát triển mới rất quan trọng của mối tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Đó cũng là một đòn giáng mạnh vào chiến lược "Đông Dương hoá chiến tranh" của đế quốc Mĩ . Trong thời kì đấu tranh chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", nhân dân ta cũng luôn luôn nhận được những tình cảm đặc biệt của bạn bè trên thế giới. Cả loài người tiến bộ, trong đó có nhân dân tiến bộ Mĩ ĩ đều công phẫn lên án chính quyền Ních ơn, kiên quyết đòi chúng chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút toàn bộ quân Mĩ về nước. .Trong bối cảnh đó, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân Việt Nam họp tại Phari(27-7-1972). Tham dự Hội nghị có 27 đoàn đại biểu, gồm các đoàn đại biểu các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, các đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước Tây âu và Bắc Âu. Hội nghị đã thông qua một bản tuyên bố quan trọng về vấn đề Việt Nam: "Ngày nay, không có một nhiệm vụ nào cao quý hơn và cấp bách hơn là ủng hộ nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và tố cáo những tội ác chiến tranh của Mĩ ở Đông Dương".

Tiếp theo Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân Việt Nam, từ ngày 10-8-1972, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao 59 nước không liên kết cũng được triệu tập tại Gióocgiơtao (thủ đô Cộng hoà Guyanna). Hội nghị long trọng công nhận địa vị hợp pháp của đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và đại diện Chính phủ Vương quốc Campuchia trong đại gia đình các nước không liên kết; đồng thời không công nhận đại diện của ngụy quyền Sài Gòn và ngụy quyền Phnôm Pênh.

Những thắng lợi quân sự và chính trị trên đây, nhất là thắng lợi trên chiến trường Campuchia và Đường 9 - Nam Lào đã tạo nên một sự thay đổi cục diện có lợi cho ta.

Tháng 5-1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để đánh giá tình hình, phán đoán âm mưu của địch và xác định thời cơ chiến lược Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta là: "kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh của Mĩ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mĩ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài" .

Bước vào mùa xuân năm 1972, Mĩ - ngụy biết ta sẽ tiến công lớn nhưng không dự đoán nổi thời điểm, phương hướng chủ yếu, quy mô, cường độ cuộc tiến công. Chính vào lúc địch sơ hở do phán đoán sai thời gian và chờ đợi kéo dài, trưa ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt bộ phận lớn lực lượng địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng, thay đổi cục diện chiến trường miền Nam.

Trong cuộc tiến cộng chiến lược này, ta chủ trương kết hợp ba đòn chiến dịch có ý nghĩa chiến lược: Tiêu diệt địch trên chiến trường lựa chọn; tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đông dân để đánh phá bình định; đấu tranh chính trị ở các thành thị; đồng thời kết hợp ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi quyết định.

Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên ba hướng: Đường số 9 - Trị -Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu là Đường 9 - Trị -Thiên. Với những đòn tiến công mạnh, quy mô rộng lớn trên khắp các địa bàn chiến lược quan trọng, sau gần 3 tháng chiến đấu quân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng thủ vững chắc nhất của địch (Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ); loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 250.000 địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh; giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kon Tum, phía Bắc tỉnh Bình Định, một khu vực rộng lớn và hoàn chỉnh ở miền Đông Nam Bộ thuộc các tỉnh Tây Ninh , Bình Long và Phước Long. . .

Sau đòn mở đầu bất ngờ, choáng váng của quân ta, được sự yểm trợ tối đa của hoả lực , không quân và hải quân Mĩ, quân ngụy đã phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Tập đoàn Níchxơn "Mĩ hoá" trở lại một phần cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam.

Mặc dù vậy, cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè năm 1972 của quân và dân ta có ý nghĩa to lớn, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chân chống Mĩ cứu nước. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" bị giáng một đòn rất mạnh và có nguy cơ phá sản hoàn toàn.
 
2- Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế, chi viện chiến trường,, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ

Phán đoán trước tình hình Mĩ sẽ phải ngừng ném bom bắn phá trong một ngày gần nhất, ngày 28-10-1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết về khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc sau khi kết thúc chiến tranh phá hoại.

Nghị quyết Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là phải tập trung sức bảo đảm đầy đủ và kịp thời yêu cầu tăng cường sức chiến đấu cho tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược"; đẩy mạnh sản xuất và xây dựng, bảo đảm đời sống của nhân dân; tập trung sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, xây dựng kinh tế địa phương, ra sức tăng cường giao thông vận tải và những ngành trọng yếu của công nghiệp do Trung ương quản lí, làm cho kinh tế miền Bắc vững mạnh; tích cực chuẩn bị cho những năm sau và cho việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Nghị quyết cũng nêu lên phương hướng, nhiệm vụ, những mục tiêu quan trọng cần phát triển của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, lưu thông phân phối.

Từ cuối năm 1969 đầu năm 1970, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nghị quyết của Trung ương Đảng, khắp miền Bắc diễn ra ba cuộc vận động chính trị lớn: Lao động sản xuất; Phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên nông thôn; Nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên "Lớp Hồ Chí Minh ". Cũng từ đó, các phong trào thi đua học tập, công tác và lao động sản xuất đều dấy lên sôi nổi trong mọi giới, mọi ngành và đem lại nhiều kết quả to lớn.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi được đưa dần lên thành một ngành chính. Các hợp tác xã đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, thâm canh, tăng vụ. Nhiều giống lúa mới có năng suất cao được đưa vào canh tác. Nhờ đó, số các địa phương và hợp tác xã nông nghiệp đạt mục tiêu từ 5 tấn thóc trở lên trên 1 hécta ngày càng tăng. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn năm 1968 khoảng 60 vạn tấn. Năm 1971, dù có trận lụt lớn gây thiệt hại nặng, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng hơn năm 1968 gần 30 vạn tấn. Cùng với nông nghiệp, hầu hết các cơ sở công nghiệp bị tàn phá trong thời gian chiến tranh được khôi phục nhanh chóng. Một số công trình đang làm dở được ưu tiên đầu tư vốn xây dựng và hoàn thành, đưa vào sản xuất, đáng chú ý là Nhà máy thuỷ điện Thác Bà (Yên Bái), bắt đầu phát điện từ ngày 5-10- 1971. Một số ngành công nghiệp quan trọng (điện, than, vật liệu xây dựng...) được chú ý phát triển. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong năm 1970 vượt kế hoạch 2,5%. Hệ thống giao thông vận tải nhanh chóng được khôi phục, nhất là các tuyến giao thông chiến lược. Con đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được nâng cấp và mở rộng, đảm bảo chi viện kịp thời cho chiến trường.

Các cơ sở văn hoá, giáo dục, y tế cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển, góp phần ổn định đời sống nhân dân. Trên cơ sở bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, từ năm 1971, miền Bắc thực hiện kế hoạch dài hạn 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá (1971 - 1973), nhằm bảo đảm yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng một bước cơ cấu nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Trong lúc nhân dân miền Bắc đang bắt đầu thực hiện có kết quả kế hoạch nhà nước 3 năm, thì một trận lụt lớn chưa từng có trong 100 năm đã xảy ra và kéo dài gần một tháng (giữa tháng 8 đến cuối tháng 9-1971), gây thiệt hại lớn đến sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã họp liên tịch với Hội đồng Chính phủ ra nghị quyết về việc khẩn trương khắc phục hậu quả lũ lụt, coi đó là nhiệm vụ trung tâm đột xuất trước mắt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nhờ có những biện pháp tích cực và kịp thời, những hậu quả lũ lụt nhanh chóng được khắc phục. Sản lượng lương thực trong năm 1971 vẫn đạt 5,6 triệu tấn, cao hơn mức bình quân các năm trước. vừa khắc phục được thiên tai để phát triển sản xuất thì địch họa lại đến với nhân dân ta.

Trước những thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam, từ ngày 30-4 đến ngày 5-4-1972, "nhóm hành động đặc biệt" do Kitxinhgiơ cầm đầu đã liên tiếp họp bàn để cứu vãn tình thế. Cùng với âm mưu "Mĩ hoá" trở lại cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, đế quốc Mĩ liều lĩnh gây trở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 6-4-1972, đế quốc Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc Khu IV cũ. Ngày 16-4-1972, tập đoàn Níchxơn tuyên bố chính thức mở rộng cuộc chiến tranh phá hoạ trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Đến ngày 9-5-1972, chúng lại cho rải mìn phong toả bờ biển và các cửa sông miềnBắc Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, đế quốc Mĩ huy động lực lượng không quân và hải quân với một số lượng lớn nhất và thuộc loại hiện đại nhất. Về không quân, vào lúc cao nhất, chúng huy động 1.400 máy bay chiến thuật (chiếm 40% lực lượng không quân chiến thuật Mĩ), 193 máy bay B52 (chiếm 45% số máy bay B52 của toàn nước Mĩ). Về hải quân, chúng huy động 14 chiếc tàu chiến (chiếm 3/4 số tàu của Hạm đội 7, trong đó có 6 tàu sân bay, chiếm 50% tổng số tàu sân bay của Mĩ)1. Chỉ riêng lực lượng không quân của Mĩ đã bằng lực lượng không quân 3 nước mạnh nhất Tây Âu lúc đó cộng lại là Anh 600 chiếc, Pháp 475 chiếc và Tây Đức 500 chiếc . Với lực lượng lớn về không quân và hải quân, đế quốc Mĩ đánh phá miền Bắctrong quý II năm 1972 hơn 1.500 lần chiếc, trong đó có 270 lần chiếc B52; trong quý III hơn 22.000 lần chiếc, trong đó có 910 lần chiếc B52; trong quý IV hơn 17.000 lần chiếc, trong đó có hơn 2.100 lần chiếc B52 .

Như vậy, cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đã vượt xa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất không chỉ về quy mô, tốc độ, cường độ đánh phá, mà thủ đoạn tiến hành cũng tàn bạo, dã man hơn nhiều. Mục tiêu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai cũng là mục tiêu Mĩ đặt ra cho cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất; đồng thời còn nhằm cứu nguy cho chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và tạo thế mạnh trên bàn Hội nghị Pari.

Trước âm mưu và hành động mới của đế quốc Mĩ, quân và dân miền Bắc bình tĩnh, nhanh chóng chuyển mọi hoạt động vào thời chiến. Các lực lượng vũ trang nhân dân kiên quyết đánh trả lực lượng không quân và hải quân địch. Công tác phòng không nhân dân được tiến hành khẩn trương và triệt để, nhất là việc sơ tán, phân tán người và tài sản ra khỏi các vùng trọng điểm. Nhờ có sự chuẩn bị từ trước, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, trong hơn 6 tháng (từ ngày 6-4 đến 17- 10-1972), quân và dân ta đã bắn rơi 766 máy bay địch, đồng thời giữ vững các tuyến đường giao thông chiến lược để chi viện cho tiền tuyến.

Để phá tan âm mưu của địch phong toả bờ biển và các cửa sông, chúng ta một mặt chuyển phần lớn khối lượng hàng nhập bằng đường biển sang đường sắt và đường bộ; mặt khác phát huy sáng kiến, rà phá bom mìn, duy trì vận tải trên biển với quy mô thích hợp, xây dựng gấp các hệ thống đường ống. Nhờ có nhiều biện pháp tích cực và đầy sáng tạo trên mặt trận giao thông vận tải, khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971. Chính cơ quan tình báo Mĩ, trong báo cáo gởi cho Tổng thống Níchxơn, đã phải thú nhận: "Mặc dù ném bom rất ác liệt, vẫn không giảm được một cách có ý nghĩa việc đưa người và trang bị vào miền Nam Việt Nam" 1. Trước những thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam, Bắc, cùng với việc cử một phái đoàn đến Pari để nối lại cuộc đàm phán 2, ngày 22-10-1972, Tổng thống Mĩ Níchxơn phải ra lệnh ngừng ném bom bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Nhận rõ hành động trên đây của Níchxơn chỉ nhằm đánh lừa dư luận trên thế giới và trong nước để tranh thủ số phiếu trong cuộc bầu cử Tổng thống cuối năm 1972, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhắc nhở quân và dân ta luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng tư thế chiến đấu. Ngày 25-11-1972, Quân uỷ Trung ương ra bản Chỉ thị "Tăng cường sẵn sàng chiến đấu ", nêu rõ: Mĩ có thể ném bom bắn phá trở lại các mục tiêu ngoài vĩ tuyến 20 với mức độ ác liệt hơn trước. Chúng có thể dùng máy bay B52 đánh phá các trọng điểm Hà Nội, Hải Phòng...

Đúng như Đảng ta dự đoán, sau khi trúng cử Tổng thống (8- 11-1972), Níchxơn liền trở mặt, làm cho cuộc đàm phán ở Pari bị bỏ dở. Ngày 14-12-1972, tập đoàn Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác (Chiến dịch Lainơbêccơ II) nhằm thực hiện các mưu đồ sau đây: Tàn phá một số khu vực dân cư, chủ yếu là Hà Nội, Hải Phòng, hòng "gây sức ép buộc Hà Nội phải trở lại Hội nghị Pari với thế yếu ".

Phá hoại tiềm lực kinh tế và quốc phòng, ngăn chặn từ gốc nguồn chi viện của miền Bắc, phá kế hoạch chuẩn bị đánh lớn của ta sau này ở miền Nam Việt Nam. Gây tổn thất về người và của cải vật chất, làm cho ta mất nhiều thời gian khắc phục hậu quả sau khi chiến tranh kết thúc và do đó không đủ sức để tiếp tục cuộc kháng chiến ở miền Nam.

- Tạo điều kiện cho ngụy quân, ngụy quyền có thời gian tương đối ổn định để tăng cường lực lượng, tạo thế mạnh trong một giải pháp chính trị sau này.

- Đe doạ các lực lượng đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Cuộc tập kích bắt đầu diễn ra từ ngày 18 đến hết ngày 29 - 12-1972 . Đế quốc Mĩ đã tập trung một nửa lực lượng không quân chiến lược và hầu hết lực lượng không quân chiến thuật hiện có ở Đông Nam Á cho cuộc tập kích.

Trong suốt 12 ngày đêm, đế quốc Mĩ đã sử dụng 726 lần chiếc máy bay chiến lược B52, gần 2.000 lần chiếc máy bay chiến thuật chiến đấu 1, ném nhiều loại bom, đạn liên tục 24/24 giờ trong ngày xuống các khu đông dân, bệnh viện, trường học, bến xe, nhà ga... gây nhiều tổn thất cho nhân dân ta . Số lượng bom, đạn chúng trút xuống trong 12 ngày đêm lên tới 10 vạn tấn (riêng Hà Nội là 4 vạn tấn), tương đương với sức công phá của 5 quả bom nguyên tử thuộc loại Mĩ ném xuống Nhật Bản năm 1945.

Nhờ chuẩn bị tốt cả về tư tưởng và tổ chức, quân và dân ta, với tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí, đã lập nên trận "Điện Biên Phủ trên không" đập tan hoàn toàn cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của đế quốc Mĩ. Trong 12 ngày đêm, quân và dân ta bắn rơi 81 máy bay Mĩ, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 chiếc máy bay F111; diệt và bắt nhiều giặc lái; bắn cháy 9 tàu chiến. "Thần tượng B52" của không quân chiến lược Hoa Kì hoàn toàn bị đập tan. Trước những tổn thất hết sức nặng nề và sự phản đối mạnh mẽ của dư luận thế giới, Níchxơn buộc phải ra lệnh ngừng các cuộc ném bom miền Bắc nước ta từ vĩ tuyến 20 trở ra kể từ 7 giờ sáng ngày 30-12-1972. Đồng thời, giới cầm quyền Mĩ phải chấp nhận nối lại cuộc đàm phán ở Pari. Từ ngày 8 đến ngày 13- 1-1973, diễn ra cuộc gặp gỡ cấp cao cuối cùng tại Pari, dẫn đếnmchấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Ngày 15-1- 1973, Hoa Kì phải tuyên bố chấm dứt toàn bộ việc ném bom bắn phá, thả mìn miền Bắc Việt Nam. Tính chung, trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ 6-4-1972 đến 15-1-1973), quân và dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ, trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn cháy và bắn bị thương 125 tàu chiến và tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm giặc lái. Ngày 23-1-1973, Hiệp định và các nghị định thư về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được kí tắt giữa đại diện hai bên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kì tại Pari. Đến ngày 27-1-1973, trải qua 4 năm 9 tháng với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng, Hội nghị Pari về Việt Nam kết thúc thắng lợi. Vào lúc 11 giờ 30 (giờ Pari), các Bộ trưởng Ngoại giao thay mặt cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nguyễn Duy Trinh, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam - Nguyễn Thị Bình, Chính phủ Hoa Kì - Uyliam Rô giơ và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.

- Trần Văn Lắm đã kí chính thức vào các bản tiếng Anh và tiếng Việt của Hiệp đinh về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và ba Nghị định thư kèm theo: 1) Nghị định thư ngừng bắn tại miền Nam Việt Nam và các Ban Liên hợp quân sự; 2) Nghị định thư về Uỷ ban quốc tế kiểm soát và giám sát; 3) Nghị định thư về trao trả các nhân viên quân sự bị bắt, dân thường nước ngoài bị bắt và nhân viên dân sự Việt Nam bị bắt và giam giữ. Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28-1-1973. Theo Hiệp định Pari:

- Hoa Kì và các bên tham gịa Hội nghị phải cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam.

Hoa Kì cam kết rút hết quân viễn chinh, quân đồng minh, các nhân viên, cố vấn quân sự Mĩ về nước; cam kết chấm dứt mọi dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân miền Nam Việt Nam.

- Các bên để nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua cuộc tổng tuyển cử tự do.

Các bên công nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị. Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Hoa Kì cam kết "sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và toàn Đông Dương" 1. Ngày 2-3-1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam gồm đại biểu các nước: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, 4 bên tham gia kí kết Hiệp định và 4 nước trong Uỷ ban giám sát và kiểm soát quốc tế (Ba Lan, Hunggari, Inđônêxia và Canađa) được triệu tập tại Pari với sự có mặt của ông Tổng thư kí Liên hợp quốc. Hội nghị đã thông qua bản Đính ước công nhận giá trị pháp lí quốctế của Hiệp định Pari về Việt Nam và bảo đảm cho Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh.

Ngày 29-3- I 973, Bộ chỉ huy quân sự ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ tại căn cứ Tân Sơn Nhất. Cùng ngày, vào lúc 16 giờ 25 phút, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Tướng Uâyoen, Tổng Tư lệnh quân đội Mĩ ờ miền Nam Việt Nam cùng 2.501 tên lính viễn chinh Mĩ cuối cùng và những tên lính Nam Triều Tiên, Philíppin đã rút khỏi nước ta dưới sự kiểm soát của các sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên.

Hiệp định Pari được kí kết và Mĩ rút hết quân đội về nước là một thắng lợi rất to lớn của nhân dân ta trong gần 20 năm chiến đấu bền bỉ, gian khổ và anh dũng. Miền Bắc có điều kiện hoà bình để khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, tăng cường tiềm lực mọi mặt, đảm bảo chi viện sức người, sức của cho cách mạng giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Ở miền Nam, do quân viễn chinh Mĩ rút về nước, quân ngụy mất chỗ dựa, cho nên so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho cách mạng. Đó chính là thế mới và lực mới cho quân và dần ta thực hành tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam 1945-2000​
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top