Hide Nguyễn
Du mục số
- Xu
- 1,943
Bài1: Hành trình nguồn cội
1- Đôi nét về nguồn gốc của võ Bình Định
Bình Định xưa thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm Thành đây là châu Thi-bị. Học giả G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt chữ Cri –Vi(Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV. Năm 1470, vua Chiêm Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Nam nước ta là châu Hoá, vua Lê Thánh Tông phải đích thân cầm binh đánh dẹp. Sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông, vùng đất Vijaya sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt năm 1471 với tên gọi là phủ Hoài Nhân thuộc đạo Quảng Nam, bao gồm các huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1605, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Quy Nhơn. Vào năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành Hoàng Đế trên nền cũ của thành Đồ Bàn, lấy phủ Quy Nhơn làm kinh đô của triều Tây Sơn. Năm 1799 Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định. Năm 1802 triều Nguyễn (Gia Long) đổi thành làm dinh, đến 1808 đổi dinh làm trấn. Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh - gọi là tỉnh Bình Định.
Như vậy, Bình Định từng kinh qua vai trò của kinh đô của vương quốc Chiêm rồi mới trở thành vùng biên viễn Đại Việt. Sau khi người Chiêm dời vào Nam, ở đây vẫn còn các sắc dân bản địa: Bana, Chăm H’roi, H’re. Theo sự điều động của triều đình nhà Lê, một số võ quan và các cánh quân được triều đình cắt cử đến đây trấn nhậm, đương nhiên phải là những đơn vị được huấn luyện võ bị kỹ càng. Bình Định trở thành nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân mới bao gồm dân nghèo từ miền ngoài, chủ yếu là Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư; những dòng họ người Việt hoặc người Hoa rời nơi chôn nhau cắt rốn đến đây lập làng tổng mới; những phạm nhân lãnh án lưu đày. Và đây cũng là nơi những người phiêu tán giang hồ chọn làm đất dừng chân. Họ không chỉ mang theo hành lý, của cải, mà còn mang theo cả những ký ức sâu thẳm trong hội hè đình đám, trong lời ca tiếng hát, trong cách đối nhân xử thế, trong miếng võ phòng thân.
Với đặc điểm lịch sử, địa lý và dân cư như vậy, đời sống của người Bình Định xưa đã diễn ra trong sự nâng đỡ đầy hào phóng và cả sự thử thách lớn lao của Đất Mới. Suốt một thời kỳ dài trong lịch sử, Bình Định là đất phên giậu, là chốn biên thùy phía Nam của Tổ quốc, một miền đất đầu sóng ngọn gió với vô vàn thử thách, hoang vu và bất trắc. Hiện thực ấy buộc những lớp cư dân Việt đầu tiên của Bình Định phải căng mình ra để tồn tại, hơn thế nữa, để xác lập tư thế chủ nhân, không chỉ là người chủ của số phận mình, mà còn là người chủ đất nước. Trong công cuộc khẩn hoang đối mặt với thiên nhiên và dã thú hay trong những cuộc chạm trán giữa các lực lượng đối kháng, giữa người lương thiện và kẻ cướp, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, võ đã hình thành. Tích hợp từ nhiều nguồn, võ Bình Định đã xác lập qua hàng trăm năm chọn lọc, lưu truyền, chảy trong dòng chảy của lịch sử và trở thành một trong những hệ giá trị đặc trưng cho vùng đất.
2- Một số võ nhân nổi tiếng vinh danh võ cổ truyền Bình Định qua các thời kỳ:
Một nền võ học được xác lập không chỉ bằng hệ thống lý thuyết và các bộ môn, các chiêu thức thực hành, mà phải nói đến các võ nhân mà tên tuổi đã vượt khỏi đường viền của một tiểu vùng văn hoá, được giới võ học trong nước biết đến như những đại diện của võ cổ truyền Bình Định.
Tương ứng với các thời kỳ lịch sử là các giai đoạn phát triển của võ Bình Định. Chúng tôi tạm chia: Thời kỳ trước Tây Sơn, thời kỳ Tây Sơn, thời kỳ nhà Nguyễn, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ sau 1975 đến nay.
2.1- Thời kỳ trước Tây Sơn:
Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi danh võ nghiệp có Khám lý quận công Trần Đức Hoà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương Đức Thường... Họ không chỉ giỏi võ, mà còn là các danh nhân rường cột của một thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ông là người tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.
Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ.
Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên.
- Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng.
Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng.
Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao.
Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn) …
Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh.
Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm.
2.2- Thời kỳ Tây Sơn:
Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư.
- Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc.
- Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính…
- Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung.
Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn.
Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam.
2.3- Thời kỳ nhà Nguyễn:
Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ:
Củ lang Đồng Phó,
Đỗ phộng Hà Nhung,
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi
Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian.
Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương...
Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân.
2.4- Thời kỳ cận – hiện đại:
Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia.
Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh, Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái.
Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,...
Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau.
Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại.
Nguồn : baobinhdinh.com.vn
1- Đôi nét về nguồn gốc của võ Bình Định
Bình Định xưa thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm Thành đây là châu Thi-bị. Học giả G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt chữ Cri –Vi(Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV. Năm 1470, vua Chiêm Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Nam nước ta là châu Hoá, vua Lê Thánh Tông phải đích thân cầm binh đánh dẹp. Sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông, vùng đất Vijaya sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt năm 1471 với tên gọi là phủ Hoài Nhân thuộc đạo Quảng Nam, bao gồm các huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1605, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Quy Nhơn. Vào năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành Hoàng Đế trên nền cũ của thành Đồ Bàn, lấy phủ Quy Nhơn làm kinh đô của triều Tây Sơn. Năm 1799 Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định. Năm 1802 triều Nguyễn (Gia Long) đổi thành làm dinh, đến 1808 đổi dinh làm trấn. Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh - gọi là tỉnh Bình Định.
Như vậy, Bình Định từng kinh qua vai trò của kinh đô của vương quốc Chiêm rồi mới trở thành vùng biên viễn Đại Việt. Sau khi người Chiêm dời vào Nam, ở đây vẫn còn các sắc dân bản địa: Bana, Chăm H’roi, H’re. Theo sự điều động của triều đình nhà Lê, một số võ quan và các cánh quân được triều đình cắt cử đến đây trấn nhậm, đương nhiên phải là những đơn vị được huấn luyện võ bị kỹ càng. Bình Định trở thành nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân mới bao gồm dân nghèo từ miền ngoài, chủ yếu là Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư; những dòng họ người Việt hoặc người Hoa rời nơi chôn nhau cắt rốn đến đây lập làng tổng mới; những phạm nhân lãnh án lưu đày. Và đây cũng là nơi những người phiêu tán giang hồ chọn làm đất dừng chân. Họ không chỉ mang theo hành lý, của cải, mà còn mang theo cả những ký ức sâu thẳm trong hội hè đình đám, trong lời ca tiếng hát, trong cách đối nhân xử thế, trong miếng võ phòng thân.
Với đặc điểm lịch sử, địa lý và dân cư như vậy, đời sống của người Bình Định xưa đã diễn ra trong sự nâng đỡ đầy hào phóng và cả sự thử thách lớn lao của Đất Mới. Suốt một thời kỳ dài trong lịch sử, Bình Định là đất phên giậu, là chốn biên thùy phía Nam của Tổ quốc, một miền đất đầu sóng ngọn gió với vô vàn thử thách, hoang vu và bất trắc. Hiện thực ấy buộc những lớp cư dân Việt đầu tiên của Bình Định phải căng mình ra để tồn tại, hơn thế nữa, để xác lập tư thế chủ nhân, không chỉ là người chủ của số phận mình, mà còn là người chủ đất nước. Trong công cuộc khẩn hoang đối mặt với thiên nhiên và dã thú hay trong những cuộc chạm trán giữa các lực lượng đối kháng, giữa người lương thiện và kẻ cướp, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, võ đã hình thành. Tích hợp từ nhiều nguồn, võ Bình Định đã xác lập qua hàng trăm năm chọn lọc, lưu truyền, chảy trong dòng chảy của lịch sử và trở thành một trong những hệ giá trị đặc trưng cho vùng đất.
2- Một số võ nhân nổi tiếng vinh danh võ cổ truyền Bình Định qua các thời kỳ:
Một nền võ học được xác lập không chỉ bằng hệ thống lý thuyết và các bộ môn, các chiêu thức thực hành, mà phải nói đến các võ nhân mà tên tuổi đã vượt khỏi đường viền của một tiểu vùng văn hoá, được giới võ học trong nước biết đến như những đại diện của võ cổ truyền Bình Định.
Tương ứng với các thời kỳ lịch sử là các giai đoạn phát triển của võ Bình Định. Chúng tôi tạm chia: Thời kỳ trước Tây Sơn, thời kỳ Tây Sơn, thời kỳ nhà Nguyễn, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ sau 1975 đến nay.
2.1- Thời kỳ trước Tây Sơn:
Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi danh võ nghiệp có Khám lý quận công Trần Đức Hoà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương Đức Thường... Họ không chỉ giỏi võ, mà còn là các danh nhân rường cột của một thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ông là người tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.
Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ.
Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên.
- Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng.
Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng.
Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao.
Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn) …
Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh.
Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm.
2.2- Thời kỳ Tây Sơn:
Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư.
- Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc.
- Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính…
- Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung.
Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn.
Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam.
2.3- Thời kỳ nhà Nguyễn:
Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ:
Củ lang Đồng Phó,
Đỗ phộng Hà Nhung,
Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi
Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian.
Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương...
Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân.
2.4- Thời kỳ cận – hiện đại:
Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia.
Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh, Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái.
Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,...
Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau.
Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại.
Nguồn : baobinhdinh.com.vn