- Xu
- 458
Bình giảng đoạn trích Cảnh ngày xuân ( trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Bài làm
Đã có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa như Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà hay Tố Hữu bày tỏ cảm xúc suy nghĩ của mình về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Song hầu hết những suy nghĩ của họ đều nghiêng về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều . Giá trị của Truyện Kiều cũng như những đóng góp lớn lao của Đại thi hào Nguyễn DU cho văn học nước nhà không chỉ dừng lại ở đó. Nghệ thuật độc đáo của Truyện Kiều mà ưu thế là nghệ thuật miêu tả nhân vật; nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đã trở thành lý do khiến cho Truyện Kiều trở thành kiệt tác, hấp dẫn hàng triệu trái tim người đọc trong và ngoài nước, đoạn trích Cảnh ngày xuân là một dẫn chững tiêu biểu.
Như chúng ta đã biết Truyện Kiều thuộc dòng văn học trung đại Việt Nam, lúc bấy giờ trong văn học người ta thường hay sử dụng nghệ thuật miêu tả ước lệ. Khi miêu tả Cảnh ngày xuân Nguyễn Du cũng đã sử dụng triệt để thi pháp này, cảnh mùa xuân hiện lên chủ yếu bằng cách gợi chư không tả nhiều. Có thể nói đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện giá trị nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du.
Đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh Minh (đầu tháng ba), chị em Thúy Kiều đi chơi xuân. Đây là đoạn thơ nằm liền ngay sau đoạn mở đầu giới thiệu gia cảnh họ Vương và tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đoạn gồm mười tám câu thơ được kết cấu theo đúng trình tự thời gian của cuộc du xuân.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Nguyễn Du là một đại thi hào luôn có khả năng nắm bắt được cái hồn của cảnh vật để rồi sau đó chỉ bằng vài chi tiết đã làm cảnh vật được chạm khắc nổi bật với đúng cái “thần”, cái “hồn” của nó. Chẳng hạn cảnh mùa thu được ông miêu tả:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Trong đoạn thơ này với bốn câu thơ gợi tả khung cảnh ngày xuân Nguyễn Du đã chạm khắc bức tranh toàn cảnh bằng không gian, thời gian và một vài hình ảnh đặc trưng: đó là một không gian rộng lớn, thời gian trôi nhanh với hình ảnh chim én, cỏ xanh , hoa lê….Ngay từ câu thơ mở đầu “Ngày xuân con én đưa thoi” nghệ thuật miêu tả ước lệ đã được bộc lộ khá rõ. Trong một câu thơ tác giả vừa tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân “chim én” vừa nói về thời gian thấm thoát trôi nhanh như thoi dệt cửi, câu thơ còn như ngụ cả ý tiếc ngày xuân đi quá nhanh nữa thì phải. Như vậy cái ước lệ đâu chỉ có ở hình ảnh chim én nói về mùa xuân mà còn có cả cái thấm thoắt thoi đưa để chỉ sự biến chuyển mau lẹ của thời gian nữa, cái tiếc nuối của con người cũng được gửi cả vào trong ấy. Nó khác hẳn cách viết “Ngày xuân mơ nở trắng rừng” trong bài Việt Bắc của Tố Hữu sau này. Câu thơ tiếp theo là một cách tính thời gian cụ thể “ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, có chín chục ngày xuân mà đã đi qua hơn sáu mươi ngày.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Một câu thơ tuyệt hay và tuyệt đẹp. Trong đó tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật miêu tả toàn cảnh và cận cảnh, thi pháp đối lập màu sắc làm chủ đạo. Trước hết là bức tranh không gian rộng lớn như mở ra đến vô cùng vô tận.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Quả là một hình ảnh đầy sức sống có sức gợi tả đặc biệt . Câu thơ này có bản viết là “ Cỏ non xanh rợn chân trời”. Nếu chữ “tận” gợi về cái không gian chạy đến tít tắp cuối chân trời thì chữ “rợn” lại thiên về cảm giác rợn ngợp trước sức xanh của cỏ. Dù là chữ nào thì câu thơ vẫn là cái phông, cái nền cho câu thơ tiếp theo xuất chuẩn với chữ “xanh” trong câu trên. Một vài bông hoa lê trở thành thứ trang sức quý giá để tô điểm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Chữ “điểm” làm cho mùa xuân càng như có tâm hồn.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du chọn cảnh ngày xuân để nói về quãng thời gian êm đềm, ngắn ngủi của cuộc đời Thúy Kiều. Bởi trong bốn mùa xuân, hạ, thu ,đông thì mùa xuân vẫn là mùa có sức quyến rũ lòng người nhất. Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời trong trẻo, mát mẻ…đó còn là mùa diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm.
Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Hai câu đầu nhà thơ nói về Lễ hội Thanh minh diễn ra vào tháng ba, tác giả đã triết tự từ “Lễ hội” thật tài tình:
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Như vậy có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi viếng mộ và đi chơi xuân ở chốn đồng quê.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Nghệ thuật miêu tả ước lệ lại một lần nữa thể hiện rõ nét trong đoạn thơ này. Không khí ngày lễ hội được ví với hàng loạt hình ảnh tượng trưng như: chim yến, chim hoàng anh, như nước như nêm (chật cứng như nêm). Để tái hiện được không khí náo nức của lễ hội. Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ghép là tính từ, danh từ, động từ xuất hiện với tần số dày đặc. Các danh từ ghép ( yến anh,chị em, tài tử,giai nhân…) gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến lễ hội; các động từ ghép ( sắm sửa, dập dìu…)gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt; các tính từ ghép (gần xa,nô nức…) diễn tả tâm trạng háo hức của người đi chơi lễ hội. Hình ảnh ẩn dụ “gần xa nô nức yến anh” gợi lên cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim hoàng anh đang ríu rít…Từ láy “dập dìu” thật gợi hình, gợi cảm , vừa tả được cảnh từng đôi lứa “tài tử - giai nhân” đang du xuân vừa diễn tả được cái nhịp điệu trữ tình thơ mộng trong từng bước chân, từng đoàn xe đang đi trên đường . Không chỉ có vậy, Nguyễn Du còn miêu tả một phong tục trong ngày tết Thanh minh đó là rắc thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người đã khuất.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về được bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển đổi của thời gian “Tà tà bóng ngả về tây”. Buổi chiều tà thường gợi về cái gì đó thật buồn, bởi nó báo hiệu một ngày đã tàn. Đang vui vẻ, nô nức là thế, bây giờ đã kết thúc sao tránh khỏi tâm trạng “ thơ thẩn” đầy tiếc nuối. Vẫn biết vậy sao ta cứ ám ảnh mãi bởi hình ảnh ba chị em Kiều đang thơ thẩn ra về. Cảnh mùa xuân ở những câu cuối được cảm nhận qua tâm trạng,những từ láy “ tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ diễn tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt câu thơ “nao nao dòng nước uốn quanh” như nhuốm màu tâm trạng. Nó vừa như vẫn còn đọng cái cảm giác bâng khuâng xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về những tháng ngày không còn hồn nhiên vô tư nữa của Thúy Kiều vì ngay sau đoạn này là đoạn Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên.
Đoạn thơ “ Cảnh ngày xuân” quả thực là một bức tranh mùa xuân thật đẹp, thật sống động nhưng cũng đầy tâm trạng. Có lẽ nếu trên đất nước này vẫn còn những tâm hồn biết rung động trước cái đẹp thì “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn là một niềm rung động lớn.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Bài làm
Đã có biết bao nhiêu bậc thi sĩ tài hoa như Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà hay Tố Hữu bày tỏ cảm xúc suy nghĩ của mình về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Song hầu hết những suy nghĩ của họ đều nghiêng về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều . Giá trị của Truyện Kiều cũng như những đóng góp lớn lao của Đại thi hào Nguyễn DU cho văn học nước nhà không chỉ dừng lại ở đó. Nghệ thuật độc đáo của Truyện Kiều mà ưu thế là nghệ thuật miêu tả nhân vật; nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đã trở thành lý do khiến cho Truyện Kiều trở thành kiệt tác, hấp dẫn hàng triệu trái tim người đọc trong và ngoài nước, đoạn trích Cảnh ngày xuân là một dẫn chững tiêu biểu.
Như chúng ta đã biết Truyện Kiều thuộc dòng văn học trung đại Việt Nam, lúc bấy giờ trong văn học người ta thường hay sử dụng nghệ thuật miêu tả ước lệ. Khi miêu tả Cảnh ngày xuân Nguyễn Du cũng đã sử dụng triệt để thi pháp này, cảnh mùa xuân hiện lên chủ yếu bằng cách gợi chư không tả nhiều. Có thể nói đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện giá trị nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du.
Đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh Minh (đầu tháng ba), chị em Thúy Kiều đi chơi xuân. Đây là đoạn thơ nằm liền ngay sau đoạn mở đầu giới thiệu gia cảnh họ Vương và tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đoạn gồm mười tám câu thơ được kết cấu theo đúng trình tự thời gian của cuộc du xuân.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Nguyễn Du là một đại thi hào luôn có khả năng nắm bắt được cái hồn của cảnh vật để rồi sau đó chỉ bằng vài chi tiết đã làm cảnh vật được chạm khắc nổi bật với đúng cái “thần”, cái “hồn” của nó. Chẳng hạn cảnh mùa thu được ông miêu tả:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Trong đoạn thơ này với bốn câu thơ gợi tả khung cảnh ngày xuân Nguyễn Du đã chạm khắc bức tranh toàn cảnh bằng không gian, thời gian và một vài hình ảnh đặc trưng: đó là một không gian rộng lớn, thời gian trôi nhanh với hình ảnh chim én, cỏ xanh , hoa lê….Ngay từ câu thơ mở đầu “Ngày xuân con én đưa thoi” nghệ thuật miêu tả ước lệ đã được bộc lộ khá rõ. Trong một câu thơ tác giả vừa tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân “chim én” vừa nói về thời gian thấm thoát trôi nhanh như thoi dệt cửi, câu thơ còn như ngụ cả ý tiếc ngày xuân đi quá nhanh nữa thì phải. Như vậy cái ước lệ đâu chỉ có ở hình ảnh chim én nói về mùa xuân mà còn có cả cái thấm thoắt thoi đưa để chỉ sự biến chuyển mau lẹ của thời gian nữa, cái tiếc nuối của con người cũng được gửi cả vào trong ấy. Nó khác hẳn cách viết “Ngày xuân mơ nở trắng rừng” trong bài Việt Bắc của Tố Hữu sau này. Câu thơ tiếp theo là một cách tính thời gian cụ thể “ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, có chín chục ngày xuân mà đã đi qua hơn sáu mươi ngày.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Một câu thơ tuyệt hay và tuyệt đẹp. Trong đó tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật miêu tả toàn cảnh và cận cảnh, thi pháp đối lập màu sắc làm chủ đạo. Trước hết là bức tranh không gian rộng lớn như mở ra đến vô cùng vô tận.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Quả là một hình ảnh đầy sức sống có sức gợi tả đặc biệt . Câu thơ này có bản viết là “ Cỏ non xanh rợn chân trời”. Nếu chữ “tận” gợi về cái không gian chạy đến tít tắp cuối chân trời thì chữ “rợn” lại thiên về cảm giác rợn ngợp trước sức xanh của cỏ. Dù là chữ nào thì câu thơ vẫn là cái phông, cái nền cho câu thơ tiếp theo xuất chuẩn với chữ “xanh” trong câu trên. Một vài bông hoa lê trở thành thứ trang sức quý giá để tô điểm cho vẻ đẹp của mùa xuân. Chữ “điểm” làm cho mùa xuân càng như có tâm hồn.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du chọn cảnh ngày xuân để nói về quãng thời gian êm đềm, ngắn ngủi của cuộc đời Thúy Kiều. Bởi trong bốn mùa xuân, hạ, thu ,đông thì mùa xuân vẫn là mùa có sức quyến rũ lòng người nhất. Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tiết trời trong trẻo, mát mẻ…đó còn là mùa diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm.
Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Hai câu đầu nhà thơ nói về Lễ hội Thanh minh diễn ra vào tháng ba, tác giả đã triết tự từ “Lễ hội” thật tài tình:
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Như vậy có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: đi viếng mộ và đi chơi xuân ở chốn đồng quê.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Nghệ thuật miêu tả ước lệ lại một lần nữa thể hiện rõ nét trong đoạn thơ này. Không khí ngày lễ hội được ví với hàng loạt hình ảnh tượng trưng như: chim yến, chim hoàng anh, như nước như nêm (chật cứng như nêm). Để tái hiện được không khí náo nức của lễ hội. Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ghép là tính từ, danh từ, động từ xuất hiện với tần số dày đặc. Các danh từ ghép ( yến anh,chị em, tài tử,giai nhân…) gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến lễ hội; các động từ ghép ( sắm sửa, dập dìu…)gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt; các tính từ ghép (gần xa,nô nức…) diễn tả tâm trạng háo hức của người đi chơi lễ hội. Hình ảnh ẩn dụ “gần xa nô nức yến anh” gợi lên cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én, chim hoàng anh đang ríu rít…Từ láy “dập dìu” thật gợi hình, gợi cảm , vừa tả được cảnh từng đôi lứa “tài tử - giai nhân” đang du xuân vừa diễn tả được cái nhịp điệu trữ tình thơ mộng trong từng bước chân, từng đoàn xe đang đi trên đường . Không chỉ có vậy, Nguyễn Du còn miêu tả một phong tục trong ngày tết Thanh minh đó là rắc thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người đã khuất.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về được bắt đầu bằng một câu thơ tả sự chuyển đổi của thời gian “Tà tà bóng ngả về tây”. Buổi chiều tà thường gợi về cái gì đó thật buồn, bởi nó báo hiệu một ngày đã tàn. Đang vui vẻ, nô nức là thế, bây giờ đã kết thúc sao tránh khỏi tâm trạng “ thơ thẩn” đầy tiếc nuối. Vẫn biết vậy sao ta cứ ám ảnh mãi bởi hình ảnh ba chị em Kiều đang thơ thẩn ra về. Cảnh mùa xuân ở những câu cuối được cảm nhận qua tâm trạng,những từ láy “ tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ diễn tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt câu thơ “nao nao dòng nước uốn quanh” như nhuốm màu tâm trạng. Nó vừa như vẫn còn đọng cái cảm giác bâng khuâng xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về những tháng ngày không còn hồn nhiên vô tư nữa của Thúy Kiều vì ngay sau đoạn này là đoạn Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên.
Đoạn thơ “ Cảnh ngày xuân” quả thực là một bức tranh mùa xuân thật đẹp, thật sống động nhưng cũng đầy tâm trạng. Có lẽ nếu trên đất nước này vẫn còn những tâm hồn biết rung động trước cái đẹp thì “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn là một niềm rung động lớn.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: