1. Tác giả
1.1. Hoàn cảnh xuất thân
- Bảo Ninh ( 18/10/1952), tên thật là Hoàng Ấu Phương
- Quê hương: Ông sinh ra ở Diễn Châu - Nghệ An nhưng sinh sống tại Quảng Ninh - Quảng Bình.
- Gia đình: Cha ông là Giáo sư Hoàng Tuệ ( 1922-1999) nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học.
1.2. Con người
+ Ông có thời gian từng đi bộ đội từ năm 1969 đến năm 1975.
+ Là người kiệm lời, ít bộc lộ tình cảm nhưng ông là người có trái tim nhạy cảm và ấm nồng.
1.3. Đặc điểm sáng tác
- Đề tài, chủ đề, tư tưởng: Chiến tranh và hậu chiến tranh là đề tài bao trùm trong sáng tác của ông. Ông khai thác đề tài này từ hoài niệm, suy ngẫm của người trong cuộc khi bước ra khỏi cuộc chiến để cho thấy những khó khăn, phức tạp của đời sống cùng những tổn thất, mất mát mà nó để lại
- Nghệ thuật
+ kết cấu giản dị
+ Tình huống đa dạng (có truyện thì tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa nhưng làm thay đổi cuộc đời cả một con người VD “Mối ngờ”, “Thách đấu”/hoặc tình huống ly kì, éo le, định mệnh VD “Thời tiết của ký ức”)
+ Ngôn ngữ: Giàu chất triết lý, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại sử dụng linh hoạt.
+ Giọng điệu: man mác buồn, đầy ắp chất triết lý, suy tư, những trăn trở về cuộc sống và con người.
+ Điểm nhìn trần thuật thường gắn liền với người kể chuyện ( thường kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi”)
2. Tác phẩm “Khắc dấu mạn thuyền”
2.1. Tóm tắt tác phẩm
Truyện kể về nhân vật tôi , anh đã đi đây đi đó rất nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp thấy Hà Nội. Có một chuyến đi khiến anh nhớ mãi kí ức về Hà Nội . Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, anh đưa cán bộ ra thủ đô công tác, tiện anh vào thành phố chuyển mấy bức thư đồng đội anh gửi về cho tay gia đình. Tuy không biết đường đi, lang thang dưới mưa chiều, anh chuyển xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Cái lạnh buốt của mùa đông với cơn mưa phùn bất chợt khiến cơn sốt của anh trở lại, anh ngất đi. Anh tỉnh dậy thì biết mình đang trong một nhà cô gái. Cô gái chăm sóc anh chu đáo và ân cần. Lát sau có tiếng còi báo động B52 B52. Hai người dắt tay nhau chạy ra hầm trú ẩn. Chính giây phút ấy, giữa hai con người xa lạ đã này nở sự vấn vương, mơ màng. Trở về sau chiến tranh, có dịp nào qua Hà Nội anh lính chỉ một lối mòn xe điện ấy để đi. Nhưng anh mãi không thể tìm được lối cũ. Hà Nội đổi thay, còn lòng anh thì vẫn vậy, như cái hồi tuổi 20.
2.2. Đề tài
Chiến tranh chống Mỹ, tình yêu, người lính, con người Hà Nội.
2.3. Nhan đề
Tác giả mượn điển tích “đánh dấu thuyền tìm gươm” để đặt cho nhan đề tác phẩm “Khắc dấu mạn thuyền”. Nhan đề này nói về sự tìm kiếm vô vọng của con người đối với cố nhân để truyển tải một câu chuyện khá lãng mạn trong khoảng khắc vô cùng ác liệt của chiến tranh.
2.4. Nội dung tác phẩm
2.4.1. Bức tranh Hà Nội
- Thời gian: Một chiều đông.
- Không gian: Trời Hà Nội mưa phùn, đường xá vắng lặng
+ “Thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”
+ “Hà Nội im ắng, vắng lặng đến vậy, dường như cả Hà Nội đã khóa trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.”
=> Khung cảnh gợi sự buồn, cơ đơn, con người vội vã, gấp gáp.
2.4.2. Cô gái Hà Nội
- Cô gái trẻ có ngoại xinh xắn, hiền dịu và trong sáng:
+ “Xinh đẹp và hiền dịu, gương mặt, cặp mắt, đôi môi…”
+ Nhỏ nhắn, đôi vai gầy và bộ tóc dài buông xuống .
=> vẻ đẹp ấy gây ấn tượng mạnh mẽ đối với anh lính Quảng Trị.
- Cô gái ân cần, chu đáo, biết yêu thương quan tâm người khác nhưng lại yếu đuối, mong manh:
+ Hành động chăm sóc anh lính
“ Tạnh mưa rồi anh ạ” - Cô gái nói với vẻ buồn rầu, khi trời tạnh cũng là lúc anh lính sắp phải rời đi.
“ Chúng mình ra hầm công cộng đi anh, - Cô gái nói trong hơi thở gấp - Những cái hố tròn này em chẳng bao giờ dám xuống. Dưới đó đầy nước. Rợn chân lắm” , cv “Cô gái lăn sát vào tôi. Tìm sự che chở. Cô nép sát tấm thân lạnh cóng vào người tôi, thở sát vào khuôn mặt tê dại nhưng đẫm mồ hôi của tôi, tóc cô tung xõa ra.”
=> Cô gái Hà Nội xinh đẹp, mến khách, biết yêu thương, chăm sóc. Nhưng phía sau vẻ ngoài ấy là một tâm hồn mong manh, yếu đuối.
2.4.3. Hình ảnh người lính
- Hoàn cảnh:
+ Là người lính ở mặt trận Quảng Trị, nhận nhiệm vụ lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô.
+ Tuy đi đây đi đó nhiều, nhưng anh lính rất hiếm khi tới Hà Nội.
+ Nhận nhiệm vụ đi đưa thư, trên đường đi thì trời mưa phùn, đêm lạnh buốt => Anh lính bị ốm và rồi thiếp đi trên hè phố.
- Cuộc gặp gỡ với cô gái Hà Nội:
+ Anh lính tình cờ được cô gái đưa về nhà chăm sóc chu đáo, cẩn thận.
+ Sợ làm phiền cô gái nên anh lính định rời đi nhưng cô gái giữ lại vì sức khỏe anh chưa tốt.
=> Anh cảm nhận được sự chu đáo, ân cần, dịu dàng và vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi của cô gái.
- Anh là người lính nhiệt tình, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì đồng đội
+ Có cơ hội về Hà Nội nhưng anh không về thăm quê, chỉ xin được “rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm”.
+ Anh muốn trao tận tay thư cho gia đình đồng đội của mình “ Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình để có thể nhận được ngay thư hồi âm mang ngược vào đơn vị cho linh ta sướng”.
+ Dù không biết đường đi Hà Nội, cầm trên tay chín lá thư, nhưng nhờ sự nhiệt tình, anh không lo nghĩ nhiều, ung dung, vui vẻ bước đi.
+ Anh đội mưa, chịu cái rét lạnh buốt của mùa đông để đưa thư. Cuối cùng anh bị sốt, ngất ngay trên đường đi.
- Anh là người dứt khoát, can trường và dũng cảm:
+ Khi được cô gái Hà Nội giúp đỡ, dù chưa thực sự khỏe nhưng anh định rời đi để tránh gây phiền, khó dễ cho cô gái.
+ Trước bom đạn, anh trấn tĩnh cô gái, bảo vệ, chở che cho cô gái.
+ Anh vội vàng tạm biệt người con gái Hà Nội lần cuối , hộc tốc chạy về phía đám đông để cứu người dân bị sập hầm do Mỹ thả bom.
- Cuộc gặp gỡ vô tình, trớ trêu của anh lính đã khiến anh nảy nở những xúc cảm đầy vấn vương, mơ màng:
+ Anh cảm nhận được sự quan tâm, chăm sóc chu đáo từ cô gái trẻ. Giữa cái lạnh buốt giá của mùa đông, dường như trái tim anh được sưởi ấm bởi một người con gái xa lạ, đẹp và ân cần.
+ Anh thấy được sự yếu đuối, mong manh cần được chở che của cô gái: “ Cô gái lăn sát vào tôi. Tìm sự che chở, cô nép sát vào tấm thân lạnh cóng vào người tôi, thở sát khuôn mặt tê dại nhưng đẫm mồ hôi của tôi”, “chúng tôi vẫn nằm, ôm riết lấy nhau”
=> Bom đạn, nguy hiểm và sự cận kề cái chết trở nên vô nghĩa, khi mà hai con người trẻ tuổi dường như quên đi tất cả, như ở trạng thái vô thức.
+ Tuy có tình cảm với cô gái, anh lính vẫn phải rời đi để cứu những người bị sập hầm. Anh có chút tiếc nuối vì đó là lần gặp gỡ cuối cùng với cô “lẽ ra thì đấy không thể là lần cuối cùng,bởi lẽ ra thì tôi đã trở về được ngôi nhà ấy, vào lại được căn phòng hồi đêm ấy và gặp lại được người con gái ấy của tôi”.
+ Đến 20 năm sau, trở về sau chiến tranh, mỗi lần ra Hà Nội, anh lính vẫn luôn tìm về chốn xưa cũ: “ Khi họa hoằn có dịp vào qua Hà Nội thì tôi vẫn chỉ một lối mòn xe điện ấy để đi. Cứ đi thế thôi, chẳng phải để tìm thấy một cái gì, cũng chẳng phải là để đi đến đâu”.
=> Trong khoảnh khắc ở bên nhau hoàn toàn trong sáng sẽ trở thành một kỉ niệm đẹp theo suốt cuộc đời người lính trẻ.
2.5. Nghệ thuật
- Nhan đề mượn điển tích trong văn học xưa để gửi gắm thông điệp đầy nhân văn.
- Điểm nhìn trần thuật mang tính chân thực, gần gũi.
- Đặt nhân vật vào tình huống truyện éo le bộc lộ rõ cá tính và phẩm chất của nhân vậy đồng thời thể hiện sự khéo léo của tác giả.
- Lối quan sát tinh tế, nhạy cảm về bức tranh, con người Hà Nội.
- Truyện giàu chất thơ.
1.1. Hoàn cảnh xuất thân
- Bảo Ninh ( 18/10/1952), tên thật là Hoàng Ấu Phương
- Quê hương: Ông sinh ra ở Diễn Châu - Nghệ An nhưng sinh sống tại Quảng Ninh - Quảng Bình.
- Gia đình: Cha ông là Giáo sư Hoàng Tuệ ( 1922-1999) nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học.
1.2. Con người
+ Ông có thời gian từng đi bộ đội từ năm 1969 đến năm 1975.
+ Là người kiệm lời, ít bộc lộ tình cảm nhưng ông là người có trái tim nhạy cảm và ấm nồng.
1.3. Đặc điểm sáng tác
- Đề tài, chủ đề, tư tưởng: Chiến tranh và hậu chiến tranh là đề tài bao trùm trong sáng tác của ông. Ông khai thác đề tài này từ hoài niệm, suy ngẫm của người trong cuộc khi bước ra khỏi cuộc chiến để cho thấy những khó khăn, phức tạp của đời sống cùng những tổn thất, mất mát mà nó để lại
- Nghệ thuật
+ kết cấu giản dị
+ Tình huống đa dạng (có truyện thì tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa nhưng làm thay đổi cuộc đời cả một con người VD “Mối ngờ”, “Thách đấu”/hoặc tình huống ly kì, éo le, định mệnh VD “Thời tiết của ký ức”)
+ Ngôn ngữ: Giàu chất triết lý, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại sử dụng linh hoạt.
+ Giọng điệu: man mác buồn, đầy ắp chất triết lý, suy tư, những trăn trở về cuộc sống và con người.
+ Điểm nhìn trần thuật thường gắn liền với người kể chuyện ( thường kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi”)
2. Tác phẩm “Khắc dấu mạn thuyền”
2.1. Tóm tắt tác phẩm
Truyện kể về nhân vật tôi , anh đã đi đây đi đó rất nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp thấy Hà Nội. Có một chuyến đi khiến anh nhớ mãi kí ức về Hà Nội . Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, anh đưa cán bộ ra thủ đô công tác, tiện anh vào thành phố chuyển mấy bức thư đồng đội anh gửi về cho tay gia đình. Tuy không biết đường đi, lang thang dưới mưa chiều, anh chuyển xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Cái lạnh buốt của mùa đông với cơn mưa phùn bất chợt khiến cơn sốt của anh trở lại, anh ngất đi. Anh tỉnh dậy thì biết mình đang trong một nhà cô gái. Cô gái chăm sóc anh chu đáo và ân cần. Lát sau có tiếng còi báo động B52 B52. Hai người dắt tay nhau chạy ra hầm trú ẩn. Chính giây phút ấy, giữa hai con người xa lạ đã này nở sự vấn vương, mơ màng. Trở về sau chiến tranh, có dịp nào qua Hà Nội anh lính chỉ một lối mòn xe điện ấy để đi. Nhưng anh mãi không thể tìm được lối cũ. Hà Nội đổi thay, còn lòng anh thì vẫn vậy, như cái hồi tuổi 20.
2.2. Đề tài
Chiến tranh chống Mỹ, tình yêu, người lính, con người Hà Nội.
2.3. Nhan đề
Tác giả mượn điển tích “đánh dấu thuyền tìm gươm” để đặt cho nhan đề tác phẩm “Khắc dấu mạn thuyền”. Nhan đề này nói về sự tìm kiếm vô vọng của con người đối với cố nhân để truyển tải một câu chuyện khá lãng mạn trong khoảng khắc vô cùng ác liệt của chiến tranh.
2.4. Nội dung tác phẩm
2.4.1. Bức tranh Hà Nội
- Thời gian: Một chiều đông.
- Không gian: Trời Hà Nội mưa phùn, đường xá vắng lặng
+ “Thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”
+ “Hà Nội im ắng, vắng lặng đến vậy, dường như cả Hà Nội đã khóa trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.”
=> Khung cảnh gợi sự buồn, cơ đơn, con người vội vã, gấp gáp.
2.4.2. Cô gái Hà Nội
- Cô gái trẻ có ngoại xinh xắn, hiền dịu và trong sáng:
+ “Xinh đẹp và hiền dịu, gương mặt, cặp mắt, đôi môi…”
+ Nhỏ nhắn, đôi vai gầy và bộ tóc dài buông xuống .
=> vẻ đẹp ấy gây ấn tượng mạnh mẽ đối với anh lính Quảng Trị.
- Cô gái ân cần, chu đáo, biết yêu thương quan tâm người khác nhưng lại yếu đuối, mong manh:
+ Hành động chăm sóc anh lính
- Đưa người lính xa lạ về nhà để chăm sóc.
- Nấu cháo, thay quân phục để hong khô: “quần áo của anh phải hong bếp lúc nữa, chứ chưa mặc được đâu, còn ẩm lắm”
- Giữ chân không cho anh lính đi vì sức khỏe của anh chưa hồi phục: “ Ô kìa anh, anh đi đâu thế nào được. Ra ngoài rét bị lại còn nguy hơn.”
“ Tạnh mưa rồi anh ạ” - Cô gái nói với vẻ buồn rầu, khi trời tạnh cũng là lúc anh lính sắp phải rời đi.
“ Chúng mình ra hầm công cộng đi anh, - Cô gái nói trong hơi thở gấp - Những cái hố tròn này em chẳng bao giờ dám xuống. Dưới đó đầy nước. Rợn chân lắm” , cv “Cô gái lăn sát vào tôi. Tìm sự che chở. Cô nép sát tấm thân lạnh cóng vào người tôi, thở sát vào khuôn mặt tê dại nhưng đẫm mồ hôi của tôi, tóc cô tung xõa ra.”
=> Cô gái Hà Nội xinh đẹp, mến khách, biết yêu thương, chăm sóc. Nhưng phía sau vẻ ngoài ấy là một tâm hồn mong manh, yếu đuối.
2.4.3. Hình ảnh người lính
- Hoàn cảnh:
+ Là người lính ở mặt trận Quảng Trị, nhận nhiệm vụ lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô.
+ Tuy đi đây đi đó nhiều, nhưng anh lính rất hiếm khi tới Hà Nội.
+ Nhận nhiệm vụ đi đưa thư, trên đường đi thì trời mưa phùn, đêm lạnh buốt => Anh lính bị ốm và rồi thiếp đi trên hè phố.
- Cuộc gặp gỡ với cô gái Hà Nội:
+ Anh lính tình cờ được cô gái đưa về nhà chăm sóc chu đáo, cẩn thận.
+ Sợ làm phiền cô gái nên anh lính định rời đi nhưng cô gái giữ lại vì sức khỏe anh chưa tốt.
=> Anh cảm nhận được sự chu đáo, ân cần, dịu dàng và vẻ đẹp trong sáng, tinh khôi của cô gái.
- Anh là người lính nhiệt tình, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì đồng đội
+ Có cơ hội về Hà Nội nhưng anh không về thăm quê, chỉ xin được “rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm”.
+ Anh muốn trao tận tay thư cho gia đình đồng đội của mình “ Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình để có thể nhận được ngay thư hồi âm mang ngược vào đơn vị cho linh ta sướng”.
+ Dù không biết đường đi Hà Nội, cầm trên tay chín lá thư, nhưng nhờ sự nhiệt tình, anh không lo nghĩ nhiều, ung dung, vui vẻ bước đi.
+ Anh đội mưa, chịu cái rét lạnh buốt của mùa đông để đưa thư. Cuối cùng anh bị sốt, ngất ngay trên đường đi.
- Anh là người dứt khoát, can trường và dũng cảm:
+ Khi được cô gái Hà Nội giúp đỡ, dù chưa thực sự khỏe nhưng anh định rời đi để tránh gây phiền, khó dễ cho cô gái.
+ Trước bom đạn, anh trấn tĩnh cô gái, bảo vệ, chở che cho cô gái.
+ Anh vội vàng tạm biệt người con gái Hà Nội lần cuối , hộc tốc chạy về phía đám đông để cứu người dân bị sập hầm do Mỹ thả bom.
- Cuộc gặp gỡ vô tình, trớ trêu của anh lính đã khiến anh nảy nở những xúc cảm đầy vấn vương, mơ màng:
+ Anh cảm nhận được sự quan tâm, chăm sóc chu đáo từ cô gái trẻ. Giữa cái lạnh buốt giá của mùa đông, dường như trái tim anh được sưởi ấm bởi một người con gái xa lạ, đẹp và ân cần.
+ Anh thấy được sự yếu đuối, mong manh cần được chở che của cô gái: “ Cô gái lăn sát vào tôi. Tìm sự che chở, cô nép sát vào tấm thân lạnh cóng vào người tôi, thở sát khuôn mặt tê dại nhưng đẫm mồ hôi của tôi”, “chúng tôi vẫn nằm, ôm riết lấy nhau”
=> Bom đạn, nguy hiểm và sự cận kề cái chết trở nên vô nghĩa, khi mà hai con người trẻ tuổi dường như quên đi tất cả, như ở trạng thái vô thức.
+ Tuy có tình cảm với cô gái, anh lính vẫn phải rời đi để cứu những người bị sập hầm. Anh có chút tiếc nuối vì đó là lần gặp gỡ cuối cùng với cô “lẽ ra thì đấy không thể là lần cuối cùng,bởi lẽ ra thì tôi đã trở về được ngôi nhà ấy, vào lại được căn phòng hồi đêm ấy và gặp lại được người con gái ấy của tôi”.
+ Đến 20 năm sau, trở về sau chiến tranh, mỗi lần ra Hà Nội, anh lính vẫn luôn tìm về chốn xưa cũ: “ Khi họa hoằn có dịp vào qua Hà Nội thì tôi vẫn chỉ một lối mòn xe điện ấy để đi. Cứ đi thế thôi, chẳng phải để tìm thấy một cái gì, cũng chẳng phải là để đi đến đâu”.
=> Trong khoảnh khắc ở bên nhau hoàn toàn trong sáng sẽ trở thành một kỉ niệm đẹp theo suốt cuộc đời người lính trẻ.
2.5. Nghệ thuật
- Nhan đề mượn điển tích trong văn học xưa để gửi gắm thông điệp đầy nhân văn.
- Điểm nhìn trần thuật mang tính chân thực, gần gũi.
- Đặt nhân vật vào tình huống truyện éo le bộc lộ rõ cá tính và phẩm chất của nhân vậy đồng thời thể hiện sự khéo léo của tác giả.
- Lối quan sát tinh tế, nhạy cảm về bức tranh, con người Hà Nội.
- Truyện giàu chất thơ.