• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Bá tước Dracula ( Truyện kinh dị ) - Bram Stoker

tapchoi82

New member
Xu
0
Tác giả : Bram Stoker

Người dịch : Nguyễn Tuyên

Lời giới thiệu


Dracula là tên một nhân vật có thật, một nhân vật gợi lại những kỷ niệm đau đớn và tàn bạo của lịch sử Rumani. Theo lời của Hary Ludlam, người viết tiểu sử của tác giả Bram Stoker, Dracula là một lãnh chúa khét tiếng hung bạo ở xứ Valachie hồi thế kỷ thứ XV. Sự dã man phi nhân tính của kẻ bạo chúa này đối với người Thổ được những người cùng thời ghi lại trong hai bản thảo viết tay, trong đó có một bản mô tả hắn như một bóng ma cà rồng với những lời lẽ như stregoicca phù thủy, ordog và pokol - quỷ satăng và địa ngục?
Sử sách ghi rằng trong các cuộc chiến đẫm máu chống lại người Thổ ở Valachie và Transylvanie, những người thuộc dòng dõi quý tộc Dracula luôn tỏ ra hung bạo và khát máu.
Người đứng đầu các chiến binh này là Dracula, một nhân vật mang đầy đủ những tính cách hắc ám nhất khiến người đương thời nghi hắn có dính líu đến quỷ dữ. Trong những lời truyền tụng của người xưa có đoạn: “Hắn cho chôn tù binh đến rốn rồi ra lệnh hạ sát cả loạt.. hoặc cho lấy dùi xiên vào những kẻ bại trận và nếu giãy giụa quyết liệt quá, họ sẽ bị đóng cọc ghim bàn tay xuống đất.
Có lần hắn còn cho quẳng một tên trộm vào vạc nước sôi rồi cho xẻo thịt bắt người nhà của tên tội đồ phải ăn ngay trước mặt quần thần. Hắn còn tự tay mổ bụng một người vợ đang mang thai để xem đứa con trong bào thai... Đến Saint-Barthelemy, hắn ra lệnh giết chết ba mươi ngàn người vô tội đến Schylta, hai mươi nhăm ngàn... Hắn cho treo ngược tóc những người hắn không thích, cho chém tù binh để lấy thủ cấp mời những kẻ thù khác ăn và rồi lại ra lệnh cho chém các thực khách này vào lúc tàn bữa. Ba trăm khách du mục tới xứ sở của hắn đều bị hắn bắt xâu xé lẫn nhau. Hắn cho nấu chín con trẻ rồi bắt các bà mẹ của chúng phải ăn. Hắn sai cắt vú đàn bà và bắt đàn ông phải ăn...”
Hình ảnh và tính cách man rợ, khát máu của nhân vật có thật trong lịch sử này đã được Bram Stocker mượn để xây dựng thành một hình tượng mang màu sắc kỳ bí có tính cách ma quái theo những lời truyền tụng dân gian của người châu Âu, đặc biệt là người Rumani. Theo tiếng Rumani, “Dracula” được dùng để chỉ thói tham tàn của những kẻ xấu xa, nhưng đồng thời nó cũng là lời ám chỉ “ma cà rồng” một tưởng tượng rất phổ biến trong dân gian Rumani và các nước lân cận. Theo tín ngưỡng của người Rumani, linh hồn của người chết chỉ lìa khỏi thể xác khi được một linh mục chính thống giáo rút phép thông công trong nhà thờ, nếu không xác người chết sẽ không thể thối rữa và sẽ biến thành ma quỷ để rồi lại có ngày đi hút máu của những người đang sống.
Theo truyền thuyết của người Rumani, ma cà rồng có thể biến thành các giống vật như chó, mèo, cóc nhái, chấy rận, nhện... Đặc điểm chung của các con vật ma quái này là đều thích cắn cổ và hút máu người sống, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ. Tuy nhiên, những người nông dân Valachie (Rumani) lại quan niệm rằng ma cà rồng không mang hình hài của loài dơi hay bất cứ một loài vật nào kể trên, và những bóng ma đội lốt thú vật này cũng không nhất thiết phải cắn vào cổ nạn nhân để hút máu.
Trong suy tưởng của họ, ma cà rồng thường mang hình hài của một con chó sói (như mô tả trong tiểu thuyết của Bram Stocker); thú vui của con sói này là lang thang đi khắp chốn đồng quê để giết chết và hút máu tất cả các gia súc, gia cầm mà nó gặp trong đêm, chính vì vậy mà con ma sói có thể mãi mãi giữ được cái làn da tươi trẻ và mọng máu của nó. Họ còn cho rằng ma sói không bao giờ chết hẳn và mỗi lần sống lại, nó lại như tiếp thêm sức mạnh sau những lần no máu. Vì vậy, mỗi khi phải chôn một người quá cố, họ thường đặt ngay bên cạnh anh ta một mẩu bánh và một đồng xu bạc. Sau đó, họ sẽ đặt vài cực đất lên bụng và một hòn đá thật nặng lên đầu, hoặc lên hai chân của người chết khiến cho thây ma không thể ngóc đầu dậy để đi ám người khác...
Có thể thấy một điều rằng khác với văn học và các câu chuyện dân gian của phương Đông - nơi các bóng ma không phải lúc nào cũng bị coi là thế lực tà ác - văn học và truyền thống dân gian phương Tây thường xem bóng ma là hiện thân của cái ác và luôn mang đến sự chết chóc, tai họa cho thế gian. Trong khi ma của văn học phương Tây thường hóa thân vào những cơn vật ghê tởm hoặc mang nguyên một hình nhân quái dị và thường trú ngụ trong những tòa lâu đài cổ u tịch, những ngôi nhà lâu ngày không người ở, nhưng khu vườn, cánh rừng hoang dại, hoặc lúc ẩn lúc hiện trên các đường phố tối tăm, vắng tanh của một thành phố chết, thì ma của người phương Đông lại có thể hóa thân vào bất cứ một sự vật hoặc muông thú nào - từ gốc cây gạo đến một bóng chim bay qua cửa, từ con bướm trắng đến cái chổi cùn nằm ở một xó nhà bỏ hoang... và thường hay xuất hiện ở đình, đền miếu mạo hoặc ở ngay tại nơi mà người đã khuất còn mắc ân tình, duyên nợ... chưa trả với người còn sống.
Giải thích sự khác biệt này không phải là điều khó, bởi đơn giản là vì triết lý về vạn vật của người phương Tây có nhiều khác biệt với người phương Đông người phương Tây ưa khoa học và sự rạch ròi, trong khi người phương Đông thích sống chan hòa với thiên nhiên, xuất phát từ tự nhiên và trở về với tự nhiên.
Các truyện kỳ ảo của phương Đông thường để lại cho người đọc một cảm giác hư hư thực thực, mờ mờ ảo ảo như ở trong một thế giới vừa xa lạ lại vừa gần gũi với con người. Ngược lại, trong văn học kinh dị của phương Tây, người ta dễ dàng phân biệt được hai mảng màu sáng và tôi, thiện và ác, thực và hư, ân oán và hận thù, sự sống và cái chết... Chưa hết, các nhân vật ma quái trong văn học phương Đông không phải lúc nào cũng xấu xa, tội lỗi và nhiều khi còn mang những nỗi niềm nhân tình thế thái, những buồn vui u hoài hoặc cũng có thể tận số, mạt vận như một kẻ đang song.
Có thể nhận ra đặc điểm nổi bật của văn học kỳ ảo phương Tây trong tác phẩm của các nhà văn như Arthur Machen, Sax Rohmer, Théophile Gautier, Rachard Mathenson hoặc Guillaume, Maupassant, Balzac, Tsekhov...
Quay trở lại với Bram Stoker, có thể thấy rõ một điều rằng nhìn chung, tiểu thuyết của ông cũng không nằm ngoài tư tưởng chủ đạo của văn học kỳ ảo phương Tây. Đối với bá tước Dracula, ta có thể chia ra làm hai vế rõ ràng: một vế giữ nguyên các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian có thật, tức là các tín ngưỡng và các thực tiễn lịch sử, vế còn lại là phần sáng tạo vì mục đích văn học của tác giả. Bram Stoker biết sử dụng các chất liệu chuyện kể dân gian phương Tây, các tài liệu và sử ký cổ xưa để xây dựng một nhân vật lịch sử thành một nhân vật văn học hoang đường mà vẫn giữ nguyên được màu sắc, tính cách được truyền tụng qua bao đời về con người đó: thật vẫn thật, hoang đường vẫn hoang đường, bởi chính người Rumani ngày nay vẫn không thể khẳng định bá tước Dracula ngày xưa có giao du với ma quỷ, hút máu người hay không? Đối với người Rumani, tất cả bây giờ chỉ là một dĩ vãng xa xôi từng nuôi sống một tín ngưỡng qua bao đời. Dĩ vãng ấy nói rằng Dracula là một xác chết rời khỏi mộ vào ban đêm để kiếm ăn: nguồn sống giúp nó tồn tại chính là sức sống của những người còn sống, chính nguồn sống ấy đã giúp nó giữ nguyên được thể xác qua nhiều thế kỷ! Do đã sống một cuộc sống đầy tội ác và đặc biệt là đã phó thác cuộc sống ấy cho tà đạo và ma thuật nên bá tước Dracula lịch sử đã phải biến thành quỷ. Sự hoán đổi giữa người chết và người sống trong các câu chuyện hoang đường phương Tây thường được hỗ trợ bởi các thông ước của ma quỷ với các thế lực của thần. Tội Lỗi hoặc của một cái gì đó tương tự nơi địa ngục. Bởi vậy, chỉ cần hút máu người sống là ma cà rồng không thể chết, và tất cả những người bị ma cà rồng hút máu lại trở thành ma cà rồng.
Trong tiểu thuyết của Bram Stoker, giáo sư Van Helsing có nói rằng :
“Nosferatu (con ma) không thể chết như loài ong mà ngược lại, mỗi khi cắn vào con mồi, nó lại tìm được một sức sống mới”. Ma cà rồng không thể chết định mệnh, mà chỉ có thể chết phi mệnh. Mặc dù luôn được coi là thần hộ mệnh của các nước Thiên Chúa giáo, nhưng cây thánh giá vẫn không phải là một vũ khí có hiệu quả chống lại ma quỷ trong các câu chuyện kinh dị phương Tây. Người ta chỉ có thể giết chết con ma bằng cách đâm một cây cọc hoặc một vật nhọn khác vào giữa trái tim nó. Những lớp bụi mờ tứ tán chính là cách thể hiện cái chết của ma cà rồng. Chúng ta có thể thấy chi tiết này qua hình ảnh của các nhân vật phản diện trong Bá tước Dracula.
Tuy nhiên, Bram Stoker không chỉ dừng lại ở những đặc điểm mang tính truyền thống đúc kết từ văn học dân gian Rumani, mà ông còn thêm một số chi tiết vào tác phẩm của mình cho sinh động hơn. Ví dụ, trong tác phẩm của ông, không ít lần chúng thấy có sự xuất hiện của loài dơi một con vật không có trong các câu chuyện của người Rumalli. Việc nhân vật anh hùng Van Helsing dùng hoa tỏi để xua đuổi tà ma ở phòng bệnh nhân Lucky cũng là một nét mới, thậm chí còn trở thành một chủ đề cho điện ảnh rùng rợn khai thác trong suốt một thời gian dài. Cũng như vậy, chúng ta có thể bắt gặp những chi tiết như mà cà rồng không có bóng và cũng không hề được phản chiếu trong gương... Đây là những chi tiết không có trong dân gian và văn học kỳ ảo phương Tây trước đó; và chúng ta cũng nên biết rằng chỉ sau tiểu thuyết Bá tước Dracula, các tác phẩm văn học, sân khấu và sau này điện ảnh kỳ ảo của phương Tây mới có sự đổi mới đáng kể về nội dung và hình thức.
Nếu xét về truyền thống thì kịch bản của tiểu thuyết Bá tước Dracula cũng giống như phần lớn các chuyện kể dân gian phương Tây: nhân vật Jonathan rời quê hương đến một địa chỉ xa xôi để rồi phải đương đầu với vô vàn khó khăn, nguy hiểm trong suốt cuộc hành trình và khi sắp đến đích, anh khiếp đảm vì một bóng ma bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt. Nhưng anh không biết sẽ phải làm gì, bởi không phải bản năng thích phiêu lưu mà là công việc kinh doanh bắt buộc anh phải tới Transylvanie. Anh không tìm thấy một kho báu hay bất cứ một khám phá nào khác để có thể làm rạng danh cho đời. Cuộc hành trình kết thúc trong sự sợ hãi, nỗi thất vọng và cả sự ám ảnh của những hình hài ma quái, mặc dù anh luôn được cảnh báo trước những sự việc nguy hiểm đang chờ đợi mình. Con đường dẫn tới Transylvanie - với một đoạn văn tả cảnh dẹp nhất có thể có trong văn học kỳ ảo của mọi thời đại luôn không thiếu những điểm gở, chẳng hạn như bóng dáng một nghĩa địa lạnh lẽo hoặc những tiếng tru thê thảm của loài lang sói trong đêm đen. Tuy nhiên, đoạn văn tả cảnh bậc thầy này chỉ được đưa vào tác phẩm vào năm 1914 với tựa đề cách mời của Dracula, các lần trước đó đều không thấy có. Đoạn văn thực ra là một lời cảnh báo nghiêm túc đối với Jonathan: nó muốn anh hãy từ bỏ cuộc viễn du, quên đi mục đích của cuộc hành trình, không được liều lĩnh dấn thân vào nguy hiểm trên đường tới Valachie. Trong một đoạn văn khác, chúng ta còn thấy Jonathan thoát khỏi cái chết trong gang tấc, bởi trong lúc bất cẩn, anh đã vô tình để mình trở thành một con mồi quyến rũ của ba ả đàn bà tuyệt đẹp nhưng dâm đãng cũng chính là ba bóng ma cà rồng đáng ngờ được sinh ra nhờ ánh trăng lọt qua cửa sổ một căn phòng địa phủ... Cảnh này khiến chúng ta có cảm tưởng rằng Jonathan cũng giống như các tín đồ tôn giáo chờ được thụ pháp trong các nền văn minh cổ xưa: anh phải chịu một thử thách được hiện thân trong thân thể một người đàn bà thật quyến rũ, và kết quả anh có biết chống lại cám dỗ hay không sẽ là điều kiện để anh được bất tử hay phải chết.
Trong khi đó, bá tước Dracula lại chọn một hành trình ngược lại, nhưng đó không phải là một con đường cuối cùng để có thể quay trở lại điểm xuất phát.
Lão là kẻ bị trừng phạt bởi những tội ác đã gây ra. Lão hoàn toàn bị cô lập trước những người đang ra sức chống lại lão, của sự thèm khát được an toàn, của chủ nghĩa anh hùng cổ điển phương Tây. Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng một số nhân vật trong tiểu thuyết của Bram Stoker không có tính cách thực sự; họ phụ thuộc vào quyền sở hữu của bá tước mặc dù không hề được một lần trông thấy lão, chẳng hạn trường hợp của nhân vật Renueld. Tất cả chỉ tồn tại bởi hắn, qua hắn và người ta chỉ biết tới hắn qua những thư trao đổi hoặc những dòng nhật ký riêng tư của nhân vật khác. Không có nhân vật nào trong tác phẩm thể hiện sự kính phục hoặc lòng tôn trọng đối với siêu nhiên: chỉ sự quái gở của sự việc mới làm nổi bật từng nhân vật trong kịch bản. Cái đáng sợ ở nhân vật Dracula không chỉ thể hiện ở chỗ lão có thể sai khiến cả đàn thú hoang dã hoặc làm thay đổi sự việc theo ý muốn, mà còn ở chỗ lão có thể mò tới thành Luân Đôn để biến các mạng sống khác thành những thây ma như hắn sau nhiều thế kỷ chuẩn bị! Sức mạnh của hắn được nhân dần lên và mở rộng dần ra, từ một điểm rất nhỏ có thể trải rộng ra toàn thế gian.
Khi Jonathan và những người bạn của anh biết được ngọn nguồn của mối nguy hiểm để tìm ra một phương án đối phó thì đã quá muộn. Tuy nhiên, vòng vây của những kẻ không đội trời chung vẫn cứ siết nhỏ dần, nhỏ dần xung quanh Dracula. Chúng ta có thể cảm nhận được cao trào của câu chuyện trong một đoạn văn mô tả các nhân vật chính cưỡi ngựa phi nước đại về phía trung tâm điểm của mọi mối nguy hiểm - nơi đặt quan tài của thầy ma Dracula, dưới sự bảo vệ của những người Bôhêm trong khi mối nguy hiểm cứ lớn dần trong một thời gian ngắn ngủi.
Xét trên phương diện kỹ thuật, tác giả đã rất khéo léo trong bút pháp khi chủ ý để các nhân vật tỏ thái độ không khâm phục bá tước Dracula, bởi nếu làm ngược lại, cái kỳ ảo trong câu chuyện sẽ bị lộ liễu thô thiển trước khi phai nhạt dần rồi chìm nghỉm vào cái thần bí mông lung. Stoker thích một khoảng không gian cách biệt để có thể hạn định cội nguồn gây nên nỗi kinh ngạc và sự lo sợ, để rồi lại phá tan những cảm giác mơ hồ này theo cách tất nhất. Ông cũng tỏ ra thật hoàn hảo trong việc sử dụng nhiều chất liệu tản mạn có trong kho tàng chuyện kỳ ảo truyền thống của phương Tây để lồng vào lời kể của mình một cách tự nhiên nhất. Kỹ thuật ấy càng đắt hơn khi ông biết cách tạo nên một khoảng không khí, không gian có sức thôi thúc gợi cảm theo cấp độ tăng dần.
Cuộc hành trình đầy gian nguy của Jonathan từ Luân Đôn đến Transylvanie thực ra chỉ có chung một vai trò gợi mở như chính con người Renueld, cho dù hắn chưa một lần rời khỏi trại tâm thần. Sừ xuất hiện của người Bôhêm đầy màu sắc dân gian địa phương ở một số cảnh đẹp như tranh vẽ đâu cũng chung một tác dụng là mạng lại một hiệu quả văn học như các cuộc tìm kiếm của giáo sư Van Helsing trong các thư viện ở châu Âu. Bá tước Dracula không lập tức đưa người đọc lạc ngay vào một thế giới kỳ ảo, mà cái bí ẩn chỉ thực sự hé mở khi có sự xuất hiện ngày một rõ của lực lượng siêu nhiên.
Chi tiết những bóng ma cà rồng bị đâm cọc và biến thành cát bụi chỉ là một sự hư không hóa những gì được gọi là siêu nhiên; tuy nhiên, độc giả không vì thế mà thất vọng, bởi việc hành quyết của một thế giới đối với một thế giới khác cũng chỉ xảy ra khi độc giả bắt đầu khám phá ra thiện ác. Và sau khám phá này, thế giới xung quanh chúng ta không còn được đảm bảo nữa; bóng ma đã bị ngắn chặn ở một nơi xứng đáng với nó, nhưng ai dám đảm bảo rằng ngày mai sẽ không còn một bóng ma nào chui ra từ một chiếc quan tài khác? Cuối tiểu thuyết là cảnh Jonathan cùng gia đình trở lại thăm mảnh đất mà ngày trước anh đã từng bị bá tước Dracula ám. Tất cả dường như đã kết thúc một cách tất đẹp nhất trên một thế giới tốt đẹp nhất... Song cũng dường như vẫn còn một cái gì đó không ổn định, một cái gì đó hiển hiện, như muốn chứng tỏ rằng ma cà rồng vẫn còn tồn tại trên cõi đời này!
Vâng, dường như điều trái khoáy thường hay xuất hiện đúng vào lúc ta thanh thản nhất hoặc lúc ta ít ngờ tới nhất!
N.T.T

Khách mời của Dracula

Lúc tôi chuẩn bị đi dã ngoại, ông mặt trời còn đang tỏa những tia nắng vàng rực rỡ trên bầu trời Munich, và không gian cũng chan chứa niềm vui khôn tả của riêng buổi đầu hè.
Chiếc xe ngựa vừa chuyển bánh thì Delbruck (ông chủ khách sạn tôi đang ở) vội vàng chạy theo chúc tôi một cuộc dạo chơi tất đẹp, rồi tay vẫn bám vào cửa xe, dặn với theo tay xà ích :
- Này, anh phải quay về trước chiều tối đấy, biết chưa?
Thời tiết tuy rất đẹp, nhưng nói gì thì nói, những trận gió từ phương bắc tràn tới có thể mang theo giông tố vào bất cứ lúc nào. Tất nhiên, tôi cứ dặn thế cho chắc, vì anh thừa biết là đêm nay tôi không được phép lên đường chậm trễ!
Nói tới câu cuối cùng, ông ta cười cười.
- Ja, mein Herr! - Johann gật đầu đồng ý. Gã đưa tay sửa mũ rồi quất cho ngựa chạy thật nhanh.
Khi xe vừa chạy ra khỏi thành phố, tôi ra hiệu cho tay xà ích dừng lại và đột ngột hỏi :
Johann này, tại sao ông chủ lại nói về đêm nay như vậy?
Tay xà ích vừa khua tay vừa trả lời cộc lốc :
- Walpurgis Nacht!
Dứt lời, gã rút trong túi ra một chiếc đồng hồ cổ của Đức bằng bạc và to như một củ cải; gã nhíu mày xem giờ, rồi nhún vai tỏ vẻ không bằng lòng.
Tôi hiểu đó là một cử chỉ phản đối khá lịch sự trước sự dừng xe mất thời gian vô ích này, và tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc ngả lưng ra sau xe.
Chiếe xe lại lập tức chuyển bánh như muốn lấy lại quãng thời gian ngắn ngủi đã để mất. Trên đường đi, thỉnh thoảng mấy chú ngựa lại đột ngột ngóc đầu, hít mũi phì phí - dường như có một thứ mùi gì đó đang làm chứng sợ. Và cứ mỗi lần nhìn thấy chúng phản ứng như vậy, bản thân tôi cũng chợt cảm thấy lo lo.
Từng cơn gió bắt đầu ào ạt thổi tràn trên con đường vì xe chúng tôi đã bò lên sườn đồi được một lúc và đang chuẩn bị lên một cao nguyên. Lát sau, trước mắt tôi chợt hiện ra một con đường mà thoạt nhìn, tôi cũng nhận ra là ít có bước chân người qua lại. Dường như con đường dẫn sâu vào một thung lũng hẹp.
Tôi rất muốn đi vào con đường đó, và mặc dù biết là làm phiền Johaun, tôi vẫn kêu gã cho dừng xe một lần nữa. Tôi giải thích với gã rằng tôi thèm được xuống đường. Gã lập tức tìm mọi lý do để thoái thác, nói rằng đó là điều không thể được. Trong lúc giải thích, gã không ngừng khoa tay múa chân ra hiệu cho tôi hiểu. Trí tò mò của tôi bắt đầu bị đánh thức, và tôi đã đặt ra cho gã vô số các câu hỏi. Gã luôn trả lời thoái thác và thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn đồng hồ, vẻ khó chịu. Cuối cùng thì tôi cũng không thể kiềm chế được nữa.
- Johaun, tôi muốn được xuống con đường đó. Tôi không bắt anh phải đi theo tôi, nhưng tôi muốn biết tại sao anh không chịu đi xuống dưới ấy?
Thay vì trả lời, tay xà ích nhảy tót ra khỏi ghế. Chân vừa chạm đất, gã vội vàng chắp tay cầu xin tôi đừng đâm đầu về phía ấy. Gã nói lẫn lộn cả tiếng Anh và tiếng Đức cho tôi hiểu. Dường như từ đầu đến giờ gã vẫn định nói với tôi một điều gì đó - một điều luôn làm gã lo sợ, nhưng lần nào gã cũng trấn tĩnh lại được và chỉ nhắc đi nhắc lại một câu, trong khi tay không ngừng làm dấu thánh :
- Walpurgis Nacht! Walpurgis Nacht!
Tôi muốn tranh luận một chút, nhưng rõ ràng là không thể được vì tôi đâu có hiểu ngôn ngữ của người đối thoại! Gã có lợi thế hơn tôi, bởi dầu sao thì gã cũng có thể nhồi vài từ tiếng Anh vào những câu tiếng Đức của gã. Cuối cùng, gã lại nhìn vào chiếc đồng hồ để nhắc tôi hiểu cái mà tôi phải hiểu. Đàn ngựa kéo xe cũng bắt đầu hết kiên nhẫn, chúng lại khịt khịt mũi một lần nữa. Thấy vậy, bộ mặt tay xà ích bỗng tái mét lại. Gã lấm lét nhìn quanh, vẻ khiếp sợ. Rồi gã hốt hoảng chộp lấy dây cương xua lũ ngựa bước lên vài bước. Tôi chạy theo hỏi gã tại sao lại phải rời khỏi chỗ chúng tôi vừa dừng xe lúc nãy. Gã cứ cắm đầu đánh xe về phía con đường đối diện, rồi chỉ tay về phía một cây thánh giá nằm cạnh chỗ dừng xe lúc đầu Gã trả lời tôi bằng tiếng Đức, rồi nói tiếp bằng một thứ tiếng Anh lơ lớ :
- Đó chính là chỗ người ta đã chôn một kẻ tự tử :
Tôi chợt nhớ tới tập quán cổ hủ muốn chôn những kẻ tự tử ở gần các ngã ba, ngã tư đường của người dân xứ này.
- À? Đúng rồi, một kẻ tự sát... Hay thật...
Nhưng tôi vẫn không tài nào hiểu được tại sao lũ ngựa lại sợ hãi đến như vậy.
Trong lúc tiếp tục nói chuyện, chúng tôi chợt nghe thấy một tiếng kêu vừa như tiếng ăng ẳng, lại vừa như một tiếng sủa từ đâu vọng tới. Chắc chắn là âm thanh đó vọng tới từ rất xa, song không hiểu sao lúc này lũ ngựa lạị hoảng loạn đến thế, phải trầy trật lắm Johann mới kìm chúng lại được.
Gã quay sang nói với tôi, giọng run run :
- Tôi tin rằng đó là tiếng chó sói, mặc dù ở đây không còn cái giống ấy nữa.
- Thế à? Không còn ư? Cớ đúng là từ lâu không còn con sói nào bén mảng tới gần thành phố không?
Từ rất, rất lâu rồi, ít nhất là vào mùa xuân và mùa hè, nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn gặp chúng xuất hiện trở lại khi có tuyết rơi.
Gã đưa tay vuốt ve đàn ngựa, cố làm chúng trấn tĩnh khi ánh mặt trời bỗng chốc bị những đám mây nặng nề và đen kịt che kín. Gần như cùng lúc đó, một trận gió lạnh gai người bất ngờ ập tới - nói đúng hơn, đó chỉ là một luồng gió lạnh duy nhất xuất hiện như một dấu hiệu báo trước điều đen tối, bởi một lát sau, tôi lại thấy ánh mặt trời ló rạng trở lại lấy bàn tay che mắt, Johann nheo nheo nhìn về phía chân trời rồi quay sang bảo tôi :
- Bão tuyết đấy, chẳng mấy chốc nó sẽ ập tới đây cho mà xem.
Gã liếc nhìn đồng hồ một lần nữa rồi quả quyết nắm chặt chùm dây cương.
Chắc chắn là sự căng thẳng của lũ súc vật đã làm gã hình dung ra một điều gì tồi tệ nhất. Gã leo lên ghế như thể đã đến lúc tiếp tục phải lên đường.
Về phần mình, tôi vẫn muốn gã giải thích thêm cho tôi một điều gì đó.
- Vậy thì con đường nhỏ mà anh nhất định không chịu dẫn tôi vào ấy chạy tới đâu? - Tôi gặng hỏi.
Gã lại làm dấu, miệng lẩm bẩm cầu nguyện mấy câu rồi mới chịu trả lời tôi :
- Cấm không được đi tới đó.
- Cấm tới đó là tới chỗ nào?
- Tới ngôi làng.
- Sao! Dưới đó có một ngôi làng à?.
- Không, không. Đã nhiều thế kỷ nay, ở đó không còn ai sống nữa.
- Nhưng anh vừa nói tới một ngôi làng kia mà?
- Vâng, quả thật là ở đó từng có một ngôi làng.
- Thế bây giờ thì sao?
Tay xà ích kể cho tôi nghe một câu chuyện dài bằng cả tiếng Đức lẫn tiếng Anh lẫn lộn và rối rắm khiến đầu óc tôi mệt nhoài. Tuy nhiên, tôi vẫn tính là mình hiểu được rằng ngày xưa, cách đây hàng trăm, hàng trăm năm, có rất nhiều người đã chết ở ngôi làng này và họ đều được chôn ngay ở trong làng.
Thế rồi người ta bỗng nghe thấy những tiếng động vọng lên từ lòng đất, và khi các ngôi mộ được mở ra, những người đàn ông, và cả đàn bà nữa, bỗng nhiên sống trở lại, nhưng trên môi người nào cũng nhuốm đỏ một màu máu tươi. Vậy là để cứu vớt cuộc đời của đám người này (và trước hết là để cứu rồi linh hồn của họ - Johann vừa giải thích vừa làm dấu), người làng đã phải bỏ sang các ngôi làng khác, nơi có những người sống đang sống và những người chết thì đã thực sự chết, chứ không phải... không phải là một điều gì khác. Tôi thấy rõ ràng là tay xà ích định nói một từ gì đó ở cuối câu nhưng lại không dám, có lẽ chính bản thân gã cũng cảm thấy khiếp sợ cái điều mà gã định nói. Trong lúc tiếp tục câu chuyện, có vẻ như gã càng lúc càng bị kích động hơn. Đúng là trí tưởng tượng của gã đã cuốn gã đi. Gã kết thúc câu chuyện trong một bộ dạng hoảng hốt thật sự: mặt mày tái nhợt như một xác chết, trán đầm đìa mồ hôi, người run rẩy, mắt lo lắng nhìn quanh như đang chờ đợi một sự xuất hiện đáng ngờ nào đó trên đồng cỏ ngút ngàn, nơi mặt trời vẫn đổ tràn ánh nắng vàng rực rỡ. Cuối cùng, hắn lại buột miệng kêu lên một tiếng xé lòng và đầy vẻ thất vọng :
- Walpurgis Nacht!
Gã chỉ tay lên chiếc xe ngựa như muốn van nài tôi trở về chỗ.
Dòng máu Anh trong tôi bắt đầu bốc lên tận mặt. Tôi lùi lại một, hai bước rồi bảo gã người Đức :
Johann, thì ra là anh sợi! Vậy thì anh cứ quay về Munich đi, tôi sẽ về đó một mình cũng được. Kể ra dạo bộ một chút cũng hay đấy chứ!. Cửa xe vẫn mở ngỏ, tôi với tay cầm cây ba-toong mà tôi vẫn thường dùng trong những ngày nghỉ.
- Ừ, anh cứ quay về Munich trước đi, Johann ạ - Tôi nhắc lại. - Walpurgis Nacht, điều đó chẳng có nghĩa lý gì với người Anh hết.
Lũ ngựa mỗi lúc một càng thẳng hơn, Johann lại phải đánh vật để giữ chúng lại. Gã khẩn khoản nài nỉ tôi đừng làm cái điều điên rồ như vậy. Tỏi bỗng cảm thấy thương hại cho gã thanh niên lúc nào cũng canh cánh một nỗi khiếp sợ mơ hồ trong lòng. Tuy nhiên, tôi vẫn không nhịn được cười.
Nỗi sợ hãi đã làm gã quên mất một điều rằng để bày tỏ nỗi lòng cho tôi hiểu, gã phải nói bằng tiếng Anh, vậy mà gã lại cứ lúng túng mãi bằng tiếng Đức. Tôi buộc phải chỉ tay về phía con đường gã phải đi mà kêu lên: “Về Munich trước đi?” rồi quay phắt lại. Tôi quyết định xuống thung lũng một mình.
Tay xà ích người Đức miễn cưỡng đánh ngựa quay về hướng Munich trong một tâm trạng thất vọng. Tôi chống ba-toong đưa mắt nhìn theo: chiếc xe ngựa từ từ đi xa dần. Vừa lúc đớ trên đỉnh đồi bỗng xuất hiện bóng dáng một người đàn ông một gã đàn ông cao lớn nhưng gầy ốm, dù khoảng cách còn rất xa, nhưng tôi vẫn nhìn rõ. Thấy gã đàn ông bước lại gần, lũ ngựa bỗng lồng lên hoảng loạn, tất cả đều nhảy nhót điên cuồng. Johann không còn làm chủ được chúng nữa, chúng đột ngột chồm lên như hóa dại. Loáng một cái, chiếc xe ngựa đã biến mất; tôi đưa mắt tìm kẻ lạ mặt, nhưng cả gã cũng biến mất từ lúc nào.
Tôi dấn thân vào con đường đã làm cho Johann sợ phát khiếp, trong lòng cảm thấy thật nhẹ nhõm. Tại sao gã phải sợ đến thế? Đó là điều tôi không sao hiểu nổi. Tôi đã cuốc bộ được khoảng hai tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa gặp một bóng người nào. Đây quả là một chốn hoang vắng đến lạnh người. Tuy nhiên, tôi chỉ chợt nhận ra điều này khi tôi khúc quanh của con đường: tôi đang đứng trước một bìa rừng thưa thớt cây cối. Quả thực là chỉ khi đó tôi mới hiểu cái cảm giác mơ hồ mà nỗi quạnh hiu ảm đạm của xứ sở này đang để lại trong tôi.
Tôi ngồi xuống rìa đường nghỉ xả hơi và tranh thủ đảo mắt quan sát mọi cảnh vật xung quanh. Dường như tiết trời đã trở nên lạnh hơn nhiều so với lúc đầu tôi đi dạo. Vừa lúc đó, tôi bỗng nghe thấy tiếng một âm thanh kỳ lạ giống như một hơi thở dài, thỉnh thoảng lại bị ngắt quãng bởi một tiếng gầm gào ngàn ngạt. Trên bầu trời, từng đám mây khổng lồ bỗng ùn ùn từ phương bắc ập đến.
Chắc chắn là một cơn giông đang sắp đổ ập xuống đây. Tôi chợt rùng mình.
Nghĩ rằng ngồi nghỉ như vậy sau hai tiếng đồng hồ cuốc bộ là quá nhiều, tôi quyết định tiếp tục lên đường.
Cho dù cơn giông sắp đổ ập xuống, nhưng phong cảnh trước mắt tôi vẫn đẹp đến huyền diệu. Tôi có cảm giác nơi đây như một chốn thần tiên. Buổi chiều tà đang hắt xuống những tia nắng yếu ớt cuối cùng; lúc hoàng hôn đổ bong xuống cánh rừng cũng là lúc tôi loay hoay định hướng về Munich. Ánh huy hoàng của buổi chiều lúc này đã trở thành một thứ ánh sáng hắt hiu, tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, những đám mây cũng trở nên đáng sợ hơn, chúng vẫn ùn ùn kéo đến cùng với những tiếng gầm lít mơ hồ xa xa. Âm thanh ghê rợn đó thỉnh thoảng lại vọng tới, giống hệt những tiếng kêu bí ẩn mà lúc nãy, gã đánh xe ngựa vẫn cho là tiếng tru của chó sói. Tôi bỗng đâm ra do dự. Tuy nhiên, như đã nói, tôi muốn được thấy ngôi làng bị bỏ hoang, nên vẫn quyết định tiếp tục lên đường và chẳng mấy chốc đã tới một bình nguyên trải rộng hút tầm mắt nằm giữa những ngọn đồi um tùm cây cối. Phóng tầm mắt ra xa, tôi nhận thấy một nẻo đường quê quanh co khúc khuỷu: con đường mất hút ở một khúc quanh, sau một bụi cây rậm rạp mọc ngay dưới chân một ngọn đồi.
Tôi đang mải ngắm bức tranh ấy thì một luồng gió lạnh bất thần thổi ào tới; tiếp sau đó là những bông tuyết bắt đầu rơi. Tôi bắt đầu nghĩ đến những dặm đường mà mình phải đi khắp chốn hoang vu này và vội vàng mò tới trú dưới bụi cây trước mặt. Bầu trời vẫn đang tối sầm từng phút, các bông tuyết rơi xuống mỗi lúc một nhanh và dày đặc hơn. Cứ đà này, chẳng mấy chốc cảnh vật trước mắt tôi sẽ biến thành một tấm thảm trắng xóa mờ mịt khiến tôi chẳng còn phân biệt được gì nữa. Mặc kệ, tôi vẫn tiếp tục lên đường. Nhưng con đường lúc này đã trở nên rất tồi; các rìa đường chỗ thì bị xóa nhòa lẫn vào các cánh đồng, chỗ thì lẫn với bìa rừng, tuyết đã làm cho mọi thứ trở nên không còn đơn giản như nguyên bản của nó; chỉ mới đi được một đoạn ngắn mà tôi đã nhận ngay ra là mình đã đi chệch đường, bởi tôi đang giẫm lên một lớp cỏ mềm mềm dưới lớp tuyết trắng. Gió bắt đầu thổi dữ dội, tiết trời lạnh thấu xương, tôi phải chịu thử thách thật sự mặc dù vẫn lầm hết sức bình sinh để tiến về phía trước. Những cơn lốc tuyết gần như không cho tôi mở to mắt. Thỉnh thoảng lại có một tia chớp bất ngờ lóe lên xé toang những đám mây lao xuống, đó là những lúc tôi kịp nhận ra những bóng cây lớn trước mặt, nhất là những cây bách và cây thông đỏ.
Đứng trú dưới những tán lá cây, tôi chẳng còn nghe thấy gì khác ngoài tiếng gió rít trên đầu. Sự u tối do cơn giông tố mang tới đang bị cái bóng tối của đêm đen nuốt chửng... Nhưng rồi cơn bão tuyết dường như cũng sắp sửa qua đi, những trận cuồng phong cũng bắt đầu thưa dần, và mỗi lần gió ngớt, tôi lại có cảm tưởng như cái tiếng kêu bí ẩn, gần như là siêu nhiên của loài sói ấy được nhại đi nhại lại thành những tiếng vọng lê thê không đứt.
Một lúc sau, giữa những đám mây xám xịt trôi lập lờ trên bầu trời, thỉnh thoảng cũng le lói một ánh trăng bàng bạc đủ để soi rõ mọi cảnh vật; do vậy mà tôi biết rằng mình đã đặt chân tới một chỗ thật sự giống một cánh rừng bách và thông đỏ khi tuyết ngừng rơi. Tôi rời khỏi nơi trú ẩn để quan sát cho rõ hơn, lòng tự nhủ rằng có thể mình sẽ tìm được ở đây một ngôi nhà, một ngôi nhà đổ nát cũng được, để làm chỗ trú chắc chắn hơn. Đi đọc theo bìa rừng, tôi nhận ra một bức tường thấp dựng chắn ngang trước mặt, nhưng xa hơn một chút lại có một lỗ hổng khá rộng. Từ chỗ này, cánh rừng thông mở ra một lối nhỏ dẫn tới một khối sẫm đen vuông vắn mà tôi cho đó là một tòa nhà. Nhưng đúng vào lúc tôi vừa thoáng nhận ra cái mảng tối đen ấy thì ánh trăng lại bị những đám mây che mất, vậy là tôi phải mò theo lối đi ấy dưới một bóng tối hoàn toàn. Tôi vừa mò mẫm bước vừa run lên vì lạnh, nhưng một chỗ trú ẩn thật sự đang đón chờ tôi; và chính niềm hy vọng đã dẫn bước cho tôi; thực ra, tôi đang đi như một kẻ không có mắt.
Tôi đứng sững lại vì ngạc nhiên nhận thấy sự im ắng đến bất ngờ của không gian. Giông tố đã qua đi, dường như trái tim tôi cũng đang ngừng đập. Cảm giác đó kéo dài trong giây lát, bởi ánh trăng lại một lần nữa lấp ló giữa những đám mây đen, và cũng chính là lúc tôi nhận ra mình đang lạc vào một nghĩa địa, ngôi nhà hình vuông nằm ở cuối lối nhỏ chính là một ngôi mộ đá lớn, trắng toát một màu tuyết phủ. Ánh trăng xuất hiện một lần nữa, rồi kéo theo tiếng ầm ầm của giông tố đang đe dọa quay trở lại; cùng lúc, tôi còn nghe thấy những tiếng tru nặng nề ghê rợn kéo dài mãi không dứt của bầy sói hay bầy chó hoang. Tôi lại chợt rùng mình, cái lạnh vẫn tiếp tục chích vào da thịt tôi, và dường như cả vào trái tim đang đơn độc của tôi nữa. Trong khi ánh trăng tiếp tục soi tỏ ngôi mộ đá, thì cơn giông vẫn ầm ầm quay trở lại mỗi lúc một cuồng nộ hơn. Như bị thôi miên, tôi từ từ bước lại gần lăng mộ kỳ quái mọc trơ trọi phía trước. Sau khi lượn một vòng, tôi đọc được mấy dòng chữ tiếng Đức ghi trên ô cửa có kiến trúc mang phong cách đôric :
Phu nhân bá tước Dolingen De Gratz Styrie người đã tìm và đến với cái chết năm 1801
Phía trên ngôi mộ là một cây cọc sắt dài gắn vào nền đá. Lăng mộ này được xây bằng nhiều tảng đá cẩm thạch. Trở lại phía đầu hồi, tôi thấy một dòng chữ khắc bằng tiếng Nga :
Những cái chết nhanh chóng bị lãng quên
 
Tất cả toát lên một vẻ kỳ quái và bí ẩn đến mức làm tôi suýt ngất xỉu. Tôi bắt đầu thấy hối tiếc vì đã không nghe theo lời can ngàn của Johann. Một ý nghĩ ghê sợ chợt lóe lên trong đầu tôi. Đó là đêm Walpurgis! Walpurgis Nacht!
Vâng, đêm Walpurgis là cái đêm mà hàng nghìn, hàng nghìn người tin rằng quỷ dữ đã xuất hiện trong chúng tôi, rằng các thây ma đã bật mồ mả đứng dậy, và rằng tất cả quỷ sứ gian manh của đất, nước và không khí đã mở hội náo loạn.
Chẳng cần tay xà ích người Đức, mà đến ngay cả tôi lúc này cũng muốn trốn khỏi ngôi làng bỏ hoang từ nhiều thế kỷ này bằng mọi giá. Nơi đây, người ta đã chôn vùi kẻ tự tử, ấy vậy mà tôi đang đứng trơ trọi một mình trước nấm mồ của kẻ xấu số đó Bất lực, run rẩy vì lạnh dưới một lớp vải liệm bằng tuyết trắng toát, trước một cơn giông điên khùng đang đe dọa quay trở lại? Tôi đã phải cầu khấn tất cả lòng can đảm, lý trí của chính bản thân mình và cả đức tin vào Chúa Trời mà tôi vẫn nuôi dưỡng bấy lâu để khỏi bị ngã khuỵu xuống đất.
Quả thực, chỉ một lát sau, tôi đã bị nuốt chửng bởi một cơn vòi rồng thực sự bắt đầu tràn tới. Mặt đất bỗng rung chuyển như đang nằm dưới sự giày xéo của hàng ngàn vó ngựa, và lần này không phải là một trận bão tuyết, mà là một trận mưa đá điên khùng với sức mạnh ghê gớm cuốn theo cả các tán lá, đánh gẫy vô số các cành cây, đến nỗi chỉ trong chốc lát, những cây thông đỏ không còn là chỗ trú ẩn cho tôi nứa. Tôi chạy thục mạng sang một gốc cây khác, song ở đó cũng không hơn. Chẳng mấy chốc xung quanh bỗng trở nên trơ trọi, không có chỗ nào có thể làm chỗ trú cho tôi. Tôi loay hoay tìm một chỗ có thể làm nơi ẩn náu thực sự: cửa nhà mồ. Vì được xây theo kiểu đôric, nên nhà mồ có một khuôn cửa rất sâu. Ở đó, đứng tựa vào một thanh đồng đồ sộ, tôi có thể ít nhiều tránh được những cục mưa đá nặng trịch, bởi vì lúc này chúng chỉ có thể bắn vào người tôi sau khi đã rơi xuống lối đi hoặc đập vào các tấm đá lát.
Cánh cửa nơi tôi đứng bỗng nhiên bật ra và hé mở vào bên trong. Cơn giông tàn khốc dường như đã dành cho tôi một cơ may bất ngờ khi mở ra cho tôi một nơi ẩn náu chắc chắn hơn. Tôi nhanh chân bước vào trong nhà mồ đúng vào lúc một tia chớp chói lòa chạy loằng ngoằng một góc bầu trời. Nhưng chính lúc đó, tức là lúc tôi đang quay mặt về phía bóng tối trong hầm mộ, tôi đã sững sờ khi trông thấy một người đàn bà rất đẹp, hai má tròn trĩnh, cặp môi đỏ chót, đang nằm dài trên một chiếc cáng, vẻ như đang ngủ. Tôi bỗng giật thót người bởi một tiếng sét bất ngờ gầm lên và ngay lúc ấy, người tôi như bị bàn tay thô bạo của một gã khổng lồ túm chặt, ném thẳng ra ngoài giông bão. Sự việc diễn ra nhanh đến nỗi ngay trước khi nhận được một cú sốc về thể xác cũng như tinh thần tôi đã lập tức cảm thấy cái lạnh toát của những cục mưa đá to bự đập vào người.
Nhưng đó cũng là lúc tôi có một cảm giác thật kỳ lạ: tôi không ở đây một mình.
Tôi lại ngoảnh mặt nhìn về phía nhà mồ khi cánh cửa vẫn đang mở rộng ngoác.
Lại một tiếng sét chói lòa bất thình lình đánh trúng vào chiếc cọc sắt cắm trên nóc mộ, rồi xẹt một đường xuống tận hố đất, phá tan phần mộ uy nghi. Xác người đàn bà bị hất tung lên; lửa bùng cháy tứ phía; những tiếng kêu đau đớn của xác chết nhanh chóng bị tiếng gầm vang của sấm sét nuốt chửng. Đây quả là một bản hòa tấu khủng khiếp mà tôi đã được nghe đúng vào lúc chót, bởi bàn tay khổng lồ lại một lần nữa túm chặt lấy tôi và ném ra giữa cơn mưa đá, trong khi những ngọn đồi xung quanh tôi liên tục dội tới những tiếng hú dài man rợ của bầy sói. Cảnh tượng cuối cùng mà tôi nhớ được là một đám đông trắng toát một màu tang tóc đang lởn vởn chuyển động, như thể tất cả các ngôi mộ quanh quẩn đây đều bật mở để hồn ma của những kẻ đã chết chập chờn bước cả về phía tôi dưới những cơn lốc mưa đá.
Nhưng rồi tôi cũng dần dần tỉnh lại, người cảm thấy mệt mỏi đến phát sợ.
Phải mất một hồi lâu tôi mới nhớ lại được những gì đã xảy ra. Toàn thân tôi, từ đôi tay, cột sống đến hai chân đều tê dại đau đớn. Tôi cố cử động một cách vô ích đôi bàn chân. Nhưng từ đáy lòng, tôi lại cảm thấy một cảm giác ấm nồng kỳ lạ bù đắp cho những cảm giác đau đớn. Quả là một cơn ác mộng - một ác mộng thể xác, nếu tôi có thể diễn tả như vậy, bởi tôi vẫn chưa xác định được một vật ghê gớm đang đè nặng lên ngực khiến tôi nghẹt thở muốn chết.
Tôi cứ nằm như vậy khá lâu, trong trạng thái nửa lịm nửa thức, nếu như đó không phải là trạng thái bất tỉnh. Lúc sau, tôi chợt cảm thấy buồn nôn, trong người quay cuồng như một kẻ bị say sóng. Trong tôi bắt đầu trào dâng một nỗi khát khao được giải phóng khỏi một cái gì đó... mà tôi không biết.
Xung quanh tôi là một bầu không khí câm lặng lạ lùng đang ngự trị, cả thế giới như đang chìm trong giấc ngủ vĩnh cửu hoặc như vừa mới chết - sự im lặng ấy chỉ bị gián đoạn bởi hơi thở hổn hển của một con vật chắc hẳn đang đứng rất gần tôi. Tôi bỗng cảm thấy có một vật gì đó nóng hổi vừa quệt xiết vào cổ mình, và tôi nhận ngay ra rằng mình đang đứng trước một sự thật khủng khiếp. Một con vật lực lưỡng đang nằm đè lên người tôi, mõm nó gí sát vào cổ tôi. Tôi không dám động đậy vì biết chỉ có sự nằm im bất động mới có thề giúp tôi thoát chết lúc này. Nhưng con vật chắc chắn đã hiểu rằng trong tôi đang có sự thay đổi, bởi nó vừa ngẩn ngơ đầu lên. Qua hàng mi, tôi nhận ra phía trên mình là hai con mặt to, sang quắc của một con sói khổng lồ. Hai hàm răng trắng ởn, dài lởm chởm và nhọn hoắt của con vật càng lộ rõ trong cái mõm đang há hốc đỏ lòm.
Hơi thở nóng hổi và tanh tưởi của nó như xộc cả vào mũi tôi.
Một lần nữa tôi rơi vào trạng thái mê man bất tỉnh trong một thời gian khá đài. Cuối cùng, chỉ có tiếng gầm gừ trầm đục kéo theo những tiếng rít ăng ăng bất chợt vang lên mới làm tôi tỉnh lại. Tiếp đó, tôi mơ hồ nghe thấy một tràng âm thanh dường như là tiếng gọi của nhiều người cùng cất lên từ rất xa: “Nào! Nào!” Tôi thận trọng ngóc đầu đậy nhìn về phía có những tiếng kêu, nhưng nghĩa địa đã che mất tầm mắt của tôi. Con sói hoang vẫn gầm gừ rít lên kỳ dị, và hình như vừa có một vệt sáng màu đỏ chạy lòng vòng về các hướng trong rừng thông. Có vẻ như ánh sáng ấy đi cùng hướng với những tiếng gọi. Tiếng gọi càng lớn bao nhiêu thì tiếng gào thét của con sói càng dữ dội bấy nhiêu.
Chưa bao giờ tôi thấy sợ một cử động, một tiếng than thở của mình đến thế.
Quầng trắng bao phủ xung quanh tôi như một lớp vải liệm trong đêm. Bất thình lình, đằng sau các thân cây bỗng xuất hiện một toán kỵ mã, tay cầm đuốc, phi nước kiệu ào tới. Con sói đứng bật dậy, nhảy phốc khỏi ngực tôi và cắm đầu chạy vào nghĩa địa. Tôi nhận ra một kỵ binh (cả toán đều là những người lính, tôi biết vậy nhờ bộ quân phục trên người họ) đang tì khẩu cạc bin vào vai chuẩn bị bóp cò. Một phát đạn nổ chát chúa ngay trên đầu tôi. Chắc là anh ta đã nhầm cái thây sống của tôi với con sói kia. Cũng may là có một người lính khác trông thấy con vật đang bỏ chạy; lại thêm một phát đạn nữa rít lên. Ngay sau đó, toán kỵ binh thúc ngựa phi nước đại một số chạy về phía tôi, số còn lại cấp tập đuổi theo con sói đang mất hút dưới những cây thông phủ đầy tuyết.
Biết là có người đến gần tôi mới dám thử cử động chân tay, nhưng tôi không thể làm được: tôi đã hoàn toàn tê liệt vì kiệt sức, mặc dù vẫn còn khả năng nhận biết tất cả những gì đang xảy ra, hoặc những người đang nói chuyện huyên náo xung quanh. Có hai, ba người lính nhảy xuống ngựa, quỳ gối kiểm tra tôi. Một người trong số họ nâng gáy rồi đặt tay lên ngực tôi.
- Không vấn đề gì, các cậu ạ! - Anh ta reo lên - Tim ông ta vẫn còn đập!
Họ cho tôi nhấp một chút rượu mạnh, điều này đã giúp tôi trở lại chính mình: cuối cùng thì tôi cũng đã mở to được hai mắt. Cảnh đầu tiên tôi có thể nhìn rõ lúc này là ánh sáng từ những ngọn đuốc đang nhảy nhót cùng bóng tối trên các ngọn cây. Tôi dỏng tai nghe những người đàn ông chất vấn nhau. Những tiếng kêu suýt xoa của họ lộ rõ vẻ lo sợ. Một lát sau, đám kỵ binh vừa đuổi theo con sói đã trở về với một vẻ mặt hốt hoảng như bị ma đuổi. Mấy tên lính đang ngồi quanh tôi ngẩng mặt lên hỏi, vẻ khiếp sợ :
- Sao rồi? Các cậu có đuổi được nó không?
- Không! Không? - Mấy người ngồi trên ngựa vội vàng trả lời, tôi có cảm giác như họ vẫn còn sợ - Chúng ta phải đi thôi, nhanh lên, nhanh lên! Đừng có ngu xuẩn kề cà ở một nơi như thế này, nhất là lại vào đúng đêm nay!
- Nhưng làm sao mới được chứ? - Mấy tay ngồi bên tôi gặng hỏi, giọng nói của mỗi người đều có một cái gì đó như một cảm xúc riêng. Câu trả lời của họ cũng không mấy giống nhau và điều đáng nói nhất là tất cả các câu trả lời đều mập mờ, ấp úng; dường như những người đàn ông này lúc đầu đều muốn nói cùng một điều gì đó, nhưng một nỗi sợ giống nhau nào đó đã ngăn không cho họ nói đến cùng ý nghĩ của mình.
- Đó là... đó là... đúng thế? - Một tên ấp úng nói.
- Một con sói... nhưng cũng không hẳn là một con sói! - Một tên lính khác vừa nói vừa run.
- Có bắn trúng con quái vật ấy cũng chẳng có tác dụng gì nếu không có một viên đạn thánh. - Tên thứ ba nói với một vẻ bình tĩnh hơn.
- Thật là phúc đức khi đi vào đêm nay! - Tên thứ tư mỉa mai - Không khéo chúng ta phải kiếm được cả ngàn mác ấy chứ?
- Trên các mảnh đá vỡ có dính máu - Một tên khác nói - không phải là sấm sét đã làm cái chuyện ấy. Thế còn thằng cha này? Ông ta không gặp nguy hiểm chứ? Nhìn cổ ông ta kìa! Các cậu thấy lồi chứ, con sói đã nằm đè lên người ông ta và giữ cho ông ta khỏi chết cứng.
Sau khi cúi xuống nhìn tơi, viên sĩ quan tuyên bố.
- Chẳng có gì nghiêm trọng cả, da thịt ông ta thậm chí cũng không bị xước.
Không hiểu câu chuyện rồi sẽ đi tới đâu? Bởi chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy ông ta nếu như không có những tiếng kêu của con sói.
- Thế con quái vật ấy chạy đi đằng nào rồi? - Người lính đang đỡ đầu tôi hỏi, có vẻ như anh ta là người còn giữ được dòng máu lạnh trong đám kỵ binh này.
- Nó quay về hang rồi. - Đồng đội của anh ta trả lời với bộ mặt tái mét, mắt khiếp sợ liếc nhìn xung quanh. - Ở đây làm gì có nhiều mồ mả để nó ẩn náu cơ chứ? Đi thôi, các bạn!
Nhanh lên! Hãy mau mau chuồn khỏi cái xó đáng nguyền rủa này!
Trong lúc viên sĩ quan ra lệnh, tên lính đã kịp nâng tôi ngồi dậy. Mấy tên khác cũng xúm lại vực tôi lên lưng ngựa. Viên sĩ quan nhảy lên phía sau quàng tay ôm lấy tôi trước khi ra lệnh rút lui. Để lại đằng sau những hàng thông, chúng tôi phi nước đại thành một hàng như quân lệnh.
Khi còn chưa tìm lại được khả năng diễn đạt của mình, tôi không thể kể gì về cuộc phiêu lưu của mình. Có lẽ là tôi vẫn đang trong trạng thái ngủ, bởi điều duy nhất mà tôi nhớ được kể từ lúc này là tôi đang ở tư thế đứng, hai bên có hai người lính xốc nách. Một ngày mới đang lên, ánh mặt trời hắt một vệt nắng dài xuống lớp tuyết trông như một con đường máu. Viên sĩ quan ra lệnh cho đám lính không được kể lại những gì họ đã trông thấy; điều duy nhất mà họ được nói là đã tìm được một người Anh đo một con chó rất lớn canh giữ.
- Một con chó! Nhưng cũng không hẳn là một con chó! - Tên lính lúc nào cũng có vẻ khiếp sợ thất lên - Khi nhìn thấy một con sói, chắc chắn tôi biết cách nhận ra nó bằng một con chó!
Viên sĩ quan trẻ bình tĩnh nhắc lại :
- Tôi đã nói là một con chó.
- Một con chó! - Một tên lính khác nhại lại, vẻ giễu cợt.
Rõ ràng là ánh mặt trời đang lên đã làm cho anh ta trở nên can đảm hơn. Đi được một đoạn, anh ta bỗng chỉ tay vào tôi nói :
- Nhìn cổ ông ta kìa. Các cậu sẽ nói với tớ rằng chính một con chó nhà đã làm như vậy chứ?
Tôi giật mình đưa tay xoa xoa vào cổ và không sao kìm được một tiếng kêu đau đớn.
Tất cả xúm vây quanh lấy tôi, một sớ vẫn ngồi trên yên ngựa cúi xuống nhìn cho rõ hơn. Và một lần nữa, giọng nói bình tĩnh của viên sĩ quan trẻ lại cất lên :
- Đó là con chó nhà, tôi đã bảo mà! Nếu chúng ta kể khác đi, người ta sẽ cười vào mũi cho đấy?
Một tên lính giúp tôi trở lại lưng ngựa cùng viên sĩ quan, chúng tôi đi theo lối dẫn tới khu. lao động ở ngoại ô Munich. Ở đó, họ tìm cho tôi một chiếc xe bò để trở về khách sạn Bốn Mùa. Để một tên lính trông ngựa, viên sĩ quan đi vào khách sạn cùng tôi, số còn lại trở về trại lính.
Delbruck hớt ha hớt hải chạy ra đón chúng tôi. Nhìn bộ dạng ông, tôi biết ngay là ông đã rất sốt ruột trong lúc chờ đợi. Ông túm chặt lấy tôi bằng cả hai tay và chỉ chịu buông ra khi tôi đã vào tới hành lang. Viên sĩ quan định chào từ biệt, nhưng tôi cố nài nỉ anh ta ở lại chơi với chúng tôi một lúc. Tôi kéo anh ta lên phòng và rót mời anh ta một ly rượu để bày tỏ lòng biết ơn người đã cứu mạng và ca ngợi long dũng cảm của những kỵ sĩ. Anh ta khiêm tốn đáp lại rằng bản thân anh ta cũng cảm thấy rất sung sướng, rằng chính ngài Delbruck mới chính là người đầu tiên đưa ra các biện pháp thiết thực, nhiệt thành và cuộc tìm kiếm này hoàn toàn không có gì là khó chịu cả. Nghe những lời bộc bạch của viên sĩ quan, ông chủ khách sạn chỉ mỉm cười. Viên sĩ quan một lần nữa xin phép được cáo từ đã đến giờ anh ta phải về trại đóng quân.
- Thưa ngài Delbruck, - Tôi hỏi khi viên sĩ quan đã ra về - làm thế nào mà toán lính này lại đi tìm tôi như vậy? Tại sao lại thế?
Ông chủ khách sạn khẽ nhún vai trả lời, vẻ không có gì quan trọng :
- Ngài tư lệnh của trung đoàn mà tôi từng phục vụ trước đây đã cho phép tôi gọi người tình nguyện đi tìm ông.
- Nhưng làm sao ngài biết tôi lạc đường?
Tên xà ích trở về với một chiếc xe tàn tạ: chiếc xe gần như tan nát, trong khi lũ ngựa cứ lồng lên như hóa dại.
- Nhưng đó chưa phải là nguyên nhân duy nhất khiến ngài phải nhờ đám kỵ binh đi tìm tôi?
Ồ? Đúng thế... ông xem này... Thậm chí ngay trước khi tên xà ích về tới đây tôi đã nhận được bức điện này của một nhà quý tộc mà ông là đối tượng được quan tâm...
Delbruck rút trong túi ra một mẩu giấy. Tôi vội cầm và đọc ngấu nghiến :
Bistritz Xin ngài hãy làm ơn để mắt quan tâm tới người sẽ trở thành tân khách của tôi; sự an toàn của ông ta đối với tôi là cực kỳ quý giá. Nếu như có chuyện gì đáng tiếc xảy ra với ông ta, hoặc nếu chẳng may ông ta mất tích, thì xin ngài hãy làm tất cả những gì có thể để cứu mạng ông ấy. Đó là một người Anh, một người Anh thích phiêu lưu. Tuyêí rơi, đêm tối, và chó sói có thể mang tới cho ông ta rất nhiều điều nguy hiểm. Xin hãy đừng để mất một giây phút nào nếu ngài cảm thấy có một chút gì đó lo lắng cho ông ta. Gia sản của tôi hoàn toàn đủ để tôi đền bù xứng đáng cho lòng nhiệt tình của ngài.
Dracula.
Tôi cầm mẩu giấy trên tay mà cảm thấy căn phòng như đang quay tròn. Nếu như ông chủ khách sạn không kịp ra tay đỡ thì có lẽ tôi đã ngã nhào xuống đất.
Quả là một chuyện kỳ lạ, bí ẩn và không thể nào tin nổi. Tôi dần cảm thấy mình đang là một thứ trò chơi và một canh bạc được thua của quyền lực đối lập nhau - cái ý nghĩ không thể xoay chuyển và mơ hồ này dường như đang làm thân xác tôi tê liệt. Chắc chắn là tôi đang nằm trong một vòng tay bảo vệ bí ẩn. Gần như trong cùng một phút, bức thông điệp đến từ một xứ xa xôi đã giữ tôi khỏi một mối nguy hiểm bị ngủ vùi dưới lớp tuyết trắng và kéo tôi thoát khỏi nanh chó sói.



Chương 1
Nhật ký của Jonathan Harker (Tốc ký)

Bistritz, ngày 3 tháng 5
Rời Munich vào tám giờ tối ngày 1 tháng 5; đến Viên vào sáng sớm ngày hôm sau. Lẽ ra chúng tôi phải tới nơi vào lúc sáu giờ năm mươi, nhưng tàu lại đi chậm mất một tiếng đồng hồ. Và trong cuộc hành trình tiếp tục tới Budapest, như đã hình dung sau những gì được chứng kiến từ lúc ngồi trên tàu, và sau những gì được chiêm ngưỡng ở một vài đường phố trong lúc dạo bộ khi tàu tạm dừng, tôi thấy đây quả là một thành phố đẹp.
Nhưng vì tôi rất sợ bỏ đi quá xa nhà ga, bởi dẫu có muộn chúng tôi vẫn phải tiếp tục khởi hành như đã dự kiến... Tôi có cảm tưởng rất rõ ràng trong cuộc hành trình rời phương Tây để đến với thế giới của phương Đông. Sau khi tàu lướt qua các cây cầu mỹ miều manh kiến trúc mẫu mực phương Tây bắc qua đoạn sông Đanuýp vừa rộng lại vừa sâu nơi đây, chúng tôi lạc ngay vào một vùng mang đậm tập quán của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Rời Budapest không đến nỗi quá muộn, chúng tôi đến Klausenburgh vào lúc chiều tối. Tới đây, tôi phải nghỉ qua đêm tại khách sạn Hoàng gia. Người ta dọn cho tôi bữa tối, hay nói đúng hơn là món xúp, một con gà tơ nấu với ớt đỏ ngon đấy, nhưng nếu ăn vào sẽ thưa hồ mà khát nước! (Tôi nghĩ lại món này theo ý của Mina). Người hầu bàn bảo đó là món paprika hendi, một món ăn dân tộc mà tôi có thể thấy ở khắp nơi trong vùng Carpates. Vốn tiếng Đức sơ sơ của tôi kể ra cũng rất có ích, bởi thực tình mà nói, nếu mù tịt, tôi thật không biết phải rút lui như thế nào.
Ở Luân Đôn, trong những lúc rảnh rỗi, tôi thường đến Bảo tàng Anh hoặc đến Thư viện Quốc gia để tra cứu bản đồ địa lý và các cuốn sách nói về xứ Transylvanie. Tôi thấy thật thú vị khi biết ít nhiều điều về xứ này, bởi vì tôi sắp có một phi vụ làm ăn với một quý ông ở đó. Mảnh đất mà quý ông này nói với tôi trong thư nằm ở phía đông đất nước, trên đường biên giới của ba xứ sở: Transylvanie, Moldavie, Bukovine, trong rặng Carpates. Đây là một trong những vùng ít tiếng tăm nhất và cũng hoang sơ nhất châu Âu. Nhưng không có một cuốn sách hay một tấm bản đồ nào có thể chỉ cho tôi biết chính xác nơi tọa lạc của tòa lâu đài mang tên bá tước Dracula, bởi hiện vẫn chưa có một tấm bản đồ chi tiết nào về xứ này. Tuy nhiên, những lần tra cứu cũng cho tôi biết rằng Bistritz - nơi bá tước Dracula đã nói với tôi và để tới đó, tôi phải đi bằng xe ngựa - là một thành phố nhỏ, cổ kính, được rất nhiều người biết đến. Tôi sẽ kể lại những ấn tượng khó quên của mình. Điều đó sẽ làm tôi sống lại một ký ức khi nhắc lại những cuộc du ngoạn với Mina.
Có bốn chủng tộc sống ở Transylvame: ở phía nam là những người Saxon sống lẫn với người Wallach vốn có xuất xứ từ sắc tộc Dacian; ở phía tây là người Magyard; còn ở phía đông và phía bắc là người Szekely. Tôi sẽ nghỉ lại cùng những người Szekely. Nghe nói họ xuất thân từ Attila và là hậu duệ của người Hung nô. Có lẽ điều này là có thật bởi vì vào thế kỷ thứ mười hai, khi người Magyard đi chinh phục xứ sở mà hiện nay họ đang sống, thì người Hung đã sinh cơ lập nghiệp ở đó rồi. Dường như mọi mê tín dị đoan trên thế giới đều có ở vùng Carpates, và tất cả luôn làm khuấy động trí tưởng tượng của dân gian. Nếu thực tế đúng là như vậy, thì những ngày nghĩ lại xứ này của tôi chắc sẽ rất thú vị. (Chắc chắn tôi sẽ luôn quấy rầy ngài bá tước với những câu hỏi về cái tín ngưỡng dị đoạn này).
Đêm đầu tiên tôi không thể ngủ say, nguyên nhân không phải là do lạ nhà lạ cửa, mà là do tôi đã mơ những giấc mơ quái lạ. Suốt cả đêm, tôi luôn cảm thấy như có một con sói đang tru lên ầm ĩ ngay bên dưới cửa sổ phòng mình: đó là do chứng mất ngủ của tôi hay là do mónpaprika? Bởi vì tôi đã nốc cạn bình nước trong phòng mà vẫn khát cháy họng. Nhưng cuối cùng thì tôi cũng chìm sâu vào giấc ngủ khi trời đã về sáng, bởi tôi bị đánh thức khi nghe thấy tiếng gõ cửa, mà hình như người gõ cửa đã phải làm như vậy rất lâu Tới bữa điểm tâm, người ta lại cho tôi ăn món paprika, một chút cháo yến mạch làm bằng bột ngô mà họ gọi là món mamaliga, và vài bát bánh nhồi nhân - một món ăn ngon tuyệt có tên là impletata. (Tôi đã ghi lại cách chế biến món này cho Mina). Tôi ăn vội vàng, bởi đoàn tàu sẽ tiếp tục khởi hành trước tám giờ có vài phút; nói một cách chính xác hơn, lẽ ra là tàu phải khởi hành vào lúc tám giờ kém vài phút ấy vậy mà sau một cuộc việt dã bở hơi tai để tới ga vào lúc bảy giờ ba mươi, tôi vẫn phải ngồi đợi tới hơn một tiếng đồng hồ trong toa trước khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh. Tới có cảm giác như càng đi về phía đông, các đoàn tàu càng đi muộn giờ thì phải. Không hiểu mọi việc rồi diễn ra như thế nào ở Trung Hoa?
Suốt cả ngày hôm đó, tàu chúng tôi chạy qua một xứ sở tuyệt đẹp, muôn hình muôn vẻ. Khi thì chúng tôi được chiêm ngưỡng những thành phố bé nhỏ vôi những tòa lâu đài nằm chênh vênh trên những ngọn dồi dốc đứng giống như khung cảnh được miêu tả trong sách kinh Thánh cổ xưa; khi thì đoàn tàu chạy dọc theo những dòng suối lớn nhỏ có bờ đá nhấp nhô uốn lượn như những hàng lan can của tạo hóa. Ở những nơi chúng tôi dừng chân, sân ga nào cũng nhộn nhịp các đám đông ăn mặc đủ màu sắc sặc sỡ với đủ loại y phục. Một số người rất giống với những người nông dân ở đất nước chúng tôi hoặc ở Pháp và Đức: họ chỉ mặc những tấm áo lưới đơn giản với những chiếc quần tây cắt ống khá rộng và đội mũ vành tròn; nhưng số khác lại ăn mặc có vẻ nhiều màu sắc hơn.
Phụ nữ ở đây trông có vẻ rất khỏe mạnh và cũng khá xinh đẹp nếu như bạn không nhìn họ quá gần. Tất cả đều mặc áo có ống tay trắng rộng quá khổ, eo mang thắt lưng bằng vải da màu lúc nào cũng bay phấp phới trên những tấm váy lộng lẫy. Tuy nhiên, tôi thấy người Xlôvaki là có vẻ lạ mắt hơn tất cả; họ đội mũ rộng vành kiểu cao bồi, mặc quần ống phồng màu cháo lòng, áo sơ mi vải lanh trắng và đeo thắt lưng da rộng bản có đóng nhiều đinh mũ bằng đồng. Đặc biệt là người đàn ông nào cũng thích xỏ chân vào một đôi ủng dài bao lấy ống quần. Mái tóc đen, dài và bộ râu rậm khiến họ có vẻ đặc sắc hơn nhưng lại không đem lại cho họ một vẻ dễ thương chút nào. Thực tình mà nói, nếu như đi du lịch bằng xe ngựa thì có lẽ tôi đã tưởng nhầm họ là một toán cướp đường, mặc dù đã có người nói với tôi rằng họ chưa bao giờ làm điều gì xấu với ai, mà ngược lại, lúc nào họ cũng chỉ là những kẻ nhát gan.
* * * * *
Chúng tôi tới Bistritz lúc nửa đêm. Như tôi đã nói, Bistriz là một thành phố cổ kính có quá khứ đặc biệt. Nằm gần đường biên giới - quả thực, khi rời Bistritz, chỉ cần vượt qua đèo Borgo là tới Bukovine - thành phố này đã trải qua biết bao thăng trầm mà nhiều dấu ấn của nó vẫn còn đọng lại đến ngày nay.
Cách đây năm mươi năm, những trận hỏa hoạn ghê người xảy ra liên tục đã san phẳng tất cả. Vào đầu thế kỷ mười bảy, thành phố này cũng đã phải chống đỡ một cuộc vây hãm trong suốt ba tuần, khiến mười ba ngàn người phải bỏ mạng, đó là còn chưa kể tới các nạn nhân của đói kém và dịch bệnh.
Bá tước Dracula bố trí cho tôi ở khách sạn Vương miện Vàng. Tôi rất vui vì thấy đó là một ngôi nhà rất cổ kính, bởi dẫu sao thì tôi cũng rất muốn càng hiểu nhiều về phong tục tập quán của xứ này càng tất. Có người đứng đợi tôi ở trước cửa: đó là một phụ nữ đứng tuổi có khuôn mặt rạng rỡ, ăn mặc đúng kiểu nông dân trong vùng. Bà cúi rạp người chào tôi và hỏi :
- Ngài có phải là một người Anh không ạ?
- Vâng, - Tôi trả lời - tôi là Jonathan Harker.
Người phụ nữ mỉm cười và nói điều gì đó với một gã đàn ông mặc áo sơ mi trần đang đứng đằng sau. Gã lập tức biến mất nhưng rồi lại trở lại ngay với một lá thư đưa cho tôi. Lá thư ấy viết thế này :
“Ông bạn thân mến,
Hoan nghênh ông đã đến với rặng Carpates. Tôi rất sốt ruột chờ đợi ông.
Chúc ông ngủ ngon đêm nay. Chuyến du lịch xe ngựa tới Bukovine vào chiều mai sẽ được bắt đầu vào lúc ba giờ, chỗ của ông đã được giữ trước. Xe của tôi sẽ đợi đón ông trên đèo Borgo. Hy vọng rằng từ Luân Đôn, cuộc hành trình của ông sẽ diễn ru thuận lợi, và ông sẽ cảm thấy thực sự thoải mái trong những ngày sống ở đất nước tươi đẹp của chúng tôi.
Chào thân ái,
Dracula”.
 
Ngày 4 tháng 5
Bản thân ông chủ khách sạn cũng nhận được một lá thư của ngài bá tước với đề nghị dành cho tôi một chỗ ngồi tất nhất trên xe ngựa, nhưng khi tôi hỏi vài câu, ông chủ lại có vẻ ngập ngừng và lấy lý do là không hiểu được hết thứ tiếng Đức mà tôi nói; rõ ràng là một sự nói dối bởi lúc tôi mới đến khách sạn, ông ta đều hiểu hết những gì tôi nói. Hai vợ chồng ông chủ nhìn nhau vẻ lo lắng rồi quay sang ấp úng trả lời tôi rằng tiền đi xe ngựa đã được gửi trước cùng một lá thư, ngoài ra họ cũng không biết gì hơn. Khi tôi hỏi về bá tước Dracula và tòa lâu đài của ông ta, cả hai vợ chồng cùng làm dấu thánh và trả lời họ hoàn toàn không rõ gì hết, rồi ra hiệu cho tôi hiểu họ không muốn nói về chuyện đó nữa. Vì giờ lên đường đã tới nên tôi không còn thời gian để hỏi thăm qua những người khác. Tôi thấy sự việc thật bí ẩn và không có sức thuyết phục.
Đúng vào lúc tôi sắp sửa lên đường thì bà chủ bỗng hớt hải chạy vào phòng hỏi tôi bằng một giọng hoảng hốt :
- Ngài định đi tới đó thật sao? Ôi! Ông bạn trẻ, ngài định đi tới đó thật ư?
Người phụ nữ hoảng loạn đến nỗi lắp bắp mãi mới nói được một vài từ tiếng Đức mà bà ta biết lẫn với những tiếng gì đó hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi tôi trả lời rằng tôi phải đi ngay lập tức để giải quyết một công chuyện quan trọng, bà ta lại hỏi tôi :
- Ngài có biết hôm nay là ngày bao nhiêu không?
Tôi trả lời ngày 4 tháng 5.
- Vâng, tất nhiên là ngày 4 tháng 5. Nhưng là ngày gì chứ?
Khi tôi nói tôi không hiểu rõ câu hỏi, bà ta mới lý giải :
- Là hôm trước của Ngày Thánh George? Chẳng lẽ ngài lại quên rằng đêm nay, đúng vào lúc đồng hồ điểm mười hai tiếng, tất cả các bùa yểm sẽ thống trị trái đất như những chúa tể tuyệt đối hay sao? Chẳng lẽ ngài không biết là ngài đang đi về đâu và sắp sửa đứng trước một điều gì ư?
Người phụ nữ khiếp sợ đến mức tôi phải tìm mọi cách an ủi mà vẫn không được. Cuối cùng, bà ta bỗng quỳ sụp xuống van lạy tôi đừng đi, hoặc nếu có đi thì cũng nên nán lại một hai hôm nữa. Sự kỳ lạ này khiến tôi hơi khó nghĩ.
Nhưng dù sao thì người ta vẫn đang đợi tôi ở lâu đài, và không gì có thể ngăn cản tôi đi tới đó. Tôi đỡ bà chủ dậy, song kiểu gì thì tôi cũng vẫn phải lên đường. Người phụ nữ đứng dậy lau nước mắt, rồi tháo cây thánh giá đeo trên cổ đưa cho tôi sẽ là vô lễ nếu tôi từ chối vật biếu của một người phụ nữ luống tuổi đang muốn những điều tất lành đến với tôi, đang thực sự lo lắng cho tôi. Bà chủ khẽ quàng cây thánh giá vào cổ tôi và nói một câu thật giản dị: “Vì tình yêu dành cho người mẹ của ngài”, rồi bước ra khỏi phòng. Tôi viết những dòng nhật ký này trong lúc chờ đợi chiếc xe ngựa - tất nhiên là lại đến muộn - và cây thánh giá vẫn đang lủng lẳng trên cổ tôi. Phải chăng nỗi sợ hãi, các tín ngưỡng ghê gớm hay chính cây thánh giá nhỏ bé này đã giày vò người phụ nữ luống tuổi đó? Thực tình tôi không biết, nhưng chắc chắn là cảm giác của tôi về những gì vừa xảy ra sẽ kém êm dịu hơn bình thường.
Ngày 5 tháng 5. Tại lâu đài
Màu xanh xám của buổi sớm mai đang dần dần tan biến, nhường lại ánh hồng tươi của mặt trời. Chân trời như đang bị cắt ra thành từng mảng bởi các lùm cây hay các ngọn đồi gì đó mà tôi không rõ, vì mọi cảnh vật lớn, nhỏ, đều nằm ở rất xa và đều lẫn nhòa vào với nhau. Lúc này, tôi đã hết thèm ngủ, ngày mai tôi sẽ thưa hố rảnh rỗi, tôi có thể dậy lúc nào muốn, và tôi sẽ viết cho tới khi nào buồn ngủ mới thôi, bởi tôi có rất nhiều điều kỳ lạ để viết. Trước khi rời Bistritz, tôi đã được ăn một bữa thỏa thuê và rất ngon miệng. Khách sạn cho tôi ăn món mà họ gọi là “thịt rán kẻ cướp” - tức là một vài miếng mỡ lá kèm lẫn hành củ, thịt bò và paprika trộn đều, cuộn quanh các que nhỏ rồi cho vào lửa nướng. Tôi uống loại Mediasch mạ vàng, một thứ rượu vang có thể làm bạn rát lưỡi, nhưng đối với tôi thì không có gì khó chịu.
Tuy nhiên, tôi cũng chỉ uống được hai cốc.
Lúc leo lên xe ngựa, tôi thấy tay xà ích vẫn chưa ngồi lên ghế, anh ta còn mải đứng nói chuyện với ông chủ khách sạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả hai người đang nói chuyện về tôi, bởi vì chốc chốc họ lại ngoảnh mặt nhìn tôi.
Những người ngồi trên hàng ghế gần cửa khách sạn cũng bắt đầu đứng cả dậy sán đến nghe hai người đàn ông nói chuyện, thỉnh thoảng họ cũng ngoái lại nhìn tôi với ánh mắt chứa đựng một điều gì đấy giống như một sự thương hại. Về phần mình, đôi khi tôi cũng nghe được một vài từ vẳng tới từ đám đông nhưng đó toàn là những từ mà tôi không hiểu. Hơn nữa, họ lại nói bằng nhiều thứ tiếng. Vì vậy, tôi phải mở cuốn từ điển đa ngôn ở trong túi du lịch ra tra cứu, tôi muốn tìm nghĩa của tất cả những từ lạ mà tôi đã nghe lỏm được. Song thú thực là không có bất cứ một nghĩa nào tra được trong cuốn từ điển khiến tôi có thể can đảm lên, bởi vì tôi tra được toàn những từ đại loại như ordog - quỷ satăng; poki - địa ngục: stregocia - phù thủy; vrolok và vlkoslak - một cái gì đó như ma cà rồng hoặc ma sói theo nghĩa của hai thổ ngữ.
Khi chiếc xe ngựa chuẩn bị chuyển bánh, đám người xúm đến trước cửa khách sạn mỗi lúc một đông, tất cả cùng đưa tay làm dấu thánh và giơ ngón trỏ, ngón giữa chỉ về phía tôi quả là không dễ dàng gì khi tôi gặng hỏi một người đồng hành về ý nghĩa của những cử chỉ kỳ quặc đó: họ muốn che chở cho tôi - anh ta giải thích - chống lại những con mắt độc ác. Thực tình mà nói, tôi lại một lần nữa không cảm thấy dễ chịu trước khi tới một nơi xa lạ. Nhưng mặt khác tôi cũng phải thừa nhận một sự thật là tất cả những con người kia, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều chứng tỏ một thiện cảm đối với tôi, đều muốn chia sẻ với tôi nỗi bất hạnh mà họ cho là sẽ xảy ra. Và dù thế nào đi chăng nữa thì tôi cũng không bao giờ quên được những hình ảnh xúc động này. Tay xà ích, mặc chiếc quần ống rộng thùng thình che gần kín chiếc ghế anh ta đang ngồi, vung roi huơ huơ trên đầu bốn chú ngựa đã được đóng sẵn. Chúng tôi bắt đầu lên đường.
Vẻ đẹp của phong cảnh trên đường đi đã làm tôi nhanh chóng quên đi những nỗi thắc mắc lo âu, nhưng tôi không nghĩ mình lại có thể cởi bỏ mọi nỗi ám ảnh dễ dàng đến như vậy nếu như hiểu được toàn bộ câu chuyện của những người bạn đồng hành. Trước mắt chúng tôi là những cánh rừng bạt ngàn, hai bên đường thỉnh thoảng lại nhô lên những ngọn đồi dốc đứng, với một lùm cây mọc trơ trọi trên đỉnh hoặc một trang trại lưa thưa mấy nóc nhà đổ bóng xuống con đường. Khắp nơi, chỗ nào cũng thấy cây trái đang trổ hoa - nào là hoa táo, hoa mận, hoa lê và hoa anh đào, tất cả làm nên một bức tranh thực sự lộng lẫy; và cả những thảm cỏ trong các vườn cây chúng tôi đi qua, dưới ánh mặt trời, cũng đang lấp la lấp lánh với những cánh hoa rơi. Dù uốn lượn quanh quanh hoặc vươn dài lên các ngọn đồi, lúc nào con đường cũng như một vải lụa mềm nằm phơi mình trên các thảm cỏ xanh rì, mượt như nhung, hoặc lấp ló náu mình dưới một rừng thông chạy dài hun hút tầm mắt khiến tôi có cảm giác mình đang lạc vào một chốn bồng lai tiên cảnh. Tuy nhiên, càng đi xa, con đường càng trở nên xấu hơn, nhưng tay xà ích vẫn cứ thúc ngựa chạy hết tốc lực. Điều này làm tôi rất ngạc nhiên. Có vẻ anh ta muốn càng lâu tới Borgo Prund càng tốt thì phải.
Trước lúc xuất phát, người ta bảo tôi rằng đường đi rất tuyệt, nhưng rõ ràng là nó vẫn chưa trở lại trạng thái ấy sau những trận tuyết rơi mùa đông vừa rồi. Con đường này không giống với những con đường khác ở vùng núi Carpates: quả thực là không ai dám sửa chữa, vì sợ làm thế sẽ khiến cho người Thổ Nhĩ Kỳ tưởng lầm rằng người ta lại đang chuẩn bị cho một cuộc xâm lược đất nước họ, và như vậy sẽ là cái cớ để họ tuyên chiến ngay lập tức, mà thực tế ở vùng núi này, chiến tranh lúc nào cũng nằm ở điểm chuẩn bị bùng nổ.
Bên kia các đỉnh đồi vẫn là những cánh rừng và những đỉnh núi cao vời vợi của rặng Carpates. Trước mắt chúng tôi chỗ nào cũng là rừng và núi. Ánh trời chiều lung linh rực rỡ làm cho những hang hốc nằm giữa các vách đá cao vút trở thành một màu xanh thẫm hoặc đỏ tía, và biến các đám cỏ mọc phủ lên bờ đá thành một màu xanh nâu, và bức tranh toàn cảnh vô tận của các mỏm đá lởm chởm, nhọn hoắt cũng như biến mất hút về phía chân trời, nơi có những đỉnh núi tuyết nhấp nhô. Khi mặt trời bắt đầu ngả bóng, chúng tôi chợt nhận ra ở đó đây, rải rác giữa các hốc đá lớn, nhỏ, những thác nước nghiêng nghiêng đổ xuống vô vàn ánh bạc.
Chiếc xe ngựa vẫn cần mẫn tiếp tục cuộc hành trình tưởng chừng chẳng bao gĩờ kết thúc. Phía sau chúng tôi, mặt trời dần dần lặn xuống dưới chân trời, bóng chiều ập xuống mỗi lúc một nhanh. Cảm nhận về hoàng hôn càng trở nên rõ nét hơn khi ở trên cao. Các đỉnh núi phủ tuyết trắng vẫn lấp lánh những ánh hồng vương vãi của mặt trời. Thỉnh thoảng trên đường đi, chúng tôi lại bắt gặp một đám người Séc và Slovaki với những bộ trang phục dân tộc nổi tiếng. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi cảm thấy không vui: phần lớn trong số họ đều bị bệnh bướu giáp. Dọc hai bên đường thỉnh thoảng lại mọc chơ vơ một cây thánh giá, và cứ mỗi lần chiếc xe ngựa đi ngang qua đó là một lần đám hành khách trong xe lại vội vàng đưa tay làm dấu. Chúng tôi cũng trông thấy những người nông dân đang quỳ gối cầu nguyện trước các nhà thờ mộ. Họ mải cầu nguyện đến mức chẳng thèm ngoảnh lại nhìn khi nghe thấy tiếng xe ngựa tới gần. Tất cả đều là những kẻ sùng đạo, và trong lúc cầu nguyện, không bao giờ họ để tai để mắt tới thế giới xung quanh. Gần như tất cả đều mới lạ đối với tôi: những đụn cỏ khô chất cao đến tận tán lá cây, những bóng liễu rủ để lộ qua từng kẽ lá những cành cội mảnh mai lấp lánh ánh bạc... Thỉnh thoảng tôi lại gặp một chiếc xe bò chở những người nông dân trở về nhà, những người đàn ông Séc vận tấm áo da cừu trắng ngần; còn người Slovaki lại mặc áo đa cừu nhuộm, họ còn mang những chiếc rìu dài như những cây mác bên mình. Màn đêm xuống báo trước một cảnh lạnh lẽo băng giá, bóng tối như càng sâu thẳm hơn giữa những tán lá lãnh sam, lá sồi dày đặc. Chúng tôi đang trên đường tới đèo Borgo. Trong thung lũng dưới chân chúng tôi, những ngọn lãnh sam đen kịt như bị xé ra thành từng mảng giữa một nền tuyết trắng vừa rơi. Đôi lúc, khi con đường đi sâu vào một khu rừng lãnh sam - lúc này như đang nuốt chửng lấy chúng tôi - những đụn mây mù đặc quánh bỗng lập lờ hiện ra trắng toát che khuất hoàn toàn các lùm cây, trông chúng chẳng khác nào những bóng ma chờn vờn. Một lần nữa tôi cảm thấy rùng mình giống như cái cảm giác gai gai tôi vừa trải qua lúc cuối chiều. Trong rặng Carpates, mặt trời lặn đã để lại trên bầu trời những đám mây có hình thù quái dị lởn vởn giữa các hang đá. Các sườn đồi lúc này dốc đến nỗi dù rất vội tới đích, tay xà ích vẫn buộc phải cho ngựa đi chậm lại. Tôi ngỏ ý muốn xuống xe để cuốc bộ một đoạn, giống như tôi vẫn làm ở nước mình khi gặp trường hợp tương tự, nhưng tay xà ích đã lập tức phản đối :
- Không được, không được! - Anh ta đáp lại. - Không thể đi bộ được đâu... Chó ở đây dữ lắm?
Tay xà ích bồi tiếp một câu mà tôi đoán là anh ta đang muốn chứng tỏ mình cũng là người hài hước, vì tôi thấy rõ anh ta đang đưa mắt nhìn từng hành khách để mong nhận được một nụ cười hưởng ứng :
- Ngài hãy cứ tin ở tôi, rồi ngài sẽ có đủ cả, kể cả chuyện cuốc bộ, khi ngài đã ung dung nằm trên giường tối nay.
Anh ta chỉ chịu im tiếng khi đã đến lúc phải thắp sang các ngọn đèn trên xe.
Ánh đèn vừa được thắp sáng, đám hành khách bỗng sôi động hẳn lên, họ nhao nhao thúc giục tay xà ích đánh ngựa đi nhanh hơn. Tay xà ích lập tức vung roi, hô ngựa phi nước đại lên sườn núi. Xe chạy được một lúc, tôi tin là mình vừa trông thấy một tia sáng màu xanh nhợt trong bóng tối ở phía trước - nhưng chắc đó chẳng phải là cái gì khác ngoài một kẽ nứt giữa các vách đá. Những người bạn đồng hành của tôi mỗi lúc một náo động hơn. Chiếc xe ngựa bắt đầu lăn bánh như điên loạn, khiến cho các thành lò xo nghiến kêu ken két, chúng tôi có cảm giác như đang ngồi trên một con thuyền giữa biển động. Tôi phải bám chặt vào thành xe cho khỏi ngã nhào. Một lúc sau, con đường có vẻ bằng phẳng hơn, và tôi lại có cảm tưởng như chiếc xe đang bay trong màn đêm. Đường đi cũng trở nên chật hẹp hơn, các ngọn núi ken sát sau hơn và thực tình mà nói, dường như chúng đang giăng ra để đe dọa chúng tôi: chúng tôi đang đi qua đèo Borgo. Không hiểu sao những người bạn đường lại lần lượt đưa cho tôi mấy vật làm quà, nào là nhánh tỏi, bông hồng dại phơi khô... và tôi thấy rõ là mình không thể từ chối. Quả thật là mỗi món quà đều có một vẻ buồn cười nào đó chẳng giống nhau, song những người tặng quà tôi đều bày tỏ một tấm lòng chân thành, giản dị cùng với những cử chỉ bí ẩn, giống như những người đứng trước cửa khách sạn Bistriz đã làm: làm dấu thánh và giơ hai ngón tay bảo vệ tôi chống lại những ánh mắt độc ác đang lẩn quất đâu đây. Tay xà ích dướn hẳn người về phía trước, ở hai hàng ghế băng trên xe, mấy hành khách cố nghển cổ lên nhìn ra ngoài. Rõ ràng là họ đang chờ đợi một điều gì xuất hiện trong đêm.
Tôi hỏi chuyện, nhưng tất cả đều không muốn trả lời, dù chỉ là một câu. Sự tò mò cứ âm ỉ mãi trong tôi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã đến sườn phía đông đèo Borgo. Những đám mây đen kịt ùn ùn chồng chất lên nhau, không khí ngột ngạt như sắp sửa có giông. Phải nói rằng giữa hai sườn núi, bầu không khí khác nhau rõ rệt. Bây giờ chúng tôi đang đi vào một khu vực nguy hiểm. Tôi lặng lẽ quan sát chiếc xe có nhiệm vụ dẫn tôi đến nhà ngài bá tước, rồi sốt ruột chờ đợi cái giây phút được trông thấy ánh đèn tỏa ra thấp thoáng từ tòa lâu đài ấy, song xung quanh vẫn đen một màu mực. Ánh sáng duy nhất lúc này vẫn là những ánh đèn trong xe ngựa hắt ra chập chờn cùng với nhịp thở nặng hơi nước của lũ ngựa. Ánh sáng ấy cho phép chúng tôi nhận ra đoạn đường trăng trắng trước mặt, nhưng tuyệt nhiên không thấy bất cứ dấu vết của một chiếc xe nào khác chiếc xe của chúng tôi. Mấy người bạn đường chợt buông một tiếng thở dài rồi xoay người tìm một tư thế ngồi dễ chịu hơn. Tôi cảm thấy cử chỉ của họ giống như một sự chế nhạo: họ giễu cợt sự thất vọng của tôi. Tôi đang nghĩ cách xoay xở trước tình huống khó xử này thì tay xà ích chợt xem đồng hồ và nói gì đó với đám hành khách mà tôi không hiểu; tuy nhiên, tôi cũng đoán được ý anh ta định nói: “Chậm mất một tiếng...” Sau đó, anh ta quay sang khuyên nhủ tôi bằng một thứ tiếng Đức còn tệ hại hơn cả tôi :
- Chẳng nhìn thấy chiếc xe nào cả, chắc là họ không đợi ngài rồi. Có lẽ ngài nên đi cùng chúng tôi tới Bukovine đi, ngài sẽ quay trở lại đây ngày mai hoặc ngày... kia, như vậy sẽ tốt hơn...
Tay xà ích chưa kịp nói dứt lời thì lũ ngựa bỗng hí ầm ĩ và nện móng loạn xạ xuống đất, mấy người ngồi gần tôi cũng giật mình, buột miệng kêu sợ hãi và vội vàng đưa tay làm dấu: thì ra là một chiếc xe ngựa mui trần, bốn ngựa kéo, vừa bất ngờ xuất hiện đằng sau chúng tôi, rồi vượt lên đỗ ngay bên cạnh xe chúng tôi. Dưới ánh đèn, tôi thấy lũ ngựa mới đến con nào con nấy đều thật óng ả, trong đó có một con đen như than. Người điều khiển là một gã đàn ông cao lớn, có bộ râu dài hung hung như râu ngô, đầu đội mũ đen rộng vành che kín mặt.

Dưới ánh đèn chập chờn, tôi vẫn nhận ra ánh mắt long lanh của ông ta. Ánh mắt ấy gần như có màu đỏ.
- Đến sớm quá đấy ông bạn ạ! - Gã nói với tay xà ích của chúng tôi.
Tay xà ích đáp lại bằng một giọng thiếu tự tin :
- Nhưng quý ngài người Anh đây lại rất...
- Chắc đó là lý do giải thích tại sao tôi nghĩ - Gã đàn ông mới đến nói tiếp - là anh định chở ông ta đến tận Bukovine...
- Đừng, anh bạn ạ, không thể lừa được tôi đâu... Tôi biết tổng cả rồi, mà lũ ngựa của tôi cũng chạy nhanh lắm...
Gã vừa cười vừa nói, nhưng nét mặt vẫn đanh lại – lúc này gã đang đứng rất gần chiếc xe của chúng tôi. Tôi trông thấy rất rõ cặp môi đỏ như máu, hai hàm răng nhọn hoắt và vàng ệch như ngà của gã. Một hành khách thì thầm dọc vào tai người ngồi bên cạnh bài thợ Lenore nổi tiếng của Burger :
Denn die todten reiten schnell...
Chắc chắn là gã mới đến đã nghe được bài thơ, vì tôi thấy gã vừa quay sang nhìn vị hành khách với một nụ cười quái gở. Người hành khách vội vàng ngoảnh mặt đi nơi khác, đưa tay làm dấu thánh rồi giơ hai ngón tay ra trước.
- Cho tôi xin hành lý của quý ngài đây nhỉ. - Gã lạ mặt tiếp tục lên tiếng.
Chẳng cần đợi gã nói thế, đống va ly của tôi cũng được chuyển sang chiếc xe mui gập. Tôi bước xuống xe và sang ngồi trong chiếc xe mới. Gã đàn ông đỡ tôi một tay - bàn tay gã quả là cứng như thép. Hẳn gã phải có một sức mạnh phi thường. Chẳng nói chẳng rằng, gã giật dây cương cho xe quay nửa vòng. Chiếc xe mới bắt đầu chuyển bánh và phi hết tốc độ trên đèo Borgo. Ngoái lại phía sau, tôi vẫn nhận ra những ngọn đèn chập chờn của chiếc xe chở khách soi lờ mờ hơi thở đầy hơi nước của lũ ngựa; bóng những hành khách, mà chỉ vừa mới đây thôi còn làm bạn đồng hành của tôi, hiện lên lần cuối cùng trước mắt tôi: họ đang cùng nhau làm dấu thánh.
Gã đánh xe bất chợt vung mạnh chiếc roi, lũ ngựa lập tức chuyển sang đường tới Bukovine. Khi lũ ngựa dấn sâu vào màn đêm, tôi bỗng rùng mình vì một cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng ngay lập tức một tấm áo choàng được khoác lên vai tôi, và tiếp đó là một mảnh chăn du lịch dược đắp nhẹ nhàng lên hai gối. Gã đàn ông nói với tôi bằng một thứ tiếng Đức hoàn hảo :
Thưa ngài, thời tiết hơi tệ, nên bá tước, tức ông chủ của tôi, đã ra lệnh cho tôi không được phép để ngài bị cảm lạnh. Bình slivovitz (một loại rượu trong vùng) tôi để ở kia, ngay dưới ghế ngồi ấy, nếu thích thì ngài cứ việc.
Dù không uống một giọt, song chỉ cần biết trong xe có một bình như vậy là tôi cũng thấy được an ủi rồi. Tuy nhiên, nỗi lo lắng của tôi còn lâu mới yên trở lại, nếu không muốn nói tôi đang rơi vào một tâm trạng trái ngược. Tôi tin rằng nếu có thể, chắc chắn tôi sẽ rời bỏ cuộc hành trình càng lúc càng bí ẩn này.
Đang lao mỗi lúc một nhanh theo con đường, chiếc xe bỗng đột nhiên ngoặt sang đường khác rồi tiếp tục đi thẳng. Tôi có cảm tưởng như chiếc xe đang vòng đi, vòng lại mãi một nơi. Tôi nảy ra ý định thử tìm một điểm mốc nào đó để khẳng định sự nghi ngờ của mình, và tôi nhận ra là mình đã không nhầm. Tôi định hỏi gã chủ xe xem như vậy là thế nào nhưng lại thôi, và tự nhủ rằng trong hoàn cảnh thân cô thế cô thế này thì im lặng vẫn cứ hơn, biết đâu tôi lại tình cờ chống đối lại một cái gì đó nếu như gã được lệnh kéo dài quãng đường! Dù sao thì tôi cũng muốn nhìn đồng hồ, và cách duy nhất để nhìn thấy giờ là phải đánh diêm. Đã gần nửa đêm rồi. Tôi bỗng rùng mình hoảng sợ: chắc chắn là cái mê tín dị đoan về tất cả những gì xảy ra lúc nửa đêm sẽ lại ám ảnh đầu óc tôi sau những sự kiện quái lạ mà tôi từng phải trải qua. Lại sắp xảy ra chuyện gì nữa đây?
Có tiếng chó sủa bất chợt vẳng lên từ đâu đó dưới chân đường, có lẽ là từ sân của một trang trại; một tiếng sủa sợ hãi, kéo dài... Tiếng kêu ấy được đáp lại bởi một con chó khác, rồi một con khác và một con khác nữa... Cho tới khi bị những trận gió đang ào ạt thổi qua đèo cuốn đi. Những tiếng kêu hoang dại và thê thảm ấy bỗng như cùng rộ lên từ mọi ngõ ngách. Cái âm hưởng man rợ cứ vẳng mãi, vẳng mãi, vẳng xa tới tận cùng của một thế giới oan hồn mà một trí tưởng tượng có thể tưởng tượng ra trong đêm... Lũ ngựa lập tức nhảy chồm lên, nhưng gã đàn ông đã làm chúng trấn tĩnh trở lại bằng một giọng nói dịu dàng, song con nào con nấy vẫn ướt đầm mồ hôi và run lên như cầy sấy. Lúc này, những ngọn núi xa nhất đang dội ngược vào tai chúng tôi những tiếng rú ám ảnh hơn, dữ đội hơn và mạnh hơn gấp bội phần: chó sói. Tôi tưởng mình có thể nhảy khỏi xe mà chạy trốn đến nơi. Lũ ngựa một lần nữa nhảy chồm chồm và vung cẳng đá hậu lia lịa, nhưng gã xà ích cũng chẳng cần phải hết sức để ngăn chúng lồng lên. Gã nhảy xuống xe và chạy ngay ra trước mũi lũ ngựa để vuốt ve, vỗ về và an ủi chúng bằng những câu tử tế nhất mà gã có. Kết quả thật phi thường: dù vẫn chưa hết run, nhưng bốn con ngựa đã ngay lập tức tuân lời chủ nhân, ngoan ngoãn để gã lên xe cầm cương. Chúng lại hối hả lao trên con đường bất khả kháng. Lần này, sau khi chạy tới bên kia đèo, gã xà ích cho ngựa chạy theo một hướng khác, theo một con đường hẹp hơn, mất hút về phía tay phải.
Lát sau, xe chúng tôi lọt vào giữa hai hàng cây mọc giao nhau ở một số đoạn tạo thành một cái vòm thực sự, khiến tôi cảm thấy như đang lọt vào một đường hầm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp những mỏm đá đồ sộ như những cái bong lừng lững đứng hăm dọa kẻ qua đường. Và cứ mỗi lần có trận gió kéo về gầm rít giữa các hốc đá là các ngọn cây lại rung chuyển dữ dội. Tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, những bong tuyết mảnh mai bắt đầu rơi rơi chẳng mấy chốc mọi thứ xung quanh sẽ biến thành một màu trắng xóa. Gió vẫn mang đến cho chúng tôi những tiếng kêu não nề thê lương của bầy chó nhà, nhưng những tiếng kêu ấy đã bắt đầu nhỏ dần, nhỏ dần bởi chúng tôi đã tiến được một đoạn khá xa.
Song ngược lại, tiếng chó sói lúc trước chỉ văng vẳng, giờ bỗng trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn; những tiến ru thê thảm ấy càng lúc càng gần hơn và dường như đang bủa vây xung quanh chúng tôi thú thực, tôi bắt đầu cảm thấy khiếp sợ.
Hình như lũ ngựa cũng có một vẻ gì đó không yên như tôi. Tuy nhiên, gã đàn ông vẫn bình thản ngó nghiêng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi giương mắt cố phân biệt một cái gì đó trong đêm, nhưng tất cả vẫn chỉ là một màu đen như mực.
Tôi bỗng giật thót người khi nhận ra một đốm sáng xanh lè đang lập lòe cách xe chúng tôi một đoạn khá xa về bên trái. Gã xà ích hẳn cũng đã nhận ra cái đốm sáng ấy cùng lúc với tôi, bởi gã vừa giật cương cho ngựa đứng khựng lại, rồi nhảy phắt xuống đất và biến mất hút trong màn đêm. Tôi đờ đẫn tự hỏi không biết mình sẽ phải làm gì... Tiếng sói tru càng lúc càng gần xe chúng tôi hơn... Tôi còn đang do dự thì gã đàn ông bỗng đột ngột xuất hiện trước mặt, chẳng nói chẳng rằng và leo tót lên ghế thúc ngựa đi tiếp. Cái đốm sang ấy cứ ám ảnh mãi trong đầu tôi và dường như lúc nào tôi cũng thấy nó lập lòe trở lại.
Vâng, sau này khi nghĩ lại, tôi vẫn có cảm tưởng như mình đã rơi vào một cơn ác mộng kinh hoàng.
Một lúc sau, cái đốm xanh ấy xuất hiện gần chúng tôi đến nổi giữa màn đêm thăm thẳm, tôi đã có thể nhìn rõ từng cử chỉ của gã xà ích. Gã nhanh chân bước về phía có đốm sáng chập chờn - tuy chỉ là một thứ ánh sáng rất yếu, chỉ đủ để phân biệt được mặt đất xung quanh - rồi nhặt mấy hòn đá chất lại thành một đống. Tôi thấy việc gã làm thật kỳ quái. Một lần khác, khi cái quầng sáng nhờ nhờ ấy xuất hiện: đứng giữa đốm sáng và tôi, gã chẳng buồn che cho tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi tiếp tục trông thấy rõ ràng cái đốm sáng chập chờn và bí ẩn ấy. Người tôi sững sờ mất một lúc, nhưng rồi cũng tự nhủ rằng do quá muốn chọc thủng màn đêm nên hai con mắt đã đánh lừa tôi... Sau đó, chúng tôi không còn trông thấy những đốm xanh lè ấy nữa, nhưng tiếng chó sói thì vẫn còn, dường như chúng đang tạo thành một vòng tròn và vòng tròn ấy đang mỗi lúc một tiến gần, xiết chặt lấy xe chúng tôi hơn.
Không hiểu sao gã xà ích lại nhảy xuống xe một lần nữa, và lần này gã bỏ đi xa hơn. Trong lúc gã vắng mặt, lũ ngựa lại bắt đầu hoảng sợ hơn bất cứ lúc nào hết, chúng thi nhau thở phì phì và hí ầm ĩ. Không hiểu lý do gì khiến chúng hoảng sợ đến thế, bởi đúng vào lúc đó, ánh trăng bỗng bất ngờ xuất hiện lập lờ giữa những đám mây đen, sau một đỉnh núi cao hùng vĩ và lởm chởm như răng cưa, và tiếng chó sói đột nhiên im bặt. Dưới ánh trăng nhợt nhạt, tôi bủn rủn nhận ra những con sói không hiểu từ đâu bất thình lình đứng lù lù xung quanh chiếc xe ngựa, nhe ra những hàm răng trắng ởn và chiếc lưỡi đỏ lòm; lông con nào con nấy dựng ngược như lông nhím. Trong màn đêm im lặng lạ lùng đáng sợ, trông chúng còn ghê rợn hơn so với những lúc chúng gào hét đến trăm lần.
Tôi bắt đầu nghĩ tới một mỗi nguy hiểm có thể đổ ập xuống bất cứ lúc nào. Nỗi sợ hãi đã làm toàn thân tôi tê liệt. Bầy sói lại đột nhiên gào rú như thể ánh trăng vừa có một quyền uy đặc biệt nào đó đối với chúng. Lũ ngựa cũng không còn giữ được bình tĩnh. Chúng lấm lét nhìn xung quanh như muốn tìm một sự thương hại nào đó, nhưng cái vòng tròn sống, vòng tròn khủng khiếp vẫn vây chặt xung quanh. Tôi gọi gã xà ích, tôi kêu gã quay về. Tôi thấy dường như cơ hội duy nhất còn lại với mình lúc này là cố sức phá vỡ cái vòng vây ma quái kia để gã có thể quay về. Vì vậy, tôi càng gào to hơn và đập thùm thụp vào cửa xe với hy vọng sẽ làm cho bầy sói đang rình rập bên cạnh hoảng sợ bỏ đi.
Làm sao gã lại ở đó, tôi không biết, chỉ biết khi nghe thấy giọng nói độc đoán đầy uy lực của gã và nhìn về phía ấy, tôi đã thấy gã đứng ở giữa đường.
Khi hai cánh tay dài ngoằng của gã điệu bộ vung lên đẩy lùi một chướng ngại vô hình nào đó, bầy sói bỗng lùi dần ra. Đúng lúc ấy, mặt trăng bị một đám mây đen khổng lồ kéo đến phủ kín hoàn toàn. Bầu trời lại đen kín như bưng. Khi hai mắt đã quen dần với bóng tối, tôi nhận ra gã đàn ông đang leo lên xe, còn bầy sói thì biến sạch đi đằng nào. Tất cả diễn ra quái đản và đáng ngại đến nỗi tôi không dám nói, cũng chẳng dám có bất cứ một cử động nào. Ánh trăng không xuất hiện trở lại, cuộc hành trình lúc này đối với tôi tưởng chừng sẽ kéo dài đến vô tận. Chúng tôi tiếp tục lên đường. Con đường dường như cứ dốc mãi lên, mặc dù thỉnh thoảng chiếc xe cũng đột ngột lao xuống những đoạn dốc ngắn, để rồi lại lao ngược lên một sườn dốc mới. Trong một tâm trạng mòn mỏi và thất vọng, tôi chợt nhận ra gã xà ích vừa bất ngờ đánh xe vào sân một lâu đài đồ sộ, đổ nát. Những ô cửa sổ cao vút tăm tối không hề lọt ra một tia sáng nào, các lỗ châu mai đen ngòm càng như nối bật lên trên bầu trời lúc này đang nhợt nhạt ánh trăng: mặt trăng lại một lần nữa xuất hiện lập lờ giữa những đám mây trĩu nặng.
 
Chương 2

Nhật ký của Jonathan Harker (tiếp theo)

Ngày 5 tháng 5
Có lẽ là tôi đang thiu thiu ngủ, nếu không thì làm sao tôi lại giật mình trước khung cảnh trong tòa lâu đài cổ. Trong đêm tối, sân lâu đài có vẻ như rộng hơn; vâng, với các lối đi rối rắm và tối tăm dẫn đến các cổng vòm cao vút, dường như mảnh sân còn rộng hơn so với thực tế.
Chiếc xe ngựa dừng bánh kết thúc một cuộc hành trình đầy ấn tượng, gã xà ích xuống trước đỡ tôi xuống sau. Một lần nữa tôi cảm nhận được một sức mạnh ghê gớm từ con người gã. Bàn tay gã giống như một gọng kìm thép có thể bóp nát tay tôi nếu gã muốn. Sau đó, gã đỡ hành lý của tôi đặt xuống đất, gần chỗ tôi đứng, tức là gần ngay một cánh cửa lớn, cũ kỹ, ghim đầy đinh sắt, khuôn cửa được xây bằng các hòn đá tảng. Dù còn rất tối, song tôi vẫn nhận ra các bức chạm khắc trên tấm đá bị thời gian và mưa gió bào mòn đi rất nhiều. Gã đàn ông, sau khi hạ hết hành lý của tôi xuống, lại nhảy tót lên xe, giật cương thúc ngựa ấy mất hút vào một trong những lối nhỏ tối tăm.
Tôi đứng trơ như tượng, chẳng biết phải làm gì. Không có chuông để rung, chẳng có búa để gọi cửa, và cũng không thể có chuyện người ta sẽ nghe được tiếng gọi của tôi sau những bức tường kiên cố hoặc từ những ô cửa sổ đen ngòm kia. Tôi chỉ còn biết chờ đợi, sự chờ đợi đối với tôi lúc này như kéo dài vô tận.
Sự khiếp sợ và nỗi âu lo lại ập đến ám ảnh đầu óc tôi. Vậy là tôi đã đi đến đâu, và sẽ phải gặp những hạng người nào? Tôi đã dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quái gở? Phải chăng chuyện xảy ra với tôi - một thư ký công chứng viên đến đây để lý giải về cuộc mua bán một bất động sản ở gần Luân Đôn - chỉ là một rắc rối bình thường trong đời? Tôi giụi mắt, khẽ bấu vào khắp người để đảm bảo rằng mình vẫn tỉnh táo, bởi trước đó tôi cứ nghĩ mình đang bị ác mộng. Tôi tự nhủ rồi mình sẽ lại mở mắt ra và nhận thấy mình đang ở nhà mình, và rồi ánh rạng đông sẽ dần dần chiết qua cửa sổ phòng mình: đó sẽ không phải là đêm đầu tiên tôi rơi vào một giấc ngủ nhọc nhằn sau một ngày làm việc quá sức Tôi vẫn đang thức! Khi bấu vào người, tôi vẫn cảm thấy đau, đôi mắt tôi đã không hề lừa tôi một chút nào! Tôi vẫn hoàn toàn tỉnh táo và đang đứng trước một tòa lâu đài ở vùng Carpates! Chỉ còn việc duy nhất phải làm: kiên nhẫn chờ đợi một ngày mới.
Đang mải nghĩ, tôi chợt giật mình vì nghe thấy tiếng bước chân nặng nề sau cánh cửa lớn, cùng lúc đó là một vệt sáng hắt qua khe cửa, rồi tiếng tháo xích loảng xoảng, tiếng rút chốt cửa ken két. Tôi còn nghe thấy tiếng chìa khóa xoay khó nhọc trong ổ khá lâu (có lẽ lâu lắm rồi ổ khóa này không được sờ đến?) trước khi cánh cửa lớn hé mở.
Đứng trước mặt tôi là một lão già cao lớn, mày râu nhẵn nhụi (trừ hàng ria mép trắng như cước là vẫn để dài), ăn mặc từ đầu xuống chân chỉ một màu đen, đen hoàn toàn, không có một chấm màu nào khác, dù là rất nhỏ. Lão cầm trên tay một cây đèn bạc cổ không có bóng thủy tinh, ngọn lửa đảo điên trong không khí hắt ra những cái bóng run rẩy xung quanh. Lão mời tôi vào bằng một điệu bộ rất lịch sự, và nói với tôi bằng một thứ tiếng Anh hoàn hảo, chỉ có điều giọng lão nghe cứ lạ lạ :
- Hoan nghênh ngài đã đến với tôi! Mời ngài cứ tự nhiên cho!
Lão đứng nguyên tại chỗ như một pho tượng, cứ như cử chỉ đầu tiên mà lão vừa dành để đón tiếp tôi đã biến lão thành một khối đá. Tuy nhiên, lúc tôi bước qua ngưỡng cửa, lão đã lập tức nắm chặt lấy tay tôi với một sức mạnh ghê gớm khiến người tôi run lên vì đau điếng. Bàn tay lão cũng lạnh như nước đá, nó giống với bàn tay của một xác chết hơn là của một người sống. Lão nhắc lại :
- Hoan nghênh ngài đã đến với tôi! Mời ngài cứ tự nhiên, đừng sợ gì cả và hãy để lại đây một chút gì may mắn mà ngài đã mang theo!
Sức mạnh của bàn tay lão làm tôi chợt nhớ tới bàn tay của gã xà ích mà tôi chưa một lần được nhìn rõ mặt; tôi tự hỏi kẻ đang nói chuyện với tôi có phải là gã hay là một ai khác. Tôi mạnh dạn hỏi :
- Bá tước Dracula?
Lão già nghiêng mình nhã nhặn đáp lời.
- Vâng, tôi chính là bá tước Dracula, chúc mừng ngài đã đến với tôi, thưa ngài Harker. Mời vào, mời vào. Đêm hơi lạnh. Chắc ngài cũng cần được nghỉ ngơi và lót dạ một chút gì đó...
Vừa nói, lão vừa đặt cây đèn lên một góc giầm chìa ra trên tường, rồi bước ra khỏi ngưỡng cửa lấy số hành lý của tôi trước khi tôi kịp ngăn lại. Lão xách cả vào trong hành lang.
Tôi định mở miệng phàn nàn thì lão vội nói liền một mạch khiến tôi không có cơ hội để nói.
- Đừng nói gì cả, thưa ngài, ngài là khách mời của tôi kia mà. Bây giờ cũng muộn rồi, đám gia nhân của tôi đã đi ngủ cả. Cho phép tôi được đích thân dẫn ngài về phòng nhé.
Chủ nhà cố nhấn giọng như muốn xách va ly hộ tôi bằng mọi giá. Lão đi qua hành lang, leo lên một cầu thang xoáy trôn ốc rồi đến một hành lang được lát toàn bằng đá khiến cho tiếng mỗi bước chân cứ ngân dài mãi không dứt. Đi hết dãy hành lang, lão đẩy một cánh cửa nặng nề, mở ra một căn phòng thật dễ chịu đối với tôi lúc này: một căn phòng có ánh đèn, có bàn để ăn xúp và đang bập bùng ánh lửa cháy trong một gian lò sưởi đường bệ.
Bá tước Dracula đặt hành lý của tôi xuống, khép cửa, bước qua phòng và đi về một ô cửa khác mở sang một phòng bát giác nho nhỏ đang được chiếu sáng bởi duy nhất một ngọn đèn; tôi không trông thấy một ô cửa sổ nào trong đó. Lão chủ nhà bước qua phòng bất giác mở tiếp một cánh cửa khác và mời tôi vào bên trong. Chà! Quả là một khung cảnh dễ chịu! Đó là một phòng ngủ rộng rãi, đèn sáng choang và cũng được sưởi ấm nhờ những khúc củi trong lò sưởi. Rõ ràng chỉ vừa mới được đất lên, nhưng lò sưởi đã cháy rất đượm. Lão bá tước mang va ly của tôi vào phòng này rồi rút lui. Trước khi khép cửa, lão còn dặn tôi :
- Sau một hành trình vất vả, chắc là ngài cũng muốn nghỉ ngơi một chút và thay quần áo cho dễ chịu. Hy vọng ngài sẽ tìm thấy ở đây tất cả những gì ngài muốn. Khi nào xong xuôi, ngài có thể sang phòng bên. Bữa đêm đang chờ đợi ngài.
Ánh lửa bập bùng, không khí nồng ấm, và cả cái vẻ nhã nhặn của bá tước dường như đã làm cho tôi quên hết mọi nỗi phiền muộn. Tôi chợt nhận ra mình đang đói muốn chết. Rửa ráy qua loa, tôi bước ngay sang phòng bên cạnh như bá tước vừa mời.
Bữa đêm đã được chuẩn bị đâu ra đấy. Chủ nhà đang đứng tựa vào lò sưởi.
Thấy tôi, lão chỉ vào bàn và bảo, giọng thật tử tế.
- Mời ngài cứ ngồi vào chỗ và dùng bữa tùy thích. Hy vọng ngài sẽ thứ lỗi nếu như tôi không cùng chung bữa với ngài, sau khi ăn tối rồi, tôi không thể ăn thêm được gì nữa.
Tôi đưa lá thư được dán kín mà ông Hawkins đã nhờ tôi cầm hộ cho lão. Lão lập tức mở thư ra đọc, vẻ rất trang nghiêm. Đọc xong, lão mỉm cười trả lại tôi lá thư. Trong lá thư có một đoạn làm tôi cảm thấy thật vui :
Tôi thật sự lấy làm tiếc vì căn bệnh thống phóng lại một lần nữa tấn công tôi khiến tôi không thể lên đường vào lúc này, và tôi sợ rằng nó sẽ níu chân tôi trong một thời gian dài. Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy thật may mắn khi gửi đến ngài một đại diện mà tồi hoàn toàn tin cậy. Đó là một thanh niên tràn đầy nghị lực, hoàn toàn hiểu biết về công việc. Tôi xin được nhắc lại, chúng ta có thể tin tưởng ở anh ta. Hơn nữa, anh_ta còn là người kín đáo, và tôi có thể nói rằng anh ta đã trưởng thành trong văn phòng của tôi. Trong thời gian ở nhà ngài, anh ta sẽ tuân theo sự sắp xếp của ngài mỗi khi ngài cần, và mọi việc đều do ngài chỉ giáo....
Bá tước rời lò sưởi để đích thân tới mở vung một món ăn cho tôi. Lát sau, tôi được nếm một chú gà quay mà tôi cho là một mỹ vị thực sự. Thêm vào đó là một chút pho mát, một đa sa lát, và hai cốc rượu Tokay lâu đời. Trong bữa ăn, bá tước hỏi rất nhiều về cuộc hành trình của tôi. Tôi lần lượt kể lại những chuyện mà tôi thấy là kỳ quái đã xảy ra suốt dọc đường. Bá tước có vẻ rất chăm chú lắng nghe.
Lúc kể hết chuyện cũng là lúc tôi ăn xong bữa. Chủ nhà bảo tôi ra ngồi vào một chiếc ghế tựa gần lò sưởi và mời tôi một điếu xì gà với một lời xin lỗi là lão không thể hút cùng. Quả thực đây là dịp đầu tiên tôi có thể quan sát kỹ con người lão những nét nổi bật trên bộ mặt lão đã đập vào mắt tôi.
Chiếc mũi khoằm khiến lão thật sự có một dáng vẻ của một con diều hâu; lão có một vầng trán cao, gồ, mái tóc lưa thưa trên đỉnh nhưng lại mọc rất đầy xung quanh đầu; cặp lông mày rậm mọc gần như giao nhau ở phía trên sống mũi, các sợi lông mọc dài, rối rắm, tạo nên một cảm tưởng là nó quăn tít. Cái miệng lão, hoặc ít nhất là cái mà tơi nhìn thấy dưới hàng ria mép to tướng, không sao giấu được vẻ gì đó thật tàn ác; còn hai hàm răng, dù trắng tinh, nhưng cái nào cái nấy đều nhọn hoắt và mọc chìa ra cả ngoài cặp môi đỏ chót - điều chứng tỏ một sức sống phi thường ở một người trạc tuổi lão. Song hai tai lão lại xám ngoét một màu chì và nhọn như tai chuột; chiếc cằm rộng cũng cho thấy sức mạnh của lão; và đôi má, dù hõm sâu vào, trông vẫn còn rất rắn chắc. Một nước da xanh nhợt nhạt đến lạ thường, đó chính là cái cảm giác chung mà bộ mặt lão đã để lại trong tôi.

Tất nhiên tôi cũng để ý kỹ hai bàn tay đang đặt trên hai đầu gối lão. Dưới ánh lửa chập chờn, trông chúng có vẻ trắng và mảnh mai hơn, nhưng khi nhìn gần, tôi lại thấy một điều ngược lại: trông chúng thật thô thiển với các ngón tay ngắn như một nải chuối mắn. Điều làm tôi kinh ngạc nhất là trên các mu bàn tay lão đều có một lớp lông bao phủ và mặc dù các ngón tay đều ngắn củn, nhưng các móng tay lại rất dài và mảnh, tất cả đều được cắt tỉa nhọn hoắt. Khi lão nghiêng người xuống, tôi không thể tránh khỏi cảm giác rùng mình. Hơi thở của lão có mùi ghê quá, đến nỗi khiến tôi nôn nao hết cả người mà không thể giấu được. Chắc là bá tước đã nhận ra sự khó chịu của tôi, bởi tôi thấy lão vừa rụt người lại vừa nở một nụ cười quái gở, để nhe hẳn ra những chiếc răng vổ Lão quay trở lại gần lò sưởi. Chúng tôi giữ im lặng một lúc khá lâu. Bất giác, tôi ngước mắt nhìn lên cửa sổ: những ánh ban mai đầu tiên đã xuất hiện. Bầu không khí im lặng dường như đang đè nặng lên mọi thứ. Tuy nhiên, khi chú ý lắng nghe, tôi vẫn có cảm tưởng như mình đang nghe thấy tiếng chó sói tru văng vẳng trong thung lũng. Đôi mắt chủ nhà sáng lên long lanh, lão nói với tôi :
Ngài có nghe thấy gì không? Chúng là những đứa con của đêm tối... Chúng đang làm nên một bản nhạc!
Dường như đọc được sự ngạc nhiên trên nét mặt tôi, lão nói tiếp :
- Chà! Thưa ngài! Những người dân thành thị như ngài sẽ chẳng bao giờ bày tỏ được cảm xúc của một kẻ đi săn...
Nhưng như sực nhớ ra điều gì, lão đứng bật đậy.
- Có lẽ ngài cũng đã mệt rồi. - Lão nói. - Phòng ngủ của ngài đã được chuẩn bị xong, và ngày mai ngài có thể dậy vào bất cứ lúc nào tùy thích. Còn tôi, tôi có việc bận phải vắng mặt đến chiều. Ngài cứ ngủ cho thỏa thích, chúc ngài có những giấc mơ đẹp!
Lão mở cửa phòng bát giác, rồi cúi người lịch sự lúc nào cũng rất lịch sự - mời tôi bước qua. Tôi về phòng chuẩn bị ngủ bù...
Tôi chìm ngập vào một biển cả của những mối nghi ngờ, sợ hãi..., rồi nghĩ ra đủ thứ quái lạ, kỳ quặc mà thậm chí chính tôi cũng không dám tìm ra một câu trả lời sáng tỏ. Lạy Chúa, cầu mong cho đó chỉ là những ảo giác nhất thời!
* * * * *
Ngày 7 tháng 5
Lại một buổi sáng nữa. Tôi bắt đầu cảm thấy khỏe khoắn trong người sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ bình yên. Tôi có thể dậy muộn tùy thích. Ngày đầu tiên, sau khi đã ăn mặc chỉnh tề, tôi hăm hở bước sang phòng mà hôm trước tôi đã ngồi ăn đêm; bữa điểm tâm của tôi được dọn sẵn cùng với ly cà phê đặt bên lò sưởi nghi ngút khói thơm. Trên bàn ăn, tôi thấy một mẩu giấy ghi mấy chữ :
Tôi có việc phải vắng mặt. Xin ngài đừng chờ. D.
Vậy là tôi có thể tự nhiên dùng điểm tâm. Xong bữa, tôi đưa mắt tìm chuông gọi người hầu đến dọn bàn nhưng không thấy chuông đâu cả. Nhìn đống của cải quý giá được bày rải rác khắp nhà, tôi khó có thể không ngạc nhiên khi thấy thiếu những đồ vật đơn giản nhưng hữu ích khác. Bộ đồ ăn bằng vàng được chạm trổ tinh vi chắc chắn là có một giá trị rất lớn. Các tấm rèm cửa đều được may bằng những loại vải lộng lẫy và xa hoa nhất, ngay cả lớp màn trướng ở giường ngủ của tôi cũng vậy. Tất cả các loại ghế tựa, ghế bành trong nhà cũng được bọc bằng các tấm vải thượng hạng. Dù đã trải qua nhiều thế kỷ, song các tấm ghế ở đây đều vẫn giữ được trạng thái ban đầu; tôi cũng đã từng được nhìn thấy những chiếc ghế tương tự trong Điện Hampton, nhưng phần lớn đều đã ọp ẹp hoặc bị chuột bọ cắn nát lung tung. Tuy nhiên, chẳng có phòng nào trong tòa nhà này có gương. Ngay cả trên bàn tôi cũng không có lấy một mảnh, vì vậy, mỗi khi cần cạo râu hay chải tóc, tôi lại phải dùng tới mảnh gương nhỏ xíu gắn ở túi du lịch. Đến đám gia nhân cũng thiếu nốt ít nhất là cho tới lúc này tôi vẫn chưa trông thấy một bóng ai ngoài ngưỡng cửa. Còn một điều nữa cũng thật kỳ lạ: kể từ khi tới đây, tôi chưa hề nghe thấy một tiếng động nào, dù là nhỏ nhất, ngoài những tiếng kêu thê thảm xa xôi của bầy chó sói. Sau bữa ăn, tôi rất muốn đọc một cái gì đó; tôi không muốn khám phá lâu đài khi chưa xin phép bá tước.
Nhưng trong phòng tôi ở lại không có sách, không có báo, cũng chẳng có gì là chữ nghĩa cả. Tức mình, tôi đẩy bừa vào một cánh cửa, và thật bất ngờ khi đó chính là cánh cửa của một phòng thư viện. Tôi thử mở một cánh cửa khác nằm đối diện với cánh cửa tôi vừa bước vào nhưng không được, vì nó đã bị khóa chặt.
Thật đáng ngạc nhiên khi tìm thấy ở đây vô số sách tiếng Anh xếp kín cả các tầng giá cũng như nhiều bộ sưu tập tạp chí và họa báo. Trên chiếc bàn đặt giữa phòng cũng bày kín các loại báo và tạp chí viết bằng tiếng Anh, nhưng tất cả đều đã cũ Trong thư viện có đủ loại sách viết về các chủ đề khác nhau: lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế chính trị, thực vật học, địa chất học, luật pháp; và đặc biệt là tất cả đều liên quan đến nước Anh, đến cuộc sống và phong tục của người Anh!
Tôi đang mãi kiểm tra các đầu sách thì cánh cửa bật mở, bá tước bất ngờ xuất hiện, lão chào tôi một cách rất chân tình và hỏi thăm giấc ngủ của tôi đêm qua có ngon không.
- Tôi rất lấy làm hân hạnh khi được thấy ngài vào thư viện. - Lão nói. - Tôi tin chắc rằng tất cả những gì trong này đều sẽ làm cho ngài cảm thấy thú vị. Đối với tôi, những cuốn sách trên giá vừa nói lão vừa vuốt ngang gáy các cuốn sách đều là những người bạn quý; từ mấy năm nay, tức là từ khi tôi nảy ra ý định tới Luân Đôn, các cuốn sách này đã cho tôi những giờ phút thực sự thú vị! Chúng cho tôi biết về đất nước tươi đẹp của ngài và hiểu biết về nước Anh chính là yêu đất nước Anh. Sao mà tôi thèm được dạo chơi giữa những đám đông đi trên đường phố Luân Đôn - một thành phố oai nghiêm vĩ đại, được lạc vào giữa tiếng ồn ào của các quý ông quý bà, được chia sẻ sự tồn vong của dân tộc ấy và chia sẻ tất cả những gì đang xảy ra cùng họ đến thế! Nhưng than ôi? Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chỉ được biết ngôn ngữ của các ngài qua những cuốn sách này mà thôi. Hy vọng rằng ngài sẽ dạy tôi cách nói tiếng Anh, ông bạn thân mến ạ?
- Nhưng thưa bá tước, - Tôi đáp lại - ngài khiêm tốn quá đấy thôi, thực ra ngài đang nói tiếng Anh rất chuẩn đấy chứ?
Lão nghiêng mình, vẻ mặt rất nghiêm trọng :
- Cám ơn ông bạn; ngài cứ đánh giá quá cao, chứ thực ra còn lâu tôi mới đạt được mục tiêu của mình. Đúng là về từ vựng và ngữ pháp thì tôi nắm rất vững, nhưng còn khoản nói năng thì vẫn chưa đâu vào đâu cả!
- Tôi xin được nhắc lại là ngài nói rất hoàn hảo!
- Không đúng, không đúng... Tôi thừa biết nếu sống ở Luân Đôn, khi nghe tôi nói, sẽ chẳng có ai cho rằng tôi là một người Anh đâu. Chính vì vậy mà sự hiểu biết của tôi về Anh ngữ vẫn còn khiếm khuyết. Có thể ở đây tôi là một kẻ quý phái, một nhà quý tộc, các mọn dân đều biết tôi. Đối với bọn họ, tôi luôn là một lãnh chúa. Nhưng để trở thành người dân ở một nước ngoài, thì tôi coi như không tồn tại: tất cả những gì tôi muốn, đó là được coi như một người giống như bao người khác, là sẽ không có ai dừng lại nhìn tôi hoặc ngắt quãng câu chuyện khi nghè tôi nói, để rồi buông ra một câu nhạo báng: “Ồi! Thì ra là một người ngoại quốc!”. Tôi từng làm thầy trong bấy nhiêu năm mà tôi muốn, ít nhất là như vậy, nhưng tôi lại không thích ai làm thầy của mình... Ngài đã đến đây không chỉ là một nhân viên làm việc cho ông bạn Peter Hawkins để lo công việc liên quan đến chuyện nhà cửa của tôi ở Luân Đôn, hy vọng ngài sẽ lưu lại đây dài dài, và như vậy qua các cuộc đàm thoại, tôi sẽ được làm quen với âm điệu tiếng Anh. Tôi sẽ đề nghị ngài phát hiện các lỗi, dù là nhỏ nhất, mà tôi sẽ mắc phải trong lúc nói chuyện. Tôi rất lấy làm áy náy khi đã đi vắng quá lâu như ngày hôm nay, chắc là ngài sẽ thứ lỗi, có đúng thế không ạ, nếu như tôi nói với ngài rằng hôm nay tôi phải lo rất nhiều việc quan trọng.
Dĩ nhiên tôi phải trả lời mình không hề bận tâm về chuyện đó, mà điều tôi muốn lúc này là được phép vào thư viện mỗi khi thích vào.
- “Chắc chắn là được chứ” - Lão đáp lại khi tôi xin phép, rồi lão nói thêm - “Ngài có thể đi bất cứ chỗ nào ngài muốn trong lâu đài này, trừ các phòng ngài thấy cửa khóa và tất nhiên là cả những nơi mà ngài không muốn đặt chân đến. Ở đây mọi cái đều có lý do cho sự tồn tại nguyên trạng của chúng, và nếu ngài cũng biết cái điều mà tôi biết thì tức là ngài đã hiểu thấu đáo mọi việc ở đây rồi đấy”.
Tôi nói rằng mình không nghi ngờ gì về điều đó. Nghe vậy, lão tiếp tục thuyết giảng :
- Chúng ta đang ở Transylvanie, và Transylvanie không phải là nước Anh. Phong tục, tập quán của chúng tôi không phải là của các ngài, do vậy sẽ có rất nhiều điều khác lạ đối với ngài. Tuy nhiên, nếu như căn cứ vào những gì ngài đã kể cho tôi nghe về các vướng mắc trong suốt cuộc hành trình tới đây của ngài, thì tôi dám chắc điều tôi vừa nói sẽ không hề làm cho ngài ngạc nhiên.
Lời bóng gió của bá tước đã tiếp thêm hứng thú cho cuộc nói chuyện; khi nhận thấy lão đang thích nói chuyện, tức là lão muốn nói chuyện chỉ vì ham thích đàm thoại, tôi đã đặt ra cho lão nhiều câu hỏi về những gì tôi có thể lưu ý ở đất nước lão, hoặc về những gì tôi đã phải trải qua. Thỉnh thoảng lão cũng né tránh vấn đề hoặc lái câu chuyện sang một hướng khác với lý do là lão không hiểu điều tôi muốn nói. Nhưng nói chung, lão đều trả lời thẳng vào các câu hỏi của tôi Sau một lúc khá lâu, khi đã cảm thấy yên tâm hơn, tôi mới bắt đầu nói về cái đêm rùng rợn mà tôi đến lâu đài và đề nghị lão giải thích: giữa một mớ sự việc, tại sao tên xà ích lại nhảy xuống xe mỗi khi hắn trông thấy một ánh sáng xanh lè, và tại sao hắn cứ đi thẳng về phía có ánh sáng ấy. Lão cho tôi hay rằng theo tín ngưỡng dân gian Transylvanie, vào một đêm nào đó trong năm - đêm mà các quỷ thần được cho là bá chủ thế giới người ta sẽ thấy một ánh lửa màu xanh hiện lên đúng ở chỗ nào có chôn giấu một kho báu dưới lòng đất.
- Chắc chắn lão tiếp tục câu chuyện là có một kho báu được chôn ở nơi ngài đã đi qua tối hôm ấy, bởi đây chính là một mảnh đất mà người Wallach, người Saxon và người Thổ đã tranh chấp trong nhiều thế kỷ. Quả thực, nơi đây không có một thươc đất nào không nhuốm máu của những người yêu nước và của cả những kẻ xâm lược. Đó là một thời kỳ dị thường. Các bộ lạc người Áo và người Hung luôn đe dọa chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi, già cũng như trẻ, gái cũng như trai, tất cả đều dũng cảm chống lại quân thù. Họ bám vào các ngọn núi, vách đá chờ đợi, phục kích và từ những đỉnh cao này, họ đã làm nên những trận long núi, lở đất chôn vùi quân xâm lược. Nhưng cuối cùng thì quân thù vẫn ngoan cố vượt qua. Mặc dù vậy, chúng gần như chỉ thấy vườn không nhà trống ở đất nước này, bởi người dân dã chôn giấu dưới lòng đất mọi thứ mà họ có.
- Nhưng tại sao - Tôi hỏi - những của cải ấy được cất giấu lâu đến như vậy, trong khi những đốm sáng xanh lại chỉ rõ vị trí cất giấu cho những người chẳng lẽ chỉ muốn duy nhất một điều là chịu khó ngồi nhìn chúng thôi sao?
Lão bá tước bật cười, nhe cả hàm răng dài và nhọn hoắt :
- À! Người mà ngài nói đến chắc chắn là một kẻ ngu ngốc và nhút nhát! Như tôi đã nói, những đốm lửa ấy chỉ xuất hiện vào một đêm duy nhất trong năm - chỉ một đêm thôi nhé và vào đêm đó, sẽ không có một người nào ở xứ này muốn thò mũi ra khỏi cửa, trừ trường hợp bắt buộc phải làm thế. Và ông bạn thân mến ạ, xin hãy tin tôi đi, nếu như bước chân ra khỏi cửa, thì có lẽ người đó chỉ còn biết... Người mà ngài vừa nói ỉ ôi, tức là người đã không thể tìm lại được những điểm mốc mà anh ta đã định ra. Kể cả ngài cũng vậy, tôi thề đấy, ngài sẽ không thể tìm thấy những chỗ mà ngài đã trông thấy những đốm lửa ấy đâu!
- Đúng thế, tôi đáp lại, nếu như lao vào cuộc tìm kiếm, có khi tôi còn rước họa vào thân ấy chứ!
Sau đó chúng tôi quay sang nói chuyện khác.
- Nào, - Bá tước nói - bây giờ ngài hãy cho tôi biết tin về Luân Đôn và tất cả các chi tiết mà ngài có thể cung cấp về ngôi nhà các ngài định mua cho tôi đi.
Tôi xin lỗi về sự vô ý của mình và xin phép về phòng tìm giấy tờ hợp đồng.
Trong lúc sắp xếp giấy tờ, tôi chợt nghe thấy có tiếng lách cách của đồ sứ và kim, loại ở phòng bên cạnh và khi đi qua đó, tôi thấy bàn ăn đã được dọn sạch, đèn đã được thắp sáng, bởi lúc này trời cũng sắp tối rồi. Các ngọn đèn trong thư viện cũng được thắp sáng, bá tước đang nằm đọc sách, trên ghế trường kỷ. Giữa một đống bao nhiêu đầu sách, lão chọn cuốn Sách chỉ dẫn về nước Anh của Bradshaw. Thấy tôi vào, lão buông sách đứng dậy dọn sạch đống sách báo vứt ngổn ngang trên bàn. Chúng tôi bắt tay vào kiểm tra toàn bộ kế hoạch và các con số ghi trong số giấy tờ mà tôi vừa cầm sang. Mọi chi tiết đều làm lão thực sự quan tâm, lão luôn mồm hỏi tôi về ngôi nhà, về vị trí của nó cũng như cảnh quan xung quanh. Về điểm này, chắc chắn là lão đã nghiên cứu rất tỉ mỉ, bởi tôi nhận thấy có những điều lão còn biết rõ hơn cả tôi. Thỉnh thoảng tôi lại phải khéo khen về sự hiểu biết của lão.
- Nhưng ông bạn ạ, - Lão nói - chẳng lẽ làm như vậy lại không cần thiết cho tôi sao? Khi tới đó, tôi chỉ có một mình và ông bạn Harker Jonathan thân thiết...
Ồi! Xin lỗi nhé, ở xứ này, chúng tôi thường có thói quen gọi tên trước họ... ông bạn Jonathan Harker thân thiết của tôi không phải lúc nào cũng ở gần để giúp tôi những lời khuyên và kiến thức bổ ích... Không... Trong thời gian đó, ở Exeter, nơi cách Luân Đôn nhiều dặm đường, ông ta đang bận túi bụi với các công việc công chứng cùng với một người bạn khác của tôi là Peter Hawkins.
Thế đấy!
Khi đã rõ tất cả các chi tiết liên quan tới việc mua tậu miếng đất ở Purfleet, ký vào các giấy tờ cần thiết và viết xong lá thư gửi cho ngài Hawkins, lão chợt hỏi làm thế nào mà tôi lại tìm dược một bất động sản dễ chịu đến thế. Tôi còn biết làm gì tốt hơn là đọc cho lão nghe những lời chú giải mà tôi đã ghi lại?
“Khi đi theo một con đường rẽ từ đường lớn ở Purfleet, tôi đến trước một tòa nhà mà tôi thấy có vẻ phù hợp với khách hàng của chúng tôi. Ở đó có dán một tờ yết thị cũ xỉn thông báo rằng ngôi nhà đang được rao bán. Đó là một ngôi nhà tường bao quanh được xây bằng đá tảng, không được tu bổ từ nhiều năm nay. Các cánh cửa đều dược làm bằng gỗ sồi già và tất cả đồ sắt thép đều đã han rỉ.
Ngôi nhà này có tên là Carfax, một cái tên theo ngôn ngữ cổ có nghĩa là “tứ bề”, bởi ngôi nhà có bốn mặt tương ứng với bốn phương trời. Toàn bộ ngôi nhà có diện tích khoảng hai mươi mẫu và như tôi đã nói, tất cả đất đai đều được bao quanh bởi các bức tường đá kiên cố. Cây cối ở đây nhiều đến nỗi phủ bóng xuống mọi chỗ, ao trong vườn rất sâu và chắc hẳn phải được bổ sung từ nhiều nguồn, bởi nước ở đó rất trong, nước ao chảy xa hơn tạo thành một dòng suối khá rộng. Ngôi nhà trông rất đồ sộ và chắc chắn là được xây từ thời Trung cổ.
Một phần ngôi nhà quả thực là được xây bằng những phiến đá khá đầy, những cửa sổ hiếm hoi mà người ta thấy trên tòa nhà đều được đặt ở vị trí cao và được bảo vệ bằng các thanh sắt nặng nề, có lẽ ngày xưa đây là một vọng lâu- Kề sát bên cạnh là một nhà thờ nhỏ. Không có chìa khóa nên tôi không thể vào nhà thờ riêng này được. Nhưng tôi đã chụp ảnh từ nhiều góc độ. Gian thờ chắc hẳn phải được xây muộn hơn và tôi không thể ước lượng được các số đo. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Ở các khu vực lân cận chỉ có vài ngôi nhà khác, trong đó có một ngôi nhà rất lớn hiện đang được sử dụng làm nhà thương cho các bệnh nhân tâm thần. Tuy nhiên, từ điền địa Carfax không thể nhìn rõ được dưỡng đường này”.
Đợi tôi đọc xong, bá tước mới cho hay là lão thích tòa dinh thự mới ấy ở điểm nào.
- Sự rộng rãi và vẻ cổ kính của ngôi nhà làm tôi rất vừa ý - Lão lý giải - Bản thân tôi cũng thuộc về một dòng tộc cổ xưa và sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ phải về nơi suối vàng khi đã về sống trong một ngôi nhà mới. Không phải trong một sớm một chiều là ngôi nhà ó thể ở được. Tôi cũng rất hài lòng khi được biết ở đó có một nhà thờ nho, bởi với tư cách là nhìn nhà quý tộc Translvanle, chúng tôi thật chẳng dễ chịu chút nào khi nghĩ rằng hài cốt cửa mình lại bị chôn lẫn với hài cất của những kẻ thấp hèn hơn. Về phần mình, tôi không còn hứng thú để đi tìm niềm vui và sự sung sướng nữa. Tối cũng chẳng chờ đợi cáỉ hạnh phúc mà đất trời vẫn dành cho đám thanh niên. Đơn giản là vì tôi không còn trẻ nửa!
 
Trái tím tôi, một trái tim đã từng trải qua những năm dài khóc thương cho thân phận của những kẻ dưới mồ, không còn bị rung động bởi dục vọng. Mặt khác, các bức tường trong lâu đài của tôi cũng đã bắt đầu đổ nát, gió mưa cứ thi nhau lùa vào từng ngõ ngách. Và tôi cũng xin thú thực là tôi yêu những cái bóng và tất cả những gì là u tối, chẳng có gì làm tôi thích hơn là được ở một mình với những suy ngẫm của riêng mình.
Lời nói của lão có vẻ như mâu thuẫn với sắc mặt của lão hoặc nói cách khác, các nét trên bộ mặt lão đã tạo ra cho một vẻ gì đó mà tôi không biết nên gọi là độc ác hay tăm tối nửa!
Lát sau, lão xin cáo lui và đề nghị tôi gom tất cả các giấy tờ lại. Đoán chừng lão sẽ không sớm quay trở lại, tôi tranh thủ xem lướt qua các đầu sách... Mắt tôi dừng lại ở một quyển tập bản đồ, tất nhiên là đang mở ở bản đồ nước Anh, và rõ ràng là tấm bản đồ này đã được tra cứu rất nhiều lần. Thậm chí tôi còn thấy trên bản đồ còn đánh dấu nhiều khoanh tròn nhỏ; quan sát kỹ hơn, tôi nhận ra có một đường tròn được khoanh ở phía tây Luân Đôn, đúng vào chỗ có dinh thự mới của lão bá tước; hai vòng tròn khác cho thấy vị trí của hai ngôi nhà ở Exeter và Whitby nằm trên bờ biển Yorkshire.
Lão bá tước quay trở lại thư viện sau gần một tiếng đồng hồ.
- Ơ kìa! - Lão thốt lên. - Vẫn mãi đọc kia à? Bây giờ vẫn còn sớm lắm Nhưng ngài biết đấy, đâu phải lúc hào cũng cần làm việc... Nào, người ta vừa báo cho tôi biết cơm nước của ngài đã sẵn sàng.
Lão nắm tay tôi cùng bước sang phòng bên, nơi món xúp của tôi đã được dọn sẵn. Một lán mùa, lão lại ngỏ lời xin lỗi: lão đã ăn tối ở ngoài rồi. Nhưng cũng như tối hôm trước, lão tới ngồi gần tôi để nói chuyện trong lúc tôi đang ăn.
Lão hỏi tôi hết câu này đến câu khác, mặc dù tôi đã ăn xong từ lâu. Hàng giờ đồng hồ trôi qua, tôi đoán chắc đêm cũng đã khuya lắm rồi, song tôi vẫn không nói gì cả, tôi thấy nhiệm vụ của mình lúc này là vừa lòng chủ nhà mọi điều. Vả lại tôi cũng không hề thích đi ngủ, giấc ngủ dài hôm qua đã làm tôi hoàn toàn khỏe khoắn trở lại sau một chặng đường mệt nhọc. Tuy nhiên, không hiểu sao tôi lại cảm thấy rùng mình cái rùng mình mà người ta thường nghiệm thấy ngay trước buổi bình minh chút ít, và điều này làm tôi nghĩ tới một cơn thủy triều.
Người ta bảo rằng những kẻ hấp hối thường trút hơi thở cuối cùng vào lúc bắt đầu một ngày mới hoặc lúc thủy triều thay đổi. Tất cả những người từng bỏ thời gian chiêm nghiệm cá khoảnh khắc đêm qua ngày tới sẽ dễ dàng hiểu được tôi lúc này. Tôi chợt nghe thấy một tiếng gà gáy lảnh lót, xa xăm gần như ở một cõi siêu nhiên vọng về. Bá tước Dracula đứng bật dậy và thốt lên :
- Cái gì! Đã lại sáng rồi kia à? Xin lỗi vì đã làm ngài phải thức khuya quá! Từ nay trở đi, khi nói về nước Anh, về quê hương mới nhưng đã trở nên rất đỗi thân thiết với tôi, thì xin ngài hãy cố gắng đừng kể ra những chuyện thú vị để tôi không còn quên thời gian trôi qua nữa...
Lão cúi đầu chào tôi rồi bước nhanh ra khỏi phòng.
Trở về phòng song chưa đi ngủ ngay, tôi kéo rèm cửa sổ trông ra ngoài, nhưng chẳng thấy gì hay để mà kể ở đây. Cửa sổ phòng tơi nhìn ra một mảnh sân và tôi chỉ thấy bầu trời xám xịt đang sáng dần lên. Sau khi kéo kín rèm cửa sổ, tôi mới bắt đầu ngồi vào bàn viết những trang này.
* * * * *
Ngày 8 tháng 5
Khi bắt đầu đoạn nhật ký này, tôi cứ sợ mình sẽ lan man dài dòng; nhưng cho tới bây giờ tôi mới cảm thấy mình lo quá xa: tôi có thể dừng lại ở từng chi tiết rõ ràng, bởi ngay từ đầu khi đến lâu đài, mọi cái tôi trông thấy và tất cả những gì xảy ra đều rất kỳ lạ, đến nỗi tôi không thể không cảm thấy khó chịu mỗi khi nghĩ tới chúng. Tôi muốn rời khỏi đây - rời khỏi đây một cách bình yên vô sự và không bao giờ quay trở lại nữa! Có lẽ việc đêm nào cũng thức khuya đã khiến cho hệ thần kinh của tôi phải chịu một thử thách ghê gớm. Tôi có thể chịu đựng được sự tồn tại này nếu ít nhất còn được nói chuyện với một ai khác, nhưng đằng này tuyệt đối không có ai cả, trừ bá tước chủ nhà.
Nếu phải nói ra suy nghĩ tự đáy lòng, thì thú thật tôi đang sợ mình là một linh hồn sống duy nhất ở nơi đây... Vâng, nếu được phép phơi bày các sự việc đúng như bản chất của chúng, thì chắc tôi cũng có thể kiên nhẫn hơn ít nhiều để mà chịu đựng, để mà ngăn lại cái trí tưởng tượng lúc nào cũng phong phú của mình.
Nếu không, tôi như rơi vào hỏa mù cùng với một nỗi tuyệt vọng. Mọi việc hẳn phải diễn ra đúng như những gì tôi cảm nhận được... Ngả lưng xuống giường, tôi chỉ chợp mắt được có vài tiếng rồi tỉnh giấc.
Cảm thấy không thể ngủ được nữa, tôi đứng bật dậy và cầm chiếc gương treo ở then móc cửa sổ chuẩn bị cạo râu. Bất thình lình, tôi cảm thấy có một bàn tay khẽ đặt lên vai mình và tiếp đó là giọng nói của lão bá tước: “Chào một ngày mới tốt lành!” Tôi giật thót người, thật kinh ngạc khi không nhìn thấy lão vào phòng, bởi nhìn qua gương, rõ ràng tôi đã trông thấy toàn bộ chiều dài của căn phòng phía sau lưng mình. Trong lúc giật mình, tôi đã để lưỡi dao khẽ cạo rách cả da mặt, điều mà tôi không kịp nhận ra ngay lúc đó. Khi trả lời bá tước, tôi lại nhìn vào gương cố để tìm hiểu xem làm sao tôi lại có thể nhầm được. Lần này thì không thể có sự nhầm lẫn, tôi biết lão đang đứng rất gần tôi, tôi chỉ cần hơi quay mặt lại là thấy lão đứng sát vai mình, ấy vậy mà hình bóng của lão lại không bị phản chiếu ở trong gương mới lạ chứ! Tất cả những gì phía sau tôi đều hiện lên trong gương, nhưng ở đó chỉ có duy nhất một người đàn ông đó chính là tôi, kẻ đang viết những dòng nhật ký này. Lại một sự việc đáng kinh ngạc khác thêm vào một chuỗi bí ẩn mà tôi không thể hiểu nổi, nó càng làm trầm trọng thêm cái cảm giác khó ở mà tôi đang phải chịu đựng khi có bá tước ở bên cạnh. Rồi tôi cũng chợt nhận ra có vết máu dưới cằm mình. Tôi đặt dao cạo xuống và ngoảnh mặt đi tìm một miếng bông. Nhìn vào mặt tôi, đôi mắt bá tước chợt lóe lên một tia cuồng say độc ác. Bất thình lình, lão chộp lấy cổ tôi. Tôi lùi nhanh ra sau khiến cho tay lão vồ trượt phải chuỗi hạt có treo cây thánh giá nhỏ tôi đang đeo trên cổ. Giây lát trôi qua, trông lão thay đổi rõ rệt, sự điên cuồng trong ánh mắt lão đã tan biến nhanh như lúc nó bất ngờ xuất hiện.
- Ngài hãy coi chừng, - Lão bảo tôi - hãy hết sức cẩn thận khi bị thương. Ở cái xứ sở này, điều đó nguy hiểm hơn là ngài vẫn tưởng...
Cầm lấy cái gương tôi vừa treo trên nóc cửa sổ, lão nói tiếp :
- Nếu như ngài bị thương, thì chẳng qua cũng chỉ tại cái vật khốn nạn này! Nó chỉ làm tăng cái bản chất kiêu căng, hão huyền của con người. Tốt hơn hết là tống khứ nó đi.
Dứt lời, lão mở toang cánh cửa sổ nặng nề ra và liệng ngay chiếc gương của tôi xuống sân cho nó vỡ ra hàng trăm mảnh. Sau đó, chẳng nói chẳng rằng, lão bước nhanh ra khỏi phòng.
Tôi biết cạo râu thế nào bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách: dùng chiếc hộp đồng hồ hoặc dùng đáy hộp chổi cạo râu cũng may đều bằng kim loại thay cho chiếc gương.
Bước sang phòng ăn, tôi thấy bữa điểm tâm của mình đã được chuẩn bị, song không thấy mặt mũi bá tước đâu. Vậy là tôi lại phải ngồi điểm tâm một mình.
Từ khi đến lâu đài đến giờ, tôi vẫn chưa một lần được thấy bá tước ăn hay uống gì. Thật là một lão già cô độc? Sau bữa ăn, tự nhiên tôi lại muốn đi khám phá lâu đài. Tôi đi về phía cầu thang, gần đó có cánh cửa đang mỏ ngỏ dẫn vào một căn phòng, trong phòng chỉ có một ô cửa sổ nhìn về phía nam. Từ nơi này, tôi có thể phóng tầm mắt bao quát một phong cảnh thật rộng lớn. Lâu đài tôi đang đứng được xây ngay trên bờ một vực thẳm hùng vĩ. Một hòn đá được ném xuống từ một cửa sổ của lâu đài sẽ không vướng phải bất cứ một cái gì trong đường rơi của nó. Trong tầm mắt của tôi là một biển cây xanh ngút ngàn, thỉnh thoảng mới hở ra một chỗ mà tôi biết đó là các hốc núi. Tôi cũng nhìn thấy nhiều sợi dây bạc lấp lánh, đó chính là những dòng suối chảy vào các hẻm núi qua cánh rừng đại ngàn.
Nhưng tôi chẳng thấy có hứng thú gì để miêu tả các cảnh đẹp thiên nhiên thần tiên vào lúc này. Bởi vậy, sau một hồi ngắm cảnh, tôi lại tiếp tục cuộc khám phá của mình. Tôi chỉ thấy những cánh cửa, toàn cửa là cửa, chỗ nào cũng thấy cửa, tất cả đều bị khóa hoặc cài chốt? Không có cách nào ra khỏi đây được, trừ một cách là nhảy qua các cửa sổ nằm chênh vênh trên những bức tường cao vút?
Lâu đài này đúng là một nhà tù, và tôi chính là một tù nhân!




Chương 3

Nhật ký của Jonathan Harker (tiếp theo)

Tù nhân! Khi hiểu ra thực tế đó, tôi tưởng mình phát điên lên được. Tôi hết chạy lên lại chạy xuống các cầu thang, mở thử bất cứ cánh cửa nào tôi gặp, ngó qua tất cả các ô cửa sổ tôi qua. Chỉ được một lát, cái cảm giác bất lực đã dập tắt mọi ý chí của tôi. Sau vài tiếng đồng hồ, thú thực cứ nghĩ đến chuyện mình giống như một con chuột đang giãy, giụa trong lòng tôi lại muốn hóa dại. Tuy nhiên, khi đã hiểu có muốn vùng vẫy cũng chẳng được, tôi bắt đầu bình tĩnh lại để suy nghĩ và tìm cách vượt qua hoàn cảnh. Nhưng vào lúc này, đầu óc tôi chỉ còn biết suy nghĩ mông lung và không thể tìm ra một giải pháp nào. Tôi chỉ biết chắc chắn có một điều, đó là hoàn toàn vô ích khi nói cho bá tước các tình cảm của mình. Hơn ai hết, lão biết tôi là tù nhân ở đây, lão muốn thế và chắc chắn có lý do để làm thế. Bởi vậy, nếu tôi tâm sự với lão, thì rõ ràng lão sẽ không bao giờ thừa nhận sự thực. Vì thế mà tôi nghĩ rằng trước khi làm sáng tỏ một cái gì đó, thì điều cần làm đầu tiên là không được mở mồm nói về những gì mình vừa phát hiện ra, không được để lão nghi ngờ những lo sợ của mình... và lúc nào cũng phải giữ cho nét mặt (lược bình thản. Tôi hiểu rất rõ tình cảnh của mình lúc này: hoặc tôi làm một đứa con nít bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi, hoặc rơi vào một tình thế khó khăn hơn và nếu chấp nhận như vậy thì trong những ngày sắp tới, tôi cần, rất cần có một đầu óc sáng suốt.
Đang mải suy nghĩ, tôi chợt nghe thấy có tiếng khép cửa phía dưới: lão bá tước đã về. Lão không đi ngay vào thư viện. Tôi phải rón rén trở về phòng mình. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy lão đã ở trong đó dọn giường cho tôi? Dù vô cùng kinh ngạc, nhưng điều đó đã giúp tôi khẳng định chắc chắn một điều mà từ khi đặt chân đến lâu đài này đến giờ tôi vẫn nghi ngờ: trong nhà không có người giúp việc. Và lát sau, khi nhìn qua khe cửa, thấy lão đang bày bàn ăn trong phòng ăn, thì tôi chẳng còn gì để mà nghi ngờ nữa, bởi nếu lão có đảm nhận những việc này, thì chẳng qua là lão không có người hầu làm giúp. Tôi rùng mình hoảng sợ khi nghĩ rằng nếu trong lâu đài không còn bất cứ một ai khác, thì gã đánh xe ngựa đón tôi đến đây cũng chính là lão chứ không phải ai khác. Nếu đó đúng là sự thật, thì cái quyền lực mà lão đã làm bằng cách giơ bàn tay lên để buộc đàn sói phải tuân lệnh sẽ nói lên điều gì? Tại sao những người dân ở khách sạn Bistritz và tất cả những người bạn đồng hành trên chiếc xe ngựa đầu tiên lại luôn lo sợ cho tôi đến như vậy? Tại sao họ lại tặng tôi cây thánh giá nhỏ, rồi một nhánh tỏi và cả bông hồng dại nữa? Cầu Chúa hãy ban phước lành cho người đàn bà đôn hậu đã tặng tôi chuỗi hạt có cây thánh giá? Bởi cứ mỗi lần sờ vào cây thánh giá ấy là tôi lại thấy mình như được tiếp thêm sức mạnh và lòng can đảm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cây thánh giá, một vật vô tri vô giác, một vật mà tôi vẫn cho là vô dụng bấy lâu nay, một vật chỉ được xem là biểu tượng của tín ngưỡng, lại ít nhiều cứu giúp tôi khỏi cái cảm giác đơn côi và cùng quẫn. Cây thánh giá nhỏ ấy có một quyền năng nội tại, hay chỉ là một vật làm sống lại những kỷ niệm xưa cũ? Tôi hy vọng là có một ngày, tôi sẽ kiểm nghiệm được vấn đề để đưa ra một lời giải đáp. Trong lúc chờ đợi, tôi buộc phải nắm bắt càng rõ về con người bá tước Dracula càng tốt có thể điều đó sẽ giúp tôi hiểu rõ nhất mọi chuyện đang xảy ra. Và có thể tối nay lão sẽ tự nói ra nhiều điều nếu như tôi có một lời nào đó là cuộc nói chuyện theo hướng này. Tuy nhiên, tôi cũng sẽ phải rất thận trọng để lão không thể nghi ngờ những suy nghĩ trong lòng mình.
* * * * *
Nửa đêm
Tôi có một cuộc nói chuyện rất dài với lão bá tước Tôi hỏi lão mấy câu về lịch sử Transylvanie và được lão giải đáp rất nhiệt tình. Chủ đề tôi hỏi dường như đã làm lão rất thích! Lúc lão kể về cuộc sống, con người, đặc biệt là khi nói về các cuộc chiến, tôi thấy lão hăm hở cứ như đang tham dự chính những sự kiện ấy vậy. Lão bảo vị thế của lão cho thấy một điều: đối với một nhà quý tộc như lão thì vinh quang của dòng họ và của tên tuổi lão chính là niềm kiêu hãnh cá nhân của lão, danh dự của dòng tộc là danh dự của lão và số phận của dòng họ cũng là số phận của lão. Cứ mỗi lần nói về dòng tộc là lão lại xưng “chúng tôi” như các bậc vua chúa vẫn thường dùng. Tôi muốn tái hiện ở đây tất cả những gì lão đã kể, bởi ghi chép cũng là một thú vui riêng của tôi. Có lẽ tôi đã được nghe kể toàn bộ lịch sử của xứ sở Transylvanie. Lão càng kể càng tỏ ra phấn khích hơn, vừa kể, lão vừa đi đi lại lại trong phòng, trong khi tay không quên mân mê hàng ria mép bạc trắng hoặc nắm lấy bất cứ vật nào mà lão chạm tay vào như muốn bóp nát nó ra. Tôi thử ghi lại một phần những gì lão đã kể liên quan tới lịch sử của xứ sở lão.
“Chúng tôi, những người Szekelys, có quyền được tự hào, bởi chúng tôi mang dòng máu của những dân tộc gan dạ và dũng cảm - đã chiến đấu như những con mãnh sư thực sự để bảo vệ ưu thế của mình. Ở cái đất nước luôn láo nháo không biết bao nhiêu sắc tộc Âu châu này, các chiến binh đến từ Băng Đảo đã đem theo tinh thần hiếu chiến mà thần Thor và Wodin đã thổi vào họ, và họ đã mang sự điên cuồng tới mọi bờ biển Âu châu - tất nhiên là Âu châu, nhưng cũng tới cả các bờ biển Á châu và lục địa đen đến nỗi khiến người dân các xứ cứ tưởng mình bị các bầy sói tấn công. Thậm chí khi xâm lược tới đây, các chiến binh đáng ngờ ấy đã biến những người Hung nô nổi tiếng là thiện chiến thành những nạn nhân hấp hối và buộc họ phải thừa nhận rằng trong người các đao phủ ấy có một dòng máu của những phù thủy già, những kẻ đã bị đẩy khỏi Scythie và tới tập trung ở sa mạc với quỷ dữ. Đúng là những kẻ ngu ngốc? Đã bao giờ có phù thủy nào, quỹ dữ nào mạnh bằng Attila, nơi có dòng máu đang chảy trong huyết mạch của chúng tôi chưa” - Gã vừa nói vừa kéo hai ống tay áo lên cho tôi xem. - “Phải thừa nhận chúng tôi là một chủng tộc thiện chiến và biết tự hào, nên có gì đáng ngạc nhiên khi mà người Magyar, người Lombard, người Avard hoặc người Thổ định ào ạt vượt biên giới để thôn tính chúng tôi và đều bị chúng tôi đánh bật trở lại? Có gì đáng ngạc nhiên khi Arpad và đoàn quân của ông ta muốn xâm lược đất mẹ đã bị chúng tôi chặn đứng ở ngay đường biên giới? Thế rồi khi người Hungary định xâm lược ở phía đông, người Magyar chiến thắng đã liên minh với người Szekelys. Từ đó trở đi, trong nhiều thế kỷ, chúng tôi được giao phó nhiệm vụ canh giữ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn nữa, nhiệm vụ của chúng tôi dường như chẳng bao giờ kết thúc, bởi vì, theo châm ngôn của chính người Thổ, thì “cây lặng, nhưng gió chẳng đừng”. Vậy thì trong bốn dân tộc, dân tộc nào được sung sướng nhận “lưỡi gươm đẫm máu” hơn là chúng tôi, dân tộc nào nhanh chóng quần tụ dưới ngọn cờ của đức đại đế khi người kêu gọi chiến đấu hơn chúng tôi? Và khi những ngọn cờ cũng người Wallach và người Magyar bị hạ xuống trước lá cờ lưỡi hái, thì tới khi nào nỗi ô nhục to lớn của đất nước tôi mới được gột rửa? Chẳng phải một trong những người thân thích của tôi đã vượt sông Danube để chiến đấu chống lại người Thổ trên chính mảnh đất của mình đó ư? Vâng, đó chính là một Dracula! Thật đang nguyền rủa một người anh em của anh ta, hắn đã bán cả dân tộc cho những người Thổ, khiến cho bao người phải chịu cảnh ô nhục của kiếp nô lệ! Và cũng chính là một người Dracula vượt sông năm nào đã truyền lại dòng máu yêu nước nồng nàn cho một hậu duệ của mình người sau đó đã vượt sông cùng đội quân của mình sang xâm lược lại Thổ Nhĩ Kỳ? Con người này, sau khi chiến đấu và rút về, đã rất nhiều lần quay trở lại cầm quân, và đã để lại đằng sau một bãi chiến trường ngổn ngang xác binh sĩ, bởi vì ông biết rằng cuối cùng thì cũng chỉ có ông mới dành được chiến thắng! Người đời cho là ông có làm như vậy chẳng qua cũng là vì bản thân ông! Nhưng các đội quân sẽ có ý nghĩa gì nếu thiếu một vị chỉ huy? Cuộc chiến sẽ đi tới đâu nếu như không có một trái tim và một khối óc dẫn đường chỉ lối? Chưa hết, sau cuộc chiến Môhăc, chúng tôi đã đập tan ách thống trị của người Hungari. Chúng tôi, những người Dracula, lại một lần nữa góp mặt trong đội ngũ những vị chỉ huy làm nên chiến thắng này! Chà? Ông bạn trẻ ạ, người Szekelys và người Dracula từng là dòng máu, khối óc và lưỡi gươm của các đội quân - người Szekelys có thể hãnh diện vì đã làm được cái điều mà những kẻ hãnh tiến Hapsburgs và Romanoff không thể làm nổi... Nhưng chiến tranh đã qua rồi. Dòng máu đang được coi là một thứ rất quý trong cái thời bình ô danh của chúng tôi và bây giờ, cái vinh quang thuộc về tổ tiên vĩ đại của chúng tôi chỉ còn là một câu chuyện cổ tích mà thôi”.
Khi lão dừng câu chuyện cũng là khi một ngày mới sắp đến, chúng tôi phải chia tay về phòng ngủ. (Nhật ký của tôi giống câu chuyện Nghìn lẻ một đêm kinh khủng, bởi tất cả đều dừng lại khi có tiếng gà gáy đầu tiên và chắc chắn nó cũng sẽ gợi nhắc tới sự xuất hiện bóng ma của người cha trước mặt chàng Hamlet).
* * * * *
Ngày 12 tháng 5
Tối hôm qua, bá tước Dracula lại đến tìm tôi, vừa mới gặp lão đã lập tức hỏi về một số vấn đề liên quan tới luật pháp và cách xử lý một số vụ việc. Tôi thấy dường như các câu hỏi của lão có một trật tự nào đó, tôi sẽ cố gắng tôn trọng trật tự này khi nhắc lại các câu hỏi ở đây, bởi biết đâu nó lại có ích cho tôi về sau.
Trước hết, lão hỏi tôi là có phải ở Anh, người ta có thể thuê hai hoặc nhiều công chứng viên cùng lúc không. Tôi trả lời rằng nếu muốn thì người ta có thể thuê cả một tá, nhưng người khôn ngoan hơn sẽ chỉ nhờ tới một công chứng viên cho một việc mà thôi, vì nếu nhờ nhiều người cùng một lúc, chắc chắn khách hàng đó sẽ vô tình hành động chống lại các lợi ích của chính mình. Chủ nhà của tôi có vẻ hiểu thấu vấn đề, song lão vẫn thắc mắc nếu thuê một công chứng viên để theo dõi các hoạt động tài chính và một công chứng viên khác lo chuyện tiếp nhận hàng gửi bằng tàu biển trong trường hợp người thứ nhất ở cách xa cảng, thì có gặp trở ngại gì không.
 
Tôi đề nghị lão nói rõ hơn vì sợ mình sẽ giải thích sai ý của lão. Lão nói :
- Thế này nhé! Chúng ta hãy giả định thế này: ông bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, trú ở Exeter, một nơi nằm cách xa Luân Đôn, qua vai trò trung gian môi giới của ngài, mua cho tôi một dinh thự ở thành phố này. Thế! Bây giờ tôi xin được trình bày thẳng vấn đề - bởi ngài có thể buồn cười về việc tôi nhờ một người ở xa Luân Đôn như vậy làm cái việc đó mà không nhờ ngay một người ở tại Luân Đôn - rằng tôi không muốn có bất cứ một vụ lợi cá nhân của ai đó cản trở lợi ích của tôi. Thế mà trong cuộc giao dịch như vậy, một công chứng viên Luân Đôn rất có thể bị cám dỗ bởi vụ lợi Cá nhân hoặc sẽ tiếp tay cho một ai đó làm tiền; tôi xin nhắc lại, người đó sẽ giúp tôi đạt được các lợi ích của tôi một cách tốt nhất. Bây giờ chúng ta hãy đặt giả thiết rằng tôi, người bận rất nhiều việc, nhưng lại muốn gửi hàng, ví dụ tới Newcastle, hoặc tới Durham, Harwich hay Douvres, thì việc tôi nhờ một nhà kinh doanh trú quán ở một trong các cảng trên có dễ dàng không?
Tôi trả lời rằng chắc chắn công việc lúc đó sẽ không còn đơn giản nữa, song các công chứng viên đã tạo ra giữa họ một mạng lưới văn phòng cho phép thu xếp các công việc ở địa phương theo đề nghị của bất kỳ cá nhân công chứng viên nào, vì vậy khách hàng có thể gửi gắm mọi quyền lợi của mình cho duy nhất một người và chẳng cần bận tâm gì hết.
- Nhưng trong trường hợp của tôi, liệu tôi có thể đích thân quản lý công việc được không?
- Tất nhiên là được; - Tôi trả lời - điều đó vẫn thường xảy ra khi đương sự không muốn người khác biết các giao dịch đang diễn ra.
- Tốt - Lão buông cộc lốc một tiếng.
Sau đó lão tiếp tục hỏi tôi cách thức tiến hành gửi hàng hóa, các thủ tục cần phải đăng ký, rồi các khó khăn thường gặp nếu như đương sự chưa nghĩ ra các biện pháp đề phòng.
Tôi đưa ra mọi lời giải thích có thể trong khả năng của mình, và nghĩ lão cũng có khả năng thực hiện hoàn hảo cái thiên hướng công chứng viên của lão, bởi chẳng có gì mà lão chưa nghĩ đến và cũng không có gì lão không đề phòng.
Đối với một người chưa bao giờ đặt chân đến nước Anh, và chưa từng trải qua các vấn đề về luật pháp như lão mà lại có một hiểu biết và một đầu óc suy đoán sáng suốt như vậy thì quả là rất đáng ngạc nhiên.
Khi đã có đủ các thông tin tư vấn như mong muốn, và khi thấy tôi kiểm tra lại một số điểm trong các cuốn sách đặt bên cạnh, lão chợt đứng bật dậy hỏi tôi :
- Sau lá thư đầu tiên, ngài đã viết thêm lá thư nào cho ông bạn Peter Havkins hay một người nào khác chưa?
Tôi bỗng cảm thấy cay đắng ít nhiều khi trả lời lão rằng chưa, rằng tôi chưa có dịp để gửi bất cứ một lá thư nào cho các bạn của tôi.
- Vậy thì bây giờ viết đi, - Lão vừa nói vừa đặt bàn tay làm nặng trĩu vai tôi - hãy viết cho ngài Peter Hawkins hoặc ai đó mà ngài muốn; và làm ơn hãy thông báo va li họ rằng ngài sẽ ở lại đây thêm một tháng nữa, kể từ ngày hôm nay.
- Ngài muốn tôi ở lại đây lâu vậy sao - Tôi hỏi mà rùng mình vì tuyên bố của lão.
- Đúng, tôi muốn thế và tôi sẽ không chấp nhận bất cứ lời từ chối nào. Khi ông thầy, ông chủ... của ngài gửi cho tí một người nào đó nhân danh ông ta, ông đã đồng ý để đi được sử dụng người đó tùy thích cho công việc của tôi... Đừng từ chối? Ngài đồng ý chứ?
Nếu không đồng ý thì tôi còn biết làm thế nào. Trong công việc này, người có quyền lợi là ngài Hawkins chứ không phải tôi, và tôi phải nghĩ tới ông, chứ không được phép nghĩ tới bản thân. Hơn nữa, trong lời nói, ánh mắt và đặc biệt là trong cách cư xử của bá tước Dracula có một cái gì đó khiến tôi sực nhớ rằng tôi đang là tù nhân ở nhà lão rằng dù có muốn đi chẳng nữa, thì tôi cũng không thể rút ngắn thời gian tôi ở lại đây. Lão đã chiến thắng theo cái cách mà tôi phải tự khuất phục; lão thấy qua sự bối rối hiện rõ trên nét mặt tôi, lão đa trở thành ông chủ. Ngay lập tức, lão khai thác cái sức mạnh nhân đôi này bằng cái giọng nhẹ nhàng quen thuộc của lão, cái giọng mà tôi không thể chống lại :
- Trước hết, tôi xem được đề nghị, ông bạn trẻ thân mến ạ, hãy chỉ nói về công việc trong thư. Chắc chắn là các bạn ngài rất muốn biết ngài vẫn khỏe và luôn nghĩ tới ngày trở về bên họ. Điều này, ngài có thể nói với họ một lời.
Vừa nói, lão vừa đưa cho tôi ba tờ giấy và ba chiếc phong bì. Đó là một loại giấy rất mỏng. Nhìn mấy tờ giấy, và nhìn bộ mặt cười thản nhiên với hàm răng đài, nhọn chìa cả ra ngoài đôi môi đỏ chót của lão, tôi hiểu cái điều lão vừa nói với tôi, tôi hiểu mình sẽ phải cẩn thận với những lá thư, bởi lão có thể đọc được tất cả. Bởi vậy, tôi quyết định chỉ viết những lá thư vắn tắt với những câu chữ khá vô nghĩa trước, rồi sẽ bí mật viết dài hơn cho ngài Hawkins và Mina sau.
Đúng vậy, đối với Mina, tôi có thể viết theo dạng tốc ký, bởi ít ra nếu có nhìn thấy, thì lão bá tước cũng không thể hiểu được những nét chữ nguệch ngoạc ấy.
Viết xong hai lá, tôi lặng lẽ ngồi đọc lại, trong khi đó lão cũng đang ngồi viết, thỉnh thoảng lại dừng bút để tra cứu cái gì đó trong mấy cuốn sách đặt trên bàn.
Viết xong, lão cầm hai lá thư của tôi chồng vào lá thư của lão rồi đặt cả xấp xuống gần lọ mực và ống bút, sau đó, lão bỏ ra ngoài. Cánh cửa vừa khép sau lưng lão, tôi vội cúi xuống xem mấy lá thư lão vừa viết. Tôi thật chẳng ân hận một chút hào, bởi trong những tình huống như vậy, tôi buộc phải tìm đường thoát nạn bằng bất cứ cách nào.
Một lá thư tôi thấy đề nghị theo địa chỉ Samuel F. Billington, số 7, đường Crescent, Whitby; một lá gửi cho ngài Leutnes, ở Varna; lá thứ ba gửi cho Coutt ở Co. Luân Đôn, và lá cuối cùng gửi Klopstock Bill reuth, chủ nhà băng ở Budapest. Lá thứ hai và lá thứ tư không dán kín. Tôi định mở ra đọc thì chợt nghe có tiếng động ngoài cửa. Tôi giật mình xếp lại mấy lá thư vào chỗ cũ, rồi vớ vội quyển sách giả vờ đọc trước khi lão bá tước quay trở lại với một lá thư nữa trên tay. Lão dán tem vào các lá thư đặt trên bàn, rồi quay lại bảo tôi :
- Hy vọng là ngài sẽ thứ lỗi cho tôi, tối nay tôi lại có việc bận. Ngài sẽ tìm thấy ở đây tất cả những gì ngài cần, tôi nói vậy có phải không ạ?
Ra đến cửa, lão dừng lại một lúc rồi ngoảnh lại :
- Ông bạn trẻ thân mến ạ, tôi xin có một lời khuyên, hay nói đúng hơn là một lời cảnh cáo cho ngài đây: nếu như ngài rời khỏi mấy căn phòng này, thì ngài sẽ không thể tìm thấy một giấc ngủ ngon lành ở bất cứ một chỗ nào trong lâu đài đâu! Bởi vì đây là một trang viên cổ kính, nên nó cũng chứa trong lòng nhiều kỷ niệm xưa cũ, và các cơn ác mộng sẽ đổ ập đến với những ai thích ngủ ở những phòng mà họ không được phép ngủ. Tôi xin nhắc để ngài đề phòng. Nếu như một lúc nào đó, ngài cảm thấy buồn ngủ, hoặc là ngài muốn đi ngủ, thì xin ngài hãy trở về phòng mình càng nhanh càng tốt, nếu không, ngài cũng có thể vào một trong những phòng ở khu vực này, ở đây, ngài có thể yên tâm mà ngủ. Còn nếu như ngài không cẩn thận, thì...
Câu nói bỏ lửng của lão hàm chứa một điều gì đó khiến tôi rùng mình ghê sợ. Tôi hiểu lời lão nói. Điều duy nhất tôi chưa cắt nghĩa được lúc này là liệu cái giấc mơ đó dù là giấc mơ nào có khủng khiếp hơn những mắt lưới đen tối và bí ẩn đang bủa vây xung quanh tôi không?
* * * * *
Một lát sau
Tôi đọc lại những dòng vừa viết và cảm thấy có thể chấp nhận được, tất nhiên là tôi không phải do dự và sửa chữa gì nữa. Trong lâu đài này, chẳng có chỗ nào làm cho tôi sợ không ngủ được cả, miễn là đừng có mặt lão chủ nhà ở đó. Tôi cho rằng cứ đặt cây thánh giá nhỏ lên đầu giường là tôi có thể ngủ. yên giấc mà chẳng sợ có một cơn ác mộng nào. Và cây thánh giá tôi vẫn để ở đó.
Bá tước vừa đi khỏi, tôi cũng về luôn phòng mình. Một lúc lâu sau, khi không còn nghe thấy bất cứ một tiếng động nào, tôi mới lặng lẽ ra hành lang tìm đến nơi có ô cửa sổ nhìn về phía nam. Trái ngược với cái khoảng chật hẹp, tối tăm và tù túng ở sân lâu dài, cái không gian mênh mông xa hút tầm mắt bên ngoài đã cho tôi một chút cảm giác của bầu trời tự do. Không gì bằng được hít thở bầu không khí mát lành lúc này, cho dù bây giờ văn đang là buổi đêm. Đang mãi ngắm cảnh, tôi bỗng giật thót người khi bất giác nhận ra cái bóng của chính mình, và thế là mọi ý nghĩ quái đản và khủng khiếp nhất lại ập đến trong đầu tôi. Đúng là chỉ có Chúa mới biết nỗi lo sợ của tôi không phải là vô căn cứ? Tôi cố bình tĩnh, ngắm phong cảnh đang trải rộng trước mắt, dưới ánh trăng tỏ như ban ngày. Dưới ánh trăng bàng bạc, những ngọn đồi trùng điệp xa xa như hòa lẫn với các thung lũng, khe núi, tạo thành một màu đen mượt như những. Vẻ đẹp giản dị ấy giúp tôi bình tĩnh lại và mỗi làn gió mát lạnh dường như cũng mang đến cho tôi sự bình yên và một chút vỗ về, an ủi. Nhoài người ra cửa sổ nhìn xuống chân lâu đài, tôi tình cờ phát hiện thấy có một cái gì đó đang động đậy ở tầng dưới, hơi chếch một chút về bên trái. Qua những gì tôi biết về vị trí sắp xếp các phòng, thì hình như phòng ở của bá tước nằm đúng ở chỗ đó. Cửa sổ nơi tội đang cúi nhìn xuống nằm ở một vị trí rất cao, khuôn cửa sâu, và các bậu cửa đều được xây bằng đá, nên dù có bị hư hỏng theo năm tháng, cũng chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Tôi đứng thẳng người dậy để khỏi bị phát hiện, nhưng vẫn không quên theo dõi những gì đang diễn ra ở phía dưới.
Cái đầu của lão bá tước vừa nhô ra khỏi cửa sổ tầng dưới; dù không trông thấy mặt lão, song tôi vẫn nhận ra lão ở cái cổ, tấm lưng và các cử động không thể lẫn với ai của hai cánh tay lão, nhất là đôi bàn tay - tôi không thể nhầm bởi đã có rất nhiều dịp tôi để ý đến đôi bàn tay kỳ dị của lão. Trước hết, tôi cảm thấy vừa hứng thú vừa vui vui khi được rình mò như vậy, bởi quả thực chẳng có gì vui và hứng thú đối với một kẻ làm tù nhân trong những lúc bình thường. Tuy nhiên, mọi cảm giác ban đầu của tôi đã nhanh chóng bị thế chỗ cho cái cảm giác ghê tởm và kinh hãi khi thấy lão bá tước từ từ trườn ra ngoài cửa sổ và bắt đầu bò sát tường lâu đài. Lão cứ bò như vậy trên cái vực thẳm hun hút đến chóng mặt, tấm áo choàng đen dang rộng sang hai bên như hai cánh dơi. Tôi thật không còn tin ở mắt mình. Lúc đầu tôi cứ ngỡ mình bị quáng bởi ánh trăng, hoặc bị lẫn bởi cái bóng nào đó, nhưng khi căng mắt ra nhìn kỹ hơn, tôi hiểu mình đã không lầm. Tôi hoàn toàn nhận ra những ngón tay và ngón chân đang bấu chặt vào gờ các phiến đá đã bị thời gian làm tróc mất các mạch vữa. Lão bò thoăn thoắt như vậy xuống dưới chân tường sâu thăm thẳm.
Lão là dạng người siêu phàm, hay là một quái vật đội lốt người? Cảnh tượng xảy ra ngay trước mắt làm tôi cảm thấy rùng rợn hơn bao giờ hết, tôi sợ... tôi sợ đến phát khiếp... và không thể không bỏ trốn...
* * * * *
Ngày 15 tháng 5
Tôi bàng hoàng nhìn lão bá tước tiếp tục bò như một con thằn lằn. Lão bò dọc bức tường theo một đường hơi chéo về bên trái. Rồi lão bất ngờ chui vào một cái lô hay một ô cửa sổ nào đó. Khi không còn trông thấy đầu lão nữa, tôi mới dám nhoài hẳn người ra nhìn cho rõ hơn đường đi của lão, nhưng chẳng phát hiện ra một điều gì mới, bởi cái lỗ hay ô cửa sổ đó nằm quá xa chỗ tôi đứng. Tuy nhiên, tôi tin chắc một điều là lão đã rời khỏi lâu đài, và lúc này tôi có thể làm một điều mà trước đó tôi chưa dám làm: tranh thủ khám phá tòa lâu đài. Tôi vào giữa phòng cầm cây đèn và đi mở thử tất cả các cánh cửa. Đúng như tôi đoán, cánh cửa nào cũng bị khóa chặt, và theo như tôi thấy thì các ổ khóa đều còn tương đối mới. Tôi xuống cầu thang, đi dọc theo hành lang qua ô cửa mà tôi đã vào trong cái đêm đầu tiên đến lâu đài. Tôi nhận thấy tôi có thể dễ dàng mở các chất cửa cũng như tháo sợi dây xích ra, nhưng cánh cửa đã bị khóa chặt và dĩ nhiên là chìa khóa không còn trong ổ. Chắc chắn chiếc chìa khóa đã được cất trong phòng lão bá tước và như vậy tôi cần chớp thời cơ, khi cửa phòng lão không khóa, lẻn vào lấy trộm chìa khóa rồi bỏ trốn.
Tôi tiếp tục kiểm tra chi ly từng dãy hành lang, từng đường cầu thang và mở thử tất cả các cánh cửa mà tôi gặp trên đường đi. Những cánh cửa của một hoặc hải phòng nhỏ nhìn ra hành lang giữa không khóa, song bên trong chẳng có gì đáng kể ngoài mấy thứ đồ gỗ cổ phủ bụi mờ và vài chiếc ghế bành bọc vải bị mọt cắn tươi tả. Cuối cùng, khi leo lên đỉnh một cầu thang, tôi gặp một cánh cửa mà mới nhìn thì tưởng là khóa chặt, nhưng khi đẩy nhẹ một cái, cánh cửa có phần nhúc nhích. Tiếp tục đẩy mạnh hơn, tôi nhận ra đúng là cánh cửa không bị khóa, nó chỉ hơi bật lại lực đẩy của tôi do các tấm bản lề đã phần nào bị long ra, cánh cửa bị sệ sát xuống mặt sàn. Có thể đây sẽ là cơ hội có một không hai mà tôi phải tận dụng. Sau một vài lần lên gân lên cốt, tôi đã mở được cánh cửa. Tôi đang đứng trước một cái nhà của tòa lâu đài, nó nằm chếch về bên phải và ở tầng dưới các phòng mà trước đó tôi đã được biết. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy các phòng nằm trải dài theo mạn phía nam của lâu đài, các cửa sổ của phòng cuối cùng vừa nhìn ra phía nam lại vừa nhìn ra phía tây. Cả hai phía đều trông hun hút xuống một vực thẳm. Tòa lâu đài được xây ngay ở góc một mỏm núi lớn, đến nỗi cả ba phía đều không có cách gì tiếp cận được; cũng như vậy, các ô cửa sổ đều được xây ở một vị trí rất cao trên các bức tường nên cũng là bất khả xâm phạm các loại vũ như cung tên, súng văng đá và súng đạn thông thường đều không đủ tầm bắn đến dây. Vị trí cao của các ô cửa sổ đã tạo cho một phần tòa lâu đài vẻ quang đãng và dễ chịu hơn. Ở phía đông là một thung lũng nằm sâu thẳm dưới chân các ngọn núi cao vút và dốc đứng.
Chắc chắn rằng ngày xưa, các phòng này chính là chỗ ở của các quý bà, quý chị, bởi vì tất cả các đồ đạc ở đây dường như đều có vẻ tiện nghi hơn so với những thứ tôi từng được tha ở các phòng khác. Các ô cửa sổ đều không có rèm che nên ánh trăng thanh lọt vào qua lớp cửa kính đã giúp tôi dễ dàng phân biệt được màu sắc của các đồ vật trong phòng, cho dù tất cả đều mờ đi bởi lớp bụi thời gian. Ngọn đèn trên tay tôi lúc này bỗng trở thành vô dụng dưới ánh trăng, nhưng dù sao nó cũng phần nào làm tôi cảm thấy dễ chịu, bởi rõ ràng là tôi đang cô đơn, cái cô đơn khiến lòng tôi như se lại với một nỗi lo sợ mơ hồ. Tuy nhiên, thà cô đơn như vậy còn hơn là có thêm lão bá tước ở trong phòng. Một chút cố gắng của lý trí cùng với sự an ủi của ngọn đèn trên tay đã giúp tôi bình tĩnh trở lại... Tôi ngồi xuống bên một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ sồi, nơi xưa kia hẳn phải có một người đàn bà tuyệt đẹp đã ngồi mộng mơ, ngượng ngùng viết những lá thư tình lai láng song vụng về. Tôi ngồi nghĩ lại những trang nhật ký ghi chép toàn bộ những gì đã xảy ra với mình. Tốc ký quả là một tiến bộ của thế kỷ mười chín! Quả là mỗi thế kỷ đều có những quyền lực riêng biệt mà chủ nghĩa hiện đại không thể bóp chết được...


Ngày 16 tháng 5, buổi sáng
Chúa muốn tôi lúc này phải giữ được sự cân bằng về tinh thần, bởi vì đó là tất cả những gì còn lại đối với tôi. Đối với tôi, sự an toàn, hoặc việc đảm bảo cho sự an toàn, là điều thuộc về quá khứ. Trong những tuần còn sống ở đây, tôi chỉ có thể hy vọng vào một điều là mình không trở thành một thằng điên. Và nếu như còn giữ được một tinh thần lành lặn, thì chắc là tôi cũng sẽ phát hoảng khi nghĩ rằng trong tất cả những mối đe dọa đang vây xung quanh tôi ở đây, sự có mặt của lão bá tước chỉ là điều tối thiểu! Lạy Chúa Trời! Lạy Chúa lòng lành! Hãy làm sao để tôi giữ được bình tĩnh, bởi nếu sự bình tĩnh lìa khỏi con người tôi, chắc chắn nó sẽ nhường chỗ cho sự điên dại! Lúc này, khi có cảm tưởng như đầu óc mình sắp sửa nổi khùng lên hoặc ít nhất là vừa phải trải qua một cú sốc nguy hại, tôi chỉ còn biết phó thác cho trang nhật ký: nhật ký sẽ là kẻ hướng đạo của tôi. Việc ghi chi tiết tất cả những gì mình phát hiện được đối với tôi sẽ là một cách để tự mình nguôi ngoai.
Lời cảnh cáo bí hiểm của lão bá tước làm tôi lo sợ ngay từ lúc lão nói và bây giờ, khi nghĩ lại, tôi lại càng cảm thấy hãi hùng hơn, vì tôi biết người đàn ông quái đản này sẽ gây ra một ảnh hưởng khủng khiếp đối với tôi. Điều tôi cần làm lúc này là đừng nên coi những lời nói của lão là quá nghiêm trọng!
Viết xong những dòng nhật ký vừa rồi và cất giấy bút vào túi quần, tôi bỗng thấy buồn ngủ trĩu cả mắt. Tất nhiên, tôi không quên lời cảnh báo của bá tước, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cứ thích không tuân theo lời lão. Ánh trăng vằng vặc dường như thật dịu dàng và hiền hòa đối với tôi, và cả cái khung cảnh rộng lớn mênh mang ngoài kia như cũng muốn an ủi vỗ về tôi, tạo cho tôi một cảm giác của bầu trời tự do. Tôi quyết định không trở về phòng mình mà ngủ luôn tại đây nơi người ta vẫn đang đoán già đoán non sự có mặt của các quý bà ngày xưa và cũng là nơi họ thường tụ tập ca hát để làm vơi đi nỗi buồn của một cuộc sống nhung lụa nhưng tẻ nhạt, bởi những người bạn đời của họ luôn phải biền biệt ở phương trời xa xôi vì những cuộc chiến tranh triền miên và chết chóc. Tôi chọn một chiếc ghế tựa đài đặt gần cửa sổ để khi nằm vẫn có thể ngắm cảnh.
Chẳng cần để ý tới lớp bụi mờ, tôi uể oải ngả lưng, mong sớm chìm vào giấc ngủ. Quả thực tôi đã đi vào giấc ngủ, hoặc ít nhất là tôi hy vọng như vậy, bởi thú thực tôi chỉ sợ không chưa ngủ được, vì tất cả những gì diễn ra tiếp theo dường như đều rất thật với tôi thật đến nỗi mà lúc này, giữa ban ngày ban mặt, trong căn phòng rạng rỡ ánh ban mai, tôi vẫn không sao tin được mình có thể nằm mơ.
Tôi không ở trong phòng một mình. Rõ ràng chẳng có gì thay đổi kể từ lúc tôi bước vào đây. Tôi nhận ra trên sàn nhà, ánh trăng soi tỏ những dấu chân mình hằn rõ trên lớp bụi. Nhưng đang đứng trước mặt tôi lúc này là ba người đàn bà ba người đàn bà quý phái thể hiện ở cách trang điểm và điệu bộ của từng người. Thoạt nhìn thấy họ, tôi cứ ngỡ mình nằm mơ, bởi vì dù có ánh trăng chiếu qua cửa sổ, tôi vẫn không nhìn thấy một cái bóng nào của họ đổ xuống sàn nhà. Họ tiến về phía tôi, nhìn chòng chọc vào mặt tôi một lúc, rồi quay mặt vào nhau thì thầm điều gì đó. Hai người trong số họ có mái tóc nâu, mũi khoằm khoằm giống mũi lão bá tước, đôi mắt sắc như dao, mở to và ánh lên như có lửa. Người thứ ba quả là một phụ nữ đẹp mê hồn với mái tóc vàng, dài, óng ả và đôi mắt xanh như những viên ngọc bích. Tôi thấy gương mặt nàng có vẻ quen quen; và hồi ức đã đưa tôi về với một gượng mặt tôi từng gặp trong một cơn ác mộng, mặc dù lúc này tôi không thể nhớ nổi cái khoảnh khắc và những tình huống đã trải qua. Cả ba đều có những hàm răng trắng tinh, sáng lấp lánh như Lhững hạt ngọc trai, lấp ló sau làn môi đỏ chót và đầy nhục dục. Ở họ toát lên một cái gì đó khiến tôi cảm thấy bứt dứt khó chịu, vừa thèm muốn lại vừa ghê sợ. Vâng, quả thực tôi rất khát khao được đặt vào những đôi môi đỏ ấy một nụ hôn cháy bỏng. Song có lẽ tốt nhất là tôi không nên viết những lời như vậy, bởi điều đó sẽ làm cho Mina của tôi buồn nếu cô ấy dọc những dòng nhật ký này, nhưng tôi cũng buộc phải nói rằng đó là sự thật. Ba người đàn bà tiếp tục thì thầm nói chuyện, rồi cùng bật cười một tiếng cười du dương, trong trẻo, nhưng tôi khó có thể tả được hết, bởi tiếng cười ấy còn chứa đựng một cái gì đó dường như không thể thoát ra từ cuống họng của con người được. Nó vừa lanh lảnh, song cũng lại dịu dàng, đến mức không thể chịu đựng được, chẳng khác nào khi ta phải nghe tiếng va chạm của cốc chén trong bàn tay của một nghệ sĩ vụng về. Người đàn bà tóc vàng lắc đầu, vẻ như khêu gợi, để mặc hai người còn lại đùn đẩy phía sau lưng.
- Làm tới đi! - Một ả trong bọn nói. - Nhường cho chị đầu tiên đấy, chúng tôi sẽ làm sau.
- Trông anh ta còn trẻ và lực lưỡng lắm. - Ả thứ hai lên tiếng. - Cả ba chúng ta sẽ tặng anh ta một nụ hôn.
Tôi nằm im theo dõi màn kịch qua đôi mắt khép hờ, trong lòng cảm thấy như đang bị giày vò bởi sự rạo rực nôn nóng và thú vui nhục dục khó tả.
Ả tóc vàng sán đến bên tôi, cúi gần xuống người tôi, gần đến nỗi tôi còn cảm nhận được cả hơi thở nồng nàn của ả: hơi thở của ả thật nhẹ nhàng và êm dịu như chính giọng nói của ả, nhưng lại có một cái gì đó tanh tanh, tanh như mùi máu.
Tôi không dám mở to mắt, song vẫn tiếp tục nhìn qua hàng mi, chỉ cần thế tôi cũng đủ nhìn thấy hoàn toàn người đàn bà lúc này đang quỳ gối, cúi sát xuống người tôi hơn, vẻ mặt hoan hỉ, thỏa mãn. Nét mặt ấy lộ rõ sự khoái lạc đầy cảm xúc nhưng cũng thật ghê tởm, ả liếm mép như một con vật đang đói mồi, đến nỗi dưới ánh trăng thanh, tôi còn nhìn rõ lớp nước miếng nhớp nhúa trên dôi môi màu hồng ngọc và trên đầu chiếc lưỡi đỏ đang quét đi quét lại trên hai hàm răng trắng và nhọn của ả. Ả cúi xuống mỗi lúc một thấp hơn. Tôi có cảm giác ả sắp sửa áp đôi môi đỏ mọng như trái ớt xuống ngậm vào cổ tôi. Nhưng không, ả đã dừng lại, và tôi chợt nghe thấy có một tiếng động, một tiếng động gần gần giống như tiếng khuấy nước. Thì ra đó là tiếng dầu lưới ả đánh vào hàm răng và đôi môi đầy nước miếng. Tôi cảm thấy một luồng hơi thở nóng hổi đang phả vào cổ mình. Làn da trên cổ tôi bắt đầu nổi gai ốc như đang được một bàn tay mượt mà vuốt ve mơn trớn và cái mà tôi đang cảm nhận được chính là sự mơn trớn run rẩy của đôi bờ môi cùng những cái nghiến cực nhẹ của hai hàm răng nhọn. Khoái cảm cứ êm đềm trôi qua, tôi nhắm nghiền mắt trong một cảm giác mê mẩn. Tôi cứ thế chờ đợi, chờ đợi, mặc cho con tim thổn thức, rạo rực.
Nhưng cũng đúng vào lúc đó, tôi lại phải trải qua một cảm giác khác, một cảm giác bất ngờ vụt lên như một tia chớp. Lão bá tước đang đứng đó như vừa từ trên trời rơi xuống. Quả thực, lúc miễn cưỡng mở mắt ra, tôi thấy bàn tay thép của lão đang túm chặt lấy cái cổ mảnh dẻ của người thiếu phụ rồi giật ngược ra phía sau với sức mạnh ghê gớm của một kẻ lực điền vũ phu. Đôi mắt xanh của người đàn bà lóe lên những tia giận dữ, hai hàm răng ả nghiến ken két như một con thú điên dại. Còn lão bá tước? Chưa bao giờ tôi hình dung ra một kẻ bị cơn thịnh nộ cuốn phăng đi như vậy. Đôi mắt lão bừng lên những ánh lửa thực sự, thậm chí tôi còn cảm thấy những ánh lửa ấy như vừa bùng lên từ dưới địa ngục? Bộ mặt lão trông xám ngoét như một thây ma, hai má giật giật liên hồi, đôi hàng lông mày rậm rịt của lão càu càu giao nhau trên sống mũi giống như một thanh sắt gỉ méo mó bị nung đến sáng trắng. Lão khoát tay đẩy mạnh ả đàn bà bắn ra đầu phòng rồi lạnh lùng ra hiệu cho hai ả còn lại lập tức lui ra khỏi phòng. Đó chính là cái khoát tay mà tôi đã thấy lão làm trước bầy sói hôm nào. Bằng một giọng trầm trầm, gần như nói thầm, song cũng đủ để xé tan bầu không khí trong phòng, lão nói với đám đàn bà :
- Sao chúng bay dám cả gan làm như vậy đối với ông ta? Ai cho phép chúng bay hau háu nhìn ông ta? Cút đi, tao bảo cút hết cả đi cơ mà! Người đàn ông này thuộc quyền lực của tao? Cấm đứng có động vào, nếu không thì đừng có trách.
- Nhưng ngài đã bao giờ dám yêu! Ngài không dám yêu mà?
Hai ả còn lại khanh khách cười với nhau, tiếng cười thật hoan hỉ, song cũng thật nghiệt ngã và tàn nhẫn, khiến tôi suýt chết ngất. Quả thực, tiếng cười của chúng chẳng khác nào tiếng cười của quỷ dữ.
Chăm chú quan sát tôi một lát, rồi lão bá tước quay ra đáp lại, giọng vẫn thì thầm lạnh lùng :
- Có chứ, tao cũng có thể yêu. Rồi chúng bay sẽ được thấy điều đó. Hãy nhớ đấy? Tao xin hứa với chúng bay rằng sau khi kết thúc công việc với ông ta, tao sẽ để chúng bay làm gì ông ta tùy thích! Còn bây giờ, hãy để cho bọn tao được yên. Tao phải đánh thức ông ta dậy, còn bao việc đang đợi tao kia kìa.
- Thế đêm nay chúng tôi không có gì? - Một ả vừa cười vừa hỏi, trong khi tay chỉ vào chiếc túi lão bá tước vừa vứt chỏng chơ dưới sàn nhà: chiếc túi động đậy như có một thực thể sống ở bên trong.
Lão bá tước gật đầu thay cho câu trả lời. Một ả trong bọn lập tức nhảy bổ tới mở chiếc túi ra. Tôi tin là mình đã nghe thấy một tiếng rên yếu ớt như tiếng một đứa trẻ sắp bị chết ngạt. Lũ đàn bà xúm vây quanh cái túi, còn tôi thì cứng đờ lại vì hãi hùng. Nhưng điều làm tôi khiếp đảm hơn cả là không hiểu bằng cách nào, mấy ả đã bất ngờ biến mất cùng cái túi, trong lúc mắt tôi vẫn không rời khỏi sàn nhà một tích tắc. Rõ ràng là không có ô cửa nào ở gần chúng, và nếu chúng có bỏ đi trước mặt tôi, thì tôi không thể không thấy. Hẳn là mấy ả đã tan biến cùng ánh trăng thanh qua đường cửa sổ, bởi một lát sau, tôi lại nhận ra những cái bóng quen quen vừa đủ nét ở bên ngoài. Sau đó giây lát, ba cái bóng biến mất hẳn.
Sự khiếp sợ đã làm tôi chết lịm trong cõi vô thức.
 
Chương 4

Nhật ký của Jonathan Harker (tiếp theo)


Tôi tỉnh dậy trên giường. Nếu quả thực là đêm qua tôi không ngủ mê, thì chắc chắn là bá tước đã đưa tôi về đây. Tôi cố trấn tĩnh lại, nhưng không đi tới một điều gì xác thực cả. Hiển nhiên là tôi trông thấy xung quanh mình những thứ có thể lấy làm bằng chứng: ví dụ, quần áo của tôi dược gấp cẩn thận và được đặt trên một chiếc ghế tựa, điều không giống với thói quen của tôi. Ngược lại, kim đồng hồ của tôi bị chết, trong khi tôi luôn có thói quen lên dây cót đồng hồ trước khi đi ngủ. Và còn nhiều chi tiết nữa... Nhưng không, tất cả sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như đêm qua tôi bị đãng trí, hoặc vì một nguyên nhân nào đó khiến đầu óc rối tinh rối mù. Tôi cần phải tìm những bằng chứng xác thực. Tuy vậy, vẫn còn một điều làm tôi mừng rỡ: nếu như bá tước là người đã đưa tôi về đây, thì chắc hẳn lão phải rất vội, bởi vì mọi thứ trong túi quần tôi vẫn còn nguyên vẹn. Chắc chắn nếu có tìm thấy những dòng nhật ký này, lão cũng sẽ chẳng hiểu gì cả, vì tôi chỉ viết theo lối tốc ký. Điều đó sẽ làm lão khó chịu và sẽ hủy ngay lập tức những gì tôi viết. Nhìn ngó xung quanh phòng, nơi dù đã trải qua bao lo âu và sợ hãi, tôi vẫn thấy dường như đây chính là nơi tôi còn được yên ổn, bởi chẳng có gì đáng sợ hơn là những người đàn bà ghê tởm đang chờ đợi, chờ đợi để hút máu mình.
* * * * *
Ngày 18 tháng 5
Tôi muốn trở lại căn phòng ấy vào giữa ban ngày, vì tôi phải biết sự thật bằng mọi giá. Lên đến đỉnh cầu thang, tôi thấy cửa phòng vẫn khép. Ai đó đã cố đẩy cánh cửa về vị trí cũ sát với thanh nẹp đứng dù nẹp gỗ này đã bị hỏng. Tôi thấy then cửa chưa cài, mà hình như cánh cửa được khép lại từ bên trong. Vì vậy, tôi e mình đã không ngủ mê, và từ nay trở đi, tôi buộc phải hành động, bắt đầu từ cái điều gần như xác thực này.
* * * * *
Ngày 19 tháng 5
Chắc chắn tôi đã sa vào lưới của lão bá tước, có hy vọng trốn thoát cũng chỉ là đlều viển vông. Tối hôm qua, bằng cái giọng như có bùa ngải, lão lại bắt tôi phải viết tiếp ba lá thư khác, thông báo tôi sắp sửa kết thúc công việc ở đây và sẽ quay về trong khoảng dăm hôm nữa, lá thứ hai phải viết rằng tôi sẽ rời khỏi đây ngay ngày hôm sau. Lá cuối cùng cho biết tôi đã rời khỏi lâu đài và đang trên đường về Bistritz. Thực tình mà nói, tôi rất muốn làm loạn để chống lại sự ép buộc này, nhưng khi nghĩ lại, tôi thấy sẽ là điên rồ nếu bàn về thiện chí của bá tước, bởi lúc này tôi hoàn toàn nằm trong tay lão, nếu không chịu nghe theo lời lão, tôi sẽ khiến lão nghi ngờ và nổi cơn điên. Lão hiểu tôi rằng đã quá rõ về lão và có thể trở thành một mối nguy hiểm đới với lão. Cơ may duy nhất của tôi, nếu còn có thể gọi như vậy, là cố gắng kéo dài tình trạng hiện nay. Biết đâu sẽ có một cơ hội xuất hiện cho phép tôi trốn thoát... Tôi đã được biết trong đôi mắt lão chứa chất đầy sự hung bạo khi lão đẩy thô bạo ả đàn bà tuyệt đẹp kia. Lão giải thích vôi tôi dịch vụ bưu điện ở đây rất thất thường, các lá thư sẽ làm cho bạn bè tôi yên tâm. Lão còn bảo tôi rằng với lá thư cuối cùng tôi phải viết, lão sẽ nhờ giữ lại ở Bistritz cho đúng đến ngày tôi thực sự phải trở về, vì sợ thời gian tôi ở lại đây sẽ còn kéo dài. Lão nói với một vẻ tin tưởng đến nỗi chỉ cần tôi khẽ mở mồm phản đối thôi cũng đủ để gây ra cho lão những mối nghi ngờ mới. Vậy là tôi phải cố kiềm chế. Tôi hỏi lão xem tôi phải điền ngày tháng vào thư như thế nào, lão trả lời :
- Lá thứ nhất ghi ngày 12 tháng 6, lá thứ hai ghi ngày 19, và lá thứ ba ghi ngày 29.
Bây giờ thì tôi đã hiểu thời gian tôi còn phải ở lại đây là bao nhiêu lâu. Cầu Chúa che chở cho con!
* * * * *
Ngày 28 tháng 5
Có thể tôi sẽ tìm được cách thoát thân - hoặc ít nhất là gửi được chút tin tức về nhà. Những người Digan đã trở về lâu đài và cắm trại ở dưới sân. Tôi sẽ viết vài lá thư rồi cố gắng nhờ họ gửi hộ ra bưu điện. Tôi đã bắt chuyện với họ từ cửa sổ phòng mình, chúng tôi đã làm quen với nhau. Họ biểu lộ tâm tư bằng cách cúi đầu thật thấp và làm mọi cách nói bằng dấu hiệu với tôi, mà thú thực là tôi chẳng hiểu gì cả...
Các lá thư đều đã được viết xong. Thư gửi Mina tôi vẫn viết theo lối tốc ký, còn thư gửi ngài Hawkins, tôi chỉ yêu cầu ông ta cố gắng liên lạc với Mina. Tôi thông báo rõ tình hình của tôi cho cô bạn gái, nhưng không hề đá động gì tới những nỗi khiếp đảm đã trải qua. Cô ấy sẽ sợ phát khiếp nếu như tôi hé nửa lời về hoàn cảnh của mình. Vì vậy, cho dù những lá thư này không đến được địa chỉ, thì lão bá tước cũng không thể nghi ngờ gì về mức độ tôi đã nắm bắt được các ý đồ của lão...
Tôi ném hai lá thư kèm theo một đồng tiền vàng qua cửa sổ cho những người Digan và ra hiệu cho họ hiểu tôi muốn nhờ họ mang thư ra bưu điện. Có một người chạy ra nhặt thư, ép vào ngực, rồi cúi đầu chào tôi đúng như phong tục của người Digan, sau đó anh ta bỏ mấy lá thư vào mũ. Bây giờ thì tôi còn có thể làm gì khác ngoài việc chờ đợi? Lát sau, tôi lại mò vào thư viện đọc sách. Tôi viết những dòng này khi lão bá tước chưa tới...
Tuy nhiên, tôi cũng không được ngồi lâu một mình, lão bá tước đã bất ngờ đến ngồi bên tôi và nói với tôi bằng cái giọng nhẹ nhàng quen thuộc trong lúc mở hai lá thư ra cho tôi xem :
- Đám người Digan vừa trao lại cho tôi mấy tờ giấy này, dù không hiểu nguồn gốc của chúng, song tôi vẫn giữ chúng rất cẩn thận! Ngài nhìn xem... (vậy là lão đã xem mấy lá thư rồi). Cái này là của ngài, gửi cho ông bạn Peter Hawkins của tôi; còn cái này... (lúc mở lá thư thứ hai ra xem những dòng chữ tốc ký nguệch ngoạc, mặt lão tối sầm lại, đôi mắt ánh lên vẻ giận dữ và độc ác)... cái này trước mắt tôi là một sự bỉ ổi, nó phản bội một tình bạn hiếu khách! Và hơn nữa, nó lại không có chữ ký nữa chứ... Vì vậy, nó không thể dính dáng đến chúng ta được.
Rồi lão thản nhiên đưa cả phong bì lẫn lá thư vào ngọn đèn bàn, đợi cho những tờ giấy cháy hết, lão mới quay sang bảo tôi :
- Còn lá thư gửi ngài Hawkins, tức là lá thư còn lại này, tự tôi sẽ mang đi gửi bởi đó là thư do chính ngài viết. Đối với tôi, các lá thư của ngài đều là những gì thật linh thiêng. Chắc ngài sẽ tha thứ cho tôi về việc tự ý mở thư của ngài, có phải vậy không ông bạn? Tôi thật không biết đó là thư của ai. Ngài sẽ bỏ lại thư vào phong bì hộ tôi chứ?
Lão cúi đầu, vẻ rất lịch sự, đưa cho tôi một chiếc phong bì mới. Tôi chỉ còn biết viết lại địa chỉ và miễn cưỡng đưa lại cho lão. Lão chào tôi rồi bỏ ra khỏi thư viện. Cánh cửa vừa khép lại, tôi chợt nghe có tiếng chìa khóa khẽ xoay trong ổ. Một lát sau tôi mới dám ra mở thử, quả thực cánh cửa đã bị khóa chặt.
Phải đến một hoặc hai tiếng sau, lão bá tước mới quay trở lại thư viện, nét mặt vẫn thản nhiên như không. Tôi giật mình tỉnh dậy, bởi lúc đó tôi đang nằm ngủ trên ghế trường kỷ. Lão nói với tôi bằng một giọng rất vui vẻ và tử tế.
- Mệt lắm phải không ông bạn? Vậy thì về giường mà nằm đi. Đó chính là nơi ngài có thể ngon giấc nhất đấy. Vả lại, tối nay tôi cũng không thích ngồi chuyền trò với ngài, vì tôi còn rất nhiều việc phải làm. Hãy về ngủ đi, tôi đề nghị ngài đấy...
Tôi về phòng tiếp tục ngả lưng, và thật kỳ lạ, đúng là tôi đã ngủ thật yên giấc mà không hề mê man một chút nào. Sự thất vọng đã tự mang đến cho nó một liều thuốc dịu êm.
* * * * *
Ngày 31 tháng 5
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi thức dậy sáng nay là lấy vài tờ giấy và mấy cái phong bì cất trong túi du lịch nhét vào túi áo, để có thể tranh thủ viết nếu có dịp trong ngày. Nhưng lại thêm một sự kinh ngạc, một cú sốc nữa đến với tôi!
Tất cả giấy má của tôi đều đã biến mất, từ những thứ vô nghĩa cho tới những thứ cần thiết và không cần thiết cho tôi nếu như tôi có cơ hội rời khỏi lâu dài.
Ngồi thừ một lúc tôi mới sực nhớ đến việc kiểm tra nết chiếc va ly và tủ quần áo, nơi tôi cất quần áo của mình.
Bộ quần áo tôi định cầm theo để đi đường không còn ở trong tủ, rồi đến tấm áo choàng, chăn du lịch... cũng đều biến mất sạch. Tôi lục tìm lung tung, nhưng chỉ mất công vô ích...
Không hiểu lão định âm mưu gì với cái trò mèo này?
* * * * *
Ngày 17 tháng 6
Sáng nay, lúc đang ngồi nghĩ mông lung ở mép giường, tôi chợt nghe thấy có tiếng roi đánh đôm đốp ở bên ngoài, tiếp đó là tiếng vó ngựa kêu lộc cộc trên con đường rải sỏi dẫn vào sân lâu đài. Mừng khấp khởi trong lòng, tôi chạy vội đến bên cửa sổ nhìn xuống sân có hai chiếc xe khá lớn đang chạy vào, mỗi chiếc đóng tám con ngựa lực lưỡng, do một người Slovaki ăn mặc theo kiểu truyền thống dân tộc điều khiển. Tôi quay ngoắt ra cửa với ý định chạy xuống lối cửa chính để ra sân, bởi tôi nghĩ thế nào người ta cũng sẽ mở cửa đằng này. Nhưng lại thêm một cú sốc: cánh cửa đã bị khóa chặt!
Tôi đành phải quay về cửa sổ gọi xuống sân. Tất cả ngẩng đầu nhìn tôi, tay chỉ chỉ trỏ trỏ, vẻ rất kinh ngạc. Đúng lúc đó, thủ lĩnh nhóm Digan xuất hiện. Thấy đám bộ sâu đang chăm chú nhìn lên cửa sổ, ông ta buông ra một câu gì đó khiến đám người cười phá lên. Vậy là tất cả các nỗ lực của tôi đều trở nên công cốc, thậm chí lúc này chẳng còn ai thèm ngước nhìn lên cửa sổ nữa. Hai chiếc xe ngựa chở đến những chiếc hòm lớn vuông vức, có quai cầm được làm bằng loại dây rất to. Nhìn cách khuân vác của những người Slovaki và tiếng hòm đập bồm bộp xuống sân, tôi đoán đó là các hòm rỗng không. Khi tất cả được chất thành một đống ở góc sân, đám người Digan trả cho người Slovaki mấy đồng xu bạc. Lĩnh tiền xong, người Slovaki đánh ngựa quay trở ra. Tôi thẫn thờ đứng bên cửa sổ nghe tiếng vó ngựa xa dần rồi mất hẳn.


Ngày 24 tháng 6, trước buổi bình minh
Tối hôm qua, lão bá tước rời tôi khá sớm để về phòng lão. Đợi lão đi khỏi, tôi rón rén leo vội lên chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, với ý định rình lão ở ô cửa sổ phía nam. Tôi tin chắc là sắp có chuyện xảy ra. Đám người Digan đã bỏ đi làm việc gì đó trong lâu đài tôi không biết, chỉ biết là họ đang làm việc, bởi thỉnh thoảng tôi lại nghe thấy những tiếng lịch kịch như tiếng cuốc xẻng từ xa vọng tới. Tôi linh cảm đây hẳn là một việc làm tội lỗi.
Tôi đứng khoảng gần nửa tiếng bên cửa sổ thì thấy một cái bóng thập thò ở cửa sổ phòng bá tước. Bóng đen ấy thò đầu ra trước rồi nhanh chóng nhoài cả thân người ra ngoài. Đó chẳng phải ai khác ngoài lão bá tước. Nhưng lần này, lão làm tôi phải kinh ngạc hơn nhiều: lão đang mặc bộ đồ mà tôi đã mặc trong cuộc hành trình đến lâu đài, trên vai lão là chiếc túi đáng sợ mà tôi đã thấy nó biến mất cùng ba ả đàn bà. Không còn nghi ngờ gì nữa, mục đích của lão là muốn dùng bộ dạng bên ngoài của tôi cho một hành động mờ ám mới mà tôi chưa rõ. Quả là một trò cực kỳ tinh quái của lão: lão định làm người khác tưởng là tôi. Làm như vậy, lão có thể chứng minh cho mọi người thấy tôi cũng đã được phép ra bưu điện thành phố hoặc bưu điện ở các làng lân cận để bỏ thư của mình, và từ nay trở đi, mọi hành vi hèn hạ của lão đều có sự góp phần của tôi.
Tôi bắt đầu thấy điên tiết khi nghĩ mọi mánh khóe của lão rồi vẫn cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi bị khóa chặt ở đây, bị nhất như một tù nhân thực sự mà không hề có một sự che chở, bảo vệ nào.
Tôi quyết định cứ đứng như vậy bên cửa sổ chờ lão quay trở về, bởi chẳng có gì khiến tôi muốn bỏ đi khỏi chỗ đang đứng. Được một lúc, tôi chợt giật mình khi trông thấy những chấm nhỏ kỳ lạ đang nhảy nhót cùng ánh trăng. Chúng giống như những hạt bụi li ti đang quay cuồng và thỉnh thoảng lại tụ lại như một đám mây nhỏ. Nhìn vào những hạt bụi ấy, tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng như nhẹ nhõm hẳn đi. Tôi đứng tựa vào khung cửa sổ tìm một tư thế dễ chịu hơn để có thể ngắm cho rõ cảnh tượng lạ mắt này.
Chợt có một cái gì đó khiến tôi giật mình những tiếng kêu nặng nề và rên rỉ của bầy chó vọng lên từ dưới thung lũng. Những tiếng kêu ấy mỗi lúc một rõ hơn, và tôi thấy dường như các hạt bụi đang chuyển sang thành những hình hài mới tùy theo tiếng ầm ĩ xa gần đó, có điều là lúc này chúng đang nhảy nhót dưới một ánh trăng yếu ớt hơn. Dường như tôi đang ráng sức đánh thức các bản năng luôn ngủ vùi nơi tiềm thức sâu thẳm của chính mình, linh hồn sống của tôi đang giãy giụa đáp lại những tiếng gọi hoang dại ấy. Tôi đang bị thôi miên bởi cảnh tượng kỳ quái ngay trước mắt! Những hạt bụi nhảy nhót mỗi lúc một nhanh hơn, các tia sáng trăng dường như cũng bắt đầu nhảy nhót ngay gần tôi, rồi bỗng nhiên mất hút vào bóng tối. Lúc này thì cả những tia sáng cũng hội tụ lại tạo thành những hình thù ma quái... Tôi giật thót người một lần nữa, cái giật mình bất ngờ làm tôi bừng tỉnh và trả lại tôi sự tự chủ, tôi vừa kêu gào vừa bỏ chạy thục mạng. Các hình thù ma quái đang dần dần tách ra khỏi ánh trăng, và giờ tôi đã có thể nhận ra chúng: đó chính là những người đàn bà mà từ nay trở đi, số phận sẽ ràng buộc tôi với họ. Chạy về đến phòng tôi mới cảm thấy yên lòng hơn một chút: ở đây, ánh trăng sẽ không thể lọt được vào, chỉ có ánh đèn soi tỏ mọi góc ngách nhỏ nhất.
Khoảng hai tiếng sau, tôi chợt nghe thấy một âm thanh gì đó giống như tiếng oe oe kêu khóc của trẻ con vọng tới từ phòng lão bá tước. Nhưng rồi tiếng kêu the thé và ngạt ngạt ấy đã nhanh chóng tắt lịm, trả lại bầu không khí tĩnh mịch sâu thẳm, rùng rợn, làm tôi gai người. Tôi chạy vội ra mở cửa, song cánh cửa một lần nữa bị khóa chặt trước sự bất lực hoàn toàn của tôi. Tôi chỉ còn biết ngồi phục xuống giường mà khóc cho số phận.
Đó chính là lúc tôi nghe thấy một tiếng kêu gào ở ngoài sân, tiếng kêu gào đau đớn của một phụ nữ. Tôi ra cửa sổ nhìn xuống, quả thật ở dưới sân có một người đàn bà đầu tóc xõa xượi, hai tay ôm ngực kêu khóc thảm thiết. Chợt nhìn thấy tôi bên cửa sổ, mụ bỗng kêu rống lên, giọng đầy hăm dọa :
- Đồ quỷ dữ, hãy trả lại đứa con cho tao?
Rồi mụ quỳ sụp xuống, hai tay giơ lên trời, miệng lảm nhảm, giọng the thé nhắc đi nhắc lại câu đòi con. Không thấy ai trả lời, mụ bắt đầu bứt tóc, tay đấm thùm thụp vào ngực, và làm đủ những trò lố lăng khác mà chỉ có những kẻ đau đớn đến tột cùng mới làm được. Cuối cùng, mụ lao bổ về phía trước lâu đài. Dù không còn trông thấy mụ, tôi vẫn nghe thấy những tiếng đấm thùm thụp điên dại vào cánh cửa ra vào.
Cùng lúc đó, tôi nghe thấy giọng lão bá tước, có lẽ từ trên tháp lâu đài vọng xuống. Giọng lão rì rầm, khàn đục và có cái gì đó như tiếng kim. Và bất chợt từ xa, tiếng kêu hú của bầy sói bỗng rộ lên như đáp lại tiếng gọi của lão. Quả thực, vài phút sau, một đàn sói bỗng từ đâu ào ào chạy tới đầy sân lâu đài với một sức mạnh như con nước tràn đập.
Mụ đàn bà gần như không kịp kêu thêm một tiếng, và bầy sói cũng gần như im lặng ngay lập tức. Loáng một cái, tôi đã thấy chúng nối đuôi nhau rút lui với cái lưỡi thè lè liếm mép.
Thực lòng mà nói, tôi không có gì phàn nàn cho người đàn bà ấy, bởi số phận đen đủi đã đến với đứa con của mụ, nên tốt hơn, là cứ để mụ được về nơi chín suối cùng đứa con bất hạnh.
Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có thể làm được điều gì bây giờ? Làm sao thoát khỏi cái đêm dài hãi hùng này đây?
* * * * *
Ngày 25 tháng 6, buổi sáng
Những người chưa từng trải qua những đêm tối hãi hùng sẽ không thể cảm nhận được cái dịu dàng và trong lành của buổi sớm mai. Sáng nay, khi những tia nắng sớm khẽ đậu trên hàng rào song sắt ngay chỗ trước ô cửa sổ phòng tôi trông xuống, tôi cứ tưởng có một chú bồ câu hòa bình vừa đậu ở đó! Vậy là bao nỗi lo sợ trong tôi đã biến mất như một làn hơi nước dưới ánh mặt trời. Ánh nắng đã trả lại cho tôi lòng dũng cảm, vì vậy tôi phải quyết ra tay hành động ngay! Tối hôm qua, một trong những lá thư tai quái, những lá thư có thể xóa sạch sự tồn tại của tôi trên đời này, những lá thư định mệnh mà lão bá tước bắt tôi phải viết đã được gửi đi. Tốt hơn hết là hãy đừng nghĩ quá nhiều đến chúng, mà phải tìm cách hành động?
Trong suốt thời gian ở lại lâu đài, đêm nào tôi cũng cảm thấy các mối đe dọa, theo cách này hay cách khác, đè nặng lên người, buộc tôi phải tin là mình luôn đứng trước một mối nguy hiểm. Có một điều rất lạ là từ khi đến đây, tôi chưa một lần được thấy lão bá tước vào ban ngày. Phải chăng lão đã ngủ trong khi người khác thức, và chỉ thức vào lúc người khác đã ngủ? Kỳ lạ thật! Giá như chui được vào phòng lão thì hay biết mấy! Nhưng đó là điều không thể được. Cửa phòng lão bao giờ cũng khóa, không có cách nào...
Không, vẫn có một cách... nhưng vấn đề là ở chỗ tôi có dám làm hay không. Lối mà lão bá tước vẫn dùng để chui ra ngoài, tại sao tôi lại không làm như lão được? Tôi đã vài lần trông thấy lão bò qua cửa sổ. Tại sao tôi không thể mò vào phòng lão theo đường cửa sổ ấy? Đây quả là một việc làm rất khó khăn, nhưng tình cảnh của tôi lúc này còn tuyệt vọng hơn nhiều. Tôi sẽ liều một phen. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với tôi, đó là cái chết. Song cái chết của một con người đâu phải là cái chết của một con vật, và có khi tôi còn được Chúa ban cho một cuộc sống vĩnh hằng ấy chứ. Chúa sẽ phù hộ cho tôi! Mina, xin gửi em lời chào vĩnh biệt nếu như anh không trở về. Vĩnh biệt người bạn chung thủy của tôi, người lúc nào cũng coi tôi như một vị cha thứ hai của mình. Cuối cùng, xin được vĩnh biệt tất cả. Mina ơi, một lần nữa xin được vĩnh biệt em!
* * * * *
Buổi sáng cùng ngày, một lúc sau
Vậy là tôi đã xuống được dưới đó và ơn Chúa phù hộ, tôi đã trở về phòng mình mà không sứt mẻ gì cả. Tôi sẽ giải thích mọi chi tiết ngay bây giờ.
Lúc đó, không hiểu sao tôi lại can đảm đến thế! Tôi đi về phía ô cửa sổ phía nam lâu đài rồi leo ngay lên rìa đá hẹp chạy dọc bức tường bên ngoài. Các viên đá xây ngoài rìa tường đều rất lớn và chỉ được đục đeo rất sơ sài giữa các mạch vữa, như tôi đã nói, đều tróc lở vì năm tháng. Việc tôi đặt chân lên các gờ đá cheo leo này cũng đồng nghĩa với việc lao vào một cuộc phiêu lưu chết người...
Leo được vài bước, tôi thử cúi nhòm xuống dưới chân lâu đài nằm sâu hun hút xem có chóng mặt không, nhưng rõ ràng là tôi không dám làm như vậy quá một giây. Tôi hoàn toàn xác định được vị trí ô cửa sổ phòng lão bá tước và cố gắng leo tới đó càng sớm càng tốt. Sự cheo leo của rìa tường không làm tôi chóng mặt, bởi lúc nào tôi cũng cố gắng nhìn ngang. Và trong một khoảng thời gian mà tôi thấy là rất ngắn ngủi, tôi đã leo tới rìa cửa sổ cánh sập phòng lão bá tước.
Sau khi đẩy được cánh cửa lên, tôi co gập người, thò hai chân vào trước rồi chuồi vào trong phòng. Tôi lấm lét nhìn quanh, thật may là lão bá tước không có trong phòng. Đồ đạc dưới này không có gì nhiều chỉ có vài thứ đồ gỗ cọc cạch có vẻ như chẳng bao giờ được sử dụng; thứ nào thứ nấy đều phủ đầy bụi, một số trông rất giống với những đồ tôi đã trông thấy trong các phòng ở cháy phía nam lâu đài. Tôi nghĩ ngay đến chiếc chìa khóa, nhưng nó không được cắm trong ổ, và tôi cũng không tìm thấy ở đâu cả Sự chú ý của tôi dừng lại ở một đống tiền vàng đầy túi ụ nằm ở góc phòng - đó là đống tiền xu đủ loại của các nước Rumani, Anh, Áo, Hungary, Hy Lạp. Những đồng tiền này có vẻ như đã nằm ở đó từ rất lâu bởi có một lớp bụi phủ dày. Tất cả đều là những đồng tiền cổ có niên đại cách đây ít nhất là ba trăm năm. Tôi cũng nhận ra vài sợi dây chuyền và mấy đồ mỹ nghệ có nạm ít nhiều đá quý, nhưng những thứ này đều 100 rất cũ kỹ và bị hư hỏng cả.
Tôi đi về phía một tấm cửa nặng nề vừa được phát hiện ở một góc phòng, bởi vì không tìm được chìa khóa phòng cũng như chìa khóa cửa lâu đài đây là điều tôi không được quên và là mục tiêu tìm kiếm chính của tôi nên tôi buộc phải lục tìm, khám phá lung tung, nếu không cuộc phiêu lưu mạo hiểm vừa rồi của tôi sẽ chẳng có tác dụng gì cả. Cánh cửa này mở ra một hành lang có các bức tường xây toàn bằng đá, dẫn đến một cầu thang xoáy chôn ốc. Tôi thận trọng bước xuống, vì chiếc cầu thang đựng đứng này chỉ được chiếu sáng nhờ hai lỗ châu mai trên một bức tường rất dày. Xuống hết cầu thang, tôi lại rơi vào một hành lang tối tăm khác, một đường hầm thực sự, sặc mùi chua, hăng hắc, gợi cho tôi liên tưởng tới mùi của các xác chết đó là một mùi bốc lên từ lớp đất vừa được đào bới. Càng bước sâu vào trong, thứ mùi đó càng có vẻ nặng hơn khiến tôi gần như không thê chịu nổi. Cuối cùng, tôi mở toang cánh cửa rất đầy khác trong dãy hành lang. Tôi đang đứng trước một nhà thờ cổ điêu tàn, nơi hẳn đã có những thi thể được chôn cất. Mái nhà thờ thủng lỗ chỗ, hai bên tường có rất nhiều bậc thềm dẫn tới các hầm mộ. Tôi nhận ra lớp đất vừa bị đào xới và những xẻng đất đổ đầy các thùng lớn đặt rải rác xung quanh: chắc chắn đó chính là những thùng gỗ mà đám người Slôvaki vừa chở đến. Trong nhà thờ chẳng có ai cả. Tôi vẫn tiếp tục mò mẫm: biết đâu ở trong này lại có một lối ra? Không, không có một lối thoát nào cả. Tôi tiếp tục kiểm tra kỹ hơn nữa. Và mặc dù rất ghê tởm, tôi vẫn xông bừa vào các hầm mộ, nơi đang hắt ra những tia sáng yếu ớt. Trong hai hầm mộ đầu tiên, tôi chẳng tìm thấy gì ngoài những mảnh áo quan cổ và những đám bụi.
Vào hầm mộ thứ ba, tôi bỗng giật thót người khi phát hiện ra một điều.
Lão bá tước đang nằm lù lù trên một chiếc hòm đặt trên một đống đất mới đào? Tôi không thể nói là lão đã chết hay đang ngủ, bởi đôi mắt lão vẫn đang mở thao láo, vô hồn như đôi mắt đá, nhưng không lờ đờ như mắt người chết. Hai gò má của lão, dù xám ngoét, có vẻ như vẫn giữ được hơi ấm của sự sống, còn đôi môi thì vẫn đỏ như thường có ở lão. Tuy nhiên, thân thể lão lại hoàn toàn bất động, không có dấu hiệu của hơi thở, và trái tim dường như đã ngừng đập trong lồng ngực của lão. Dù thế, tôi vẫn cúi xuống với hy vọng là lão chỉ vừa nằm ở đây thôi, bởi mùi đất vẫn còn rất mới. Cái nắp hòm thủng lỗ chỗ được dựng tựa vào đống đất. Tôi nghĩ có thể các loại chìa khóa đang được cất trong các túi quần áo lão đang mặc, nhưng khi định tiến lại gần lão để lục soát, tôi lại đâm ra nhụt chí. Rõ ràng là trước sự có mặt của tôi, ánh mắt lão vẫn cứ tắt lịm và không có biểu hiện gì của sự nhận thức, song sự hận thù còn đọng lại trong đôi mắt trợn tròn ấy đã khiến tôi phải lập tức bỏ trốn, quay về phòng lão, trèo qua cửa sổ và bò ngược theo bức tường. Khi đã về tới phòng mình, tôi ngồi phục lên giường mà thở. Tôi cố chắp lại tất cả các ý nghĩ của mình...
 
Ngày 29 tháng 6
Hôm nay là ngày gửi lá thư cuối cùng của tôi. Lão bá tước hẳn đã không quên chuyện này, bởi một lần nữa tôi trông thấy lão rời khỏi lâu đài theo lối cửa sổ, trong khi vẫn không quên khoác bộ đồ của tôi trên người. Nhìn lão bò xuống theo bức tường như một con thằn lằn, tôi chỉ có một mong muốn: vớ lấy một khẩu súng hoặc bất cứ một thứ vũ khí chết người nào để cho lão một phát! Mặc dù tôi không biết thứ vũ khí ấy có tác dụng gì đối với lão hay không. Tôi không dám rình lão quay trở về, vì lúc này tôi đã thực sự cảm thấy sợ khi phải một lần nữa trông thấy bộ ba chết chóc lần trước. Tôi quay về thư viện tìm một cuốn sách để đọc cho khuây khỏa; nhưng chỉ được một lát, tôi đã lăn ra ngủ.
Sự xuất hiện của bá tước đã làm tôi thức dậy. Lão nói với tôi, giọng đầy vẻ hăm dọa :
- Ông bạn ạ, ngày mai chúng ta sẽ tạm biệt nhau. Ngài sẽ trở về nước Anh tươi đẹp của ngài. Sau này, có thể chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữa. Lá thư ngài viết cho người thân đã được bỏ vào bưu điện. Ngày mai tôi sẽ không có mặt ở đây, nhưng tất cả những gì cần cho chuyến đi của ngài đều đã được chuẩn bị chu đáo. Người Digan sẽ tới đây vào buổi sáng, bởi họ có việc cần phải làm, cả đám người Slovaki cũng vậy Khi họ đi rồi, xe của tôi sẽ đến tìm ngài và chở ngài tới đèo Borgo, nơi ngài sẽ đón xe khách về Bistritz. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng vẫn hy vọng sẽ có ngày lại được đón tiếp ngài ở lâu đài Draculal!
Nghe vậy, tôi quyết định thử xem lão thành thật đến mức nào, sự thành thật của vị bá tước như lão. Tôi có cảm giác như muốn làm uế tạp ý nghĩ này khi hình dung tới một con quỷ. Tôi đột ngột hỏi lão :
- Tại sao tôi không thể đi luôn vào tối nay?
- Ông bạn thân mến ạ, bởi vì tay xà ích và đàn ngựa của tôi đều đang có việc phải đi.
- Nhưng tôi sẽ rất vui lòng nếu được như vậy. Nói thật với ngài nhé, tôi muốn được rời khỏi đây ngay lập tức.
Lão cười, một nụ cười thật dịu dàng nhưng cũng rất quỷ quái, một nụ cười mà tôi có thể dễ dàng đoán được cái ý đồ đen tối hàm chứa trong cái vẻ dịu dàng đến lạnh người ấy.
- Thế còn hành lý của ngài thì sao? - Lão hỏi.
- Không quan trọng. - Tôi đáp lại. - Tôi sẽ cho lấy sau cũng được.
Lão đứng dậy và nghiêng mình cúi chào tôi, cử chỉ của lão lịch sự đến nỗi suýt nữa thì tôi phải dụi mắt vì không nghĩ lão lại có thể thành thực đến thế.
- Người Anh các ngài có một câu ngạn ngữ mà tôi rất thích, bởi nó thể hiện rất rõ cái tinh thần trong cách xử sự của những người thuộc dòng dõi quý tộc chúng tôi: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi!” Hãy đi theo tôi, ông bạn trẻ thân mến, ngài sẽ không phải miễn cưỡng ở lại đây thêm một giờ nào nữa, mặc dù tôi thật buồn khi phải chia tay với ngài và khi ngài sốt ruột muốn đi sớm như vậy. Lại đây?
Lão trịnh trọng cầm cây đèn và dẫn tôi xuống cầu thang rồi đi tiếp về phía cửa chính của lâu đài. Nhưng khi đi tới giữa hành lang, lão bỗng đột ngột dừng lại.
- Ngài hãy nghe đi! - Lão bảo tôi.
Có tiếng hú của bầy sói ở một nơi không xa lâu đài. Lão vung tay lên, và dường như những tiếng hú ấy cũng cấp cao lên theo động tác của lão, giống như dàn nhạc phải tuân theo chiếc đũa của người chỉ huy. Lát sau, vẫn cái dáng vẻ ai nghiêm, lão bước tiếp. Ra tới cổng lâu đài, lão rút chốc cửa, kéo tuột những sợi dây xích nặng nề xuống rồi từ từ mở cửa.
Tôi ngạc nhiên: như vậy là cửa không khóa. Chưa tin đây là sự thật, tôi ngơ ngác nhìn quanh, song vẫn không thấy chìa khóa đâu cả.
Cánh cửa càng mở rộng ra bao nhiêu thì tiếng kêu gào của bầy sói càng dữ dội bấy nhiêu. Lũ súc vật, con nào con nấy đều nhe răng thè lưỡi đỏ hỏn, vẻ rất hăm dọa, có con còn nghiến răng ken két. Không hiểu chúng xuất hiện ngoài cửa từ lúc nào. Tôi chợt hiểu mình không thể cưỡng lại ý muốn của bá tước. Tôi có thể làm gì để chống lại lão, khi lão có những đồng minh ghê sợ kia? Tuy nhiên, cánh cửa vẫn từ từ rộng mở, và lão bá tước thản nhiên ra đứng ngay ở ngưỡng cửa. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: có lẽ giờ định mệnh của tôi đã điểm; tôi sẽ bị đẩy ra làm mồi cho lũ chó sói, bởi vì tôi muốn thế. Ngón đòn nham hiểm này hẳn phải làm lão bá tước rất vui. Và như chẳng còn cách lựa chọn nào khác, tôi buộc phải kêu lên để tìm cho mình một vận may cuối cùng :
- Đóng cửa lại đi! Tôi sẽ đợi? Tôi sẽ đi vào sáng mai vậy?
Chỉ nói được có vậy, tôi lấy tay ôm mặt giấu đi những giọt nước mắt đắng cay tuyệt vọng.
Bàn tay thép của lão bá tước kéo mạnh cánh cửa nặng nề vào và cài các chất lại, tiếng va chạm của kim khí vang lên khô khốc trong hành lang.
Không ai nói với ai một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, nhưng thấy chẳng có lý do gì để ngồi lại đấy, tôi đi luôn về phòng. Lần cuối cùng ngoái lại nhìn bá tước Dracula, tôi thấy lão vừa đưa tay làm một nụ hôn gió chào tôi, đôi mắt lão ánh lên vẻ đắc thắng cùng với một nụ cười ma quái mà đến quỷ Judas cũng phải lấy làm tự hào.
Tôi chuẩn bị lên giường nằm thì chợt nghe thấy hình như có tiếng ai đó đang thì thầm ngoài cửa. Tôi rón rén bước lại gần nghe ngóng xem sao. Tôi tin là mình đã nhận ra giọng lão bá tước :
- Không được, không được. - Giọng nói vẫn cất lên. - Quay về hết cả đi! Bây giờ không phải lúc cho chúng bay...
- Hãy cứ đợi đấy! Phải biết kiên nhẫn chứ! Đêm nay sẽ thuộc về tao, đêm tới mới dành cho chúng bay!
Đáp lại lời bá tước là những tiếng cười khanh khách giễu cợt. Tức điên người, tôi mở bật cửa ra, trước mặt tôi là ba mụ đàn bà đang đứng liếm mép. Nhận ra tôi, chúng lại rộ lên những tiếng cười cợt nhả và độc ác trước khi bỏ đi.
Tôi lảo đảo quay vào và đổ khuỵu xuống sàn nhà. Chẳng lẽ ngày tận số của tôi lại mau tới đến thế sao? Ngày mai! Ngày mai! Lạy Chúa! Hãy cứu con, cứu tất cả những người thân của con!
* * * * *
Ngày 30 tháng 6, buổi sáng
Có thể đây sẽ là những dòng cuối cùng tôi còn viết được trong cuốn nhật ký này. Ngay sau khi thức dậy trước buổi bình minh, tôi đã vội quỳ gối xuống sàn, bởi nếu như giờ tận số của tôi đã điểm, thì tôi muốn rằng thần chết phải được thấy tôi đã sẵn sàng.
Quỳ gối được một lúc thì tôi bắt đầu cảm nhận được rằng bầu không khí buổi sớm đang có một sự thay đổi tinh tế đến khó tả... và buổi sáng vẫn đang đến... khi có tiếng gà gáy đầu tiên. Tôi cảm thấy mình dường như đang thoát chết. Tôi mở cửa, bước xuống cầu thang trong một tâm trạng nhẹ nhõm hơn. Cổng lâu đài rõ ràng là không khóa như vậy là tôi lại có cơ hội chạy trốn! Tôi nôn nóng tháo xích, mở then, hai tay run run.
Nhưng cánh cửa vẫn không hề nhúc nhích. Sự nản chí, nỗi tuyệt vọng trong tôi dần dần lên tới cực điểm. Tôi lao bừa cả người vào cánh cửa với hy vọng sẽ tìm được lối thoát, song tất cả chỉ là vô ích. Lúc này tôi mới hiểu cánh cửa đã bị khóa ngay sau khi tôi chia tay với lão bá tước.
Tuy nhiên, tôi vẫn tự nhủ rằng bằng mọi giá, tôi phải tìm và lấy cho bằng được chiếc chìa khóa khốn nạn ấy, tôi sẽ lại leo theo bức tường và chui vào phòng lão bá tước. Chắc chắn tôi sẽ nhận được cái chết nếu lão bắt gặp tôi trong phòng lão, nhưng trong số những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với tôi, thì cái chết dường như chỉ là điều tối thiểu. Và không chậm trễ một phút, tôi trèo ngay qua cửa sổ, leo xuống phòng lão bá tước. Căn phòng trống rỗng. Tôi không tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đồng tiền vàng vẫn còn nguyên đó. Tôi lần theo cầu thang và dãy hành lang tối tăm mà lần trước tôi đã đi để tới nhà thờ. Tôi biết rất rõ con quỷ mà tôi tìm kiếm đang nằm ở đâu.
Chiếc hòm lớn vẫn nằm nguyên chỗ cũ, sát chân tường, song có điều là lần này nó được đậy nắp cẩn thận nắp hòm được đóng mớm sẵn những chiếc đinh như để chờ những nhát búa. Tôi biết rằng phải lục soát cái thây ma nằm bên trong thì may ra mới tìm được chìa khóa. Vì vậy, tôi buộc phải nhấc nắp hòm lên và để nó dựa vào tường, cái thây ma trong hòm đã làm tôi sợ khiếp vía?
Vâng, vẫn là lão bá tước đang nằm trong đó, nhưng lúc này trông lão lại có vẻ trẻ hơn một nửa, bởi mái tóc, bộ râu bạc trắng của lão đã chuyển sang một màu xám như tro bếp; hai má lão cũng có vẻ đầy đặn hơn và dường như còn có một màu hồng tươi dưới lớp da xanh nhợt. Đặc biệt là đôi môi, đôi môi lão lúc này trông rõ ràng là đỏ mọng hơn bao giờ hết với những giọt máu tươi trào ra từ hai bên mép, chảy tràn xuống cằm rồi xuống tận cổ. Hai con mắt sâu hoắm và long sòng sọc của lão bị mất hút trên một bộ mặt như phù nề. Tôi có cảm tưởng con quái vật khủng khiếp này chỉ sống bằng máu tươi. Cứ nghĩ đến việc cúi xuống sờ vào người lão là tôi thấy run, sự tiếp xúc đó làm trào lên trong tôi một cảm giác ghê tởm, nhưng dù thế nào thì tôi cũng buộc phải tìm cho bằng được cái mà tôi đang tìm, nếu không tôi sẽ thấy bại! Và như vậy thân xác tôi có thể biến thành một thứ mua vui cho ba mụ đàn bà đáng sợ trong đêm tới. Tôi cắn răng lục soát tất cả các túi áo trong người lão, song vẫn không thấy chiếc chìa khóa đâu Bộ mặt trương phồng của lão bá tước như đang cười nhạo vào mũi tôi, khiến tôi muốn phát điên. Ấy vậy mà tôi đã tốn không biết bao nhiêu công sức để giúp lão về ở gần thành Luân Đôn, nơi lão có thể tiếp tục thỏa cơn khát máu không cùng của mình trong nhiều thế kỷ tới, để rồi lại biến những kể yếu thế thành những quái vật nửa người nửa ngợm. Chỉ thoáng nghĩ thế thôi tôi đã không thể nào chịu nổi. Nghĩ vậy, tôi điên tiết vớ ngay cái xẻng nằm dưới đất và định nhằm vào giữa bộ mặt ghê tởm của lão mà phang. Nhưng đúng lúc đó, đầu lão bá tước bỗng khẽ xoay sang một bên, đôi mắt long lanh độc ác của lão bắt gặp đôi mắt tôi. Người tôi sững lại như bị tê liệt tay tôi buông thõng xuống, khiến chiếc xẻng chém một nhát khá sâu lên trán lão. Chiếc xẻng tuột khỏi tay tôi rơi xuống hòm và mắc vào nắp gỗ. Tôi định cúi xuống cầm cán xẻng thì nắp hòm bỗng đổ sập xuống che hộ tôi cái cảnh tượng ghê tởm bên dưới. Chi tiết cuối cùng mà tôi nhìn thấy y là bộ mặt phù nề nhuốm máu hằn rõ một nụ cười nhăn nhở ác độc mà chỉ ở dưới địa ngục mới có.
Tôi đờ đẫn nghĩ ngợi về những gì mình sẽ phải làm, nhưng rõ ràng là tôi không thể nghĩ nổi một điều gì. Người tôi cứ ì ra, chán nản, bất lực... Tôi cứ đứng mãi, đứng mãi, cho đến khi chợt có tiếng hát của đám người Digan đột nhiên từ xa vọng tới. Tiếng hát vang lên mỗi lúc một gần cùng với điệp khúc đều đều của tiếng vó ngựa. Như lão bá tước đã nói với tôi đêm qua, người Digan và cả người Slovaki đang kéo đến lâu đài. Sau khi đảo mắt nhìn xung quanh và nhìn chiếc hòm đựng cái thây ma chết tiệt một lần cuối, tôi chạy vội về phòng lão, định bụng sẽ tẩu thoát đúng vào lúc cổng mở. Tôi căng tai lắng nghe: có tiếng mở khóa loạch xoạch trong ổ khóa lớn, tiếp đó là tiếng kêu ken két nặng nề của cánh cửa dưới tầng trệt. Như vậy, hoặc là phải có những lối cửa khác vào lâu đài, hoặc là có người cầm chìa khóa mở một trong những cánh cửa tôi đã biết. Sau đó, tôi nghe thấy y tiếng động lúc to, lúc nhỏ của nhiều bước chân đi trong một dãy hành lang nào đó. Tôi quay lại chạy ngược về phía nhà thờ, bởi biết đâu lại có một lối ra nào đó mà tôi chưa nhìn thấy y? Nhưng vừa lúc đó, một luồng không khí cực mạnh bỗng bất ngờ ùa tới đóng sập cánh cửa dẫn tới cầu thang xoáy trôn ốc lại, khiến những lớp bụi bay lên mù mịt. Tôi vội vàng chạy ngược trở ra, song đã quá muộn, cánh cửa đã bị khóa. Vậy là tôi lại trở thành tù nhân. Tấm lưới của định mệnh đang ngày một vây chặt lấy tôi.
Lúc viết những dòng này là lúc tôi nghe thấy y trong hành lang phía dưới có những tiếng bước chân nặng nề và tiếng quẳng... vâng,... chắc chắn đó là những chiếc hòm đổ đầy đất Sau đó là tiếng búa nện. Đám người khi nãy đang đóng chặt chiếc nắp hòm mà tôi vừa làm đổ sập xuống. Một lát sau, tôi lại nghe thấy y tiếng những bước chân huỳnh huỵch trong đây hành lang, kế đó là tiếng những bước chân khác có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Âm thanh cuối cùng vọng đến tai tôi là tiếng sập cửa, tiếng cài xích, tiếng vặn ổ khóa, tiếng rút chìa khóa ra khỏi ổ, rồi tiếng mở và đóng một cánh cửa khác. Tôi còn nghe thấy y tiếng xoay chìa khóa và tiếng then cài một lần nữa.
Ngoài sân, phía đầu bên kia, trên lối đi rải sỏi, là tiếng xe ngựa chậm rãi đi xa dần cùng với những tiếng lộc cộc của vó ngựa. Bài hát buồn của người Digan một lần nữa lại vút lên văng vẳng để rồi tắt lịm bên tai tôi.
Vậy là chỉ còn một mình tôi trong lâu đài, một mình tôi với ba mụ đàn bà ấy! Những người đàn bà! Mina cũng là một phụ nữ, nhưng giữa cô và chúng chẳng có điểm gì chung cả. Chúng chỉ là những con quỷ cái?
Nhưng tôi sẽ không chịu ở lại một mình với chúng. Rồi tôi sẽ lại leo tường, leo xa hơn tất cả những lần tôi đã từng làm và tôi sẽ mang theo những đồng tiền vàng lấy trong phòng lão bá tước rất có thể sau này tôi sẽ cần tới số tiền đó. Tôi tuyệt đối phải rời khỏi cái lâu đài đáng nguyền rủa này để trở về với những người thân! Chuyến tàu đầu tiên, và là chuyến tàu nhanh nhất, sẽ đưa tôi thoát khỏi nơi địa ngục, thoát khỏi cái mảnh đất chết tiệt này, nơi quỷ dữ và những tạo hóa quái đản đang sống như chúng đã từng sống trên thế giới đầy những điều trớ trêu này!


Chương 5

“Ngày 9 tháng 5
Lucy thân mến.
Xin lỗi vì sự im lặng dài dài của tớ, song thực ra tớ chẳng gặp chuyện gì phiền phức, mà đơn giản là do lúc nào tớ cũng ngập đầu vì công việc, thế thôi.
Cuộc sống của một nữ huấn luyện viên không phải lúc nào cũng thuận lợi. Sao mà tớ thèm được đi bên cậu dọc bãi biển để ba hoa đủ các chuyện trên trời dưới bể đến thế. Ử, dạo này tớ hay chúi đầu vào công việc, bởi tớ muốn có đủ khả năng để cộng tác với Jonathan. Tớ rất chăm chỉ với môn tốc ký, bằng cách này, khi bọn tớ cưới nhau rồi, tớ sẽ giúp được anh ấy ghi lại tất cả những gì anh ấy cho là cần thiết và sau đó sẽ đánh máy lại. Bây giờ tớ cũng đang học đánh máy mà. Vả lại, cả hai chúng tớ cũng thường nhận được những lá thứ viết theo lời tốc ký, và tớ biết là trong chuyến đi xa, anh ấy cũng thường ghi nhật ký theo cách ấy. Khi nào về với cậu, tớ cũng sẽ làm như vậy. Tớ sẽ làm một cuốn nhật ký và khi nào thích, tớ sẽ ghi lại tất cả những gì mình nghĩ trong đầu. Có thể tới một ngày nào đó, tớ sẽ đưa cuốn nhật ký ấy cho Jonathan xem nếu cần. Nhưng trước hết, tớ sẽ coi đấy là một cuốn vở bài tập. Tớ muốn làm những gì mà các nữ nhà báo vẫn thường làm: thực hiện các cuộc phỏng vấn, miêu tả những gì mình thấy, thử nhớ lại những chuyện đã nghe, rồi thuật lại tất cả theo một cách trung thực nhất. Có người nói với tớ rằng chỉ cần tập một chút thôi là người ta có thể dễ dàng nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra, hoặc tất cả những gì đã nghe được trong ngày. Cuối cùng, thế nào chúng mình cũng sẽ được thấy y... Tớ rất vui khi kể cho cậu nghe về những dự định nho nhỏ của mình. Tớ vừa nhận được đôi lời của Jonathan gửi về từ Transylvanie.
Anh ấy vẫn khỏe và sẽ trở về đây trong khoảng một tuần nữa. Tớ đang rất háo hức được nghe Jơnathan kể về chuyến đi của anh ấy. Chuyến đi hẳn sẽ rất tuyệt vời bởi vì nó trải dài qua không biết bao nhiêu xứ sở? Tớ đang tự hỏi cái ngày bọn tớ ý tớ muốn nói tớ và Jonathan cùng nhau viễn du có diễn ra hay không đây. Thôi nhé, bây giờ đã mười giờ rồi. Tạm biệt nhé!
Gửi cậu lời chào thân ái,
Mina.”
“T.B. Khi nào viết cho tớ, nhớ phải kể mọi chuyện đấy nhé! Lâu lắm rồi không thấy cậu làm như vậy. Tớ tin là mình sẽ được nghe kể về một anh chàng tóc quăn, cao to và đẹp trai nào đó???”


Thư của Lucy Westenra gửi Mina Murray


“Thứ tư, ngày 17, phố Chatham.
Mina thân mến,
Nói thật là cậu đã hơi quá lời khi chê trách tớ: tớ đã viết cho cậu hai lần kể từ khi chúng mình chia tay nhau, và lá thư mới nhất của cậu cũng chỉ là lá thứ hai mà tớ nhận được? Vả lại, tớ cũng chẳng có gì mới để kể cho cậu nói thật là chẳng có gì đáng để cậu quan tâm. Dạo này bọn tớ đi cũng nhiều, lúc thì xem triển lãm tranh, lúc thì dạo bộ hoặc cưỡi ngựa trong công viên. Còn về cái anh chàng cao to, đẹp trai có mái tóc vàng như cậu nói, tớ cho là cậu định ám chỉ anh chàng đã đi theo tớ tới một buổi hòa nhạc gần đây. Rõ ràng cậu đã nghe đồn đại... Đó là Holmwood.
Anh ta thường xuyên tới thăm nhà tớ; mẹ tớ và anh ta có vẻ rất hợp nhau. Họ thường quan tâm tới những điều giống nhau. Đấy là tớ nghĩ vậy. Mới đây bọn tớ cũng gặp được một người giống như cậu nói, tớ định làm mối cho cậu nếu như cậu không phải là vợ chưa cưới của Jonathan. Đó là một đám tuyệt vời? Một thanh niên đẹp trai, lịch lãm, giàu có và rất hiểu biết. Anh ta là một thầy thuốc rất thông minh. Cậu thử hình dung xem, mới có hái mươi chín tuổi mà anh ta đã có thể điều hành cả một đường đường rất lớn.
Chính Holmwood là người đã giới thiệu anh ta cho tớ. Dạo này anh ta cũng hay đến nhà tớ lắm. Tớ tin đó là một chàng trai rắn rỏi nhất, quả quyết nhất, đồng thời cũng điềm đạm nhất mà tớ đã từng gặp trong đời. Tớ cảm nhận ở anh ta một tính cách cương nghị không gì lay chuyển nổi.
Anh ta cũng luôn đọng lại trong ánh mắt người khác, cứ như thể muốn đọc bằng hết các ý nghĩ của họ. Anh ta thường hành động theo đúng sự quan tâm của tớ, nhưng tớ vẫn rất mừng khi nói với cậu rằng còn lâu anh chàng mới đạt được mục đích của mình! Đối với tớ lúc này, tớ chỉ cần được tự ngắm mình trong gương thôi là đủ. Cậu đã bao giờ tự đọc nét mặt mình trong gương chưa? Tay thầy thuốc tâm thần ấy nói rằng đối với anh ta, tớ là một ca tâm thần khá kỳ lạ, và dù có khó chịu, tớ vẫn nghĩ rằng anh ta có lý. Bệnh tâm thần! Hay thật?
Cậu biết đấy, tớ là người chẳng mấy quan tâm tới mất để có thể tả cho cậu nghe những gì đang thịnh hành. Mốt chẳng qua chỉ là một thứ thời trang phù phiếm theo như cách nói mà Arthur vẫn thường dùng... Tất cả những gì được gọi là mới đối với tớ chỉ có vậy thôi. Mina ơi, cậu có còn nhớ không, từ thuở còn trẻ dại, chúng mình vẫn thường tâm sự với nhau về mọi bí mật sâu kín nhất của mỗi đứa; chúng mình thường ngủ cùng nhau, rồi chia nhau từng mẩu bánh, từng nụ cười và cả những giọt nước mắt nữa chứ? Cậu biết không, sao bây giờ tớ lại muốn được nói chuyện, được ba hoa chích chòe với cậu đến thế! Mina à! Cậu có đoán được không? Tớ yêu anh ấy! Tớ đang đỏ mặt khi viết những lời này, bởi nếu như tớ có đủ lý do để tin rằng anh ấy cũng yêu tớ, thì anh ấy lại chưa hề nói với tớ điều ấy. Mina ơi, tớ yêu anh ấy! Tớ yêu anh ấy? Tớ yêu anh ấy! Thế đấy! Chỉ có viết như vậy tớ mới thấy trong lòng dễ chịu. Giá như lúc này được ở bên cậu, được ngồi gần cậu bên đống lửa với bộ đồ xuềnh xoàng để tâm sự như những ngày xưa thì hay biết nhường nào; chúng mình sẽ lại rủ rỉ nói chuyện, và tớ sẽ cố tâm sự bằng được với cậu tất cả những cảm xúc mà tớ đã trải qua. Tớ không biết làm thế nào để có thể thổ lộ những tâm sự thầm kín của mình, kể cả với cậu... Tớ e là phải dừng bút ở đây, bởi nếu không tớ sẽ xé nát lá thư đi mất. Thực tình mà nói, tớ vẫn chưa muốn dừng bút đâu, vì tớ vẫn thèm được kể thêm một chuyện gì đó với cậu. Trả lời tớ ngay nhé, hãy nói thẳng cho tớ biết những suy nghĩ của cậu. Mina à, tớ dừng bút đây... Tạm biệt nhé. Hãy cầu Chúa phù hộ cho tớ và cho hạnh phúc của tớ, Mina nhé.
Luccy”.
“T.B. Thật vô ích khi nói với cậu đây là một điều bí mật, đúng vậy không Mina? Một lần nữa xin tạm biệt! L”..
 
Thư của Lucy Westenra gửi Mina Murray

“Ngày 24 tháng 5
Mina thân mến.
Cảm ơn, cảm ơn và cảm ơn rất nhiều vì lá thư dễ thương của cậu. Tớ rất vui khi được tâm sự với cậu và được biết rằng cậu cũng rất hiểu tôi Cô bạn thân mến, cho đến bây giờ tớ mới cảm nhận được câu nói: “Phúc trùng lai” của cổ ngữ là đúng? Đến tháng chín này tớ sẽ bước sang tuổi hai mươi, và từ trước tới nay, chưa bao giờ tớ nhận được một lời cầu hôn nghiêm túc nào của ai cả, ấy vậy mà cậu biết không, hôm nay tớ lại nhận được lời đề nghị của những ba đám cơ đấy? Ừ, ba lời đề nghị cầu hôn trong đúng có một ngày? Kể ra cũng kinh khủng đấy chứ? Nhưng tớ cũng chạnh buồn, thực sự buồn cho hai chàng trai tội nghiệp còn lại, bởi dù muốn hay không, tớ cũng chỉ được phép chọn một mà thôi. Nhưng cậu phải nhớ là đừng vội kể cho ai đấy nhé, tớ không muốn phải nghe những lời gièm pha, thêu dệt và đố kỵ một tý nào!... Bây giờ, có lẽ là tớ sẽ kể cho cậu nghe cả ba... Cậu sẽ hứa giữ bí mật cho tớ chứ? Tất nhiên là nếu muốn, cậu có thể cho Jonathan biết, song chỉ một mình anh ấy thôi. Một phụ nữ thường phải nói tất cả cho người chồng được biết, đúng vậy không, cô bạn yêu quý? Bây giờ tớ sẽ lần lượt kể cho cậu nhé: nhân vật số một đến vào khoảng mười hai giờ, khi cả nhà vừa ngồi ăn trưa. Như tớ đã nói với cậu rồi: đó là bác sĩ John Seward, giám đốc dưỡng đường tâm thần, một người đàn ông có cái cằm cương nghị và vầng trán rất cao. Nhìn bề ngoài, anh ta có vẻ hoàn toàn trầm tỉnh, nhưng tớ đoán đó là sự căng thẳng thì đúng hơn. Anh ta đã tỏ ra là người có cách cư xử đầy ấn tượng. Tuy nhiên, anh chàng vẫn vụng về đến nỗi suýt ngồi bẹp cả chiếc mũ vừa đặt trên ghế điều mà đàn ông nói chung không thể mắc phải nếu như họ có máu lạnh.
Và để làm ra vẻ tự nhiên, anh ta lôi cả dao... mổ ra chơi, không hiểu tại sao cứ mỗi lần nhìn thấy nó là tớ lại thấy sợ phát khiếp? Nhưng Mina à, được cái anh chàng nói chuyện rất thật thà. Anh ta nói rằng anh ta trông đợi ở tớ rất nhiều mặc dù thời gian quen nhau chưa được lâu, rằng cuộc sống đối với anh ta sẽ trở nên thật tuyệt vời nếu như có tớ bên cạnh để giúp đỡ, động viên, an ủi. Anh ta muốn tớ hiểu rằng nỗi buồn phiền trong anh ta sẽ tiêu tan khi có tớ, song khi nhìn thấy những giọt nước mắt trên gương mặt tô, anh ta hốt hoảng tự nhận mình là đồ vô tâm và bảo không hề muốn làm cho tớ phiền muộn thêm. Anh ta chỉ hỏi không hiểu thời gian trôi qua có làm cho tớ cảm thấy yêu anh ta hay không. Tớ lắc đầu, hai bàn tay run run và trong lòng không phải là không có chút do dự. Anh ta cũng dò hỏi xem có phải là tớ đã yêu người khác rồi không và nói rằng khi trái tim của người con gái chưa thuộc về ai, thì người con trai như anh ta vẫn có thể hy vọng và chờ đợi. Vậy đấy, Mina à, lúc ấy tớ cảm thấy bổn phận của mình là phải thú thực rằng tớ đang yêu một người nào đó. Nghe tớ nói vậy, anh ta đứng ngay dậy, vẻ mặt rất nghiêm trọng dù vẫn cố tỏ ra thật bình thản, và cầm lấy hai tay tớ với lời chúc hạnh phúc. Anh ta còn bảo nếu bao giờ cần tới một người bạn, một người bạn thật sự tận tâm, thì tớ có thể tin tưởng ở anh ta. Mina thương nhớ, cậu có biết không, viết cho cậu mà tớ không sao cầm được lòng mình. Chắc là cậu sẽ tha lỗi cho tớ khi trông thấy những giọt nước mắt đọng khô trên trang giấy này, đúng không cô bạn? Được cầu hôn thì còn gì bằng đối với một người con gái, nhưng tớ đảm bảo với cậu rằng chẳng ai sung sướng khi thấy một chàng trai tội nghiệp yêu mình chân thành phải bỏ đi với trái tim tan nát... Khi biết rất rõ rằng dù anh ta có nói gì đi chăng nữa, thì tớ cũng sẽ hoàn toàn biến khỏi cuộc đời của anh ta. Mina thân, có lẽ tớ phải đừng bút đây, tớ không thể viết gì hơn về điều đó, tớ đang rất buồn, mặc dù trong lòng vẫn cảm thấy mình đang thật hạnh phúc!”.
Buổi tối
Arthur vừa đi, lúc này tớ đã cảm thấy nhẹ lòng hơn lúc tạm dừng bút rất nhiều. Vậy là tớ lại có thể tiếp tục kể cho cậu nghe về một ngày đời của mình rồi. Nhân vật thứ hai đến vào sau buổi trưa. Đó là một chàng trai rất thú vị, một người Mỹ bang Texas. Anh chàng trông trẻ đến mức mà tớ không sao tin nổi là anh ta đã đi qua rất nhiều nước và chứng kiến không biết bao nhiêu chuyện! Bây giờ tớ mới cảm thấy thông cảm cho cô nàng Desdémone khốn khổ và hiểu được những gì cô phải trải qua khi nghe kể về một đống chuyện hấp dẫn, cho dù người kể là một anh chàng da đen? Bọn con gái chúng mình thường cái gì cũng sợ, nên luôn nghĩ tới một người đàn ông có thể che chở, đảm bảo và cưới được mình. Nếu là người đàn ông, tớ hoàn toàn biết cách làm thế nào để chinh phục được trái tim người con gái... Nhưng không, nói cho cùng, tớ chẳng biết gì cả, bởi tớ thấy nếu như anh chàng Morris - tức anh chàng người Mỹ tớ vừa nói - không ngần ngại kể bằng hết các cuộc viễn du của mình cho mọi người nghe, thì Arthur lại không kể gì cả, và tuy rằng... Nhưng thôi, tớ đi nhanh quá... Anh chàng Quincey P. Morris gặp tớ ở nhà có một mình. Khi một người con trai đến gặp một người con gái, cô ta luôn đứng có... một mình, cứ như là một sự tình cờ. Không, điều này không hoàn toàn đúng, bởi vì đã hai lần Arthur tìm cách bố trí để được gặp tớ một mình và tớ cũng tạo điều kiện cho anh ấy: sự tình cờ chẳng có nghĩa lý gì cả, bây giờ thì tớ có thể khẳng định điều này mà không hề xấu hổ. Tớ cũng xin nói với cậu rằng Morris không luôn miệng dùng tiếng lóng.
Quả thực, anh ta không bao giờ làm như vậy trước người nước ngoài, bởi anh ta là người rất có giáo dục và có cách xử sự thật rõ ràng. Nhưng khi nhận ra rằng tớ rất vui khi nghe nói tiếng lóng Mỹ, và khi thấy không có ai ở nhà để bị mang tiếng là chướng tai, anh ta cũng nói lắm chuyện thật buồn cười? Cô bạn yêu quý ạ, tớ phải tự hỏi rằng có phải anh ta đã sáng tác ra những tình huống đó hay không, vì chuyện nào anh ta kể cũng mang chính xác một hàm ý nào đó mà anh ta muốn nói. Có khi tớ cũng phải học thói quen nói lóng mất... Không hiểu sau này tớ có làm như vậy không, và tớ cũng không biết điều này có làm cho Arthur thích hay không, bởi tớ chưa bao giờ thấy anh nói bất cứ một câu tiếng lóng nào. Và rồi cái anh chàng Morris ấy ngồi xuống bên cạnh tớ, vẻ sung sướng và hạnh phúc, dù vẫn còn rất căng thẳng. Anh ta nắm chặt bàn tay tớ một hồi lâu rồi thủ thỉ, giọng rất nhẹ nhàng :
- Lúc này, tôi biết là tôi không xứng đáng được buộc giày cho em, nhưng tôi nghĩ nếu cứ chờ đợi, thì còn lâu em mới tìm được một người đàn ông như vậy. Chẳng lẽ em lại không muốn hai chúng ta cùng nhau đóng một bộ yên cương, rồi cùng nhau ngồi chung trên lưng ngựa hay sao?
Thực lòng mà nói, tớ thấy anh ta có vẻ hài hước đến nỗi nếu tớ từ chối lời đề nghị của anh ta, thì anh ta cũng chẳng đến mức buồn như chàng bác sĩ Seward tội nghiệp. Tớ cũng đáp lại anh ta bằng một giọng hài hước rằng tớ chẳng hề biết gì về cách đóng yên cương, và rằng cho tới lúc này tớ vẫn chưa thích bị đặt lên lưng ngựa.
Anh ta xin lỗi vì đã nói quá nhỏ và đề nghị tớ cho chuộc lỗi vào một dịp mà anh ta cho là quan trọng và nghiêm túc. Khi nói những điều này, anh ta có vẻ ngao ngán và nghiêm trang tới mức làm tớ không thể không mủi lòng. Và khi tớ còn chưa kịp nói thêm điều gì, anh ta đã vội tuôn ra một tràng những lời yêu đương âu yếm, rồi bày tỏ hết tâm hồn và nỗi lòng mình. Một lần nữa anh ta lại giãi bày nỗi lòng mình bằng một vẻ thực sự nghiêm túc, khiến cho tớ quên hẳn ái bộ dạng hài hước lúc trước của anh ta. Chắc chắn là anh ta đã đọc được một điều gì đó trên gương mặt tớ khiến cho anh ta phải lo lắng, vì tự nhiên anh ta lại dừng lại rồi chuyển giọng nói với tớ, vẻ nhiệt tình hơn và cũng thật can đảm hơn. Nếu trong lòng tớ chưa có hình bóng của người nào, thì có lẽ tớ sẽ đem lòng yêu anh ta chỉ vì lòng nhiệt tình đó mất :
- Lucy à, em quả là một cô gái chân thật và có đức hạnh. Tôi sẽ chẳng ở đây nói chuyện với em nếu như tôi không hiểu điều ấy, nếu tôi không hiểu em là người thật thà và thẳng thắn. Vậy tôi xin hỏi thật một câu, khi chỉ có hai chúng ta như hai người bạn ngồi đối mặt nhau ở đây, rằng có phải em đang yêu một người nào đó không? Nếu đúng như vậy, thì tôi sẽ không bao giờ làm phiền em nữa, nhưng nếu em muốn, thì tôi sẽ sẵn sàng trở thành một người bạn rất trung thành của em.
Mina thân, tại sao những người đàn ông lúc nào cũng mang một tâm hồn cao thượng đến thế, trong khi bọn con gái chúng mình lại luôn chỉ nghĩ xấu về họ?
Lúc này tớ mới chợt hiểu rằng suất nửa giờ đồng hồ qua, tớ chỉ biết đùa cợt, trong khi anh ta đang muốn ở mình một sự rõ ràng, dứt khoát. Tớ lại khóc, bởi tớ đang rất buồn, rất bất hạnh. Tại sao một cô gái lại không thể cưới ba người đàn ông, hơn nữa khi cô ta lại thực sự đang có cơ hội làm như vậy? Cậu có nghĩ rằng điều đó sẽ làm ta tránh được bao nỗi phiền muộn không...? Mặc dù nước mắt lưng tròng, tớ vẫn cố nhìn thẳng vào mắt Morris mà trả lời thẳng thắn như anh ta vừa mới nói :
- Vâng, em đã yêu một người, mặc dù anh ấy còn chưa nói với em rằng anh ấy yêu em.
Tớ hiểu ngay là tớ đã xử sự đúng khi nói thẳng vấn đề với anh ta, bởi lúc đó nét mặt anh ta rạng rỡ hẳn lên, anh ta nắm chặt hai bàn tay tớ (vậy mà tớ cứ ngỡ chính mình đã đặt tay vào tay anh ta) và nói bằng một giọng thân tình nhất :
- Em quả là một cô bé chân thành và chung thủy! Đừng khóc nữa, Lucy thân mến ạ; nếu phải lo cho tôi, thì xin em hãy đừng phiền lòng: tôi đã quen với những lúc khó khăn và lần này tôi cũng sẽ biết chịu đựng mà. Nhưng nếu anh chàng ấy vẫn chưa chịu nhận ra cái hạnh phúc của mình, thì hắn sẽ phải sớm hiểu rằng hắn đang được đánh giá cao, nếu không hắn sẽ biết tay tôi. Cô bé ạ, sự trung thực, lòng can đảm, tính thật thà của em cho thấy em có thể trở thành một người bạn thực sự đáng quý, đáng quý hơn cả tình yêu. Lucy thân mến, có thể nỗi cô đơn sẽ là kẻ đồng hành với tôi trong những tháng ngày còn lại của cuộc đời. Em sẽ tặng tôi một nụ hôn, chỉ một thôi, được không? Đó sẽ là một kỷ niệm êm đềm làm sáng người những đêm tối của tôi. Em hãy nói rằng em có thể làm như vậy một lần đối với tôi, bởi vì anh chàng kia hẳn phải là một anh chàng rất đẹp trai, rất hấp dẫn và cũng rất khôn khéo, nếu không thì em sẽ không yêu vẫn còn chưa ngỏ lời với em kia mà.


Mina à, quả thực những lời anh ta nói đã làm tớ thực sự mủi lòng: đi về một tình địch như vậy, nhất là trong lúc đang buồn, chẳng phải là một cử chỉ đáng khâm phục lắm sao? Tớ nghiêng người, khẽ đặt lên môi anh ta một nụ hôn. Anh ta đứng dậy, tay vẫn nắm chặt tay tớ, mắt nhìn vào khuôn mặt tớ một hồi lâu, khiến tớ ngượng đỏ cả mặt, rồi nói :
- Cô bé ạ, tôi đã nắm đôi bàn tay em, và em đã trao cho tôi một nụ hôn, nếu điều đó không làm cho tình bạn của chúng ta gắn bó, thì chắc chắn nó cũng không thể làm nên một điều gì khác. Cảm ơn lòng tất và sự chân thật của em, tạm biệt!
Anh ta khẽ buông hai bàn tay tớ xuống, rồi cầm mũ đi nhanh ra cửa mà không hề ngoảnh lại, không khóc, không nấn ná và cũng chẳng dừng lại... Còn tớ, tớ cứ đứng khóc như một đứa trẻ... Ôi? Tại sao một người đàn ông như anh ta lại phải chịu bất hạnh đến thế, trong khi trên đời này còn có bao nhiêu cô gái đang sẵn sàng hôn theo dấu chân anh ta? Tớ cũng sẽ làm như vậy nếu như trong lòng tớ chưa có hình bóng ai? Cưng à, tất cả đã làm tớ rối bời cả lên đây này. Bây giờ tớ đang cảm thấy không sao diễn tả được niềm hạnh phúc của mình, hơn nữa tớ cũng ba hoa khá nhiều rồi? Và tớ chưa muốn nói gì với cậu về nhân vật số ba, khi mà hạnh phúc của tớ còn chưa trọn vẹn.
Mãi là người bạn của cậu,
Lucy.”
“T.B. Ôi! Nhân vật số ba... Nhưng tớ có cần phải nói với cậu về nhân vật này không nhỉ? Vả lại, tất cả vẫn còn đang rất mù mờ đối với tớ... Hình như lúc anh ấy bước vào phòng khách và siết chặt tớ trong vòng tay, đặt lên môi tớ những nụ hôn diễn ra chỉ cách nhau đúng có mấy phút. Tớ thật sung sướng, sung sướng đến phát điên lên được! Và tớ vẫn chưa biết mình phải làm gì cho xứng với niềm hạnh phúc này. Từ giờ trở đi, tớ chỉ còn biết chứng tỏ với Chúa rằng tớ rất biết ơn Người vì Người đã ban cho tớ một tình yêu, một người chồng và một người bạn.
Tạm biệt nghe cưng!”


Nhật ký của bác sĩ Seward (ghi trong đĩa hát)


Ngày 25 tháng 5
Hôm nay quả là một ngày buồn. Ăn không ngon... ngủ cũng không được. Vậy là tôi lại nghĩ đến ghi nhật ký... Hôm qua, từ lúc bị từ chối lời cầu hôn, tôi cứ có cảm giác là mình đang sống trong sự trống rỗng, dường như chẳng còn gì đáng làm tôi bận tâm cả... Khi hiểu rằng phương thuốc duy nhất để chứa khỏi tâm trạng này là công việc, tôi đã tập trung mọi cố gắng cho việc chăm sóc các bệnh nhân. Tôi đã khám cho một ca bệnh mà tôi cho là đặc biệt nhất. Cách xử sự của bệnh nhân này kỳ cục đến mức khiến tôi phải quyết định dồn mọi nỗ lực cần thiết để nắm bắt tất cả những gì đang diễn ra trong con người hắn. Cuối cùng thì tôi cũng bắt đầu láng máng cảm nhận được sự bí ẩn của con người hắn.
Để hiểu được ảo giác trong đầu bệnh nhân, tôi phải đặt ra cho hắn nhiều câu hỏi hơn mức bình thường. Bây giờ tôi mới hiểu mình làm như vậy là hơi ác. Nó gần giống như việc tôi cố tình đẩy hắn tới chỗ chỉ nói tới sự điên dại của hắn - điều mà tôi vẫn luôn tránh làm với các bệnh nhân của mình, giống như việc tôi tránh rơi vào bờ địa ngục.
(Ghi chú: vậy tôi có thể không tránh khỏi rơi vào bờ địa ngục trong những hoàn cảnh nào?) Omnia Romae venalia sunt! Nếu như tồn tại một cái gì đó có thực đằng sau cách xử sự theo bản năng này, thì việc tìm hiểu chính xác bản chất của nó cũng là điều đáng làm, và nên bắt đầu ngay từ bây giờ...
Bệnh nhân Renfield, số 59. Tính khí nóng nảy, thể chất khỏe mạnh, dễ bị kích động, mệt mỏi theo chu kỳ, dẫn tới những định kiến mà bây giờ tôi vãn chưa lý giải được. Tôi có cảm tưởng một kẻ nóng nảy, nếu mất thăng bằng, có thể hoàn toàn không có lý trí; và những người kiểu như vậy có thể trở nên rất nguy hiểm tùy theo tính ích kỷ của họ. Ở những người ích kỷ, bản năng bảo thủ chính là một thứ lá chắn vừa bảo vệ đối phương của họ, lại vừa bảo vệ cả chính bản thân họ. Tôi tin rằng khi cái tôi có được một vị trí vững chắc, thì lực hướng tâm sẽ cân bằng với lực ly tâm, còn cái bổn phận sẽ làm thành điểm cố định, lực ly tâm sẽ đẩy nó đi, và chỉ có một hoặc một loạt sự tình cờ ngẫu nhiên mới có thể lập lại sự cân bằng.


Thư của Quincey P. Morris gửi ngài Arthur Holmwood đáng kính


Ngày 25 tháng 5
“Art thân mến,
Chúng tôi có dịp ngồi bên nhau trên đồng cỏ, gần ánh lửa trại và kể cho nhau nghe những chuyện đã qua và chúng tôi đã băng bó vết thương cho nhau sau khi cố gắng cập bờ quần đảo Marquises. Chúng tôi còn uống cho sức khỏe của nhau bên bờ hồ Titicaca. Tôi vẫn còn những chuyện khác để kể, những vết thương khác để chữa, và một sức khỏe khác để cầu chúc: Anh có muốn góp mặt cùng chúng tôi bên ánh lửa trại vào tối ngày mai không? Tôi không hề thấy ngại ngùng khi đề nghị như vậy, bởi tôi biết có một quý bà nào đó đã được mời tới dự một bữa tối, trong khi anh vẫn là kẻ chưa vợ. Chúng ta sẽ chỉ có ba người, người thứ ba là ông già Jack Seward của chúng ta. Hai chúng tôi muốn cùng chia sẻ với nhau nỗi lòng mình, cùng uống vì sức khỏe của người đàn ông hạnh phúc nhất trên đời, người đã biết cách chinh phục được một trái tim thanh cao nhất của tạo hóa và xứng đáng được chinh phục nhất. Chúng tôi hứa sẽ đón tiếp anh một cách nồng nhiệt, thân thiện và chân thành nhất! Cả hai chúng tôi xin thề sẽ đưa anh về tận nhà nếu như anh uống hất mình vì sức khỏe của một đôi mắt nào đó! Chúng tôi sẽ đợi anh!
Mãi là bạn của anh,
Quincey P. Morris.”


Điện của Arthur Holmwood gửi Quincey P. Morris


“Hãy tin tưởng ở tôi. Tôi sẽ mang tới những thông điệp có thể sẽ làm cho cả hai vị phải ù tai rất lâu.
Art.”
 
Chương 6

Nhật ký của Mina Murray

Whitby, 24 tháng 7
Lucy đi tìm tôi lúc tôi vừa xuống tàu, trông cô có vẻ xinh xắn và duyên dáng hơn bao giờ hết. Chúng tôi đi ngay về khách sạn Trăng Lưỡi liềm, nơi cô và bà mẹ đã đập mấv phòng thuê. Đó là một nơi đẹp mê hồn, có con sông Esk nhỏ bé chảy qua một thung lũng sâu thẳm trải rộng dần ra các vùng phụ cận của bến cảng. Nối liền hai bờ thung lũng là một cây cầu cạn nằm vắt vẻo nhờ những cột trụ thật cao; từ trên cầu phóng tầm mắt nhìn ra xa, phong cảnh nơi đây trải rộng mãi như trong một cõi không có thực. Thung lũng thật đẹp với những ngọn núi chênh vênh phủ trên mình một màu xanh mướt. Nếu đứng từ trên một đỉnh nào đó nhìn xuống, hẳn bạn sẽ phải ngỡ ngàng khi nhận ra ở dưới đáy thung lũng xanh thẫm có một dòng suối nhỏ lấp lánh ánh bạc chảy lững lờ tới một bờ vực thẳm. Các mái nhà trong thành phố cổ đều được lợp bằng những viên ngói đỏ, và dường như chúng được xếp gối lên nhau giống như cảnh chúng ta vẫn thấy trong các bức tranh mô tả vùng Nuremburg. Ra khỏi thành phố, bạn sẽ đến ngay khu phế tích của tu viện cổ Whitby, nơi ngày xưa đã bị người Đan Mạch cướp phá tan hoang và cũng là nơi từng cầm tù suất đời các cô gái trẻ trong vùng. Các phế tích rộng mênh mông này sẽ tạo cho bạn một cảm giác vĩ đại và hùng vĩ về phong cảnh xung quanh. Có một truyền thuyết kể rằng thỉnh thoảng... lại có một quý bà mặc toàn bộ đồ trắng xuất hiện bên một ô cửa sổ vào buổi tối. Nằm giữa thành phố cổ và khu phế tích là một gác chuông của nhà thờ xứ bị vây quanh bởi một nghĩa địa. Theo cách nhìn của tôi thì đây chính là nơi đẹp nhất ở Whitby: ở đây bạn có thể phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh bến cảng và một bờ vịnh nhỏ, nơi có một mũi đất chạy xa ra biển. Ở bến cảng, mũi đất này dốc đứng đến nỗi các bờ mép của nó đã lở sụt xuống nước, khiến cho một số ngôi mộ - vì nghĩa địa chạy dài tới tận đây - cũng bị lở theo. Bạn cũng thưa hồ được ngắm những lối nhỏ rợp bóng cây xanh chạy xuyên qua nghĩa trang, với những hàng ghế băng nằm rải rác như muốn mời gọi khách bộ hành nghỉ chân vâng cảnh hàng giờ, mặc cho những làn gió biển nhẹ nhàng vuốt ve mơn trớn lâng lâng. Chính tôi cũng thường hay lui tới chốn đây ngồi làm việc. Quả thực là lúc này, tôi đang ngồi hý hoáy viết với một cuốn sổ đặt trên gối, mặc cho mấy ông già ngồi nói chuyện trời đất ngay bên cạnh.
Dưới chân tôi là bến cảng, và phía bên kia là một bức tường đá chạy Qài ra biển và cuối cùng là một bờ cong có một ngọn đèn biển mọc chơ vơ ở giữa. Phong cảnh sẽ trở nên thơ mộng hơn khi thủy triều lên, song khi nước biển rút đi, tất cả lại trở nên trơ trọi và chỉ còn con suối Esk cần mẫn chảy giữa những đồi cát uốn lượn quanh một vẫy mỏm đã lẻ loi. Xa hơn bến cảng, về phía bên này, là một dãy đá cao chạy dài chừng nửa dặm bắt đầu từ phía sau ngọn đèn biển. Ở phía đầu dãy đá có một cây phao tiêu được trang bị thêm một quả chuông vốn chỉ cất những tiếng kêu sầu thảm vào những lúc trọng đại Có một truyền thuyết địa phương kể rằng khi có một con tàu bị lạc đường, từ ngoài khơi xa các thủy thủ cũng có thể nghe thấy chuông vẳng tới... Tôi cần phải hỏi ông là đang đi về phía mình kia xem sự thực có đúng như vậy không...
Đó là một ông già không giống bất cứ một ông già nào khác ở trên đời này. Chắc ông phải già lắm bởi mặt ông rặt những nếp nhăn là nếp nhăn, đã thế lại còn sần sùi như một thứ vỏ cây nữa chứ. Ông nói với tôi rằng ông sống đã gần trăm tuổi, rằng bây giờ ông vẫn ở trên một chiếc thuyền đánh cá Greenland từ khi xảy ra trận đánh Waterloo. Tự nhiên tôi đâm ra hoài nghi, bởi khi tôi hỏi về tiếng chuông mà ở tít tận ngoài khơi xa người ta cũng có thể nghe thấy ấy, và về người phụ nữ mặc bộ đồ trắng ở tu viện kia, ông chỉ trả lời chung chung thế này :
- Cô bé ạ, thực ra thì tôi cũng chẳng tin vào những câu chuyện như vậy lắm... chúng xưa quá rồi... Cô lưu ý nhé, tôi không bảo nó chưa bao giờ tồn tại, mà tôi chỉ muốn nói rằng nó có trước cả lúc tôi chào đời... Tất cả những gì cô vừa hỏi thật hấp dẫn với những người ngoại quốc, những kẻ ham rong chơi và tất cả... nhưng không phải là điều để một cô gái xuân sắc như cô phải nặng đầu suy nghĩ. Những kẻ bộ hành từ York và từ Leeds, những kẻ lúc nào cũng thích xem ở chợ có cái gì rẻ để mua thì có thể tin vào điều đó. Song tôi không hiểu có ai lại nhọc công vô ích để kể cho họ nghe những lời dối trá như vậy - kể cả những tờ báo bị tiếng là ngu ngốc cũng đâu có làm thế.
Tôi thầm nghĩ: “Đây quả là một ông già mà người khác chắc chắn có thể học hỏi được nhiều điều thú vị”, và đành phải hỏi lảng sang chuyện câu cá voi của người xưa. Nhưng lúc tôi chuẩn bị được nghe kể thì chuông đồng hồ chợt ngân lên một hồi sáu tiếng, ông già lập tức đứng dậy, giọng khó nhọc :
- Cô gái ạ, có lẽ tôi phải về đây, con bé nhà tôi nó không thích phải chờ đợi ai khi nó đã pha trà. Vả lại, phải mất khối thời gian tôi mới xuống hết được các bậc...
Ông già kéo lê từng bước về nhà. Tôi đưa mắt trông theo mãi cái bóng già nua đang cố bước nhanh nhất xuống những bậc đá, với cái khả năng ít ỏi còn lại của một kẻ đang lúc xế bóng.
Cáo bậc đá là một trong những nét rất đặc trưng của vùng này. Nó chạy ngược từ thành phố lên nhà thờ; tất cả dễ có đến vài trăm bậc, hơi chạy theo hình xoắn ốc. Thực ra thì chúng không chênh vênh lắm, bởi một con ngựa có thể phi lên, phi xuống một cách dễ dàng. Chắc chắn ngày xưa, các bậc thang này cũng phải dẫn tới các khu vực xung quanh tu viện... Có lẽ tôi cũng phải về nhà. Hai mẹ con Lucy đã rủ nhau đi vãng cảnh cả chiều nay. Tôi không muốn làm phiền họ. Giờ này chắc họ cũng sắp về.
* * * * *
Ngày 1 tháng 8
Tôi ngồi đây với Lucy chắc cũng được khoảng một tiếng đồng hồ, chúng tôi đã có một cuộc nói chuyện rất thú vị với người bạn mới: Già Marin, và hai người bạn vẫn tới thăm ông hàng ngày. Trong số ba ông già, rõ ràng tôi có thể đặt tên cho Già Marin là Ông Thánh, bởi lúc nào ông cũng muốn mình là người có lý, lúc nào ông cũng thích phán ngược ý của tất cả mọi người. Nếu không được, ông sẽ làm ầm lên, cứ như chửi rủa thẳng vào mặt những người đang đối thoại với mình, và khi họ chán chẳng buồn nói nữa, thì ông lại tưởng họ đã tâm phục khẩu phục. Lucy mặc một chiếc áo dài mà cô rất thích. Từ khi tới Whithy, trông da dẻ cô nàng có vẻ đẹp hẳn lên. Tôi để ý thấy hễ cứ mỗi lần chúng tôi có dịp ngồi trò chuyện ở đây, là y như rằng ba ông già kia lại muốn tìm cách lân la tới ngồi gần cô. Quả thực Lucy là cô gái rất dễ mến đối với những người già.
Chẳng ai có thể cưỡng lại vẻ duyên dáng của cô. Bản thân ông bạn già của tôi cũng bị khuất phục và cấm thấy ông nói ngược lại ý cô nàng bao giờ. Tôi chủ bụng lái cuộc nói chuyện về các truyền thuyết, và ông lão lại tuôn ra một bài thuyết giáo dài dằng dặc, khiến tôi nghe mà chóng cả mặt :
- Cô gái ạ, tôi đã bảo rồi mà, tất cả chỉ là những chuyện ngu ngốc thôi: đó là những câu chuyện nhảm nhí, chứ không hơn không kém! Tất cả những câu chuyện hấp dẫn, quyến rũ, mê hoặc ấy chỉ thích hợp với những mụ già mất trí. Tất cả điều đó là do mấy tay mục sư và những kẻ chèo kéo khách hàng trong các khách sạn sáng tác ra để lèo lái người khác phải làm những việc mà họ không muốn làm. Cứ mỗi lần nghĩ tới điều ấy, tôi lại thấy điên cả tiết. Thấy in lên đống giấy lộn vẫn chưa đã, họ còn bảo nhau khắc đủ thứ lên những tấm bia mộ... Cô cứ nhìn xung quanh thì biết: tất cả những tấm đá đang ngạo nghễ đứng kia thực ra đều bị đè nặng bởi những lời dối trá mà người ta đã khắc chằng chịt ở bên trên! Và ở dưới những nấm mộ ấy, phần lớn là rỗng tuếch, làm gì có ai nằm đấy kia chứ. Thà tìm cách xoay xở như thế nào để có được một nhúm sợi thuốc lá còn hơn là phải bận tâm đến những câu chuyện nhảm nhí ấy! Thế đấy, đó chỉ là những chuyện dối trá, dối trá theo cách này hay cách khác, chẳng có gì khác ngoài những lời dối trá? Chúa ơi? Sẽ thú vị biết bao khi được trông thấy những kẻ xấu số loạng choạng bấu vai nhau tới đây và khó nhọc kéo theo những tấm bia mộ để chứng tỏ rằng họ đang sống thật êm đềm dưới đó?
Nhìn cái vẻ thỏa mãn của ông già và cái cách ông đưa mắt tìm sự tán thưởng của hai người bạn già khác, tôi hiểu ông đang muốn tỏ ra là một người nổi bật, nhưng như vậy cũng đủ để tôi hỏi ông một câu khác :
- Ôi? Già Swales, già lại không nói nghiêm túc rồi! Gần như chẳng có ngôi mộ nào trong nghĩa địa này là rỗng không cả, phải vậy không ạ?
Ông già có vẻ làm dáng hơn :
- Cô gái ạ, tôi đã nói đến thế rồi mà cô vẫn ngoan cố nhắc lại toàn những chuyện ngu ngốc! Ở đó có rất ít ngôi mộ không phải là rỗng tuếch... thế đấy... những người tốt lại rất hay tin ở những gì người khác khua môi múa mép. .. Dối trá, tất cả chỉ là dối trá! Hãy nghe cho rõ nhé, cô gái: tôi không tin là cô đến đây mà không biết gì cả, dù cô có là một người xa lạ, và cô hãy nhìn vào...
Tôi không nắm được các từ ông già vừa nói. Nói thực tôi không hiểu tới một nửa những thổ ngữ mà ông đã nói và tôi cũng biết mình khó có thể tái hiện lại cái thứ thổ ngữ ý nhị ấy, nhưng tôi vẫn cứ gật đầu, dù trong lòng còn nghi hoặc rằng chắc ông già vừa ám chỉ tới tu viện.
Ông già nói tiếp :
- Thế cô có tin là tất cả những ngôi mộ đá, ở xung quanh kia kìa, đều đang che chở cho những người đang yên nghỉ nào đó không?
Tôi trả lời bằng một cái gật đầu.
- Đó cũng chỉ là một sự dối trá! Có tới hai chục, hai chục và hai chục cái... giường nằm ấy là rỗng tuếch, rỗng tuếch như chính đầu óc của những kẻ quen dối trá ấy!
Ông già quay sang tìm sự tán thưởng của hai người bạn đồng niên, và rồi cả ba cùng cười phá lên.
- Đấy, lạy Chúa? Sao có thể khác được kia chứ? Cô gái ạ, cô cứ thử nhìn vào ngôi mộ kia xem, đó... ngôi mộ tôi chỉ tay kia kìa... rồi thử đọc xem sao! Đó... cô cứ thử làm đi...
Tôi bước lại gần ngôi mộ ông lão đang chỉ và đọc :
Edward Spencelngh, thuyền trưởng dặm trường, bị cư biển sát hại ngoài khơi Cordillere ở tuổi 30. Tháng 4. 1854.
Khi tôi trở lại, ông già Swales tiếp tục :
- Vậy thì ai là người đã đem anh ta về xứ này để chôn cất anh ta ở đó? Anh ta bị sát hại ở tận Corđillere kia mà! Có thể nào xác anh ta lại ở đấy được? Tôi có thể kể cho các cô nghe hàng tá những người đã nằm lại dưới đáy biển, ở Groenland hoặc ở đằng kia vừa nói ông già vừa chỉ tay về phía bắc nếu như ít nhất là họ không bị các dòng nước cuốn đi xa hơn. Ấy vậy mà mộ của họ vẫn nằm ở đây, ở xung quanh cô đây mà Từ chỗ cô ngồi, bằng đôi mắt đẹp của mình, cô có thể đọc được tất cả những dòng chữ dối trá khắc trên từng tấm bia đá. Này nhé, cái tay Braithwaite Lowrey kia kìa... Tôi có biết bố anh ta đấy... Anh ta đã chết chìm trong vụ đắm tàu Cuộc sống tươi đẹp ở ngoài khơi Groenland khi mới hai mươi... hay cái tay drew Woodhouse kia cũng thế, hắn cũng chết đuối ở một nơi gần đó năm 1777..., còn tay John Paxton, hắn chết sau đó một năm ở ngoài mũi Farewell..., rồi thì ông già John Rawlings, người có ông nội cùng đi biển với tôi, lại chết ở vịnh Phần Lan khi đã sang tuổi năm mươi. Nhiều lắm. nhiều lắm. .. Cô có tin rằng khi nghe thấy những bơ hồi kèn của lời Phán quyết cuối cùng rống lên, tất cả những người đàn ông này sẽ chạy ào đến Whitby không? Tôi thì tôi nghĩ như vậy đấy! Tôi đảm bảo với cô rằng thế nào họ cũng xô đẩy nhau đến nỗi người ta sẽ tưởng mình đang được chứng kiến một .cuộc chiến trên băng tuyết kéo dài từ buổi sớm mai đến lúc đêm đen, khi các chiến binh phải ra sức băng bó các vết thương dưới cái ánh sáng lờ nhờ của Bắc cực.

Chắc chắn đó là một kiểu nói đùa phổ biến ở xứ này, vì khi nói đến đây, ông già lại khoái trí cười ha hả cùng với hai ông bạn ngồi bên.
Nhưng, tôi hỏi chắc là già đã nhầm khi cho rằng tất cả những con người tội nghiệp ấy, hay nói đúng hơn là linh hồn đáng thương của họ, nhất thiết phải đến trình diện ở ngôi mộ của mình vào cái lúc Phán quyết cuối cùng. Có thật già vẫn nghĩ đó là đlều nhất thiết phải có không?
- Đúng thế, nếu không thì những ngôi mộ đá dùng để làm gì, tôi hỏi cô đấy, cô gái?
- Để làm vui lòng những người trong gia đình họ, đúng không già?
- Để làm vui lòng những người trong gia đình họ, đúng không già? Ông già giễu cợt nhại lại câu hỏi của tôi. – Cô thử nói cho tôi nghe xem nào, đâu là sự vui lòng đối với các gia đình khi họ biết rằng những dòng chữ được khắc trên các ngôi mộ kia chỉ là những lời dối trá, rằng tất cả mọi người, ai cũng biết rõ điều đó?
Rồi ông chỉ vào một phiến đá nằm dưới chân chúng tôi như một tấm lát giữ cho chiếc ghế băng được thăng bằng trên bờ vách đá :
- Cô hãy đọc những dòng dối trá dưới này đi.
Chỗ tôi ngồi chỉ có thể đọc được những chữ ở mặt sau, nhưng ngồi ở chỗ Lucy thì có thể đọc được hết. Thấy tôi bảo, Lucy cúi xuống đọc :
Tôn kính tưởng nhớ George Canon, người đã chết vào ngày 29 tháng 7 năm 1873 khi ngã từ đỉnh núi xuống biển, trong một hy vọng phục sinh xương thịt vẻ vang. Ngôi mộ này được dựng nên bởi mẹ anh, người suốt đời đau đớn khôn nguôi vì mất một đứa con trai yêu dấu. Arth là đứa con trai duy nhất và bà mẹ là một người vợ góa.
- Đúng là cháu chẳng thấy có gì lạ lùng ở đây cả, - Lucy nói - già Swales ạ.
Cô bạn tôi nhận xét bằng một giọng thực sự nghiêm túc.
- Cô không thấy có gì lạ ư... Ha! Ha! Cũng phải thôi, bởi vì cô đâu có biết bà mẹ khốn khổ đó... một con mụ ác quỷ ghét cay ghét đắng thằng con trai của mình chỉ vì nó yếu đuối, còn thằng con trai thì cũng rất căm thù người mẹ vì bà ta không thể đảm bảo được cuộc sống cho hắn. Hắn đã tự nã vào óc mình bằng một khẩu súng cũ kỹ mà hắn vẫn dùng để dọa mấy con quạ con. Hôm đó, hắn đã không dùng súng để dọa qua nữa... Và cái mà người ta vẫn bảo là ngã từ trên các mỏm đá... Tất nhiên là hắn bị rơi... còn .cái gọi là hy vọng phục sinh vẻ vang các xác chết gì đó, tôi vẫn thường nghe kể hắn muốn chui xuống địa ngục, vì mẹ hắn, một kẻ rất sùng bạo, chắc chắn sẽ lên thiên đàng, mà hắn đâu có muốn chết gì ở trên thiên đàng với mẹ hắn... Bây giờ thì các cô cứ nói tấm đá này không phải đã ghi những lời dối trá đi?
Tôi định đáp lời thì Lucy đứng bật dậy và lái câu chuyện sang một hướng khác :
- Ôi! Tại sao già lại cứ kể cho bọn cháu toàn những chuyện không đâu vào đâu như vậy? Đây là chiếc ghế cháu vẫn thường tới ngồi, và cháu sẽ không bao giờ từ bỏ cái thói quen ấy đâu, còn giờ cháu sẽ luôn tự nhủ rằng mình đang ngồi trên nấm mồ của một kẻ tự tử!
- Điều đó sẽ không làm cô khó chịu đâu, cô gái xinh đẹp ạ! Còn cái anh chàng George tội nghiệp kia hẳn sẽ rất vui khi thấy có một cô gái rất duyên tới ngồi trên gối hắn... Không, điều đó sẽ chẳng làm cô khó chịu... Từ khi còn chưa đầy hai mươi tuổi, tôi đã ra đây ngồi rồi, và từ đó đến giờ, chưa bao giờ tôi thấy khó chịu cả? Đừng nên nghĩ quá nhiều về những người đang nằm dướí chân mình, hoặc những người chẳng hề nằm dưới đó. Rồi các cô sẽ có khối thời gian để mà sợ khi thấy tất cả các ngôi mộ lần lượt bị mang đi và nghĩa địa thì cứ trơ ra như một cánh đồng chỉ còn những gốc rạ... Nhưng thôi, lại đến giờ rồi, tôi phải về đây. Chào các cô nhé?
Ông già lê bước đi xa dần.
Chúng tôi còn ngồi thêm một lúc nữa. Phong cảnh đẹp quá Lucy lại kể cho tôi nghe về Arthur và đám cưới sắp tới của họ. Tôi bỗng thấy chạnh lòng, đã hơn một tháng rồi tôi không nhận được tin tức gì của Jonathan.
* * * * *
Cùng ngày
Tôi trở về đây mà lòng buồn rười rượi. Vẫn không thấy người đưa thư xuất hiện chiều tối nay. Hy vọng đừng có chuyện phiền phức gì xảy ra với Jonathan. Đồng hồ đã điểm chín giờ. Thành phố lên đèn từ lâu, những ánh đèn lấp lánh như sao sa, lúc thì lẻ loi đơn chiếc, lúc lại cùng sang bừng lên thành một hàng nối tiếp nhau đều đặn trên các đường phố. Ở bên trái tôi, cảnh vật bị che khuất hẳn bởi những mái nhà cổ mọc nhấp nhô gần tu viện. Những chú cừu non còn đang cất tiếng kêu be be ở những cánh đồng đằng sau. Và phía dưới kia, tôi nghe rõ những bước chân lộp cộp chậm chạp của một chú lừa. Ban nhạc bến cảng đang chơi một điệu van buồn. Xa hơn một chút, dưới sân cảng, trên con đường nhỏ nằm hơi khuất, là một đội quân cứu thế đang đứng tập trung. Hai ban nhạc bỗng cùng cất lên những giai điệu inh tai nhức óc, chẳng bên nào nghe bên nào. Tuy nhiên, đứng ở đây, tôi có thể nghe rõ cả hai, nhưng trong lòng tôi lúc này vẫn là hình bóng của Jonathan. Anh đang ở đâu? Anh có còn nghĩ đến tôi hay không? Sao tôi muốn lời khỏi đây đến thế.

Nhật ký của bác sĩ Seward

Ngày 5 tháng 6
Trường hợp của Renfield ngày càng trở nên thú vị hơn khiến tôi càng ngày càng hiểu rõ về con người. Trong con người hắn nổi bật nhất là những tính cách: ích kỷ, khéo vờ vĩnh và ngoan cố. Hy vọng tôi sẽ hiểu được tại sao hắn lại cứng đầu cứng cổ đến thế. Tôi thấy dường như hắn đang nung nấu một ý đồ rất cụ thể, nhưng là ý đồ gì? Tuy nhiên, hắn rất yêu các con vật, dù trong cái tình cảm được thể hiện theo đủ cách ngu ngốc ấy vẫn có một cái gì đó tàn bạo đến kỳ lạ. Đến bây giờ; sự gàn dở của hắn lại được thể hiện ở cái thú bắt ruồi. Tôi thấy chẳng cần thiết phải quan sát mãi về cái kiểu xử sự kỳ quặc này, bởi hành động dở hơi của hắn không phải là ít. Có một điều làm tôi rất ngạc nhiên là chẳng bao giờ thấy hắn nổi giận, như tôi vẫn lo ngại, mà sau khi suy nghĩ giây lát, hắn chỉ hỏi cô cũng một giọng khá nghiêm túc: “Ông có đồng ý để cho tôi ba ngày không? Trong vòng có ba ngày, tôi sẽ làm cho chúng biến mất”. Tất nhiên là tôi trả lời: “Đồng ý”, rồi ngây người ra nhìn hắn như chưa bao giờ được nhìn vậy.
* * * * *
Ngày 18 tháng 6
Bây giờ hắn chỉ còn nghĩ tới mấy con nhện, những con nhện rất to được hắn cho vào trong một cái hộp. Hắn nuôi nhện bằng những con ruồi bắt được. Số ruồi đã giảm đi rất nhiều sau những lần bị hắn chộp. Hắn ta bắt ruồi bằng cách lấy một nửa khẩu phần ăn làm mồi như trên gờ cửa sổ.
* * * * *
Ngày 1 tháng 7
Đàn nhện ngày càng đông cùng với số ruồi bị bắt. Tôi tức mình bắt hắn phải quẳng hết đi. Nhưng nhìn vẻ mặt sầu não của hắn, tôi lại đâm ra động lòng. Tôi bảo hắn ít nhất cũng phải vứt đi một phần. Hắn hứa sẽ làm như vậy. Trong lúc ngồi với hắn, tôi bỗng thấy ghê cả người khi thấy một con ruồi to tướng bay nhanh vào trong phòng; hắn chộp vội con vật, rồi cầm giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ ngắm nghía với vẻ mặt rất hớn hở. Và khi tôi còn chưa kịp đoán ra sự việc tiếp theo, thì hắn bỗng đút tỏm con ruồi vào miệng mà nhai ngấu nghiến. Tôi không ngần ngại nói về suy nghĩ kinh tởm của mình, song hắn chỉ thản nhiên đáp lại rằng ăn ruồi rất ngon, ràng con ruồi tràn đầy sức sống ấy sẽ tiếp thêm sức sống cho hắn. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ, hay đúng hơn là một sự ngờ vực: cần phải biết hắn định xử lý mấy con nhện kia như thế nào. Chắc chắn là là phải có một điều gì đó khá nghiêm túc làm hắn phải bận tâm, vì hắn đang viết lia lịa vào một cuốn sổ bỏ túi. Các trang giấy đều viết kín những con số, dường như hắn đang làm tính thì phải.
* * * * *
Ngày 8 tháng 7
Trong lúc lên cơn điên, hắn đã làm theo một phương pháp thật sự, và nhận xét ấy cứ định hình rõ đần trong suy nghĩ của tôi. Phương pháp ấy hoàn toàn sáng tỏ. Ôi hoạt động của trí tuệ vô thức? Rồi người cũng phải nhường bước trước một trí tuệ có ý thức. Tôi cố tình không gặp bệnh nhân của mình trong mấy ngày, tôi tin chắc trong hắn đang diễn ra một sự thay đổi trạng thái đáng chú ý Hắn có thể bắt được một con chim sẻ và thuần hóa nó bằng một cách rất đơn giản mà tôi chợt đoán ra: đàn nhện trong hộp đã vơi đi rất nhiều. Tuy nhiên, những con nhện còn lại đều rất béo tốt, vì hắn vẫn chịu khó bắt ruồi hàng ngày với một phần thức ăn đặt trên gờ cửa sổ.
* * * * *
Ngày 19 tháng 7
Chúng tôi đã đạt được tiến bộ trong việc nghiên cứu ca bệnh. Bây giờ Renfield đã có cả một đàn chim sẻ, trong khi đàn ruồi và đàn nhện gần như đã biến mất hoàn toàn. Thấy tôi bước vào phòng, hắn vội sán đến và nói rằng hắn muốn xin tôi một ân huệ lớn, rất lớn; vừa nói hắn vừa vuốt ve lên người tôi như một con chó liếm lưỡi vào người chủ. Tôi hỏi thực ra hắn cần gì, hắn ngây ngất trả lời: Tôi muốn có một con mèo, một con mèo con xinh xắn để làm bạn. Tôi sẽ dạy dỗ và cho nó ăn... Ôi! Vâng... tôi sẽ cho nó ăn.
Quả thực là tôi hơi bất ngờ về điều này, bởi tôi nhận thấy càng ngày hắn càng có vẻ thích những con vật to hơn.
Tôi thật không thể chấp nhận được chuyện cái gia đình chim sẻ xinh xắn đã thuần hóa lại biến mất theo cái kiểu biến mất của đàn ruồi và đàn nhện; vì vậy tôi trả lời rằng tôi còn phải suy nghĩ. Tuy nhiên, trước khi rời khỏi phòng, tôi có hỏi hắn bằng một giọng rất dửng dưng rằng tại sao hẳn lại thích một con mèo con mà không phải là một con mèo to.
- Ôi! vâng, - Hắn hớn hở trả lời - một con mèo tôi. Tôi rất thích có một con mèo to! Nếu như tôi xin ông một con mèo con, thì đó là do tôi sợ ông từ chối tôi một con mèo to? Chẳng ai lại đi từ chối tôi một cơn mèo nhỏ, đúng không ạ?
Tôi lắc đầu và trả lời rằng tôi nghĩ điều đó là không thể được, ít nhất là trong lúc này, nhưng cuối cùng thì chúng tôi cũng sẽ... Mặt hắn tối sầm lại, và tôi đọc được ngay trên nét mặt ấy một lời cảnh cáo nguy hiểm, vì ánh mắt hắn chợt lóe lên những tia tàn ác như ánh mắt của một kẻ giết người.
Không còn nghi ngờ gì nữa, bệnh nhân này đúng là một kẻ giết người hung bạo. Rồi tôi sẽ được thấy sự ám ảnh của quỷ dữ sẽ dẫn hắn đi tới đâu.
* * * * *
10 giờ tối
Khi quay trở lại, tôi thấy hắn đang ngồi ủ rũ ở một góc phòng.
Vừa nhác thấy tôi, hắn đã vội quỳ xuống nài nỉ tôi, mang mèo đến. Tôi trả lời ngay rằng điều đó là không thể được. Nghe tôi bảo vậy, hắn hầm hầm trở về chỗ cũ, vừa đi vừa nắm chặt hai nắm đấm. Tôi sẽ gặp lại hắn vào sáng sớm hôm sau.
* * * * *
Ngày 20 tháng 7
Tôi gặp Renfield từ rất sớm, sớm hơn cả khi người giám thị đi đánh thức các bệnh nhân ở các phòng. Hắn đang đứng hát lầm rầm một giai điệu nào đó, trong khi hai tay vẫn rắc từng hạt đường xuống bậu cửa sổ làm mồi bắt ruồi. Công việc làm hắn vui ra mặt. Tôi đảo mắt tìm lũ chim sẻ, nhưng chẳng thấy con nào cả. Thấy tôi hỏi, hắn không thèm quay mặt lại và trả lời là chúng đã bay đi hết. Tôi để ý thấy dưới đất có mấy nhúm lông, và trên gối hắn nằm còn có một vết máu. Khi ra về, tôi cố làm ra vẻ như không có vấn đề gì xảy ra, song vẫn dặn người làm vườn phải đến báo cho tôi biết nếu như có chuyện gì không bình thường trong ngày.
* * * * *
11 giờ sáng
Chẳng phải đợi lâu, người giám thị đã hộc tốc chạy đến báo cho tôi biết rằng Renfield đang rất mệt, rằng hắn đã nôn ra một đống toàn lông chim là lông chim. “Thưa bác sĩ,” tay giám thị bảo tôi - “tôi tin rằng hắn đã ăn tươi nuốt sống cả đàn chim của hắn?”
* * * * *
11 giờ tối
Tối hôm nay, tôi đã cho Renfield uống thuốc ngủ, rồi lấy trộm cuốn sổ bỏ túi của hắn ra xem. Quả là tôi đã không nhầm với các giả thiết của mình: tay bệnh nhân giết người này đúng là một loại người rất đặc biệt. Tôi phải xếp hắn vào loại chưa từng có bao giờ, và gọi hắn là một kẻ điên thú vật, một thằng điên chỉ muốn sinh tồn bằng cách ăn các sinh vật sống. Đầu óc hắn luôn thường trực một nỗí ám ảnh là cần phải ăn thật nhiều cơ thể sinh vật sống mà hắn thèm. Hắn đã cho một con nhện ăn không biết bao nhiêu ruồi, đã nuôi một con chim bằng rất nhiều nhện, và rồi hắn còn muốn có một con mèo để giết chết cả đàn chim. Sau đó hắn còn định làm gì nữa? Tôi rất muốn đi đến cùng cuộc thử nghiệm của mình. Nhưng để làm vậy thì phải có một lý do đầy đủ. Người ta sẽ nhổ vào mặt tôi nếu tôi nới về cách mổ xẻ vấn đề này, song dẫu sao tôi cũng không thể tránh khỏi thực trạng hiện nay. Tại sao không làm cho khoa học tiến bộ hơn trong một vấn đề khó khăn hơn nhưng cũng có tính chất sống còn hơn sự hiểu biết về bộ não, về cơ chế lý trí của con người kia chứ? Nếu như tôi thấy hiểu được sự bí ẩn của bộ não, nếu như tôi tìm được chìa khóa mở vào sự tưởng tượng của một bệnh nhân tâm thần độc nhất ấy, thì chắc chắn tôi sẽ đạt được một bước tiến dài trong chuyên môn của mình, và điều này sẽ cho phép tôi có thể so sánh ngang hàng với nhà sinh lý học Burđon Sanderson, hoặc nhà giải phẫu học Ferrier.
Chỉ cần một lý do xác đáng thôi? Nhưng tôi cũng chẳng cần phải nghĩ quá nhiều về điều đó, bởi sự cám dỗ cũng rất đơn giản một lý do đầy đủ có thể làm tôi nghĩ tới trạng thái cân bằng từ phía mình, bởi theo bẩm sinh, tôi chẳng phải là kẻ có bộ óc đặc biệt đó là gì?


Ui có người gọi phải về đã hôm sau post tiếp rùi em biên tập sau :D
 
Quả thực gã bệnh nhân đã có cách suy luận đúng của riêng hắn! Đúng thế, những kẻ điên luôn có những suy luận đúng khi họ theo đuôi ý kiến của họ. Tôi tự hỏi không hiểu hắn đã đánh giá một con người bằng bao nhiêu sinh vật sống, hoặc phải chăng hắn đã đánh giá một mạng người chỉ bằng duy nhất một sinh vật sống? Hắn đã kết thúc các phép tính một cách rất chính xác, và ngày hôm nay, hắn lại bắt tay vào các con tính mới. Ai trong số chúng ta không bắt đầu một ngày bằng những phép tính mới? Về phần mình, tôi thấy dường như chỉ hôm qua thôi, cuộc đời tôi đã thực sự chìm nghỉm cùng với ước vọng trẻ trung của mình, và tôi cũng có cảm giác đời mình đã bắt đầu bằng một con số không. Dường như Chúa đang sắp gọi tôi lên đó và đóng sập cuốn sổ lớn ghi rõ sự cân bằng giữa những cái được mất của tôi vào. Ôi! Lucy, Lucy! Tôi không thể oán trách em về điều đó, cũng như không thể oán trách người bạn đã may mắn được chia sẻ hạnh phúc với em. Nhưng tôi không nên trông chờ gì nhiều ở một sự tồn tại không có hy vọng, một sự tồn tạĩ mà chỉ còn công việc là điều quan trọng duy nhất đối với mình. Vâng, công việc, chỉ còn công việc thôi?
Chỉ cần tìm ra được một lý do cấp thiết như lý lẽ của gã bệnh nhân kia và sau đó, lý do ấy có đủ sức thúc đẩy tôi lao vào công việc, thì chắc chắn tôi sẽ tìm ra một hình thái hạnh phúc nào đó.


Nhật ký của Mina Jurray

Ngày 26 tháng 7
Càng ngày tôi càng cảm thấy lo lắng, và viết nhật ký chính là một việc làm tôi nhẹ lòng đi phần nào, nó giống như việc mình tự bộc bạch cho chính mình nghe vậy. Hơn nữa, viết nhật ký bằng chữ tốc ký còn tạo cho tôi một cảm giác khác lạ hơn so với chữ viết thường. Tôi cảm thấy lo lắng cho Lucy cũng như cho Jonathan. Đã lâu rồi tôi không nhận được tin của anh ấy, nhưng hôm qua, ngài Hawkins, người lúc nào cũng rất tử tế, đã gửi cho tôi một lá thư mà ông đã nhận được của Jonathan. Lá thư chỉ vẻn vẹn có vài dòng ngắn ngủi thông báo chuyến trở về của anh từ lâu đài Dracula. Điều này không giống Jonathan một chút nào? Không hiểu có chuyện gì xảy ra... sao tôi lại muốn được yên lòng đến thế! Còn đối với Lucy, mặc dù cô nàng trông có vẻ đã khỏe lên rất nhiều, nhưng ít bữa nay, cô lại rơi vào tình trạng mộng du hay còn gọi là miên hành như các bác sĩ vẫn gọi. Mẹ cô đã kể cho tôi biết, và chúng tôi đã quyết định từ nay trở đi, cứ tối đến là tôi sẽ đóng chặt cửa lại. Bà Westenra luôn mường tượng trong đầu rằng những kẻ bị miên hành thường trèo lên mái nhà, lững thững bước ra tới mép tường cheo leo nhất để rồi bừng tỉnh và giật mình rơi xuống đất cùng với một tiếng kêu thê thảm tuyệt vọng mà người ta có thể bắt gặp ở mọi nơi. Bà mẹ tội nghiệp đã nhiều lần run sợ khi nghĩ tới một thảm cảnh như vậy có thể xảy ra với Lucy của bà. Tôi được nghe bà kể ngày trước, chồng bà, bố của Lucy, cũng đã phải hứng chịu những chứng bệnh tương tự: ông thường xuyên thức dậy vào giữa đêm, mặc quần áo vào rồi lững thững ra khỏi nhà nếu không có người chặn lại. Lucy phải làm đám cưới vào mùa thu này, cô đã chuẩn bị xong váy cưới, nhà cửa và một đống quần áo mang thơ. Ngài Holmwood - ngài Arthur Holmwood đáng kính là con trai của huân tước Godalming và chính là chồng chưa cưới của Lucy chắc chắn sẽ sớm tới đây, anh sẽ tới ngay sau khi có thể rời thành phố, bởi bố anh đang lâm bệnh. Lucy lặng lẽ bấm từng ngày, từng giờ... Cô nói rằng cô rất muốn ngồi bên anh trên chiếc ghế đá ngoài nghĩa địa và chỉ cho anh thấy phong cảnh tuyệt mỹ của Whitby. Theo tôi nghĩ, sự mòn mỏi chờ đợi của cô sẽ ảnh hưởng không tất tới sức khỏe. Hy vọng cô sẽ mãn nguyện khi được gặp người chồng chưa cưới của mình ở đây.
* * * * *
Ngày 27 tháng 7
Vẫn chưa có tin gì thêm về Jonathan... Tại sao anh ấy không viết thư cho tôi, dù chỉ là một lời? Dạo này, càng ngày Lucy càng hay trở dậy hơn vào buổi tối, và cứ mỗi lần chợt tỉnh giấc là tôi lại thấy cô đi đi lại lại trong phòng. Cũng may tiết trời còn nóng, nếu không cô sẽ bị cảm lạnh là cái chắc. Về phần mình, nỗi lo lắng của tôi cứ lớn dần lên, và những đêm bồn chồn, trằn trọc gần như thức trắng đã làm tôi rất căng thẳng. Ngược lại, ơn Chúa, Lucy vẫn khỏe mạnh. Holmwood vừa nhận được điện phải về Ring ngay lập tức, tình trạng sức khỏe của huân tước Godalming đang trở nên rất nghiêm trọng. Tất nhiên là Lucy rất lấy làm buồn vì không được gặp người chồng chưa cưới ngay như cô vẫn nghĩ, đôi lúc cô còn tỏ ra bực bội cáu gắt, nhưng sức khỏe của cô vẫn không hề có vấn đề gì, đôi má cô có lúc còn ửng hồng hơn mọi khi.
Cầu mong sao cho điều này mãi kéo dài.
* * * * *
Ngày 3 tháng 8
Lại thêm một tuần nữa trôi qua mà tôi vẫn không nhận được một tin tức nào của Jonathan! Lần này, thậm chí anh ấy còn không viết cho cả ngài Hawkins. Ôi! hy vọng là anh đừng ốm đau gì Nhưng nếu vậy thì chắc chắn anh ấy sẽ phải gửi thư chứ. Đọc lá thư cuối cùng của anh, tôi cứ thấy nghi nghi. Tôi không còn nhận ra anh trong những gì anh ấy nói trong thư! Lần này, Lucy không còn bị mộng du nhiều như trước, song bây giờ trong con người cô ấy lại có một điều gì đó thật kỳ lạ khiến tôi ít nhiều lo ngại: ngay cả trong lúc cô đang ngủ, tôi vẫn có cảm giác là cô đang quan sát tôi. Cô thử mở cửa mấy lần, nhưng khi nhận ra rằng mình đã bị khóa, cô biết đi tìm chìa khóa khắp phòng.
* * * * *
Ngày 6 tháng 8
Lại ba ngày nữa trôi qua, Jonathan vẫn biệt vô âm tín.
Sự chờ đợi đối với tôi bây giờ đã trở thành một sự lo âu thực sự khủng khiếp. Lúc này, tôi chỉ cần biết mình có thể viết gửi cho ai hoặc có thể tìm ai thôi thì cũng đủ yên lòng lắm rồi. Nhưng trong số bạn bè của Jonathan, không có bất cứ một ai nhận được một lời nào của anh. Tôi chỉ còn biết cầu Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn để chờ đợi thêm. Lucy thực sự dễ cáu gắt hơn bao giờ hết, mặc dù cô vẫn khỏe mạnh. Đêm nay có giông, mấy ngư dân nói rằng sắp sửa có bão. Chỉ cần nhìn qua trời đất, tôi cũng có thể nhận ra các dấu hiệu báo bão. Bầu trời hôm nay xám xịt; trong lúc tôi ngồi viết những dòng này, ông mặt trời đã bị che kín bởi những đám mây chở nặng hơi nước từ phía mũi đất ùn ùn kéo đến. Tất cả đều một màu xám xịt, hoàn toàn xám xịt, trừ bãi cỏ là còn một chút màu xanh đen... Ánh mặt trời lúc này chỉ còn hắt hiu những tia sáng yếu ớt qua các đám mây xám xịt xuống mặt biển cũng xám xịt, nơi thỉnh thoảng có nhô ra các đồi cát chạy dài như những ngón tay thâm đen. Những cơn sóng bạc đầu liên tục xô nhau vỗ ầm ầm vào bờ, nhưng sự ồn ào của biển dường như đã bị bóp nghẹt bởi những đám mây mù đang cùng một lúc bị dồn về phía đất liền. Tất cả tạo nên một cảm giác mênh mông. Các đám mây chồng chất lên nhau như những tảng đá khổng lồ trong một không gian ầm ầm vô tận của biển cả. Đây đó trên bãi biển, người ta có thể bắt gặp những bóng người lờ mờ bị cuộn tròn giữa lớp mây mù khiến ai trông thấy cũng tưởng là mình được nhìn thấy “những bóng cây biết đi”. Các con tàu đánh cá đang vội vàng trở về cảng để tránh tai họa của biển cả... Kia rồi, già Swales kia rồi, dường như ông lão đang muốn đến nói chuyện với tôi thì phải...
Ông lão khốn khổ đã thay đổi nhiều từ mấy ngày hôm nay, làm tôi không khỏi ngạc nhiên. Vừa ngồi xuống cạnh tôi, ông nói luôn, giọng rất khẽ :
- Tôi muốn hỏi cô một điều, cô gái ạ...
Thấy ông có vẻ lúng túng, tôi vội cầm lấy bàn tay già nua nhăn nheo của ông và bảo rằng xin ông cứ nói. Ông lão giải thích, tay vẫn để nguyên trong tay tôi :
- Con gái ạ, hy vọng ta sẽ không làm con bị sốc khi nói với con về tất cả những điều liên quan tới cái chết... Thực lòng mà nói, ta đã đi xa hơn cả những ý nghĩ của mình và ta muốn rằng con sẽ nhớ tất cả khi ta không còn ở đây nữa... Bọn ta, những kẻ già nua, thường hay lẩm cẩm. Bọn ta đều đã cập kè miệng lỗ, và chẳng ai muốn nghĩ quá nhiều đến cái chết cũng như muốn mình phải sợ cái định mệnh đó! Về phần mình, ta đã quyết định nói đôi chút về cái chết để phần nào tự trấn an được mình. Tuy nhiên, con gái ạ, có Chúa chứng giám cho, ta không hề sợ chết... không hề sợ chút nào... Chỉ có điều, giá như nó đừng vội nhằm vào ta, bởi ta còn muốn sống thêm một chút nữa. Nhưng số ta chắc chắn cũng sắp đến hạn rồi, bởi con người ta khi đã đến tuổi bách niên, thì hy vọng cũng chẳng còn được bao nhiêu. Như con thấy đấy, ta không thể nhịn được những lời báng bổ... ừ, Thần Chết chắc cũng sẽ sớm gióng lên hồi kèn gọi ta về... Song cũng đừng buồn bã mà làm gì con gái ạ? - Ông lão vừa nói vừa nhìn tôi lau nước mắt. - Thậm chí kể cả Ngài gọi ngay trong đêm nay đi, thì ta cũng sẵn lòng đáp lời. Bởi vì nói cho cùng, sống có nghĩa là chờ đợi một điều gì đó khác với cái mà chúng ta đang có, một cái gì đó khác với cái chúng ta đang làm. Cái chết là điều duy nhất mà chúng ta có thể tính đến trong hoàn cảnh đó. Ừ, con gái bé bỏng ạ, nó có thể đến và đến rất nhanh, thực ra, ta rất hài lòng! Có lẽ cơn gió của biển cả kia đã cuốn theo cùng nó tất cả những con tàu oan nghiệt cũng như những mảnh đời đơn côi khốn quẫn... Thấy chưa? Thấy chưa con. - Ông lão chợt thấy lên. - Trong ngọn gió ấy, trong lớp mây mù ấy, dường như đang lẩn khuất một cái gì đó giống như cái chết vậy? Nó đang lơ lửng trong cơn gió nguội lạnh! Nó tới đấy, nó tới đấy, ta biết mà... Chúa ơi! Hãy làm cho con đáp lại tiếng gọi ấy mà không phải nuối tiếc đi!
Ông lão sùng kính giơ hai tay lên trời rồi kính cẩn cởi mũ ra. Đôi môi ông mấp máy liên tục như đang cầu nguyện. Sau một lát im lặng, ông lão từ từ đứng đậy nắm chặt lấy hai bàn tay tôi, cầu phúc lành cho tôi rồi lặng lẽ bỏ đi với cái dáng dấp cực nhọc quen thuộc. Tôi ngây người như tượng đá, đầu óc chẳng còn biết nghĩ gì cả... Sự xuất hiện của người Tuần biển đã làm tôi sực tỉnh. Ông ta kẹp một cái ống nhòm dài ngoằng dưới nách. Theo thói quen, ông dừng lại nói nhăng cuội với tôi vài lời, trong khi ánh mắt vẫn nhìn ra biển, nơi có một con tàu hình như đang gặp khó khăn.
- Rõ là một con tàu ngoại quốc. - Người tuần biển nói. - Chắc là tàu của người Nga... Nhưng sao nó lại loay hoay kỳ quặc thế kia nhỉ? Cứ như là nó không biết mình muốn gì? như... như là cảm thấy có bão đến đít rồi mà vẫn không thể quyết định hoặc là quay mũi về hướng bắc hoặc là chạy vào cảng này ấy. Cô cứ thử nhìn mà xem! Đúng là chẳng có ai cầm lái rồi? Nó đổi hướng liên tục mỗi khi có một trận gió lồng lên! Cứ tin tôi đi, vào cái giờ này ngày mai, thế nào chúng ta cũng sẽ được nghe nói về con tàu quỷ quái này cho mà xem!

Chương 7

Bài cắt từ báo “Dailygraph” dán trong nhật ký của Mina Murray
(bài của một trong số các thông tin viên của chúng tôi)

Whitby, ngày 8 tháng 8
Một cơn bão khủng khiếp nhất và bất ngờ nhất vừa đổ bộ vào đất liền, gây ra những hậu quả nặng nề chưa từng có. Trước đó, thời tỉết khá ngột ngạt nhưng không phải là một điều đặc biệt đối với một tháng như tháng tám. Buổi chiều chủ nhật thời tiết còn rất đẹp, nhưng hôm qua rất nhiều dân làng đã rời đi chỗ khác hoặc vào rừng Mulgrave, khiến cho không khí ở Whitby và các vùng phụ cận bỗng náo nhiệt hẳn lên. Thời tiết vẫn bình thường, nếu không muốn nói là lộng lẫy, đến tận cuối buổi chiều, nhưng một vài ông cụ - ngày ngày có thói quen leo lên nghĩa địa ngồi hóng chuyện và ngắm biển, vì nghĩa địa này nằm ê một vách đá cao chót vót - đã giật mình khi nhận ra những đá mây hình “đuôi mèo” đang lờ lững trôi ở phía Tây bắc. Khi đó, gió chỉ đạt cấp hai theo phong vũ biển. Người tuần biển phải tức tốc làm ngay một báo cáo về hiện tượng không bình thường của thời tiết; và một người ngư dân già người đã từng có hơn năm mươi năm làm công việc theo dõi các dấu hiệu dự báo thời tiết biển - đã thông báo rằng một cơn bão khủng khiếp sắp sửa tấn công điên cuồng vào đất liền. Nhưng bóng chiều tà vẫn đủ sức tô hồng những đám mây đang bồng bềnh trôi về phía chân trời tạo nên một bức tranh tráng lệ như một phần thưởng dành cho những người còn nhởn nhơ trên nghĩa địa cổ. Ông mặt trời lặn dần khiến cho mũi đất trở thành màu tối sẫm như một lưỡi kiếm chém ngang bầu trời. Hoàng hôn pha vào những đám mây đủ sắc màu hồng, tím, xanh và đặc biệt là sắc vàng óng ánh, làm nên đủ loại hình thù quái dị. Các nghệ sĩ lãng mạn nhất có thể lấy đó làm gợi cảnh cho các bức họa thiên nhiên của mình: họ có thể đặt tên, chẳng hạn như Khúc dạo đầu cho cơn bão tử thần, cho một bức vẽ nào đó. Không còn một ông chủ nào dám táo tợn quyết định cho tàu của mình ra khỏi cảng trước khi bão tan. Lúc sẩm tối, gió biển hoàn toàn tắt lịm, không gian bỗng im ắng đến lạ thường, bầu không khí oi nồng, ngột ngạt thường thấy trước các cơn giông tố bắt đầu tràn tới từng ngõ ngách khiến cho những người mẫn cảm không thể chịu nổi. Mặt biển tối đen như mực. Cái duy nhất mà người ta có thể còn nhận ra khá rõ là một chiếc thuyền buồm dọc của người ngoại quốc. Con thuyền đã giương tất cả các cánh buồm lên, hình như nó đang trôi về phía tây. Sự bất cẩn và vụng về quá rõ của đám sĩ quan trên tàu đã làm cho đám đông đứng trên cảng bàn tán xôn xao, người ta cố gắng làm cho họ nhận ra rằng có một mối nguy hiểm đang lơ lửng trên đầu họ, rằng họ nên hạ tất cả các cánh buồm xuống thì hơn.
Khoảng trước mười giờ một chút, bầu không khí oi nồng bắt đầu trở nên ngột ngạt đến nghẹt thở, và tất cả vẫn im lặng sâu thẳm đến mức người ta có thể nghe rõ những tiếng kêu be be của một con cừu hay tiếng ăng ẳng của một con chó nhà vọng tới từ rất xa. Nhưng sự im lặng ấy cũng không thể kéo dài mãi. Ngay sau khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng, người ta chợt nghe thấy một tiếng réo ầm ì và quái gở từ ngoài khơi vọng tới mỗi lúc một gần hơn, cùng lúc đó một tiếng sấm khẽ gầm lên như hăm dọa sau những đám mây chết chóc.
Tiếng sấm rền ấy chính là một dấu hiệu tức thì báo hiệu một tai họa bất thần ầm ầm kéo đến ngay sau đó. Thật không thể hiểu nổi: chỉ trong vòng có mấy phút, thiên nhiên hiền hòa bỗng lập tức trở mặt, bộc lộ rõ bản chất hung hãn của nó. Biển cả êm đềm đã tự biến mình thành một giống quỷ dữ với những con sóng khổng lồ ầm ầm xô nhau như muốn san bằng, hủy diệt tất cả. Mặt biển điên cuồng gầm thét đòi nuốt chửng bến bờ và các vách đá cheo leo. Những cơn gió lúc này cũng gầm lên như những tiếng sấm long trời lở đất với một sức mạnh ghê gớm khiến cho những người đàn ông vạm vỡ nhất cũng khó bề đứng vững nổi trên đường đi.
Đám người còn nấn ná trên sân cảng đã phải vội vàng tìm nơi ẩn náu, bởi mối nguy hiểm đang gia tăng từng phút. Như muốn chứng tỏ tính hung hãn không có giới hạn của mình, mặt biển càng ra sức diễu võ dương oai với những đám bọt khổng lồ ném tung vào sâu trong đất liền. Trên bờ, những kẻ yếu tim sẽ dễ dàng hình dung những đám mây mù trắng toát này là vô số những bóng ma kỳ quái, lởn vởn, nhảy nhót trên bãi biển. Ai có một chút trí tưởng tượng cũng có thể nghĩ ngay tới hình ảnh biển cả đang muốn lôi tuột xuống đáy vực đen ngòm của nó tất cả những sinh linh bé nhỏ yếu ớt trên bờ bằng những bàn tay chết chóc màu trắng. Vâng, những đám mây trắng ấy có thể bao bọc kín người bạn ngay lập tức nếu bạn vô phúc đứng ở đó. Thỉnh thoảng những bóng ma biển lại thoắt ẩn thoắt hiện khi có những tia chớp chói lòa bất thình lình lóe lên loằng ngoằng trên mặt biển, trước những loạt sấm nổ đùng đùng như muốn xé toạc bầu trời.
Những tia chớp lóe không dứt làm cho biển như hùng vĩ hơn bội phần. Mỗi khi sóng dậy, mặt biển bỗng cao hẳn lên với những ngọn núi nước nhấp nhô trập trùng. Nằm đây đó trên biển là một tàu đánh cá, một chiếc thuyền câu... trông chúng chẳng khác nào những miếng giẻ rách không còn biết làm thế nào hoặc đi về đâu để lánh nạn. Thỉnh thoảng trên đầu những ngọn sóng lại xuất hiện những cánh chim biển trắng lao đao vì gió bão. Đứng lừng lững ở đỉnh vách đá phía đông là một ngọn hải đăng đang đợi được sử dụng lần đầu tiên. Người của cảng đang cố gắng tìm mọi cách làm cho cây đèn phát sáng. Và cũng có một hoặc hai lần gì đó, cây đèn mới này đã phát huy được tác dụng - con tàu, hoặc con thuyền nào nhìn được ánh sáng quét đi từ ngọn đèn này thì có thể tìm được hướng đi vào cảng mà không sợ húc đầu vào đá. Cứ mỗi lần có một chiếc thuyền hoặc một con tàu đánh cá vào được cảng là đám đông lại reo hò ầm ĩ từ ngay nơi ẩn nấp của họ. Tất nhiên là tiếng reo vui của họ luôn bị tiếng gào thét của biển cả và gió bão nuốt chửng.
Dưới ánh đèn chiếu lấp loáng, người ta còn trông thấy chiếc thuyền buồm dọc đang giương hết các cánh buồm ở ngoài khơi, hình như đó chính là chiếc thuyền người ta đã thấy lúc sẩm tối. Lúc này gió đã đổi sang hướng dông, đám người nấp trên bờ bắt đầu cảm thấy run khi nhận ra mối nguy hiểm khủng khiếp đang lơ lửng trên đầu con thuyền đơn côi. Giữa con thuyền và bên cảng có một dãy đá lởm chởm chạy dài ra ngoài và từng là nơi đập tan không biết bao nhiêu tàu thuyền trước khi tống tiễn chúng về với hà bá. Một khi gió đông đã nổi lên, con thuyền chỉ như một hạt cát giữa biển ấy sẽ không thể vào cảng được. Mặc dù đang là giờ thủy triều lên, nhưng các con sóng man rợ vẫn xô cao đến nỗi khi chúng cuốn đi, người ta chỉ còn thấy đáy biển nằm trơ trơ. Ấy vậy mà con thuyền vẫn căng buồm tiến băng băng về phía trước, nói như một ngư dân lão luyện, thì con thuyền “rõ ràng là đang tiến về đâu đó dưới địa ngục”. Bị đẩy vào bờ, những đám mây mù dày đặc hơn lại ùn ùn xuất hiện như những bức tường thành ngăn cách thế giới và chỉ cho phép các ngư dân cùng những người trên bờ cảm nhận mọi sự bằng hai lỗ tai. Tất cả lúc này chỉ còn là tiếng gào thét của bão tố, tiếng gầm đinh tai nhức óc của sấm sét và những tiếng ầm ầm điên cuồng của các con sóng. Các ánh đèn chiếu lúc này đã chiếu tập trung vào một điểm cố định trên lối vào cảng, nói chính xác là chỉ còn chiếu về phía đông con đê chắn sóng, nơi người ta tin là sẽ xảy ra một sự va chạm. Những người còn lảng vảng trên bờ đều nín thở chờ đợi. Nhưng gió biển lại đột ngột chuyển sang hướng đông bắc khiến cho các đám mây mù lại bị đánh bạt đi ngay lập tức. Và một điều gần như không thể tin được đã xảy ra: chiếc thuyền buồm dọc đã vượt lên trên các ngọn sóng cả, băng băng lao vào giữa hai con đê chắn sóng và lao thẳng vào một nơi trú ẩn trong cảng.
Ánh đèn chiếu lập tức quét theo con thuyền. Đám người trên bờ như chết lặng khi bất ngờ nhận ra một xác chết đứng áp sát vào bánh lái ở đuôi thuyền, đầu xác chết gục thõng xuống và lắc lư liên tục sang hai bên theo nhịp chao đảo của con thuyền. Ngoài ra không còn bất cứ một bóng người nào khác trên đó. Đám đông kinh hãi thất lên vì ngờ rằng chiếc thuyền buồm đã lao vào cảng như có một phép thần thông: ấy là bàn tay của xác chết đang nắm chặt vào bánh lái? Tuy nhiên, cảnh tượng trôi qua quá nhanh nên không thể mô tả được nhiều. Con thuyền vẫn tiếp tục lao phăng phăng vào bờ và đâm đầu vào một đống cát sỏi do thủy triều và bão biển đồn lại ở góc đông nam của bến cảng, giáp với đuôi của vách đá, nơi có một con đê chắn sóng khác mà người dân xứ này vẫn gọi là Đồi Tate.
Con tàu bị một cú sốc đáng kể khi húc vào đống sỏi cát. Các cột buồm, dây chão bị đứt tung. Và còn một điều bất ngờ nữa: đúng vào lúc mũi tàu húc vào bờ, từ dưới khoang, có một con chó to lừng lững bất ngờ vọt lên trên boong rồi nhảy tót lên bờ như bị cú va chạm vừa rồi hối thúc. Con chó cắm đầu chạy miết về phía đỉnh vách đá chênh vênh - chênh vênh đến nỗi có một số tấm bia mộ trơ lòi cả ra ngoài - rồi biến mất vào bóng đêm phía bên kia những ánh đèn chiếu.
Việc xảy ra như một sự tình cờ, trên Đồi Tate lúc đó chẳng có ai, người dân ở các ngôi nhà xung quanh đều đã ngủ say hoặc đã tạm chuyển tới các gò cao trên cảng. Người tuần biển hộc tốc chạy tới hiện trường và là người đầu tiên nhảy lên con thuyền. Những người điều khiển hải đăng, sau một lúc không phát hiện ra thêm điều gì bất trắc trên đường vào cảng, đã hướng tất cả các ngọn đèn về phía con thuyền mắc cạn và giữ nguyên vị trí ánh sáng ở đó. Trên thuyền, người tuần biển vội vàng lao về phía cuối để kiểm tra. Người ta trông rõ thấy ông cúi xuống ngó nghiêng nhìn vào nơi có thanh bánh lái rồi lùi ngược trở ra ngay lập tức như vừa phải trải qua một cảm xúc bất ngờ không thể chịu nổi. Điều đó càng kích thích trí tò mò của những người đang theo dõi sự có mặt của ông trên con thuyền. Có rất nhiều người đã tức tốc chạy về phía con thuyền để được tận mắt chứng kiến chuyện gì đã xảy ra. Tôi cũng là một trong số những người đầu tiên chạy từ trên vách đá xuống con đê chắn sóng. Tuy nhiên, có một số người đã kịp có mặt trước tôi. Người tuần biển, và cả cảnh sát nữa, phải ra sức ngăn cản những kẻ tò mò trèo lên thuyền. Tuy nhiên, vì là một phóng viên của tờ Dailygraph, nên tôi được phép leo lên boong. Cùng với một vài người nữa, tôi đã được tận mắt chứng kiến cái thây ma đang đứng tì sát vào bánh lái.
 
Sự kinh ngạc, rồi sợ hãi đã hiện rõ trên gương mặt vốn rất thật thà của người tuần biển. Hai bàn tay xác chết còn bám chặt vào một thanh nan hoa của chiếc bánh lái. Giữa lòng bàn tay ấy và thanh gỗ là một cây thánh giá nhỏ không hiểu đã được ai nhét vào từ bao giờ. Sợi dây cườm gắn cây thánh giá được quấn xung quanh hai bàn tay và quấn luôn cả vào thanh nan hoa bánh lái, ngoài ra còn có mấy sợi dây nữa buộc thêm lằng nhằng vào đó. Chắc hẳn gã đàn ông tội nghiệp này đã phải đứng như vậy từ khá lâu, bởi trong gió bão điên cuồng, chiếc bánh lái đã tự do xoay bên này, rồi xoay sang bên kia, khiến cho các sợi dây trói cọ xát đến trầy da, tróc thịt, vào tận xương hai cổ tay của gã. Người ta đã làm một báo cáo chi tiết về vụ việc này, và thầy thuốc, bác sĩ J.M. Caffyn (số nhà 33, Quảng trường Đông Elliot), người có mặt ngay sau tôi, sau khi khám nghiệm, đã tuyên bố rằng gã đàn ông xấu số này chết từ hai ngày trước. Ngườii ta tìm thấy trong túi quần củ gã có một cái chai được bịt nút rất cẩn thận, trong chai có đựng một cuộn giấy nhỏ mà sau đó người ta được biết là những tờ giấy ghi nhật ký hải trình của con thuyền. Theo người tuần biển, chắc chắn gã đàn ông đã tự trói tay mình rồi dùng răng thít chặt các nút dây lại trước khi chết...
Lúc này giông bão đã qua đi, mọi người ai lại về nhà nấy, ánh mặt trời bắt đầu cất những tia nắng đầu tiên trên các thung Yorkshire. Tôi sẽ gặp lại các bạn trong số báo tới với các chi tiết rõ hơn về chiếc thuyền mắc nạn kiểu này.
* * * * *
Whitby, ngày 9 tháng 8
Những phát hiện sau sự xuất hiện bất ngờ của con tàu lạ giữa trận bão đêm qua còn đáng ngạc nhiên hơn cả chính bản thân sự việc. Bây giờ người ta đã biết đó là một con tàu của người Nga đến từ vùng Varna, và tên con tàu là Demeter. Điều kỳ lạ đầu tiên mà người ta phát hiện ra là con tàu đã chở một chuyến hàng không hề đáng giá chút nào - những thùng gỗ ních toàn đất mùn được gửi theo địa chỉ của một công chứng viên ở Whitby, Ngài SF.Billington, số 7, phố Trăng Lưỡi liềm. Sáng nay, người có tên là Billington này đã tới cảng nhận hàng gửi theo đúng quy định về thủ tục giấy tờ.
Về phía mình, lãnh sự quán của Nga đã chính thức lấy lại con tàu sau khi thực hiện đủ mọi thủ tục ngoại giao và ký vào biên bản nhận tàu. Ở Whitby ôm nay, người ta chỉ bàn tới sự kiện con tàu lạ. Cũng rất nhiều người nói tới con chó to lớn đã nhảy lên bờ ngay khi mũi tàu vừa húc vào đống sỏi cát. Sau đó, người ta không tìm thấy con vật đâu. Có lẽ vì quá khiếp sợ trước cơn bão tố nên con vật đã trốn biệt vào đâu đó trong các khu đất hoang rậm rạp cây cỏ. Một số người tỏ ý nghi ngờ trước tình huống dự đoán này và họ cũng nhận thấy ở đó một mối nguy hiểm thực sự, bởi họ nói rằng con vật có vẻ rất hung ác. Sáng sớm hôm nay, có người đã phát hiện ra một con chó cũng rất to lớn nằm chết phơi bụng giữa đoạn đường ở gần ngay bến cảng. Chủ nhân của con chó là một tay buôn thuốc, ông thấy con chó tội nghiệp nằm chết ngay trước cửa nhà mình. Rõ ràng là con vật đã chết bởi một đối thủ rất mạnh vạ hung dữ, vì cổ nó có một vết giằng xé thực sự, còn dưới bụng thì bị phanh ra bởi những vết nanh vuết của một con thú hoang dại.
* * * * *
Vài tiếng đồng hồ sau
Viên thanh tra Bộ Thương mại cho phép tôi mở nhật ký đã được giữ kín trong suất ba ngày theo đúng quy định của luật hàng hải, nhưng nội dung nhật ký thì chẳng có gì thú vị ngoài những chi tiết liên quan tới những mất mát về sinh mạng. Thú thực là tôi chưa bao giờ được biết một câu chuyện nào lạ lẫm hơn thế. Các nhà chức trách đã đồng ý để tôi được ghi lại ở đây theo đề nghị của các độc giả Tôi thấy hình như khi thảo ra những dòng nhật ký này, tay thuyền trưởng của con tàu đã bị mắc một chứng bệnh điên nào đó ngay trước khi ra khơi và căn bệnh của ông ta càng có vẻ trầm trọng hơn trong suất cuộc hành trình. Các bạn nên biết rằng tôi đã chép lại nội dung của nhật ký theo lời dịch của một viên bí thư lãnh sự quán Nga.


Nhật ký hải trình từ Varna đến Whitby của con tàu Demeter

Cho tới ngày hôm nay, ngày 18 tháng 7, đã có nhiều sự kiện lạ lùng bất thường xảy ra khiến tôi phải viết nhật ký cho tới khi con tàu đi tới Whitby.
“Ngày 6 tháng 7, chúng tôi kết thúc việc chuyển hàng cát và những thùng chứa đầy đất mùn lên tàu. Buổi trưa, chúng tôi bắt đầu ra khơi. Gió đông thổi mát rượi. Trên tàu chỉ gồm có năm thủy thủ, hai hạ sĩ quan, một đầu bếp và tôi, thuyền trưởng.
Ngày 11 tháng 7, rạng đông, tàu chúng tôi đi vào cảng Bosphore. Các nhân viên hải quan Thổ Nhĩ Kỳ bước lên kiểm tra tàu. Tiền diêm thuốc. Tất cả đều rất chính xác. Tiếp tục khởi hành vào bốn giờ chiều.
Ngày 12 tháng 7, đã qua Dardanelles. Lại các nhân viên hải quan và tiền diêm thuốc nữa. Tất cả đều được làm rất nhanh. Họ muốn được thấy chúng tôi đi sớm hơn. Buổi tối, tàu chúng tôi qua quần đảo.
Ngày 13 tháng 7, chúng tôi tôi mũi Natapan. Thủy thủ đoàn có vẻ không hài lòng - cứ như là mấy người đang sợ một điều gì đó nhưng không ai dám nói ra.
Ngày 14 tháng 7, tôi bắt đầu cảm thấy khá lo lắng về vấn đề của họ. Tôi biết mình có thể trông cậy vào những con người này, vì tôi thường đi biển với họ. Cũng như tôi, viên phó của tôi đã chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Những người đàn ông chỉ vừa nói vừa ra hiệu rằng trên tàu đang xảy ra một chuyện gì đó. Anh ta đã đùng đùng nổi giận và choảng tới tấp vào người một thủy thủ. Ngoại trừ chuyện này, không còn bất cứ một sự cố nào nữa.
Sáng ngày 16, viên phó đến báo với tôi rằng một người trong số họ, tên Petrofsky, đã biến mất tích. Chuyện không thể giải thích nổi. 8 giờ tối hôm qua, hắn vẫn còn trực ban, sau đó giao ca cho Abrámoff, nhưng sau đó không ai thấy hắn đi ngủ. Những người còn lại bắt đầu tỏ ra bồn chồn lo lắng hơn bao giờ hết, có vẻ như họ .đã nghi ngờ về sự mất tích kiểu như vậy từ mấy bữa trước rồi, song khi được hỏi, họ vẫn nhất mực trả lời mỗi một câu quen thuộc rằng đang xảy ra một chuyện gì đó trên tàu. Cuối cùng, viên phó của tôi lại nổi khùng lên: anh ta nghi rằng bọn họ định làm loạn.
Ngày 17 tháng 7, hôm qua, thủy thủ Olgaren đã đến tìm tôi và sợ hãi tâm sự với tôi rằng hắn đang nghĩ về một gã đàn ông lạ mặt ở trên tàu. Hắn kể rằng trong ca trực, hắn đã đứng nấp sau mui tàu để tránh cơn giông đang nổi lên, và đã tình cờ trông thấy một gã đàn ông cao lớn, nhưng gầy guộc, không giống bất cứ ai trong số chúng tôi, xuất hiện trên bơong tàu rồi đi nhanh về phía mũi tàu và đột nhiên biến mất. Hắn bám theo, nhưng khi đến mũi tàu, hắn không còn trông thấy ai ở đó, tất cả các cánh cửa boong tàu đều vẫn khóa. Đứng trước mặt tôi mà tay thủy thủ vẫn không bớt sợ hãi đi chút nào, tôi sợ rằng sự hoảng loạn của hắn sẽ lây sang cả thủy thủ đoàn. Để trấn an họ, hôm nay tôi đã phải đi sục sạo hết mọi xó xỉnh trên con tàu.
Tôi cho tập hợp tất cả mọi người lại và bảo rằng vì họ tin trên tàu đang có một kẻ lạ mặt, nên chúng tôi sẽ đi tìm kiếm mọi chỗ, từ mũi đến đuôi tàu. Viên thuyền phó tỏ ra bất bình với ý kiến của tôi, anh ta nói rằng sự nhượng bộ trước các đề nghị ngu ngúc ấy quả là một điều đáng chê cười và điều đó chỉ có thể càng làm cho các thủy thủ muốn làm loạn mà thôi. Để mặc cho anh ta trong khoang lái, tôi cùng với những người khác cầm đèn đi lục lọi khắp con tàu. Chúng tôi tìm rất kỹ ở những góc mà gã đàn ông có thể lẩn tránh. Công việc tìm kiếm của chúng tôi kết thúc, ai cũng thở phào nhẹ nhõm và có thể vui vẻ trở về với nhiệm vụ của mình. Viên thuyền phó nghẹo đầu nhìn tôi song không nói gì.
Ngày 22 tháng 7
Giông bão lại nổi lên từ ba ngày hôm nay, và tất cả chúng tôi đều phải ra sức vật lộn với những cánh buồm. Không còn thời gian để mà sợ nữa; có khi họ cũng không nghĩ tới điều đó. Tuy nhiên viên thuyền phó vẫn chưa dứt khỏi tâm trạng bực bội. Đáng khen cho những con người tận tình với công việc giữa sóng cả. Tàu đã qua Gibraltar và đang đi vào Detroit. Tất cả đều ổn.
Ngày 24 tháng 7
Rõ ràng là lời nguyền vẫn đeo đuổi chúng tôi. Một người trên tàu đã biến mất tăm, và tối hôm qua, trong lúc giông bão còn đang hoành hành, trên đường vào vịnh Biscay, chúng tôi lại thấy thêm một người nữa mất tích. Cũng như lần trước, anh ta vừa hết ca trực, nhưng không ai thấy anh ta về ngủ. Sự hoảng sợ lại một lần nữa bao trùm lên khắp con tàu; các thủy thủ phải thỏa thuận hai người trực một ca, đơn giản là họ sợ phải đứng một mình. Tất nhiên là viên phó của tôi lại nổi giận. Tôi sợ một sự bùng nổ, hoặc là từ anh ta, hoặc là từ thủy thủ đoàn.
Ngày 28 tháng 7
Từ bốn hôm nay, con tàu như đang đi vào một địa ngục thực sự, vẫn là gió bão, không ai ngủ được nữa, tất cả mọi người đều kiệt sức.
Không còn bất cứ một người nào có thể đứng ca trực. Viên thuyền phó dược đề nghị trực thay để những người còn lại có thể nghỉ ngơi và chợp mắt một chút.
Gió đã yếu đi ít nhiều, nhưng các đợt sóng vẫn rất dữ. Tuy nhiên, chúng tôi đã cảm thấy ít bị chao đảo hơn con tàu dần dần thăng bằng trở lại.
Ngày 29 tháng 7
Lại một thảm kịch nữa. Đêm nay chỉ có một người đứng trực. Buổí sáng, một thủy thủ khác lên thay, khi lên trên boong hắn đã không trông thấy ai, ngoại trừ một người ở bên cần bánh lái. Nghe thấy tiếng kêu khiếp sợ của người thủy thủ, tất cả chúng tôi chạy hớt hải lên boong, nhưng mọi sự tìm kiếm của chúng tôi đều vô ích. Con tàu đã mất thêm một thủy thủ. Tất cả lại hoảng loạn. Tôi và viên thuyền phó quyết định cầm vũ khí và chờ đợi...
Ngày 30 tháng 7
Chắc chắn là đêm cuối cùng. Thật may mắn là chúng tôi đang gần đến Anh quốc. Thời tiết thật đẹp tất cả các cánh buồm trên tàu đều được giương lên. Tôi phải đi ngủ, giấc ngủ thật say, nhưng viên thuyền phó lại bất ngờ đánh thức tôi dậy và thông báo rằng hai thủy thủ trực ca đã biến mất, kể cả người cầm lái cũng vậy. Vậy là chúng tôi chỉ còn lại có bốn người trên tàu - tôi, viên thuyền phó và hai người khác.
Ngày 1 tháng 8
Hai ngày dày đặc sương mù và không có một cánh buồm nào nằm trong tầm nhìn. Tôi hy vọng khi tới biển Măngsơ, chúng tôi có thể kêu cứu... Khi không còn cách nào điều khiển được các cánh buồm (tôi không dám cho hạ buồm vì sợ đến lúc lại không kéo được lên), chúng tôi bắt đầu bị đe dọa bởi những cơn gió thổi từ phía sau. Đúng là chúng tôi đang bị dồn ép tới một định mệnh khủng khiếp.
Viên thuyền phó lúc này còn mất can đảm hơn cả hai thủy thủ còn lại. Hai con người này thậm chí không còn dám nghĩ để mà sợ nữa, họ vẫn tiếp tục nhẫn nại làm việc và chờ đợi cái điều tồi tệ nhất. Họ là người Nga, còn viên thuyền phó là người Rumani.
Ngày 2 tháng 8, nửa đêm
Vừa ngủ được vài phút, tôi bỗng giật mình choàng tỉnh bởi một tiếng kêu thảm thiết lọt qua ô cửa sổ. Tôi chạy nháo nhào lên boong và gặp viên thuyền phó ở đó. Anh ta nói cũng nghe thấy có tiếng kêu, nhưng trước khi chạy ngay tới đây, anh ta đã không trông thấy người thủy thủ trực ca đâu cả. Lại mất đi một sinh mạng nữa. Cầu Chúa hãy che chở cho chúng tôi! Theo viên thuyền phó thì chúng tôi đang ở biển Bắc, và chỉ có Chúa mới có thể dẫn dắt chúng tôi vượt qua lớp lớp sương mù, nhưng dường như Chúa đã bỏ mặc chúng tôi?
Ngày 3 tháng 8
Nửa đêm, tôi định mò tới chỗ người thủy thủ đang cầm lái, nhưng thật kinh ngạc, tôi không còn trông thấy ai ở đó cả! Tôi hét lên gọi viên thuyền phó, và anh ta đã có mặt ngay lập tức. Đôi mắt nhớn nhác của anh ta lộ rõ vẻ hoảng loạn thực sự, tôi chỉ sợ anh ta mất trí. Anh ta tiến lại gần tôi và nói thầm vào tai tôi như sợ gió nghe thấy: “Tôi đã biết chắc chuyện đang xảy ra ở đây. Tối hôm qua tôi đã trông thấy nó: một thằng cao lớn và gầy nhẳng, mặt mũi xanh nhợt. Nó đứng ở mũi tàu, mặt trông ra khơi xa. Tôi lẻn tới sau lưng nó và lựa thế hạ một nhát dao ngang vào cổ nó, nhưng lưỡi dao đã không chạm vào đâu cả, tôi có cảm giác như mình vừa chém vào không khí”. - Vừa nói, anh ta vừa rút dao trong túi ra khua khoắng thô bạo như thể muốn chém nát không khí. - “Nhưng nếu cứ ở đây thì thế nào tôi cũng tóm cổ được nó. Dưới hầm tàu, hoặc trong một cái thùng nào đó... Tôi sẽ mở lần lượt từng thùng một, nó cớ chạy đằng trời. Còn ngài, xin ngài hãy cầm lái nhé”. Nói xong, anh ta nháy mắt, giơ một ngón tay lên ngang miệng ra hiệu cho tôi rồi bước xuống phía dưới tàu. Gió biển càng lúc càng thổi mạnh hơn, và tất nhiên là tôi không thể rời khỏi bánh lái được Lát sau, tôi thấy viên thuyền phó đi ngược trở lại boong tàu cùng với một hòm dụng cụ và một cây.đèn rồi đi mất hút vào trong cửa boong phía trước. Anh ta điên mất rồi, có nói lý với anh ta bây giờ cũng chỉ vô ích... Vậy là tôi lại phải ngồi đây một mình để trông cái bánh lái, đồng thời cũng để tranh thủ viết những dòng này. Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này là tin ở Chúa và chờ màn sương mù tan dần. Nếu có thể đi được vào một bến cảng nào đó, tôi sẽ hạ tất cả các cánh buồm xuống và sẽ làm hiệu cấp cứu...


Lạy Chúa! Tôi rất sợ mọi chuyện sẽ kết thúc ngay bây giờ. Đúng vào lúc tôi bắt đầu hy vọng viên thuyền phó sẽ bình tĩnh trở lại (bởi tôi đã nghe thấy những tiếng dao chém của anh ta dưới hầm tàu), thì chợt có một tiếng kêu thét hãi hùng bất ngờ dội lên qua cửa boong, tiếp theo là cảnh tượng tay thuyền phó bị ném từ dưới lên boong như một cây chuối.
Trông hắn lúc này chẳng khác nào một thằng mất trí thực sự: hai mắt ngơ ngác, nét mặt lộ rõ sự khiếp nhược. “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Hắn vừa gào thét vừa khiếp sợ nhìn quanh bức tường sương mù. Rồi sự sợ hãi của hắn đã được thế chỗ bởi một tình cảm tuyệt vọng, hắn nói với tôi bằng một giọng khá quả quyết: “Ngài cũng nên sớm tìm cách mà xoay xở trước khi quá muộn, thuyền trưởng ạ. Nó đang ở dưới đó. Bây giờ tôi đã biết rất chính xác mọi chuyện. Chỉ có biển mới có thể giúp tôi tránh khỏi nanh vuốt của con quái vật này!” Tôi chưa kịp nói một lời hoặc làm một cử động mang tính phản xạ nào thì đã thấy hắn nhảy tõm xuống biển. Tôi cho rằng bây giờ mình cũng đã hiểu rõ điều bí mật. Chắc chắn là kẻ bất hạnh kia đã phát điên để rồi tống khứ lần lượt từng người ra khỏi tàu, và bây giờ chính hắn cũng muốn đi theo họ xuống biển. Mong sao Chúa sẽ ra tay cứu giúp tôi! Tôi biết giải thích như thế nào về những cơn ác mộng khủng khiếp vừa qua khi tàu cặp bến? Khi tàu cặp bến! Hay là chẳng bao giờ tôi còn có thể vào cảng được nữa?
Ngày 4 tháng 8
Ánh mặt trời không xua tan được màn sương mù dày đặc. Nếu không phải là một thủy thủ, có lẽ tôi cũng không thể biết là mặt trời đã lên. Tôi không dám xuống dưới hầm tàu, cũng chẳng dám bỏ buồng lái mà đi chỗ khác, mà đành phải ngồi thấp thỏm ở đó suất cả đêm. Và giữa trời tối mịt mùng, tôi đã nhận ra sự việc - đúng hơn là tôi đã nhận ra nó! Chính là nó! Thì ra là vậy. Lạy Chúa hãy tha thứ cho con? Viên phó của tôi đã làm đúng khi nhảy xuống biển. Tôi muốn chết như một con người, không ai có thể chê trách cách chết như vậy của một thủy thủ. Nhưng còn tôi, tôi không thể bỏ mặc con tàu, bởi vì tôi là một thuyền trưởng. Song tôi sẽ có cách làm thất bại mọi âm mưu của con quỷ này: khi nào cảm thấy kiệt sức, tôi sẽ buộc chặt hai tay mình vào bánh lái và buộc cả vào đó cái mà... cái mà nó không dám động chạm tội và cho dù thời tiết có thuận lợi hay không, thì tôi vẫn cứ tìm mọi cách để thoát nạn và bảo toàn danh dự của một viên thuyền trưởng!... Tôi cảm thấy mình đã đuối sức đi nhiều, chẳng mấy chốc màn đêm lại buông xuống. Nếu chậm trễ, có lẽ tôi sẽ chẳng còn thời gian để hành động... Nếu không thì ít nhất, người ta cũng sẽ biết rằng tôi không phải là một kẻ vô trách nhiệm. Lạy Chúa, lạy Đức mẹ Đồng trinh và tất cả các vị thánh nhân từ, xin hãy đến cứu giúp một linh hồn vô tội đáng thương và đầy thiện ý!...”
* * * * *
Đợi tôi nghe hết những dòng nhật ký này, viên thanh tra mới phán một câu rằng đây là một vụ trọng án không rõ thủ phạm. Đúng là trên tàu không có bất cứ một bằng chứng nào đáng tin cậy, và không ai có thể nói rằng thủ phạm gây ra những cái chết có phải là người hay không. Các ngư dân ở Whitby đều đồng ý tôn vinh viên thuyền trưởng là một anh hùng và đã tổ chức đám tang cho ông theo các nghi lễ trọng thể nhất trong vùng. Thi thể của ông sẽ được chôn cất ở một nơi trên vách đá trông xuống cảng.
Người ta vẫn không tìm ra một dấu vết nào của con chó to ấy; dư luận trong vùng cũng như cả thành phố nhỏ Whithy đã tỏ ý lấy làm tiếc về điều này. Như vậy, ngày mai chúng ta sẽ tham dự đám tang viên thuyền trưởng. Và đây sẽ là kết cục của câu chuyện “Điều bí ẩn của biển” vốn đã được thêu dệt thêm thắt không biết bao nhiêu tình tiết.


Nhật ký của Mina Murray


Ngày 6 tháng 8
Lucy lục sục suốt cả đêm, tôi cũng vậy, nằm trằn trọc mãi mà vẫn không sao chợp mắt được. Cơn bão khủng khiếp quá, nghe tiếng gió lùa vào qua ống khói trên mái nhà mà tôi cứ ngỡ là tiếng đại bác. Kể cũng lạ, dù không tỉnh, nhưng Lucy vẫn hai lần đứng dậy mặc quần áo. Cũng may lần nào tôi cũng nghe thấy tiếng động và kịp chạy sang can thiệp, dìu cô nàng trở lại giường nằm. Tôi thật không thể nào hiểu được những người bị mộng du, bởi lúc chạy sang ngăn chặn các cử động của Lucy, tôi thấy cô lập tức từ bỏ ngay cái ý định hình thành một lúc trước đó của mình - nếu như có thể gọi là ý định trong trường hợp này – và trở lại nhịp sống bình thường vốn có.
Hai chúng tôi dậy từ rất sớm và tò mò rủ nhau xuống cảng xem đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Gần như chẳng có một mống nào ở đó, mặc dù mặt trời đã ló rạng và thời tiết phần nào mát mẻ trở lại. Bầu trời chưa hết những đám mây đen trĩu nặng. Tôi sung sướng với ý nghĩ Jonathan đã không đi biển vào đêm hôm qua. Nhưng có đúng là anh không đi... biển không? Anh ấy vẫn ở trên đất liền? Anh đang ở đâu, và tình hình ra sao rồi? Sao tôi thấy lo lắng về anh đến thế! Giá như tôi biất điều mình sẽ phải làm, giá như tôi có thể làm được một cái gì đó thì đầu óc tôi sẽ thanh thản đi bao nhiêu?
* * * * *
Ngày 10 tháng 8
Đám tang viên thuyền trưởng tội nghiệp hôm nay thật cảm động. Tôi tin rằng tất cả tàu thuyền ở cảng đều tập trung hết ở đám tang ông. Các sĩ quan hải quân trực tiếp mang linh cữu của ông từ Đồi Tate lên nghĩa trang. Lucy cùng đi với tôi. Hai chúng tôi ngồi trên chiếc ghế đá quen thuộc nhìn đoàn tàu thuyền đưa tang đi ngược dòng sông nhỏ đến chỗ chiếc cầu cạn để sau đó quay trở lại Đồi Tate. Vì ngồi ở đỉnh vách đá nên chúng tôi có thể bao quát tất cả trong tầm mắt. Chúng tôi theo dõi được hết mọi chi tiết của buổi lễ mai táng. Lucy tỏ ra rất xúc động, xúc động đến ảo não, khi thấy di hài của viên thuyền trưởng được hạ xuống một huyệt đạo ngay trong tầm mắt của chúng tôi. Có lẽ những đêm lục sục không yên và những cơn mơ liên tục đã ảnh hưởng rất không tốt đến sức khỏe của cô. Nhưng cũng thật lạ, khi tôi đề eập tới chuyện này, Lucy nhất định không chịu thừa nhận nguyên nhân đã khiến cô bị căng thẳng thần kinh, thậm chí cô còn thoái thác rằng chính cô cũng đâu có cảm thấy thế. Có lẽ hôm nay, nỗi phiền muộn của cô đã tăng lên rất nhiều sau khi biết sáng nay, ông lão Swales đã bị chết ở ngay trên chiếc ghế chúng tôi đang ngồi với một vết chặt ở cổ. Theo ông bác sĩ cho biết, thì chắc chắn trước khi ngã xuống, ông lão đã phải trải qua một nỗi khiếp đảm ghê gớm không thể lý giải nổi, vì sự khiếp đảm đó vẫn còn hằn rõ trên nét mặt ông khi người ta tìm thấy xác ông. Quả là một ông lão bất hạnh? Không hiểu ông đã nhìn thấy Thần Chết hay chưa?... Lucy là một cô gái nhạy cảm đến nỗi mọi sự đều có thể khiến cô xúc động sâu sắc hơn so với bất cứ một ai khác cùng trải qua một nông nỗi.
Trong lúc người ta đang chôn cất viên thuyền trưởng xấu số, cô đã bị ám ảnh bởi một điều không khiến tôi chú ý một chút nào, mặc dù tôi là một người lúc nào cũng rất yêu các con vật. Một trong số những người đàn ông thường xuyên lên đây ngắm thuyền ngắm biển vừa xuất hiện cùng với một con chó mà mọi lần ông tà vẫn dắt theo. Không hiểu sao con chó lại không muốn đến gần chủ của nó, người đang ngồi cùng chiếc ghế băng của chúng tôi. Con chó cứ đứng cách đó một đoạn mà sủa, mà gầm gừ lên ầm ĩ. Lúc đầu người đàn ông chỉ nhắc nhẹ nhàng, nhưng con chó vẫn không chịu im. Ông ta liền gằn giọng, rồi nổi giận quát nạt om sòm. Vô ích. Con vật thậm chí còn sủa dữ dội hơn trước. Nó cũng đang giận dữ, hai mắt long sòng sọc một vẻ hoang dại, lông xù lên như lông nhím. Người đàn ông bắt đầu nổi khùng thật sự, ông ta nhảy khỏi ghế và thượng đẳng đá cho con chó một phát vào bụng, rồi điên tiết túm cổ lôi xệch con vật tới chỗ ngôi mộ đá có đặt chiếc ghế băng. Thật kỳ lạ, khi vừa chạm vào tấm đá, con vật lập tức im bặt, nhưng thay vào đó, người nó bỗng run lên bần bật. Không những không đủ sức bình tĩnh trở lại, con vật còn nằm quy chân xuống, có vẻ như đang khiếp sợ một cái gì đó. Tôi thử đã đành nó song cũng không được. Lucy cũng thương hại con vật, nhưng cô vẫn không làm gì để vuốt ve, trấn an nó, mà chỉ nhìn với ánh mắt thật lo âu. Tôi sợ cô có một bản năng thực sự quá tinh tế, nhạy cảm, góp thêm phần vào tất cả những gì cuộc đời đã dành cho cô. Không hiểu rồi cô sẽ trải qua một đêm như thế nào nữa! Tất cả những sự kiện vừa xảy ra: một con tàu vào cảng cùng với một xác chết ngay trước bánh lái, một tang lễ kéo dài, rồi đến con chó lúc thì giận dữ, lúc lại khiếp sợ - vâng, tất cả đã diễn ra liền một lúc, để rồi bạn tôi phải rơi vào những cơn mộng mị mới.
Tất nhiên là tôi muốn tối nay, Lucy sẽ có một giấc ngủ thật sâu vì mệt: ý tôi muốn nói là sự mệt mỏi: thể xác chứ không phải tinh thần. Vì vậy, tôi đã rủ cô đi dạo một quãng dài qua các vách đá đến vịnh Robin Hood, rồi từ đó đi bộ ngược trở về. Tôi nghĩ rằng đêm nay cô sẽ không rời khỏi giường để rồi lại lững thững đi ra ngoài trong khi vẫn đang ngủ.
 
Chương 8

Nhật ký của Mina Murray

11 giờ tối cùng ngày
Thật là buồn cười, người mệt nhoài sau cuộc đi dạo lại chính là tôi! Nếu không có thói quen viết nhật ký, thì chắc là đêm nay tôi sẽ chẳng viết gì cả. Chúng tôi đã có một cuộc đi dạo khá thú vị. Lucy có vẻ thanh thản hơn, cô cười rất thích thú về sự tò mò của những chú bò khi chúng lững thững đi lại gần hàng rào ngây ngô nhìn chúng tôi đi qua - điều này dường như đã làm cho cả hai chúng tôi quên đi mọi suy nghĩ phiền muộn nhất. Xuống tới vịnh Robin Hood, trong một quán nước cổ nhỏ nhỏ, nơi khách khứa có thể ngồi trông ra những mỏm đá phủ đầy tảo lục, chủ quán đã cho chúng tôi một bữa trà tuyệt hảo. Chắc chắn các mẹ, các chị vẫn tự xưng là “phụ nữ thời thượng sẽ cảm thấy bị sốc khi thấy chúng tôi thưởng thức một cách ngon lành đến thế. Còn giới mày râu, ơn Chúa, bao giờ họ cũng tỏ ra rộng lượng hơn! Sau đó chúng tôi tiếp tục trở về, nhưng thỉnh thoảng cũng dừng lại nghỉ một chút cho đỡ mỏi. Về tới khách sạn, Lucy kêu rất mệt, vì vậy chúng tôi định lên phòng nằm ngay. Song có vị phó linh mục trẻ vừa đến thăm, và bà Westenra đã mời ông nán lại ăn tối cùng với chúng tôi: Tôi thấy không được vui ... Lucy vẫn bình yên. Gương mặt cô trông thật dễ thương với đôi má ửng hồng. Nếu như Holmwood cảm thấy yêu cô lần đầu tiên sau cái nhìn đầu tiên trong phòng khách, thì tôi không hiểu anh ta sẽ có những cảm giác như thế nào khi được thấy cô trong giấc ngủ như đêm nay! Có lẽ một số “phụ nữ thời thượng” làm nghề viết lách sẽ nghĩ ngay ra một thứ mốt mới: họ sẽ gợi ý cho các nam thanh nữ tú, trước khi cưới nhau, phải tới ngắm nhau trong giấc ngủ! Nhưng tôi thì tôi cho rằng từ nay về sau, người “phụ nữ thời thượng” sẽ không còn bằng lòng với cái vai trò chỉ được phép nhận lời dạm ngõ của một người đàn ông nào đó nữa, mà có khi chính cô ta sẽ làm cái việc đó, làm hoàn hảo là đằng khác. Đó chỉ là một niềm an ủi...Tôi sẽ vui biết nhường nào nếu được thấy Lucy khỏe mạnh hơn. ,Tôi thực sự tin rằng cô đã vượt qua cái lúc nguy kịch nhất, và đêm nay cô sẽ có một giấc ngủ thật an lành: Còn tôi, tôi sẽ có một niềm vui trọn vẹn nếu biết rằng Jonatha... Cầu Chúa hãy ban phước lành và che che chở anh!...
* * * * *
Ngày 11 tháng 8, 3 giờ sáng
Tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký sau khi không thể ngủ được nữa. Làm sao tôi có thể ngủ dược sau cuộc phiêu lưu đáng sợ ấy chứ?... Thú thực là lúc trước tôi cũng có ngủ được một giấc ngay sau khi gấp cuốn sổ lại. Tuy nhiên, tôi đã giật mình tỉnh đậy, người ướt đẫm mồ hôi, mà không hiểu tại sao. Tôi có cảm giác như đang ở trong phòng có một mình; căn phòng tối quá, tối đến nỗi tôi không thể nhìn thấy chiếc giường của Lucy.. Phải tới lúc ren rén bước lại gần, tôi mới nhận ra rằng chiếc giường trống không.- Lucy không còn ở đó nữa! Tôi đánh diêm soi: cô ấy không có ở trong phòng! Cánh cửa vẫn khép kín nhưng không khóa, tôi nhìn rất rõ mình đã vặn ổ khóa một vòng trước khi đi ngủ. Vậy là Lucy đã bỏ ra ngoài. Không muốn làm phiền giấc ngủ nhọc nhằn của bà Westenra, tôi vội vàng khoác thêm áo và chạy vội đi tìm con gái bà. Lúc ra khỏi phòng, tôi nghĩ bộ quần áo Lucy khoác lên người lúc bỏ ra ngoài có thể gợi cho tôi thấy mục đích mà cô đã dự định trong lúc mê ngủ. Nếu như cô mặc bộ váy ngủ thì có thể cô vẫn loanh quanh ở trong nhà, còn nếu như mặc áo dài, có nghĩa là cô đã đi ra ngoài. Nhưng bợ váy ngủ cũng như tất cả các loại áo váy của cô vẫn còn ở trong phòng. “Ơn Chúa!” – Tôi thầm nghĩ - “cô nàng không thể bỏ đi xa giữa đêm hôm như thế này nếu như chỉ khoác lên người chiếc áo ngủ!” Tôi lao xuống cầu thang vào phòng khách. Lucy không có ở đó. Tôi chạy xộc vào tất cả các phòng còn lại trong tâm trạng mỗi lúc một lo lắng hơn. Cuối cùng, tôi chạy tới cửa ra vào và chột dạ nhận thấy hai cánh cửa mở toang. Khi nhớ bình thường tối nào cánh cửa này cũng được khóa cẩn thận, tôi bắt đầu cảm thấy sợ rằng Lucy đã bỏ ra ngoài với độc một chiếc áo ngủ trên người. Nhưng tôi không thể mất thời gian vào cái việc nghĩ xem điều gì có thể xảy ra: một cảm giác lo sợ mồ hồ đang trào dâng trong con người tôi, khiến tôi không còn khả năng chú ý tới các chi tiết. Tôi hớt hải chạy ra khỏi cửa. Khi tôi chạy tới phố Trăng Lưỡi liềm cũng là khi chuông đồng hồ nhà ai đổ dài một tiếng, đường phố vắng tanh không một bóng người, Tôi cắm đầu chạy miết mà không để ý thấy một cái bóng màu trắng. Chạy tới bờ vách đá phía tây nằm chìa ra trên cây cầu, tôi dừng lại ngó nghiêng nhìn sang bờ phía đông, trong lòng vừa hy vọng lại vừa lo sợ quả thực là tôi không biết nói thế nào để diễn tả tâm trạng của mình khi nhận ra bóng Lucy đang ngồi trên chiếc ghế đá quen thuộc. Ánh trăng thanh trên bầu trời đang.bị những mây đen ùn ùn kéo đến che khuất, để lại phía dưới một thế giới khi sáng, khi tối mờ mịt. Có lúc tôi chẳng còn phân biệt được gì nứa, bởi có một đám mây đen khổng lồ đã kéo tới ôm gọn cả cái bóng của nhà thờ St. Mary và cả các khu vực xung quanh. Tuy nhiên, các đám mây cũng sớm tản đi bởi những cơn gió lộng, khiến ánh trăng lại soi tỏ các phế tích của tu viện, rồi đến nhà thờ và nghĩa địa. Sự chờ đợi của tôi dù là hy vọng hay lo sợ hẳn cũng sẽ không bị uổng công, vì trên trên chiếc ghế băng kia, ánh trăng bàng bạc soi rõ một cái bóng trắng toát như tuyết trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Một đám mây khác kéo đến quá nhanh một lần nữa đưa tất cả trở về với bóng tối, nhưng tôi vẫn có cảm giác rằng dường như có một cái gì đó thật đen tối đang đứng đằng sau chiếc ghế băng và cúi sát xuống cái bóng trắng. Tôi không thể khẳng định được đó là bóng người hay bóng một con vật. Không mất thời gian đợi đám mây trôi qua, tôi lẻn nhanh xuống dưới cảng, đi dọc theo chợ cá rồi leo lên cầu, bởi đây là con đường duy nhất dẫn tôi đến vách đá phía đông.
Thành phố vắng tanh khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, bởi dù sao thì tôi cũng không muốn thiên hạ biết rõ tình trạng của cô bạn Lucy đáng thương của tôi. Thời gian, và cả khoảng cách nữa, cứ như kéo dài vô tận đối với tôi; hai đầu gối tôi bắt đầu run run, càng lúc tôi càng cảm thấy nghẹt thở khi leo lên các bậc đá dẫn tới tu viện. Tôi lấy hết sức bình sinh để leo lên tới đỉnh cao đó càng nhanh càng tốt, ấy vậy mà đôi chân cứ nặng như đeo đá. Mò mẫn gần tới nơi, tôi nhận ra ngay chìếc ghế đá và cái bóng trắng toát ở đó, bây giờ tôi đã ở một vị trí khá gần để có thể phân biệt được mọi vật trong bóng tối. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng là có một cái bóng tạo hóa dài và đen sẫm đang cúi sát xuống người cô bạn tôi. Tôi buột miệng kêu lên: “Lucy? Lucy” và lập tức trông thấy một cái đầu ngóc dậy cùng với bộ mặt nhợt nhạt, đôi mắt sáng quắc. Không thấy Lucy trả lời, tôi chạy bổ vào nghĩa địa. Cái bóng sừng sững của nhà thờ đã che khuất tầm mắt của tôi. Tôi chạy vòng qua nhà thờ. Cuối cùng, ánh trăng vắng bóng mây đã cho phép tôi trông thấy rõ Lucy đang ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dầu tựa vào lưng ghế đá. Chỉ có một mình cô ở đó, đằng sau chiếc ghế không còn dấu vết nào, dù là nhỏ nhất, của một sinh vật sống.
Lucy đang ngủ rất say, đôi môi hé mở, nhịp thở không êm ái như mọi khi. Dường như cô đang gắng sức với những nhịp thở khó nhọc để có thể hít không khí vào trong lồng ngực. Cô khẽ cựa quậy rồi kéo cao chiếc áo ngủ lên kín cổ trong trạng thái vô thức. Tôi chợt nhận thấy cô đang lạnh run từ đầu xuống chân. Tôi lấy chiếc khăn len của mình nhẹ nhàng quấn vào cổ bạn. Tuy nhiên, hình như bàn tay vụng về vì sợ hãi của tôi đã chọc mạnh vào cổ cô thì phải, vì sau đó tôi thấy cô đưa tay lên xoa cổ và khẽ rên lên một tiếng. Chiếc móng tay để dài ngoằng của tôi đã làm cô đau, song không vì thế mà cô tỉnh dậy. Sau khi xỏ vào chân bạn đôi giày của mình, tôi mới dám nhẹ nhàng đánh thức cô dậy. Cô lại khẽ rên một tiếng và trút một hơi thở thật dài, nhưng vẫn không hề động đậy thêm một chút nào. Nhận thấy một ngày mới đang sắp đến như vậy sẽ không tiện cho việc dẫn Lucy về khách sạn tôi buộc phải lấy cô bạn mạnh hơn một chút. Cuối cùng thì cô cũng mở mắt tỉnh dậy, nhưng không hề tỏ vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi, rõ ràng là cô vẫn chưa biết mình đang ở đâu. Lúc mơ màng tỉnh dậy, trông Lucy vẫn xinh đẹp như thường. Kể cả khi cô vừa trải qua một đêm tối lạnh lẽo run người giữa một bãi thưa ma hoang vắng, và trên người chỉ có độc nhất một chiếc áo ngủ, trông cô vẫn không mất đi cái vẻ duyên dáng yêu kiều. Tỉnh dậy rồi mà người cô vẫn run run. Khi tôi bảo: “Về nhà ngay với tớ đi”, cô chỉ lẳng lặng đứng dậy và ngoan ngoãn vâng lời như một đứa trẻ. Trên đường về, sỏi đá đã làm đôi chân tôi trầy máu. Thấy vậy cô đã dừng lại nài nỉ tôi xỏ chân vào đôi giày mà tôi đã nhường cho cô. Tất nhiên là tôi không đồng ý. Ra khỏi nghĩa địa, tôi phải nhúng cả hai chân xuống bùn để khi có người bắt gặp họ sẽ không phát hiện ra tôi đang đi chân đất. Song cơ may đã mỉm cười với tôi và Lucy: chúng tôi về nhà mà không chạm trán bất cứ một người nào. Thực ra trên đường đi cũng có một người đang đi lấy cá thì phải, song chúng tôi đã kịp nấp vào một bên cổng nhà thờ đợi ông ta đi khuất. Thật uổng công khi phải nhắc lại rằng tôi không chỉ lo lắng cho sức khỏe của Lucy nếu cô ấy bị cảm lạnh, mà tôi còn rất sợ phải thấy cảnh thanh danh của cô bị bêu riếu như chuyện này bị vỡ lở. Về nhà rồi, sau khi rửa chân xong, tôi đưa ngay cô bạn vào phòng. Trước khi ngủ, cô đề nghị, nài nỉ tôi đừng kể gì với ai, kể cả với mẹ cô. Lúc đầu tôi cũng hơi do dự về việc có nên hứa với cô hay không, nhưng sau nghĩ đi nghĩ lại, tôi quyết định nhận lời, bởi tôi cũng rất lo cho sức khỏe của mẹ cô, chắc chắn bà sẽ không tránh khỏi một cú sốc khi biết chuyện. Hy vọng là tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và cứ thế giữ chìa khóa trong tay mà đi nằm. Có lẽ tôi sẽ không bị rơi vào tình thế khó khăn nữa. Lucy lại nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Ngoài kia, ánh bình minh đã lấp loáng trên mặt biển...
Cùng ngày, buổi trưa
Tất cả đều ổn thỏa. Lucy ngủ một mạch cho tới khi tôi tỉnh dậy, và dường như cô chỉ trở mình có một lần trên giường. Xem ra cuộc phiêu lưu đêm qua đã không làm cô mỏi mệt, trái lại, tôi có cảm giác cô còn có vẻ khỏe khoắn hơn vào sáng nay, khỏe khoắn hơn cả trước đó mấy tuần. Chỉ có điều trông cô vẫn buồn, rất buồn nữa là đằng khác. Chắc là cô đang hồi tưởng lại cái cảnh khủng khiếp mà cô đã phải trải qua trên vách đá đêm qua. Chúng tôi không muốn nhắc lại chuyện ấy nữa. Ăn tối xong, Lucy kêu đau đầu nên lại lên giường nằm. Đợi cô ngủ rồi tôi mới dám ra ngoài, tôi muốn đi dạo một mình trên các vách đá. Thú thực tôi cũng cảm thấy rất buồn, bởi tôi luôn nhớ tới Jonathan. Khi tôi quay về, ánh trăng soi sáng vằng vặc đến nỗi mặc dù khách sạn gần như nằm trong bóng tối hoàn toàn, tôi vẫn có thể phân biệt được từng sự vật nhỏ nhất. Ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng mình, tôi nhác thấy cái bóng nghiêng nghiêng của Lucy. Tôi lấy khăn tay ra vẫy vì nghĩ cô ấy đang tìm mình. Tuy nhiên, cô nàng vẫn không hề nhúc nhích, có vẻ như cô nàng không để ý thấy tôi. Lúc đó, ánh trăng thanh soi sáng cả góc nhà, do vậy mà ô cửa sổ phòng tôi cũng được chiếu sáng như ban ngày. Tôi thấy cô bạn hai mắt nhắm nghiền, đang ngả đầu lên gờ cửa sổ. Cô đang ngủ, và tôi có cảm giác như còn có một cánh chim lớn đang đậu bên cạnh cô. Sợ cơ cảm lạnh, tôi chạy vội lên, nhưng khi bước vào phòng, tôi thấy cô đã trở về giường nằm, vẫn ngủ say với những hơi thở khó nhọc, một tay ôm cổ như muốn tránh cái lạnh giá.
Tôi nhẹ nhàng kéo chăn đắp lên người cô. Bây giờ, cửa ra vào đã được khóa chặt, và cả cửa sổ cũng được tôi cài chốt cẩn thận.
Mặc dù trông vẫn rất xinh đẹp và dịu dàng, song nét mặt Lucy lúc này lại lộ rõ vẻ mệt mỏi với nước da tái nhợt. Dường như cô đang lo lắng một điều gì đó mà tôi không biết.
Giá như biết thì lòng tôi sẽ nhẹ đi rất nhiều?
* * * * *
Ngày 15 tháng 8
Chúng tôi dậy muộn hơn thường lệ. Lucy, có lẽ vì mệt mỏi, đã ngủ lại ngay sau khi có người đánh thức. Có một tin vui đến hất ngờ vào lúc chúng tôi dùng bữa điểm tâm: sức khỏe của ông bố Arthur đã khá hơn nhiều và ông muốn rằng đám cưới của con trai ông phải được tổ chức càng sớm càng tốt. Lucy vui hớn hở, còn mẹ cô thì buồn vui lẫn lộn. Bà đã tâm sự cùng tôi cảm xúc của mình. Bà rất buồn khi nghĩ tới cảnh phải chia tay với Lucy, nhưng bà cũng rất vui khi cô con gái mình có một tấm chồng chăm sóc tối ngày. Tội nghiệp bà quá! Lúc tâm sự với tôi, bà nói rằng bà sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa. Song bà không nói lên về điều này với con gái và bà bắt tôi phải giữ bí mật. Bà có thể chết như một định mệnh. Cũng may chúng tôi không nói gì cho bà biết về cuộc phiêu lưu của Lucy đêm hôm nọ!
* * * * *
Ngày 17 tháng 8
Tôi đã không viết một dòng nào kể từ hai hôm nay; thực chẳng còn bụng dạ nào... Vâng, dường như tất cả đều đang muốn làm tôi chán nản vào lúc này. Tôi không nhận được bất cứ một tin tức gì của Jonathan, còn Lucy thì càng ngày càng có vẻ tiều tụy hơn. Tôi không hiểu tại sao, bởi rõ ràng là cô vẫn ăn uống tốt, ngủ cũng yên giấc và thường xuyên đi dạo dưới không khí trong lành. Ấy vậy mà da cô trông cứ xanh rớt, còn hơi thở thì vẫn nặng nề khó nhọc. Đã lâu rồi tôi không thể ngủ mà không buộc chiếc chìa khóa phòng vào cổ tay. Lucy vẫn thường đứng dậy đi lại trong phòng hoặc ngồi tựa vào cửa sổ. Đêm hôm trước, tôi còn thấy cô thò cả đầu ra ngoài cửa sổ mà gọi mãi cũng chẳng thấy cô trả lời: cô đã bị ngất. Cuối cùng, khi được lay tỉnh dậy, cô đã khóc không ra tiếng trong những hơi thở nhọc nhằn. Khi tôi hỏi tại sao lại mò ra cửa sổ, cô chỉ lắc đầu rồi quay mặt đi. Tôi hy vọng sự khó ở của cô không phải là do những vết móng tay ở cổ gây nên. Trong lúc cô ngủ say, tôi đã lén kiểm tra cổ cô. Hai vết thương nhỏ ở đó vẫn chưa lành, thậm chí còn há rộng hơn nữa là đằng khác, các mép vết thương đều có một màu hồng nhờn nhợt. Nếu trong một hai ngày nữa các vết xước trên cổ bạn tôi không khá hơn, có lẽ tôi sẽ phải cho gọi một thầy thuốc tới.


Thư của nhóm tư vấn Samuel F. Billington & Fils ở Whitby
gửi Carter Paterson & Cie ở Luân Đôn


“Ngày 1 tháng 8
Thưa các ngài,
Chúng tôi rất hân hạnh được thông báo với các ngài về chuyến hàng gửi theo đường hỏa xa của nhóm Đại Bắc. Các kiện hàng sẽ được giao ở Carfax ngay sau khi chúng đến ga chợ Kings Cross. Nhà chưa có người ở, nhưng các ngài sẽ thấy tất cả các chìa khóa đều có mang một nhãn giấy ghi rõ số phòng.
Các ngài sẽ đặt toàn bộ năm mươi thùng hàng vào chỗ đổ nát và phần có đánh chữ “A” theo bản vẽ kèm theo đây của ngôi nhà. Nhân viên của các ngài sẽ dễ dàng nhận ra địa điểm khi biết chính xác đó là một nhà thờ cổ nằm trong trang viên. Chuyến tàu chở hàng sẽ rời Whitby vào chín giờ rưỡi tối nay và sẽ tới Kings Cross vào bốn giờ rưỡi chiều mai. Khách hàng của chúng tôi muốn các thùng hàng được gửi tới nơi càng sớm càng tốt, vì vậy chúng tôi đề nghị các ngài hãy nhận hàng ở Kings Cros thật đúng giờ và sau đó phải chuyển ngay tới Carfax. Mặt khác, để việe trả tiền không bị chậm trễ, các ngài cũng sẽ nhận được một tấm séc trị giá mười bảng như đã đề nghị kèm theo thư này. Nếu như các phí tổn chưa đến mức này thì xin các ngài hãy vui lòng gửi lại số tiền thừa cho chúng tôi. Ngược lại, nếu số tiền trên vẫn chưa thỏa đáng, chúng tôi sẽ gửi thêm một tấm séc nữa theo đề nghị từ phía các ngài. Chùm chìa khóa sẽ được để ở hành lang của ngôi nhà để chủ nhà có thể dễ dàng thấy ngay sau khi ông ta mở cổng bằng chìa khóa riêng.
Hy vọng rằng chúng tôi sẽ không bị mang tiếng là quá khó tính khi đề nghị các ngài thực hiện cẩn thận hợp đồng này. Chờ tin các ngài.
Chân thành cảm ơn Samuel F.Billington & Fils”.


Thư của Carter Paterson & Cie, Luân Đôn gửi Samuel F. Billington & Fils ở Whitby


“Ngày 21 tháng 8
Thưa các ngài, Chúng tôi đã nhận được tấm séc trị giá mười bảng. Các thùng hàng đã được trả theo đúng chỉ dẫn của các ngài và chùm chìa khóa được để đúng chờ trong hành lang.
Xin gửi các ngài lời chào trân trọng nhất.
Carter, Paterson & Cie”


Nhật ký của Mina Murray


Ngày 18 tháng 8
Tôi viết những dòng đây khi đang ngồi trên ghế nghĩa địa. Hôm nay trông Lucy có vẻ khá hơn. Đêm hôm qua, cô không thức dậy một lần nào. Dù vẫn còn xanh xao và yếu ớt, song đôi má cô đã có một chút ửng hồng. Cô cũng có vẻ vui hơn, rất vui nữa là đằng khác. Cô đã thoát khỏi cái vẻ lầm lì khó hiểu bấy lâu của mình và còn nhắc tôi nhớ lại cái sự cố xảy ra trong đêm nọ nữa chứ! Vừa nói, cô vừa thích thú nện nện gót xuống ngôi mộ đá.
- Đêm hôm ấy, không hiểu sao đôi bàn chân tội nghiệp của tớ lại bước êm đến thế chứ! Tớ cứ tưởng tượng ra cảnh ông lão Swales bảo tớ rằng sở dĩ tớ làm như vậy là vì không muốn làm cho anh chàng Georgie ở dưới này thức giấc!
Thấy cô trong bộ dạng vui vẻ tôi mới đám hỏi đêm hôm đó cô có ngủ mê không. Trước khi trả lời tôi, cô đã làm duyên theo đúng cái kiểu mà Arthur vẫn rất thích. Một lúc sau, cô bắt đầu kể lại câu chuyện bằng một giọng như mơ màng :
- Không, tớ đã không ngủ mê... Tất cả đối với tớ dường như đều là thực. Tớ cứ muốn tới đây, tôi chỗ này, mà không hiểu tại sao... tớ sợ một điều gì đó thật mơ hồ... tớ đang ngủ, tớ đã lọ mọ đi qua các nẻo phố, rồi qua cầu. Lúc đó, có một con cá nhảy vọt lên khỏi mặt nước khiến tớ phải cúi xuống nhìn, rồi khi tớ bắt đầu leo lên các bậc thang đá, lũ chó bỗng thi nhau sủa ầm lên - tớ có cảm giác là lũ chó của cả thành phố này cùng sủa lên một lúc. Tớ mơ hồ nhớ lại rằng sau đó, có một cái gì đấy vừa dài vừa đen, hai mắt sáng quắc, lảng vảng tội gần tớ. Cùng lúc ấy, trong tớ bỗng trào dâng một cảm giác vừa dịu êm lại vừa cay đắng. Rồi... tớ thấy mình đang lao xuống một vực nước xanh và sâu thẳm, hai tai ù đặc, người mê man như một kẻ sắp chết đuối. Tớ thấy mình dường như không còn tồn tại nữa... Hồn vía tớ bắt đầu lìa khỏi xác và bay lơ lửng, lang thang trong không khí... Tớ tin là tớ không quên cái ánh sáng loang loáng ở dưới do ngọn đèn pha phía tây quét tới. Rồi tớ cảm thấy đau, một cảm giác đau đớn khó tả, giống như cảm giác tớ lại rơi vào giữa một trận động đất. Và cuối cùng, tớ đã trở về với chính mình khi cậu lay tớ dậy. Tớ đã trông thấy mọi cử chỉ của cậu trước khi cảm nhận được chúng.
Nói tới đây cô bạn tôi bỗng bật cười khanh khách, thú thực là tôi bắt đầu cảm thấy lo trước nụ cười khác lạ của cô.
Tôi đã phải nín thở nghe cô cười. Điệu cười của cô thực sự làm tôi khó chịu.
Tất hơn là không nên để cô nghĩ tới cuộc phiêu lãng ấy nứa. Nghĩ vậy, tôi lập tức tìm cách lái câu chuyện sang một chủ đề khác để cô trở lại với chính mình.
Khi chúng tôi trở về khách sạn, những làn gió biển thoảng tới mát dịu khiến cho đôi má cô lại ửng hồng. Mẹ cô rất vui khi trông thấy cô hồng hào như vậy.
Cả ba chúng tôi đã có một buổi tối thật tốt lành.
 
Ngày 19 tháng 8
Tôi cảm thấy vui quá đi mất! Song đó đã phải là một niềm hạnh phúc chưa? Không, chưa phải là như vậy Nhưng cuối cùng thì tôi cũng đã nhận được tin của Jonathan... Thật tội nghiệp, anh đã bị ốm suốt thời gian qua, vì thế nên anh đã không muốn viết gì. Bây giờ tôi đã cảm thấy yên tâm phần nào. Ngài Hawkins vừa chuyển cho tôi là thứ mà bà xơ chăm sóc Jonathan đã gửi cho ông. Ngay ngày mai, tôi sẽ lên đường đi tìm anh, nếu cần, tôi sẽ phụ giúp cho việc chăm sóc anh, và rồi chúng tôi sẽ cùng trở về Anh. Ngài Hawkins khuyên tôi nên làm lễ cưới ở đó. Tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc thư của bà xơ tốt bụng nọ. Đọc xong lá thư, tôi cất ngay vào túi áo ngực, nơi gần con tim mình nhất! Lá thư này sẽ là nguồn an ủi tôi cho tới khi gặp được Jơnathan. Mọi hành lý của tôi đã được chuẩn bị xong xuôi, tôi sẵn sàng 1ên đường đi tìm người chồng chưa cưới của mình.


Xơ Agatha ở viện Saint Joseph và Saint N Marie, Budapest, gửi Wilhel Mina Murray

“Ngày 12 tháng 8
Thưa bà,
Ơn Chúa, ơn thánh Joseph và thánh Marie, tình trạng sức khỏe của ông Jonathan đã hồi phục từng ngày. Tuy nhiên, ông vẫn còn rất yếu để có thể tự tay viết thư nên đã phải nhờ tôi viết những dòng này gửi bà. Ông đã nằm liệt ở chỗ chúng tôi gần sáu tuần lễ vì mắc một chứng bệnh não khá nặng. Ông đề nghị tôi viết cho bà rằng ông vẫn luôn nhớ tới bà, rằng cùng với lá thư này cho bà, tôi cũng viết một lá khác gửi cho ông Peter Hawkins, trong đó tôi phải bày tỏ những hối tiếc của ông nhà vì đã không thể thông báo tình hình của mình sớm hơn. Ông Jơnathan cần phải nghỉ thêm vài tuần nữa ở dưỡng đường của chúng tôi trước khi có thể quay về Anh quốc. Ông cũng nhờ tôi nói với bà rằng ông đang cần một số tiền cần thiết để đáp lại thịnh tình của dưỡng đường đối với ông trong những ngày lưu lại đây, bởi dưỡng đường cũng đang rất cần sự giúp đỡ để có thể chăm sóc cho các bệnh nhân khác.
Rất thông cảm cho bà, mong hãy nhận ở tôi một sự chia sẻ sâu sắc nhất.
Xơ Agatha.”
T.B. Bệnh nhân của tôi đã ngủ, tôi lại mở thư ra viết thêm cho bà vài dòng.
Ông đã kể với tôi rất nhiều về bà và cho tôi biết là hai người sẽ sớm làm lễ cưới. Xin thành thật chúc mừng bà và chúc mừng ông nhà! Theo bác sĩ, ông nhà đã trải qua một cú sốc khủng khiếp, và trong lúc mê sảng, ông chỉ toàn nói tới những điều thật đáng sợ. Chính tôi đã nghe thấy ông lảm nhảm nói về chó sói, thuốc độc, máu me; về những bóng ma và quỷ dữ; và còn nhiều điều khác mà tôi không dám nói ra... Tôi xin được khuyên bà rằng trong một thời gian dài nữa, bà không nên gợi nhắc lại những câu chuyện đáng sợ này với ông nhà; những gì đang hằn sâu trong suy nghĩ tới ông hẳn không thể dễ dàng bị xóa nhòa. Lẽ ra chúng tôi phải thông báo điều này từ lâu, nhưng khổ một nỗi chúng tôi không biết phải viết cho ai, bởi chúng tôi không có bất cứ một dòng địa chỉ nào của bạn bè, bà con hay bố mẹ bệnh nhân, và trong người ông cũng không hề có một thứ giấy tờ nào để chúng tôi có thể tìm ra địa chỉ liên lạc. Ông đến chỗ chúng tôi sau chuyến tàu đi từ Klausenburg, và người trưởng ga có kể lại rằng trước khi lên tàu, ông nhà đã lao như điên vào cửa mà hét lên rằng ông cần một vé trở về nước Anh. Biết ông là người Anh, viên trưởng ga đã cho ông một vé đến ga gần nhất.
Xin bà cứ yên tâm, ông nhà đã được chăm sóc rất chu đáo. Lòng tốt và nỗi đau của ông đã khiến mọi người ở đây thực sự cảm kích. Như tôi đã nói ở đầu thư, sức khỏe của ông nhà đang tiến triển rất tốt, nhưng cũng xin được nhắc lại rằng sau này, bà phải nên rất cẩn thận trong việc chăm sóc ông nhà, đặc biệt là sự ổn định về tinh thần của ông. Tôi đã cầu Chúa, cầu thánh Josephe và thánh Marie ban phước lành cho hai người cho tới lúc đầu bạc răng long”.


Nhật ký của bác sĩ Seward

Ngày 19 tháng 8
Tối hôm qua, trong con người Renfield đã có những thay đổi bất ngờ và kỳ lạ. Vào khoảng 8 giờ, hắn bỗng tỏ ra rất quá khích, hai tay bò xuống nền nhà, mũi hít đất khịt khịt như một con chó đánh hơi. Nhìn thấy cảnh lạ đời và biết là tôi rất quan tâm tới hắn, viên giám thị đã hỏi hắn nguyên do tại sao. Bình thường Renfield vẫn tỏ ra rất tôn trọng viên giám thị này, và đôi khi hắn còn phục tùng ông như một kẻ nô lệ. Nhưng theo những gì ông đã kể lại cho tôi nghe, thì lần này lại không có vẻ như vậy: hắn cứ khinh khỉnh và chẳng thèm đáp lại câu hỏi của ông. Hắn chỉ nói với ông đúng một câu :
- Tôi không muốn nói chuyện với ông. Đối với tôi, ông không còn tồn tại trên đời này nữa, ông chủ tôi đang ở gần đây.
Viên giám thị tin rằng hắn đã bắt đầu mắc một chứng bệnh điên bí ẩn. Nếu sự thật đúng là như vậy, thì chắc chắn sẽ có lúc chúng tôi phải chứng kiến những cảnh tượng không thể lường trước, bởi một gã đàn ông lực lưởng như hắn, nếu mắc phải một chứng bệnh tâm thần vừa bí ẩn vừa sát sinh, có thể trở thành một kẻ nguy hiểm, rất nguy hiểm nữa là đằng khác. Tôi tới thăm hắn vào lúc 9 giờ. Hắn xử sự với tôi đúng như đã xử sự với viên giám thị lúc trước. Dường như trong trạng thái tâm thần hiện nay, hắn không còn phân biệt nổi sự khác biệt giữa tôi và viên giám thị nữa. Có lẽ tới một lúc nào đó, hắn sẽ tự coi mình là Chúa Trời mất? Nhưng khả năng phân biệt kém cỏi sự khác nhau giữa hai con người của hắn đâu có xứng để hắn trở thành một đường tối cao!
Trong suốt nửa tiếng đồng hồ hoặc hơn nữa, Renfield càng lúc càng tỏ ra bị kích động hơn. Mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra không thèm quan tâm tới hắn, nhưng thực ra tôi vẫn lặng lẽ theo dõi từng cử chỉ của hắn. Tôi chợt nhận ra trong ánh mắt của hắn có một cái gì đó thật xảo trá, cái xảo trá mà những thằng điên luôn có khi chúng đang âm mưu nghĩ về một điều gì đó - các giám thị ở bệnh viện tâm thần thường hiểu rất rõ khía cạnh này. Sau đó, hắn bỗng trở nên trầm lặng hẳn đi rồi ngồi phịch xuống mép giường, mặt lộ rõ vẻ cam chịu. Hắn bắt đầu nhìn về phía xa xăm với một ánh mắt mơ hồ khó hiểu. Tôi không biết cảm xúc của hắn là thật hay là giả, nên đã quyết định thử hắn bằng cách gợi cho hắn nói về những con vật bé nhỏ của hắn - một chủ đề mà bao giờ hắn cũng rất chú ý.
Lúc đầu, hắn không nói năng gì, nhưng cuối cùng thì hắn cũng bực mình lên tiếng :
- Quẳng mẹ nó hết đi! Bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì với tôi...
- Sao cơ? - Tôi ngắt lời hắn. - Anh sẽ không nói với tôi rằng anh không còn quan tâm tới lũ nhện nữa chứ? (Bởi vì sở thích của hắn mấy ngày hôm nay vẫn là đàn nhện, và cuốn sổ tay của hắn thì đã đầy ắp những con số).
Nghe tôi hỏi vậy, hắn đã đáp lại bằng một giọng thật khó hiểu :
- Các quý cô danh giá lúc nào cũng làm vui mắt những kẻ đang ngồi đợi sự xuất hiện của cô dâu, nhưng khi cô đâu xuất hiện rồi, thì các quý cô danh giá lại chẳng còn quan trọng đối với những khách mời ấy nữa. Hắn không giải thích gì thêm và cứ ngồi lì ở mép giường suốt thời gian tôi còn lưu lại trong phòng hắn. Tối nay tôi cảm thấy mệt mỏi quá, người cứ rũ ra như một tàu lá héo. Ý nghĩ về Lucy liễn tục ám ảnh tôi, và cứ mỗi lần nghĩ tới cô là tôi lại không thể không tự nhủ rằng biết đâu tình thế rồi có thể sẽ đổi khác?
Đêm nay, nếu như không thể sớm chợp mắt ngay sau khi ngả lưng, có lẽ tôi sẽ phải tặc lưỡi mà nuốt mệt liều thuốc ngủ mới ra đời - loại C2HCL3O.H2O? Tất nhiên tôi phải cố gắng không để cho điều ấy biến thành một thói quen. Không, tối nay tôi sẽ dứt khoát không dùng thuốc an thần. Thú thực tôi đã nghĩ nhiều tới Lucy, và tơi cũng không định gạt bỏ cái kỷ niệm êm đềm về cô bằng mọi giá. Đêm nay, tôi sẽ lại không ngủ...
Tôi vừa nằm thao thức được một lúc thì chuông đồng hồ ngân dài hai tiếng - vậy là mới có 2 giờ sáng! Tôi vừa trở mình mệt mỏi thì chợt nghe thấy có tiếng gõ cửa, người trực đêm đến báo cho tôi biết rằng bệnh nhân Renfield đã trốn mất! Tôi vội vàng mặc qủần áo và chạy tức tốc xuống cầu thang. Quả thực sẽ rất nguy hiểm nếu để bệnh nhân của tôi tự do lang thang ra các khu vực xung quanh. Các nếp nghĩ ngoan cố của hắn có thể sẽ là một hiểm họa thực sự đối với những người hắn gặp trên đường. Viên giám thị đang đứng đợi tôi. Khoảng gần mười phút trước, qua một lỗ nhỏ trên cửa phòng, ông vẫn còn trông thấy Renfield đang nằm dài trên giường, vẻ như đã ngủ. Nhưng sau đó, ông chợt giật mình khi nghe có tiếng động ngoài cửa sổ. Ông chạy tới cửa phòng Renfield thì không còn thấy hắn ở đó nữa: hắn đã nhảy cửa sổ trốn ra ngoài? Ông cho người đi gọi tôi ngay lập tức. Theo viên giám thị thì Renfield, với duy nhất một chiếc áo ngủ trên người, chưa thể bỏ đi xa được. Ông khẳng định rằng hắn đã chạy về phía tay trái rồi đi thẳng. Tôi cũng vội nhảy đại qua cửa sổ xuống sân, tất nhiên là có sự trợ giúp của viên giám thị, và tức tốc chạy về phía đó. Chạy gần tới các lùm cây, tôi chợt phát hiện ra một cái bóng trắng lờ nhờ đang trèo lên bức tường chia cắt khu vườn của chúng tôi với khu vườn của một ngôi nhà hoang.
Tôi chạy về bảo người trực đêm gọi thêm ba bốn người nữa cùng tôi sang nhà Carfax, đề phòng trường hợp Renfield đổi tính hung hăng nếu chúng tôi phải dẫn hắn về. Tôi lấy thang leo qua tường nhảy sang bên kia. Chân vừa chạm đất, tôi nhận ngay ra bóng Renfield vừa biến mất sau ngôi nhà. Tôi vội vàng đuổi theo. Chạy tới dầu hồi nhà, tôi thấy hắn đang hùng hục đẩy vào cánh cửa gỗ sồi của gian nhà thờ. Dường như hắn đang nói chuyện với ai đó, nhưng tôi không dám lại gần vì sợ hắn nhận ra tôi rồi bỏ trốn. Trêu ong cũng không khó bằng việc đi bắt một thằng điên đang âm mưu bỏ trốn! Tuy nhiên, sau vài phút quan sát, tôi nhận ra hắn chẳng hề để ý tới những gì đang xảy ra xung quanh, vì Vậy tôi mạnh dạn tiến lại gần hơn khi trong lòng đã yên tâm rằng mấy người tôi vừa cho gọi thêm lúc này chắc cũng đã vượt tường sang đây và đang chuẩn bị bao vây hắn rồi. Lúc này tôi đã có thể nghe rõ những gì hắn nói :
- Tôi xin phục tùng ngài, thưa Ông chủ. Tôi là nô lệ của ngài và tôi biết rồi ngài sẽ ban thưởng cho tôi, bởi tôi là người luôn trung thành với ngài. Tôi ngưỡng mộ ngài từ lâu, rất lâu rồi! Bây giờ ngài đã tới đây, tôi sẽ chờ đợi mệnh lệnh của ngài, và ngài sẽ không quên chia của cải cho tôi chứ, Ông chủ?
Đúng là giọng của một kẻ ăn mày! Tính gàn dở của hắn quả là hết chỗ nói. Bị chúng tôi xốc nách, hắn vùng vẫy điên cuồng như một con cọp, bởi hắn giống một con thú hoang hơn là một con người. Chưa bao giờ tôi gặp một bệnh nhân tâm thần khỏe và hung hãn đến thế, hy vọng đây sẽ là lần cuối cùng? Cũng may là tôi lường trước được sự việc và kịp gọi thêm người. Tôi không dám nghĩ tới những gì hắn có thể phạm phải nếu như chúng tôi không rước được hắn về? Trên đường về, thỉnh thoảng hắn lại rống lên thật đáng sợ, nhưng sự im lặng khép lại sau mỗi tiếng kêu của hắn cũng làm chúng tôi lo lắng không kém, bởi chúng tôi đã đoán được những mưu toan chết người của hắn.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy hắn nói những câu đứt đoạn :
- Tôi sẽ kiên nhẫn, thưa chủ nhân! Tôi sẽ chờ... chờ... chờ...
Tôi cũng vậy, tôi sẽ chờ đợi!



Chương 9

Budapest, 24 tháng 8
Lucy yêu quý, Tớ biết cậu rất sốt ruột muốn biết tất cả những gì đã xảy ra từ khi chúng mình chia tay nhau ở ga Whitby. Tớ sẽ kể nhé! Tới Hull, tớ đi tàu thủy về Hambourg và từ đó, tớ đi tàu hỏa về đây. Kể cũng hơi mệt nếu tớ phải nhớ lại tất cả các chi tiết trong cuộc hành trình của mình. Khi hiểu rằng phải đi tìm Jonathan và chăm sóc anh ấy, tớ chỉ nghĩ tới một điều: ngủ càng nhiều càng tất... Tớ đã gặp Jonathan, trông anh gầy xọp, xanh xao và đang trong một tình trạng sức khỏe hết sức tồi tệ. Trong ánh mắt anh ấy không còn cái vẻ cương nghị, điềm tỉnh như tớ vẫn thường kể với cậu, thay vào đó là một cái nhìn tăm tối, không gợi lại một điều gì đã từng xảy ra với anh trong thời gian qua..., ít nhất đó cũng là cảm nhận của tớ lúc mới gặp anh. Jonathan đã phải trải qua một cú sốc thật sự, và tớ sợ rằng kể cả khi trí nhớ được phục hồi, anh vẫn không thể chịu nổi cái hồi ức về những điều đã xảy ra với mình. Xơ Agatha, một tín đồ tuyệt vời và một y tá tất bụng, đã kể lại là Jonathan chỉ toàn nói tới những điều khủng khiếp trong lúc mê sảng. Tớ rất muốn biết thêm nhiều chi tiết, nhưng xơ Agatha lại bảo rằng đó là điều không thể được, bởi tất cả những gì một bệnh nhân thốt ra trong cơn mê sảng đều được coi là bí mật của Chúa, và nếu có tình cờ nghe được, thì tất cả các thầy thuốc cũng buộc phải giữ kín bí mật này. Tuy nhiên, ngày hôm sau, khi biết tớ đang rất lo lắng, xơ đã gặp tớ và nói: “Tất cả những gì tôi có thể nói với bà là ông nhà thường luôn miệng nói tới một sai lầm mà ông đã mắc phải. Và bà, người sẽ sớm trở thành vợ của ông ấy, không hề có liên quan gì tới sai lầm này. Ông nhà đã không quên bà, và cũng không quên tất cả những gì bà đã dành cho ông. Các âu lo của ông đều bắt nguồn từ những điều khủng khiếp mà bất cứ ai, hễ đã làm người, đều không dễ gì nguôi ngoai được”. Có lẽ là bà xơ tất bụng ấy sợ tớ đã ghen khi nghĩ rằng người chồng chưa cưới của mình đem lòng yêu một người con gái khác! Tớ mà lại phải ghen với một người con gái mà người thân yêu của mình đã phải lòng ư! Ghen tuông? Tớ vẫn luôn tin tưởng ở tình yêu của Jonathan thế kia mà! Cô bạn thân mến ạ, bây giờ tớ có thể nói với cậu rằng không có bất cứ một người đàn bà nào là nguyên nhân gây nên tình trạng tinh thần tồi tệ của anh ấy: Vừa viết cho cậu, tớ vừa ngắm anh ấy trong giấc ngủ... Anh ấy tỉnh dậy rồi!
Vừa tỉnh dậy, anh đã hỏi tớ về cuốn sở tay cất trong túi áo vét của mình. Tớ định nài anh ấy để cho tớ đọc những dòng ghi chép trong đó - bởi tớ biết mình sẽ tìm ra những dấu hiệu có thể đoán được nguyên nhân làm anh ấy bị suy sụp nhưng hình như anh đã đoán ra ý định đó trong ánh mắt của tớ, bởi anh đã đề nghị tớ lui ra gần cửa sổ, anh ấy muốn ở lại một mình. Lát sau, anh đã gọi tớ lại gần, tay vẫn ôm quyển sổ, và nói với tớ bằng một giọng rất nghiêm trọng :
- Wilhelmina này, - ừ, điều anh ấy định tâm sự với tớ hẳn sẽ rất nghiêm trọng, cô bạn thân mến ạ, bởi kể từ khi yêu nhau đến giờ, đây là lần đầu tiên anh nhắc tới tên cúng cơm của tớ - chắc là em cũng biết những gì anh đang nghĩ về lòng tin cần phải có giữa một người vợ và một người chồng. Họ không nên giấu giếm nhau điều gì, và cũng chẳng có bất cứ một bí mật nào là của riêng ai. Bởi vậy, anh có thể thú thật với em rằng anh đã phải trải qua một cú sốc khiếp đảm; và bây giờ, khi anh đang cố nhớ lại những gì đã xảy ra với mình, thì anh không còn biết điều đó là sự thực hay chỉ là một cơn ác mộng nữa. Người ta đã bảo với em rằng anh bị bệnh não, giống như một thứ bệnh tâm thần, sợ thật? Bí mật của câu chuyện đã xảy ra với anh đều nằm ở những trang này, nhưng anh không muốn nhắc tới nó nữa. Anh muốn rằng cuộc đời anh, và cả đám cưới của chúng mình nữa, sẽ lại khởi đầu từ con số không. (Bởi vì, cô bạn yêu quý ạ, bọn tớ sẽ làm đám cưới ở đây, ngay sau khi mọi thủ tục đã được hoàn tất) Wilhelmina, em có muốn chia sẻ sự ngây thơ cùng anh không? Cuốn sổ đây, em hãy cầm và giữ lấy, và nếu muốn, em có thể đọc tất cả những gì anh đã viết, nhưng nhớ là đừng bao giờ nhắc lại bất cứ một điều gì với anh, anh không muốn nhớ lại cái chương khủng khiếp ấy... nếu như không có một bổn phận nào đó buộc anh phải làm như vậy.
Nói được có bấy nhiêu, Jonathan lại ngủ lịm đi vì mệt mỏi. Tớ vừa ôm anh vừa luồn cuốn sổ tay xuống gối anh nằm. Xơ Agatha đã thay mặt tớ tới nhà thờ Đức Mẹ tối cao để cầu nguyện cho đám cưới của bọn tớ sẽ diễn ra vào chiều nay. Tớ đang nóng lòng chờ đợi câu trả lời của bà...
Bà xơ trở về và nói với tớ rằng bà đã nhờ người đi tìm cha tuyên úy của Nhà thờ giáo hội Anh. Trong vòng một giờ nữa, hoặc là sớm hơn, cớ thể là ngay sau khi Jonathan thức dậy, bọn tớ sẽ làm đám cưới...
Lucy à, cậu có biết không, đã nhiều giờ trôi qua kể từ khi tớ đặt bút viết... Thời gian trôi qua đối với tớ sao mà lê thê đến thế! Nhưng dẫu sao thì bây giờ tớ cũng đã cảm thấy mình đang tràn trề hạnh phúc! Khi Jonathan tỉnh dậy, tất cả đã sẵn sàng. Anh gượng ngồi tựa vào những chiếc gối trên giường mà trả lời bằng một giọng quả quyết rằng “có”. Về phần mình, tớ chỉ có thể nói rất nhỏ, hạnh phúc dạt dào đã khiến tớ thổn thức nghẹn ngào. Các tín đồ nơi đây tận tâm với chúng tớ quá! Chúa muốn tớ không bao giờ được phép quên họ, không bao giờ được quên những trách nhiệm nặng nề nhưng cũng thật dịu êm mà tớ phải gánh vác! Có lẽ bây giờ tớ phải kể cho cậu nghe về món quà cưới của mình. Khi cha tuyên úy và các xơ để tớ lại một mình với chồng tớ. Ôi? Lucy ơi, đây là lần đầu tiên tớ được viết những từ này: chồng tớ tớ lấy quyển sổ dưới gối của anh bọc vào trong một tờ giấy bạc rồi thắt nơ như một gói quà thực sự. Tớ đặt lên đó một nụ hôn và nói với chồng mình rằng tớ sẽ giữ kỷ vật ấy đến trọn đời như một bằng chứng cho lòng tin của tớ đối với anh ấy và tớ sẽ không bao giờ mở cuốn sổ ấy ra trừ khi đó là trường hợp cần cho lợi ích của anh, hoặc trong một trường hợp thực sự cấp thiết nào đó. Anh ấy đã cầm tay tớ... Ôi? Lucy, đây là lần đầu tiên anh ấy cầm tay vợ mình... Anh trả lời tớ rằng anh sẽ khắc sâu trong lòng tấm lòng của tớ và để xứng đáng với tình cảm của tớ, anh sẽ làm sống lại quá khứ nếu cần. Rõ ràng anh chàng tội nghiệp của tớ đã sẵn sàng tiết lộ một phần của quá khứ, nhưng anh chưa thể xác định được quãng thời gian đã trôi qua, và tớ sẽ không ngạc nhiên nếu một lúc nào đó, anh ấy không chỉ quên ngày tháng, mà còn quên cả năm nữa.
Tớ còn có thể chê trách anh được điều gì nữa chứ? Chỉ cần được thủ thỉ bên anh ấy rằng tớ là người phụ nữ hạnh phúc nhất trên đời, rằng tớ chẳng có gì khác để hiến dâng cho anh ấy ngoài chính cuộc đời mình, tấm lòng, tình yêu và bổn phận của mình đối với anh ấy thôi là tớ cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Và khi anh ấy ôm tớ vào lòng và nắm chặt bàn tay tớ bằng hai bàn tay gầy guộc yếu ớt của anh, tớ có cảm giác bọn tớ đang một lần nữa nghiêm túc hứa hẹn với
Lucy thân mến, cậu có biết tại sao tớ lại kể cho cậu nghe hết mọi chuyện không? Đó không chỉ là chuyện tình êm dịu như cậu vẫn đoán, mà còn bởi vì cậu luôn là một người bạn lớn của tớ... và mãi mãi là thế? Tớ vẫn coi mình là kẻ luôn được ưu ái khi làm bạn với cậu, và bây giờ tớ đang rất mong mỏi cậu cũng được hưởng một hạnh phúc như tớ vừa nắm trong tay. Lucy ơi, cầu Chúa hãy ban phước lành cho cậu, hãy ban cho sự khắc khoải trên cõi đời này của cậu những gì người đã hứa: một ngày đài chan chứa ánh nắng mặt trời, một ngày êm đềm không sóng gió, không quên lãng, không ngờ vực. Tớ sẽ không cầu mong cho cậu không bao giờ phải trải qua khó nhọc, bởi đó là điều hoang đường, nhưng một lần nứa cầu mong cho cậu được hưởng một niềm hạnh phúc trọn vẹn và ngọt ngào như tớ lúc này: Tạln biệt cô bạn thân yêu. Tớ sẽ bỏ ngay lá thư này vào bưu điện, và sẽ sớm viết tiếp để cậu đỡ buồn. Tớ phải chia tay với cậu đây, bởi Jonathan lại vừa tỉnh giấc... Tớ phải hỏi xem chồng tớ có cần gì không...
Người bạn vĩnh cửu của cậu Mina Harker”


Lucy Westenra gửi Mina Harker


“Whitby ngày 30 tháng 8
Mina thân mến,
Xin dành cho cậu cả một đại dương tình bạn, triệu triệu nụ hôn, và mong sao cậu sớm được trở về nhà cùng với người chồng mới cưới của cậu! Nếu sớm trở về Anh quốc, nhớ ghé qua Whitby với tớ vài ngày. Bầu không khí trong lành của xứ biển sẽ giúp Jonathan bình phục tất nhất - chính không khí nơi đây đã giúp tớ hoàn toàn bình phục trở lại đấy; bây giờ tớ đã có thể ngủ rất tốt, trong người tớ cảm thấy tràn đầy sức sống. Tớ tin là cậu sẽ rất vui khi biết rằng tớ không còn lang thang ngay trong giấc ngủ nữa. Phải đến một tuần nay tớ chưa rời khỏi giường - ý tớ muốn nói là vào buổi tối! Anh Arthur bảo tớ đã mập lên trông thấy. À quên, tôi đã không nói với cậu rằng Arthur đang ở đây. Hôm nào bọn tớ cũng đi dạo, chơi tennis hoặc câu cá, cưỡi ngựa cùng nhau. Tớ yêu anh ấy hơn bao giờ hết. Anh ấv cũng nói càng ngày anh càng cảm thấy yêu thương tớ hơn. Tớ thì tớ chưa tin, bởi lúc đầu anh ấy bảo tớ rằng anh ấy không thể yêu tớ hơn những gì anh ấy đang làm vì tớ... Đấy, anh ấy lại gọi tớ rồi đấy... Có lẽ phải tạm biệt cậu tại đây thôi.
Lucy thân thương của cậu.
T.B. Mẹ tớ gửi tới cậu những suy nghĩ tốt đẹp nhất của bà. Bây giờ sức khỏe của bà đã khá hơn một chút.
Còn điều này nữa: bọn tớ sẽ làm đám cưới vào ngày 28 tháng 9 tới.”
 
Nhật ký của bác sĩ Seward

Ngày 22 tháng 8
Trường hợp của Renfield ngày càng có vẻ phức tạp và cũng thú vị hơn: Tự nhiên hắn lại đâm ra rất trầm tĩnh. Nhưng sau lần bỏ trốn vừa rồi, hắn liên tục có những hành động hung bạo trong mấy ngày liền. Thế rồi vào một buổi tối, khi ánh trăng thức dậy, hắn bỗng dịu đi và lẩm bẩm một mình không biết bao nhiêu lần: “Bây giờ mình có thể chờ đợi... mình có thể chờ đợi...” Nghe viên giám thị đến thuật lại, tôi lập tức chạy xuống và hiểu ngay ra những gì đang xảy ra. Renfield, vẫn bị nhất trong phòng và mặc một chiếc áo trói chuyên dành cho người điên, đã không còn cái vẻ hung tợn như mấy hôm vừa rồi, hai mắt hắn lúc này có một chút gì đó dịu hiền năn nỉ. Tôi ra lệnh thả lỏng cho hắn. Người phục vụ có vẻ chần chừ, nhưng rồi cũng phải làm theo lời tôi Kể cũng lạ, không hiểu sao tên bệnh nhân lại nhận ra ngay sự ngờ vực của những người đang theo dõi hắn, bởi hắn đã rón rén đến nói nhỏ vào tai tôi, trong khi mắt vẫn lén nhìn họ :
- Chắc là họ đang nghĩ rằng tôi sắp sửa nện cho ngài một trận nhừ tử? Tôi mà lại làm như vậy được ư! Đúng là một lũ ngu ngốc!
Tóm lại, dù nói gì thì nói, thật sự vẫn không có gì đáng ngại khi đưa ra một nhận xét rằng ngay cả trong đầu kẻ bất hạnh này, tôi cũng có nhiều điểm khác biệt so với những nhân viên cấp dưới của mình. Tuy nhiên, tôi vẫn không tài nào nắm bắt được suy nghĩ của hắn. Vả lại, có cần phải hiểu rằng tôi đang có một cái chung nào đó với hắn để rồi khiến người khác phải nói tôi và hắn sẽ cùng đứng trên một bờ bến hay không? Hay hắn đang nhẫn nại chờ ở tôi một thiện tâm, để tới một lúc nào đó sẽ gọi tôi làm đồng minh của hắn? Tôi sẽ cố gắng tìm hiểu vấn đề. Tối hôm nay, hắn đã nhất quyết không chịu mở mồm nói bất cứ một điều gì. Thậm chí khi có người mang tới cho hắn một con mèo? một con mèo lớn hẳn hoi, hắn cũng chỉ nói có vài câu: “Tôi không còn quan tâm tới mấy con mèo bẩn thỉu ấy nữa. Bây giờ có rất nhiều thứ khác làm tôi quan tâm, và tôi có thể chờ đợi.... tôi có thể chờ đợi...”
Viên giám thị kể với tôi rằng khi tôi rời khỏi phòng hắn, hắn đã ngồi câm lặng đến tận sáng. Sau đó, hắn lại bắt đầu giở chứng, và lần này, cơn điên khùng đã khiến hắn hung hăng đến nỗi ngất xỉu đi và chìm vào một trận hôn mê...
Sự việc diễn ra như vậy đã được ba ngày rồi... Đầu tiên là những cơn điên khùng dữ dội, sau đó lại là những giờ ngồi lì suốt đêm thâu. Tôi phải tìm ra nguyên nhân của những cơn điên mang tính chu kỳ này. Có thể bệnh nhân của tôi đã phải chịu một tác động nào đó. Nếu đúng là như vậy, thì đêm nay chúng tôi sẽ lấy những linh hồn lành lặn chống lại những tâm hồn bệnh hoạn! Hôm nọ, Renfield đã bỏ trốn mặc dù đã có sự đề phòng của chúng tôi. Tối nay, chúng tôi sẽ giúp hắn trốn thoát. Chúng tôi sẽ cho hắn một cơ hội, và những người bảo vệ sẽ sẵn sàng bám theo hắn...
* * * * *
Ngày 23 tháng 8
Chuyện xảy ra đã không nằm trong mong đợi của chúng tôi! Dù thấy cửa chuồng đã mở, nhưng chú chim của chúng tôi vẫn không chịu bay đi. Vậy là mọi sự sắp xếp, bố trí của chúng tôi đều uổng công vô ích!
Tuy nhiên, vẫn có một điều được chứng thực: các giai đoạn lì lợm của bệnh nhân đã được rút ngắn. Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ để cho hắn được tự do vài giờ mỗi ngày. Tôi nói với viên giám thị trực đêm là đừng nhốt hắn vào buồng điên khi hắn trong tình trạng bình thường, và chỉ xua hắn vào đó trước lúc mặt trời lên khoảng một tiếng đồng hồ. Hắn có vẻ rất hoan hỉ với chế độ tự do nửa vời này ngay cả khi đầu óc hắn còn chưa đủ khả năng đánh giá, nhận thức sự việc. Tuy nhiên, lại có người hớt hải chạy tới gọi tôi!... Điều tôi không mong đợi một lần nữa xảy ra: tên bệnh nhân lại bỏ trốn.
* * * * *
Cùng ngày, ít lúc sau
Lại một cuộc phiêu lưu khác đêm nay... Renfield đã chờ đợi viên giám thị bước vào phòng và lợi dụng lúc ông bận một việc gì đó để chạy vội ra hành lang. Tôi vội vàng ra lệnh cho mấy ngươi gác đêm đuổi theo hắn. Cũng như lần trước, hắn đi về phía ngôi nhà bỏ hoang, và chúng tôi vẫn thấy hắn đẩy cả người vào cánh cửa gỗ sồi của nhà thờ cổ. Thấy tôi đến cùng một người bảo vệ, hắn đã nổi khùng tới cực điểm, và nếu người của tôi không kịp túm tay hắn, có lẽ hắn đã xé xác tôi ra mất. Bị chúng tôi xúm lại khống chế, hắn đâm ra hung tợn hơn gấp bội phần, nhưng cũng ngay sau đó, hắn lẠÍ dịu hẳn xuống, khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi đưa mắt nhìn quanh: chẳng có gì khác lạ cả. Nhìn theo ảnh mắt hắn, tôi cũng không nhận thấy một điều gì khác lạ trên bầu trời vành vạnh ánh trăng nếu đó không phải là một con dơi to bự đang loạng quạng bay về phía tây như một bóng ma. Nghe nói lũ dơi thường bay qua bay lại mãi một chỗ, nhưng với con dơi kia thì không phải như vậy, hình như nó đang bay về một cái đích xác định nào đó.
Renfield nói vôi chúng tôi, giọng rất nhẹ nhàng :
- Chẳng cần phải giữ chặt tôi như vậy đâu, tôi có thể quay về một mình mà, cứ bình tĩnh lại đi! Đúng là chúng tôi đã quay về mà không gặp bất cứ một rắc rối nào, nhưng sự trầm lặng đột ngột đến khó hiểu của tên bệnh nhân đã chẳng nói lên một điều gì làm tôi có thể yên tâm, và tôi không nên quên những gì vừa xảy ra...


Nhật ký của Lucy Westenra


Hillingham, 24 tháng 8
Tôi cũng định ngồi viết nhật ký như Mina, để khi gặp nhau một lần nữa, chúng tôi sẽ lại ngồi nói chuyện dài dài về tất cả những gì tôi đã ghi lại ở đây. Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới lại được gặp nhau. Mong sao lúc này lại có Mina ở đây, bởi tôi đang cảm thấy rất buồn! Đêm hôm qua, tôi có cảm giác như mình đang sắp sửa lặp lại những cơn mê như hồi ở Whitby, có thể là dơ thời tiết thay đổi, hoặc cũng có thể do sự trở về nhà cửa tôi... Điều khủng khiếp nhất, đó là việc tôi không còn nhớ gì cả... Hơn nữa, tôi lại luôn cảm thấy lo sợ, một nỗi lo sợ thật mơ hồ mà không hiểu tại sao. Người tôi mỗi ngày một yếu ớt, gầy mòn... Khi tới ăn trưa cùng chúng tôi, Arthur có vẻ rất buồn khi nhìn tôi. Tôi mỏi mệt đến mức không thể cố vui lên được. Tôi đã tự hỏi rằng liệu tối nay tôi có phải vào ngủ chung phòng với mẹ hay không. Hy vọng là tôi sẽ có một tối ngon giấc ở đó. Tôi sẽ tìm lý do để xin phép mẹ tôi.
* * * * *
Ngày 25 tháng 8
Lại thêm một đêm tồi tệ nữa. Đề nghị của tôi dường như đã không làm mẹ tôi vừa lòng. Bản thân bà cũng không được khỏe lắm. Hơn nữa, chắc bà cũng sợ sẽ làm phiền giấc ngủ của tôi nếu chúng tôi ngủ chung phòng. Vậy là tôi vẫn phải ngủ ở phòng mình, và thực tế tôi cũng đã ngủ được ít nhiều, nhưng tiếng chuông ngân dài lúc nửa đêm đã làm tôi tỉnh giấc. Tôi chợt nghe thấy những âm thanh là lạ như tiếng ai đó cào cào vào cánh cửa, hay nói đúng hơn là những nhịp đập của một đôi cánh. Song tôi cũng chẳng thắc mắc gì lâu, và thực tình tôi cũng chẳng còn nhớ nổi một điều gì khác. Tôi đã trở lại với giấc ngủ ngay sau đó. Lại những cơn ác mộng. Giá như tôi nhớ lại được tất cả...
Sáng dậy, tôi cảm thấy trong người yếu ớt kinh khủng. Mặt tôi nhợt nhạt như người sắp xuống mồ, và tôi còn thấy đau ở cố nữa chứ... lồng ngực hình như cũng đang có vấn đề, thỉnh thoảng tôi thấy rất khó thở. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng vẫn cứ tỏ ra vui vẻ chút trước mặt Arthur, nếu khôn ganh ấy sẽ lại rất buồn.


Arthur Holmwood gửi bác sĩ Seward


Khách sạn Albemarle, 31 tháng 8
Tôi muốn nhờ cậu một việc. Lucy đang đổ bệnh, không phải là một bệnh cụ thể, mà là một loại bệnh nào đó thật khó xác định. Tình trạng sức khỏe của cô ấy đang xấu đi từng ngày, khiến tôi không thể không lo lắng. Bà Westenra đã tâm sự với tôi rằng bà chẳng còn sống được bao lâu nữa, nhưng Lucy vẫn chưa hay biết gì về điều này. Không biết rồi Lucy sẽ phải chịu đựng như thế nào trong tình trạng sức khỏe như hiện nay. Tôi dám chắc rằng người vợ chưa cưới tội nghiệp của tôi, dù luôn nói với tôi những điều ngược lại, vẫn đang âm thầm giấu một điều gì đó mà tôi không thể biết được. Tôi xin nhắc lại là tôi đang rất lo lắng. Tất cả đều mơ hồ quá. Phải nhìn cô ấy lúc này quả là một nỗi đau đớn đối với tôi. Tôi đã ngỏ ý mời cậu tới thăm bệnh cho cô ấy, và cuối cùng thì cô ấy cũng đã bằng lòng. Kể cũng thật vất vả cho cậu nhưng sức khỏe của Lucy là một vấn đề rất quan trọng.
Chúng ta sẽ phải nhanh chóng ra tay vì sức khỏe của cô ấy mà không được chần chừ thêm một ngày nào nữa, tôi nói vậy có phải không anh bạn? Cậu có thể tới không? Bằng cách này, chúng ta sẽ không gây bất cứ một mối nghi ngờ nào cho bà Westenra: sau bữa trưa, như đã sắp xếp từ trước, Lucy sẽ ngồi một lúc với riêng cậu. Lần cuối cùng tôi xin được nhắc lại rằng tôi đang lo lắng đến phát điên lên được, và tôi cũng đang rất sốt ruột muốn biết cậu sẽ kết luận như thế nào về tình trạng của cô ấy. Mong cậu đến ngay?
Arthur.


Thư của bác sĩ Seward gửi Arthur Holmwood


Ngày 2 tháng 9
Chào ông bạn thân mến.
Tôi xin được nói ngay với ông rằng theo tôi, Lucy Westenra không mắc phải bất cứ một căn bệnh hay một. Chứng rối loạn chức năng nào hết. Tuy nhiên, tôi cũng thực sự bàng hoàng khi gặp cô ấy. Lạy Chúa! Lucy bây giờ không còn là Lucy của cái ngày tôi được gặp cô ấy lần trước nữa. Tất nhiên, tôi không quên rằng tôi đã không thể khám bệnh cho cô ấy như đã mong muốn: tình bạn của chúng tôi đã làm cho việc khám bệnh trở nên khó khăn và tế nhị hơn. Tôi sẽ kể cho ông nghe cụ thể về chuyến viếng thăm này, và từ những lời cắt nghĩa của tôi, ông có thể tự rút ra kết luận cho mình. Vì vậy, tôi chỉ thuật lại cho ông hay những gì tôi đã làm và những gì tôi đang dự định phải làm trong lúc này.
Thấy tôi đến Hillingham, Lucy tỏ ra rất vui vẻ hồn nhiên. Mẹ cô cũng ra đứng gần cô, và tôi đã chẳng phải mất nhiều thời gian để có thể hiểu ngay ra rằng bà không thể giấu mãi tình trạng của mình với mong muốn không làm cho đứa con gái phải lo âưu phiền muộn. Sự thận trọng của bà Westenra quả là rất cần thiết, nhưng tôi vẫn tin tới một lúc nào đó, con gái bà sẽ đoán ra hiện trạng sức khỏe của bà, cho dù không có ai mách bảo cô ấy. Tôi đã ngồi ăn trưa cùng gia đình, và chẳng ai bảo ai, cả ba chúng tôi đều âm thầm cố gắng tỏ ra vui vẻ, vô tư: Những nỗ lực này đã được đền bù xứng đáng: chúng tôi đã vui đùa thực sự trong ít nhất là một giờ đồng hồ. Sau đó bà Westenra kêu muốn đi nghĩ, để tôi ngồi lại một mình với Lucy. Cho tới khi chúng tôi sang phòng khách nói chuyện, Lucy vẫn cố giữ một bộ dạng vui vẻ, bởi mấy người hầu vẫn liên tục lượn qua lượn lại. Nhưng khi cửa phòng vừa đóng, cô đã đổ người xuống ghế, hai tay ôm mặt với những tiếng thở đài. Cô không còn đóng kịch được nữa. Tôi buộc phải hỏi tại sao cô ấy thở dài.
- Giá như biết em là người không thích nói về mình thì ông đâu có hỏi thế - Cô ấy đã thốt lên như vậy.
Tôi phải nói với cô ấy rằng không việc gì phải lo ngại khi gửi gắm mọi niềm tâm sự cho một thầy thuốc, tuy nhiên tôi cũng thú nhận là ông đang rất lo lắng cho cô ấy.
Cô đã nắm bắt ngay được tình hình, và chỉ bằng vài lời, tôi đã có thể thưa hồ gợi chuyện :
- Em có thể nói với Arthur tất cả những gì em muốn nói. Nếu tôi có lo lắng, thì đó không phải là lo cho tôi, mà là lo cho anh ấy!
Chính vì vậy mà tôi phải nói cho ông biết cái cảm nghĩ của mình. Tôi nhận thấy ngay Lucy đang bạc nhược vì thiếu máu, mặc dù trông cô không có một dấu hiệu riêng nào của căn bệnh này. Hơn nữa, nhờ một sự tình cờ, tôi đã kiểm tra được hàm lượng máu của cô, bởi lúc mở cửa sổ, tay cô đã bị thương nhẹ. Tất nhiên là chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng như thế cũng đủ để tôi lấy mấy giọt máu để phân tích. Cuộc xét nghiệm đã có một kết quả rất tốt đẹp. Mặt khác, tôi cũng không thấy có bất cứ một triệu chứng nào đáng lo ngại. Tuy nhiên, khi chứng thiếu máu này rõ ràng có nguồn gốc từ một nguyên nhân xác định nào đó, thì đó hẳn là nguyên nhân của một sự bất ổn về tinh thần. Lucy cũng phàn nàn về chứng khó thở, rồi giấc ngủ nặng nề khó nhọc, giống với một giấc ngủ lịm và thường kèm theo những cơn ác mộng khủng khiếp mà trí nhớ của cô đã không ghi lại bất cứ một chi tiết cụ thể nào. Lucy có kể với tôi rằng hồi nhỏ, cô đã mắc phải chứng bệnh mộng du, rằng mùa hè này ở Whitby, chứng bệnh ấy lại bám riết lấy cô, và thậm chí có một đêm, vẫn trong trạng thái đang ngủ, cô còn bỏ ra khỏi khách sạn và leo lên vách đá cheo leo, nơi Murray Mina đã tìm thấy cô, nhưng cô cũng có nói để tôi yên tâm rằng trong thời gian gần đây, cô đã có những đêm thật yên lành. Vì không am hiểu lắm về thể loại bệnh lý này nên tôi đã phải làm điều mà tôi cho là đúng đắn nhất: gửi thư cho ông bạn già và đồng thời cũng là người thầy của tôi, giáo sư Van Helsing, một chuyên gia bậc thầy về các căn bệnh tương tự ở Amsterdam. Tôi đề nghị Van Helsing đến thăm bệnh cho Lucy, và như ông đã nói trong lá thư vừa gửi cho tôi, ông sẽ chịu mọi chi phí cho chuyến đi này của giáo sư, bởi tôi cũng đã nói với giáo sư rằng ông là chồng chưa cưới của Lucy. Dẫu sao thì tôi cũng muốn giúp Lucy tới mức tốt nhất trong khả năng của mình. Còn về phần Van Helsing, tôi tin chắc ông ấy cũng sẽ hết sức cố gắng vì tôi. Bởi vậy khi giáo sư tới đây, chúng ta hãy nên nghe theo các quyết định của ông. Trong một số tình huống, có thể giáo sư sẽ tỏ thái độ độc đoán, nhưng quả thực ông ấy rất biết những gì mình nói, mong ông đừng cố chấp. Van Helsing đồng thời cũng vừa là nhà triết học, vừa là một nhà siêu hình học – ông xứng đáng là một trong những nhà bác học lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Vì vậy, tôi tin ông ấy sẽ có một đầu óc rộng mở trước mọi khả năng. Hơn nữa, giáo sư còn là người có dây thần kinh thép, có một tính cách cương nghị, một ý chí sắt đá luôn đi tới cùng sự việc, một đế chế đáng kính phục đối với chính bản thân, và cuối cùng là một lòng tất vô hạn đó là những phẩm chất đáng quý trong con người giáo sư, một con người chỉ biết làm việc hết mình vì sứ mệnh nhân đạo.
Tôi nói vậy để ông có thể hiểu tại sao tôi lại tin tưởng ở vị giáo sư này đến thế. Tôi đã đề nghị ông ấy tạm dừng mọi công việc ở nhà. Ngày mai, tôi sẽ lại tới thăm Lucy Westenra, nhưng không phải tại nhà cô, bởi tôi không muốn những chuyến thăm quá thường xuyên của tôi làm mẹ cô lo lắng.
Chúc ông mọi điều tốt lành.
John Seward”.

Giáo sư AbraHham Van Helsing gửi bác sĩ Seward


Ngày 2 tháng 9
Anh bạn thân mến,
Tôi đã nhận được thư của anh và dĩ nhiên là tôi sẽ đến!
Tôi có thể đến ngay mà không gặp một trở ngại nào, không có bất cứ ai trong số các bệnh nhân của tôi cần tôi trong một hoặc hai hôm nữa. Tôi rất thương họ nếu có chuyện gì không hay bất ngờ xảy ra, nhưng quả thật không có gì có thể cản trở tôi tới giúp đỡ những người được coi là thân thiết nhất. Được giúp đỡ một người bạn thân của anh quả là một niềm vinh hạnh lớn đối với tôi. Đừng quan trọng về chuyện tiền bạc. Làm ơn đặt cho tôi một phòng ở khách sạn Grand Phương Đông ở gần ngay chỗ ở của bệnh nhân, và hãy báo cho cô bạn trẻ ấy rằng chúng ta sẽ đến thăm cô ấy vào sáng mai, bởi có thể tôi sẽ lại phải trở về đây vào tối mai. Nhưng nếu phải làm vậy, tôi sẽ quay lại Luân Đôn trong ba ngày nữa và khi ấy, tôi có thể ở lại lâu hơn. Tạm biệt người bạn của tôi!
Van Helsing”.


Bác sĩ Seward gửi Arthur Holmwood


Ngày 3 tháng 9
Arthur thân mến,
Van Helsing đã tôi và lại đi rồi. Ông đã cùng tôi đến Hillingham. Bà Westenra đi ăn trưa ở ngoài, vậy là chỉ còn chúng tôi với Lucy. Van Helsing đã khám cho cô rất nghiêm túc và kỹ lưỡng. Ông đã thuật lại cho tôi biết về kết quả chẩn đoán của ông, bởi tôi không tham gia từ đầu đến cuối lần khám bệnh này. Ông tỏ ra rất lo lắng vì chưa chẩn đoán chính xác được căn bệnh của Lucy, ông bảo với tôi rằng ông cần phải suy nghĩ và tìm hiểu thêm bệnh lý của cô. Khi tôi kể về tình bạn của chúng ta và về niềm tin mà ông đã gửi gắm ở tôi trong việc khám và chữa bệnh cho Lucy, Van Helsing đã trả lời tôi: “Tuyệt đối phải giữ kín những gì anh đang nghĩ, và tất cả những gì tôi đang nghĩ nếu như anh đoán được các suy nghĩ của tôi... Tôi không nói đùa đâu, đây là vấn đề sống còn, là tính mạng của một con người, và có thể là cả những vấn đề khác chứ chẳng chơi...”
Nghe giọng nói nghiêm trọng của Van Helsing trên đường về thành phố, tôi buộc phải gặng hỏi kỹ hơn, nhưng ông vẫn nhất đính không giải thích gì thêm. Arthur ạ, xin ông đừng trách tôi nhét Sự im lặng của giáo sư Van Helsing chứng tỏ ông đang nghĩ rất nhiều về bệnh nhân, và đang nghiên cứu rất tỉ mỉ về trường hợp này bằng tất cả vốn kiến thức khoa học của mình. Xin ông hãy tin rằng giáo sư sẽ nói rõ ràng hơn khi ông đã biết tất cả những gì cần biết. Bởi vậy mà tôi phải nói với giáo sư tôi sẽ hạn chế kể về chuyến khám bệnh này với ông, Arthur ạ. Có thể là ngày mai tôi sẽ nhận được kết luận của giáo sư. Dù sao thì tôi cũng sốt ruột chờ đợi một lá thư.
Còn bây giờ là chuyến thăm của thầy trò chúng tôi. Lucy có vẻ vui hơn so với hôm trước, trông nước da của cô cũng khá hơn. Cô không còn nhìn bằng ánh mắt vẫn làm cho ông lo sợ nữa, và nhịp thở của cô cũng đã trở lại bình thường. Đối với vị giáo sư (cũng như đối với tất cả những người khác), cô tỏ ra rất đáng yêu, cô đã cố xử sự cho thật tự nhiên. Tuy nhiên, theo ý tôi, để vui vẻ được như vậy, cô bé tội nghiệp đã phải đấu tranh ghê gớm với chính mình. Tôi cho rằng Van Helsing cũng nghĩ như tôi, bởi tôi thấy giáo sư đã nhìn mày rất nhanh khi nhìn cô. Giáo sư đã hàn huyên hết chuyện này đến chuyện khác, trừ chuyện về chính bản thân chúng tôi và về các bệnh nhân, vì ông rất muốn làm cho Lucy có một niềm vui thật sự. Và vẫn làm ra vẻ đang tiếp tục dòng chảy của cuộc nói chuyện, giáo sư đã từ từ gợi ra mục đích của cuộc viếng thăm của ông :
- Cô bạn thân mến ạ, - Giáo sư bắt đầu giãi bày - quả thực là tôi rất hân hạnh khi được tới thăm cô, bởi ông bạn tôi đây đang muốn chúng tôi hành động vì một tình yêu vĩ đại. Và đó là một tình cảm thật đáng quý, xin cô hãy tin ở tôi! Trước khi tới đây, anh bạn tôi có nói rằng trông cô rất xanh xao và bạc nhược. Tôi đã trả lời: “Ôi dào...” Tôi không tin những lời anh ta nói. Bây giờ tôi và cô sẽ chứng minh cho anh ta thấy là anh ta đã lầm. Làm sao anh ta - Vừa nói giáo sư vừa nhìn và chỉ vào tôi giống hệt cái cử chỉ ông đã làm đối với tôi ngày nào, khi tôi gây ra một tai nạn hồi còn học ông mà cho mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa quên được - làm sao anh ta có thể nhận biết tường tận một điều gì đó ở các cô gái trẻ kia chứ? Anh ta phải bận bịu quan tâm đến các bệnh nhân của mình, phải chăm sóc họ, giúp họ tìm lại hạnh phúc và trả lại họ cho những người yêu thương họ. Phần thưởng cho các nỗ lực của một thầy thuốc như anh ta là được thấy niềm hạnh phúc của từng bệnh nhân. Còn đối với các cô gái trẻ ư! Anh ta không có vợ, và tất nhiên là cũng chẳng có con gái, còn các cô gái thì chẳng bao giờ tin tưởng ở bọn đàn ông còn trẻ tuổi, họ chỉ tin vào những ông già, những người đã từng trải qua bao đắng cay nhọc nhằn trong suất cuộc đời mà bản thân cáe ông nhiều khi cũng chưa nghiệm thấy hết. Vì vậy, cô gái ạ, cứ để anh ta ra ngoài vườn hút thuốc đi, chúng ta sẽ ngồi đây nói vài câu chuyện tầm phào cũng được.
Biết ý giáo sư, tôi lặng lẽ bỏ ra ngoài đi dạo quanh nhà. Nhưng sau đó không lâu, tôi nghe thấy tiếng giáo sư gọi qua cửa sổ. Gặp lại tôi, ông cho biết :
- Tôi đã khám rất kỹ song vẫn không thấy bất cứ một dấu hiệu nào của sự suy giảm chức năng. Cũng như anh, tôi cho rằng có lẽ cô ta đã mất rất nhiều máu, tôi nói là đã mất, anh nghe rõ rồi chứ? Tôi nói vậy bởi bây giờ cô ta không còn bị mất máu nữa. Tuy nhiên, có một điều rất lạ là trong người cô ta không có bất cứ một triệu chứng nào của bệnh thiếu máu. Tôi đã đề nghị cô ta gọi cho tôi cô hầu phòng đến để hỏi một vài vấn đề, sau đó sẽ tìm ra những thông tin chính xác nhất trong chừng mực có thể. Nhưng thực ra tôi cũng biết trước người hầu này sẽ trả lời như thế nào rồi... Dù sao thì cũng phải có một nguyên nhân dẫn đến trạng thái bệnh lý, và lúc nào cũng chỉ tồn tại cùng một nguyên nhân mà thôi. Tôi sẽ trở về Amsterdam để suy nghĩ thêm. Ông hãy đánh điện cho tôi mỗi ngày, và nếu thấy cần thiết, tôi sẽ quay lại đây căn bệnh này tôi gọi vậy bởi dù thế nào thì đó vẫn cứ là một căn bệnh khiến tôi không thể không quan tâm, và ngay cả tôi cũng không thể thờ ơ với cô gái duyên dáng. Đúng thế, cô ta quả thật rất duyên dáng, dễ thương, và tôi sẽ tự nguyện quay trở lại vì một mình cô ấy, kể cả khi anh không có ở đây và khi cô ta không bệnh tật gì.
Arthur ạ, xin được nhắc lại với ông rằng giáo sư đã không muốn nói nhiều hơn với tôi về chuyện đó, kể cả khi chỉ có hai chúng tôi với nhau. Cho đến bây giờ thì tôi cũng chỉ được biết bằng ông thôi, bởi biết được bao nhiêu, tôi đều đã nói hết với ông. Xin ông cứ tin rằng tôi sẽ luôn để mắt tới cô bệnh nhân yêu quý của chúng ta. Hy vọng bệnh tình của cha ông sẽ khá hơn. Ở vị trí của ông, có lẽ tôi sẽ khó bề đứng vững: thật là khủng khiếp khi biết hai người thân nhất của ông đều đang rơi vào tình trạng hiểm nghèo! Tôi rất hiểu tình cảm và bổn phận của một người con trai có cha đang lâm bệnh, nhưng nếu bệnh tình của Lucy trầm trọng hơn, tôi vẫn cứ viết thư gọi ông tới ngay lập tức. Vì vậy, nếu không nhận được tin của tôi, ông cũng đừng nên quá lo lắng.


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 4 tháng 9
Càng ngày tôi càng cảm thấy thú vị hơn khi được quan sát bệnh nhân tâm thần của mình. Hôm qua, hắn chỉ lên cơn có một lần. Gần trưa, hắn bắt đầu nổi khùng. Nhận ra các triệu chứng quen thuộc của hắn, viên giám thị đã lập tức gọi người tới giúp một tay. Cũng may mọi người tới kịp, nếu không chúng tôi sẽ phải rất khốn khổ mới mong kìm giữ được một thằng lên cơn điên khủng khiếp như hắn. Nhưng cũng chỉ sau đó khoảng năm phút, hắn lại dịu xuống và tất nhiên là lại rơi vào tâm trạng sầu não kéo dài. Tay giám thị cho tôi biết trước lúc lên cơn, hắn đã thất lên những tiếng kêu đáng sợ. Điều này không làm tôi ngạc nhiên, bởi tôi đã quen với những tiếng gào thét dài thê thảm trong tình trạng man dại của một số bệnh nhân khác. Lúc tôi viết những dòng này cũng là lúc đến bữa ăn tối của các bệnh nhân nội trú, song Renfield vẫn cứ ngồi ôm gốc ở một góc phòng, mặt sầu thảm với những dòng suy tưởng riêng của hắn. Tôi không nghĩ gì về tâm trạng của hắn.
* * * * *
Một lát sau
Trong con người tên bệnh nhân của tôi lại có sự thay đổi. Tôi quay lại thăm hắn vào lúc 5 giờ, có vẻ như hắn đang rất mãn nguyện về số phận của mình. Hắn chộp ruồi rồi bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, và mỗi lần chộp được một con, hắn lại lấy móng tay vạch một vệt lên cánh cửa. Vừa trông thấy tôi, hắn vội rối rít xin lỗi về cách xử sự không đẹp của mình, rồi đề nghị tôi, hay nói đúng hơn là nài nỉ tôi cho phép hắn trở về phòng, nơi hắn có thể tiếp tục công việc ghi chép vào cuốn sổ tay của hắn. Tôi nghĩ là mình phải làm cho hắn vứt bỏ cái tính khí thất thường này, nên đã đồng ý với đề nghị của hắn. Hắn trở về phòng và mở ngay ô cửa sổ ra, tiếp đó hắn lấy một nhúm đường rắc lên gờ ngoài cửa sổ để rình bắt ruồi. Song lần này hắn bắt ruồi không phải để cho vào miệng, mà để cho vào một cái hộp như hắn vẫn làm trước đây, rồi hắn đi kiểm tra tất cả các xó xỉnh trong phòng để tìm kiếm một con nhện. Tôi tìm cách dò hỏi hắn xem hắn đã nghĩ gì về những ngày đã qua, vì một mạch dẫn tối thiểu trong suy nghĩ của hắn cũng giúp tôi khá nhiều trong công việc Nhưng quả thực là chẳng có cách nào lôi hắn ra khỏi sự im lặng trong lúc này. Được một lúc, bộ mặt lì lì của hắn bỗng thoáng một nét buồn, chỉ tới lúc ấy hắn mới chịu thều thào nói bằng một giọng vừa đủ nghe, khiến tôi có cảm giác như hắn đang nói với chính mình chứ không phải nói với tôi :
- Thế là hết? Thế là hết thật rồi? Ông ta đã bỏ rơi tôi rồi!
Bây giờ tôi chẳng còn gì để mà hy vọng nữa. Vậy là tôi lại phải tự mình hành động. Rồi hắn quay phắt sang nhìn tôi, giọng kiên quyết hẳn lên :
- Thưa bác sĩ, ngài có muốn chứng tỏ lòng hảo tâm đối với tôi không? Xin ngài hãy bảo người ta mang tới cho tôi thêm một ít đường nữa đi. Tôi tin rằng điều đó sẽ làm cho tôi thấy dễ chịu hơn nhiều đấy.
Thế còn mấy con ruồi thì sao?
Tất nhiên là ruồi cũng rất thích đường, còn tôi thì lại rất yêu đàn ruồi: đó là lý do giải thích tại sao tôi thích cái ngọt ngào của đường.
Vậy mà có không ít người ngu xuẩn tin rằng những thằng điên không thể kết nối nhiều ý kiến lại với nhau cho thật thích kia đấy!
Quả thực là hắn đã vui hẳn lên khi tôi cho người mang thêm cho hắn ít đường.
* * * * *
Nửa đêm
Thêm một sự thay đổi nữa trong con người Renfield. Tôi vừa từ nhà Lucy trở về (tình hình của cô đã khá hơn) và dừng lại trước ngưỡng cửa dưỡng đường, định bụng sẽ ngồi lại một lát để ngắm cảnh hoàng hôn, thì chợt giật mình vì một tiếng gào thét. Lại là hắn. Tôi cảm thấy hơi khó chịu và chạnh lòng khi không còn được thảnh thơi đứng chiêm ngưỡng cảnh trời đất diệu huyền lúc hoàng hôn lộng lẫy đổ bóng xuống thành Luân Đôn như một màn sương bằng vàng, mà phải quay lại đối mặt với những bức tường đá buồn thê thảm trong cái vẻ nặng nề u ám của nhà thương điên, nơi đang đổ cái bóng vô vọng xuống một con người khốn khổ. Tôi bước vào phòng Renfield khi mặt trời đang dần dần tắt bóng ngoài cửa sổ. Cơn điên khùng của tên bệnh nhân đã dịu xuống được vài phút, nhưng đúng vào lúc ông mặt trời biến mất, hắn bỗng chuồi khỏi tay người đang giữ hắn và đổ vật xuống sàn nhà như một cây chuối. Thật đáng ngạc nhiên khi được thấy các bệnh nhân bỗng dưng phục hồi được lý trí, cho dù chỉ là thoảng qua, vì sau khoảng vài phút, hắn lại đứng bật dậy đảo mắt nhìn quanh với một vẻ rất điềm tĩnh. Tôi ra hiệu cho mấy tay giám thị cứ để cho hắn xử sự theo ý của hắn, bởi tôi đang rất muốn xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Hắn đi nhanh về phía cửa sổ và gạt sạch những hạt đường trên gờ xuống đất, rồi hắn mở nắp chiếc hộp đựng ruồi ra cho chúng bay sạch trước khi quẳng nắp hộp đi. Cuối cùng, hắn đóng sập cửa sổ lại và ngồi phịch xuống giường.
- Vậy là anh lại không cần mấy con ruồi ấy nữa? – Tôi hỏi.
- Không cần, - Hắn trả lời - tôi đã chán ngấy lũ sâu bọ vô dụng ấy rồi!
Thú thực là tôi không làm sao hiểu nổi nguyên nhân dẫn tới những thay đổi của hắn! Xin các bạn chú ý nhé! Có thể chúng ta sẽ tìm ra nguyên nhân đích thực nếu chúng ta biết tại sao hôm nay cơn điên khùng của hắn lại đạt tới cực điểm vào đúng buổi trưa, rồi đúng vào lúc mặt trời lặn. Có nên nghĩ rằng trong một số thời điểm, mặt trời có một ảnh hưởng ác tính tới mốt số sinh vật sống, cũng như mặt trăng đôi khi cũng có tác động xấu tới một số thực thể khác không?
Rồi chúng ta sẽ thấy...


Điện của bác sĩ Seward, Luân Đôn gửi giáo sư Van Helsing, Amsterdam


Ngày 4 tháng 9
“Hôm nay bệnh nhân đã khá hơn nhiều.”


Điện của bác sĩ Seward, Luân Đôn gửi giáo sư Van Helsing, Amsterdam


Ngày 5 tháng 6
“Bệnh nhân mỗi ngày một khá hơn. Ăn ngon, ngủ yên, tính khí ổn định, nước da đang hồng hào trở lại”.


Điện của bác sĩ Seward, Luân Đôn gửi giáo sư Van Helsing, Amsterdam


Ngày 6 tháng 9
“Tình hình bỗng trở nên rất nghiêm trọng. Xin giáo sư hãy tới ngay, đừng để chậm một giờ nào”.
 
Chương 10

Bác sĩ Seward gửi Arthur Holmwood


Ngày 6 tháng 9
“Ông bạn Arthur thân mến,
Tin tức tôi gửi ông hôm nay không còn là những điều tốt tình trạng sức khỏe của Lucy đã trở nên trầm trọng hơn. Sự xấu đi này là một kết cục khiến tôi không dám hy vọng. Bà Westenra đã hỏi tôi nghĩ gì về hiện trạng của Lucy, tôi đã nhân cơ hội nói luôn với bà rằng ông bạn già của tôi, giáo sư Van Helsing, vừa đến nhà tôi chơi vài ngày và tôi có thể nhờ giáo sư tới khám, điều trị cho con gái bà. Vấn đề bây giờ là ở chỗ nếu cần thiết, chúng tôi phải thường xuyên tới nhà người phụ nữ tất bụng này mà vẫn không làm cho bà quá lo lắng hoặc gây cho bà quá nhiều cảm xúc khiến bà có thể bị đổ quỵ. Cũng phải tránh làm cho bà cảm nhận được tình hình của Lucy bằng mọi giá, bởi đó sẽ là một cú sốc đau đớn không gì có thể bù đắp được đối với bà. Ông bạn thân mến ạ, chúng ta đang đứng trước những khó khăn dường như không thể vượt qua. Tuy nhiên, hy vọng với ơn đức của Chúa, chúng ta sẽ vẫn đứng vững. Lúc nào cần, tôi sẽ thông tin tiếp cho ông. Vì vậy, nếu chưa nhận được tin gì thêm từ tôi thì ông cũng đừng sốt ruột, đơn giản là vì tôi chỉ thông báo những biến chuyển mới. Tôi đang vội.
Chúc sức khỏe ông John Seward”


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 7 tháng 9
Khi chúng tôi gặp nhau ở phố Liverpool, điều đầu tiên Helsing hỏi tôi là :
- Anh đã thông báo gì cho anh bạn trẻ của chúng ta, cái anh chàng là chồng chưa cưới ấy chưa?
- Chưa, thưa giáo sư, - Tôi trả lời - như tôi đã nói trong bức điện, tôi phải gặp giáo sư trước cái đã. Tôi có gửi cho anh ta một lá thư, nhưng chỉ nói vẻn vẹn rằng giáo sư đang tính quay trở lại khám cho Lucy một lần nữa, và rằng tôi sẽ báo tin cho ông ta ngay sau khi có những tin mới.
- Tốt, anh bạn ạ, rất tốt! Tốt hơn hết là đừng cho anh ta biết, vì vào lúc này... Có thể anh ta sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật, tôi hy vọng là như vậy! Nhưng nếu thực sự cần thiết, tôi sẽ nói cho anh ta biết tất cả. Anh bạn ạ, xin hãy hiểu cho tôi. Hơn ai hết, với tư cách là một chuyên gia về chăm sóc các bệnh nhân tâm thần, anh sẽ phải là một người rất hiểu tôi. Nói theo cách này hay cách khác, chúng ta cũng đều là những thằng điên và trong trường hợp anh tỏ ra thiếu thận trọng khi chăm sóc các bệnh nhân tâm thần của mình, thì anh xử sự cũng chẳng khác nào những con chiên điên rồ của Chúa. Hãy đừng nói với các bệnh nhân của mình rằng tại sao anh lại phải chăm sóc họ, cũng đừng nên nói cho họ biết những gì anh đang nghĩ. Trong những trường hợp làm chúng ta phải đắn đo, thì anh ta nên giữ kín những gì anh biết cho tới khi niềm tin của anh được củng cố vững chắc hơn. Đúng vậy, chúng ta hãy giữ kín những gì chúng ta đang biết, như thế và như thế... trong lúc này... (Nói tới đây, ông đưa tay đặt lên ngực, rồi lên trán tôi, rồi lại chuyển ngón tay đặt lên ngực, lên trán mình). Về phần mình, tôi đã hiểu ra một vài vấn đề và xin dần dần được tiết lộ với các bạn sau.
- Tại sao lại không nói ra trong lúc này? - Tôi hỏi. - Biết đâu điều đó lại có ích cho chúng ta, có thể nó sẽ giúp chúng ta đưa ra được một quyết định.
Giáo sư khoát tay nhìn thẳng vào mắt tôi như muốn tôi phải im lặng :
- Anh bạn ạ, khi cây lúa mì vươn khỏi mặt đất nhưng chưa đạt tới độ chín, thì dòng sữa của đất mẹ vẫn còn chảy trong thân thể nó, nhưng khi ông mặt trời còn chưa tỏa ra những ánh nắng vàng rực rỡ, thì người thợ cày đã vội ngắt một bông rồi nghiền nát trên bàn tay thô ráp và thổi tung hạt mì còn xanh đi và nói với anh rằng: “Ông thử nhìn mà xem! Hạt lúa thật chắc mẩy. Nó đang hứa hẹn một vụ mùa bội thu đấy!”
Thú thật là tôi vẫn chưa nắm bắt được mối liên hệ giữa mẩu chuyện ẩn dụ của giáo sư những gì chúng tôi đang nói.
Van Helsing không trả lời mà lấy tay véo mạnh vào tai tôi rồi kéo xệch về một bên giống như ông vẫn làm đối với tôi hồi tôi còn là học trò của ông. Cuối cùng, ông lý giải :
- Người thợ cày tốt bụng nói như vậy bởi lúc đó ông ta đã biết chắc là sẽ ớược mùa, nhưng trước khi được thấy bông lúa mì, ông ta đã không dám khoác lác. Sẽ không bao giờ có chuyện một ông thợ cày đi nhổ bật gốc lúa mì mà ông ta đã mất bao công sức gieo trồng, chăm sóc lên để xem nó đã mọc như thế nào. Chỉ có lũ trẻ vô lo mới xử sự như vậy, chứ những người gieo hạt để kiếm sống thì không bao giờ. Bây giờ thì anh đã hiểu ý tôi rồi chứ, anh bạn? Tôi gieo hạt lúa mì, thiên nhiên sẽ phải làm nó nảy mầm. Và nếu như hạt lúa nảy mầm, thì đlều tôi chờ đợi sẽ là những hạt lúa chắc mẩy.
Nét mặt của Van Helsing bỗng trở nên đăm chiêu đến khó hiểu. Sau một lát yên lặng, ông mới tiếp tục câu chuyện, giọng nghiêm trọng, khác hẳn lúc trước :
- Anh từng là một trong những học trò xuất sắc nhất mà tôi yêu quý... Khi đó anh chỉ là một sinh viên, còn bây giờ, anh đã là một người thầy, và tôi tin rằng anh vẫn còn giữ được những thói quen say mê nghiên cứu của ngày trước. Anh bạn ạ, hãy nhớ rằng tri thức bao giờ cũng quan trọng hơn hồi ức, rằng chúng ta đừng nên tự hào một cách mù quáng vào những khái niệm sơ đẳng đã đạt được. Nếu như anh đã từ bỏ những thói quen cố hữu đáng quý đó thì bây giờ hãy nên khôi phục lại đi. Tôi xin nói để anh biết trường hợp của cô bạn trẻ kia có thể - chú ý nhé, tôi nói là có thể - trở thành một lợi ích thực tiễn cho chúng ta và cho cả những người khác. Đừng nên làm gì chểnh mảng. Xin có một lời khuyên cho anh: ghi nhớ tất cả những nghi ngờ của mình, những giả thiết về hiện tượng, dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhất. Chắc chắn nó sẽ rất hữu ích cho việc kiểm chứng lại các nhận định sau này của anh đúng sai ở mức nào. Không phải là thành công, mà chính sự thất bại mới mang lại cho chúng ta các bài học!
Nghe tôi kể về những triệu chứng mà tôi đã quan sát được ở Lucy, mặc dù rất chú ý lắng nghe, nhưng giáo sư vẫn không đưa ra một nhận xét gì. Ông lặng lẽ cầm chiếc xà cột đựng dụng cụ y tế và thuốc men. “Cả mớ đồ lề lủng củng cần cho cái công việc chuyên môn đầy thi vị của chúng ta.” – ngày trước, ông đã nói với các học trò chúng tôi như vậy trong một bài giảng về toàn bộ các dụng cụ sơ đẳng nhất mà một thầy thuốc cần phải có để hành nghề.
Bà Westenra ra đón tiếp chúng tôi. Bà không có cái vẻ lo lắng như tôi vẫn sợ. Bản chất của thiên nhiên có cái hay là luôn mang lại một phương thuốc điều trị những lời ám ảnh khủng khiếp nhất, dù cái chết có lẩn quất ở đâu đó. Bà Westenra đã khoác lên mình một lớp vỏ bọc vô cảm chống lại mọi tổn thương, kể cả khi bà cảm nhận được những thay đổi mà tôi cho ìà đáng sợ ở con gái bà.
Nếu như có thể gọi đây là một sự ích kỷ tự giải thoát, thì chúng ta cũng đừng nên vội lên án những kẻ mà chúng ta thấy là ích kỷ, bởi nguyên nhân dẫn tới sắc thái tính cách đó đôi khi còn bí ẩn hơn nhiều so với những gì mọi người vẫn tưởng.
Tuy nhiên, các hiểu biết của tôi về tâm điểm của bệnh lý tâm thần đã buộc tôi phải tuân theo một cách xử sự thật rõ ràng: tôi quyết định không bao giờ để bà Westenra có mặt khi chúng tôi khám bệnh cho Lucy, và bà cũng không nên bận tâm về sức khỏe của cô con gái, trừ phi là trường hợp tuyệt đối cần thiết. Bà mẹ Lucy đã cố tỏ ra vui vẻ khi chấp nhận đề nghị của tôi.
Một người giúp việc đã dẫn chúng tôi, tức Van Helsing và tôi, vào phòng Lucy. Nếu như hôm qua nhìn cô, tôi chỉ thấy một thoáng lo ngại, thì hôm nay tôi đã thực sự giật mình bàng hoàng trước sự thay đổi đã diễn ra ở con người cô.
Trước mặt tôi là một Lucy vêu vao, võ vàng; mặt cô trắng bệch, đôi môi nhợt nhạt, và hai lợi răng hình như không còn một giọt máu lưu thông bên trong.
Nghe hơi thở của cô lúc này quả là một cực hình: cô đang khó thở tới mức khó có thể chịu đựng lâu hơn được.
Sắc mặt của Van Helsing dường như vẫn không có gì thay đổi; ông đang trầm ngâm nghĩ ngợi một điều gì đó. Lucy vẫn nằm im, thậm chí cô không còn sức để mà chào hỏi chúng tôi nữa. Cả ba chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau một hồi lâu. Rồi Van Helsing khẽ hất hàm ra hiệu cho tôi, chúng tôi rón rén ra khỏi phòng.
Cửa chưa kịp khép hết, ông đã kéo tôi chạy xềnh xệch sang phòng bên cạnh và nói :
- Lạy Chúa! Thật là khủng khiếp? Không được chậm thêm một phút nào nữa. Lucy sẽ chết vì thiếu máu mất. Thậm chí trong người cô ta không còn đủ một lượng máu cần thiết cho tim hoạt động. Phải truyền máu ngay lập tức. Ai trong số hai chúng ta?...
Tôi trẻ và còn sức khỏe hơn, thưa giáo sư. Vậy cứ để tôi hiến máu.
- Vậy thì phải tiến hành ngay! Anh chuẩn bị đi! Tôi phải đi lấy túi dụng cụ đây.
Hai chúng tôi đang xuống dưới chân cầu thang thì nghe có tiếng gõ cửa.
Người giúp việc chạy ra mở cửa, thì ra là Arthur. Anh ta đi vội về phía tôi, giọng thổn thức vì âu lo :
- Jack, tôi thấy lo quá. Tôi đã đọc đi đọc lại lá thư của cậu, cậu không thể biết là kể từ đó đến giờ tôi đã phải chịu đựng đến thế nào. Thấy tình hình sức khỏe của ông già tôi đã ổn, tôi quyết định phải tới đây ngay lập tức xem sự thể ra sao... Kia là bác sĩ Van Helsing, đúng không? Rất biết ơn sự có mặt của ngài!
Trông thấy người mới đến, giáo sư có vẻ không bằng lòng, ông khó chịu vì công việc của mình bị gián đoạn đúng vào lúc nguy kịch; nhưng lát sau, khi đã hiểu ra cách giải quyết can đảm trong hành động của Althur, đôi mắt ông rạng rỡ hẳn lên, ông chìa tay ra rồi nói :
- Anh đến thật đúng lúc. Chắc anh là chồng chưa cưới của cô bạn gái kia? Cô ấy đang ốm, ôm rất nặng. Song cứ bình tĩnh, anh bạn trẻ ạ, đừng để mình bị gục ngã vào lúc này? - Bởi vì, Arthur bây giờ trông cũng rất hốc hác, mặt mày xanh xao, anh ta ngồi phịch xuống ghế như sắp ngất đi. Ngược lại, anh phải can đảm hơn nữa... Anh sẽ phải giúp đỡ cô ấy. Anh có thể giúp cô ấy hơn bất cứ ai trên đời này, và nói một cách thật chính xác, anh có thể giúp cô ấy một cách tốt nhất chính bằng lòng dũng cảm của mình.
- Vậy thì tôi có thể làm được gì kia chứ? - Arthur hỏi lại bằng một giọng thật yếu ớt. - Xin giáo sư cứ nói, tội sẽ không do dự đâu. Cuộc đời tôi thuộc về cô ấy, tôi phải cứu cô ấy cho đến giọt máu cuối cùng.
- Anh bạn trẻ ạ. - Van Helsing trả lời, giọng hài hước - Tôi không đòi hỏi ở anh nhiều đến như vậy đâu: không cần anh phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng?
- Vậy thì tôi phải làm gì?
Trong ánh mắt của Arthur như có lửa, cả hai lỗ mũi của anh cứ phập phồng vì sốt ruột. Van Helsing vỗ nhẹ lên bờ vai anh :
- Lại đây. Chúng tôi rất cần một người đàn ông như anh. Anh sẽ phù hợp hơn tôi, hơn cả anh bạn John của chúng ta rất nhiều trong việc này.
Rõ ràng là Arthur vẫn chưa hiểu giáo sư muốn nói gì, vì vậy, ông phải nhẹ nhàng giải thích thêm :
- Đúng là cô gái trẻ đang ốm rất nặng. Có thể nói là trong người cô chẳng còn bao nhiêu máu nữa, nếu chúng ta không tiếp máu, chắc chắn là cô ấy sẽ không thể sống được. Tôi và anh bạn John đây đã thống nhất làm cái việc mà chúng tôi gọi là truyền máu, tức là phải lấy máu từ các huyết mạch tràn đầy rồi cho chảy vào các huyết mạch gần như rỗng không... đang trong tình trạng cấp cứu! Và John sẽ là người hiến máu, bởi anh ta trẻ và khỏe hơn tôi. Nhưng bầy giờ, khi mà anh đã có mặt ở đây, thì anh lại là người khỏe nhất trong ba chúng ta trẻ hay già bây giờ không còn là vấn đề quan trọng nữa, bởi dù sao thì hai chúng tôi cũng đã làm việc quá căng thẳng rồi, vì vậy mà dòng máu của chúng tôi lúc này không còn đỏ thắm như dòng máu đang chảy trong huyết mạch của anh!
Arthur quay sang nói với Van Helsing :
- Giá mà ngài có thể biết tôi đang khát khao muốn hy sinh cuộc đời mình vì cuộc sống của cô ấy như thế nào thì có lẽ ngài đã hiểu...
Anh bỗng nghẹn ngào không còn nói nên lời.
- Hoan hô anh bạn! - Van Helsing reo lên. - Bây giờ, anh hãy đi cùng chúng tôi, nhưng nhớ là phải yên lặng đấy nhé. Anh có thể ôm hôn người yêu một lần trước khi truyền máu, còn khi công việc đã diễn ra, anh cứ để mặc chúng tôi.
Lúc nào tôi ra hiệu, anh phải rời khỏi phòng ngay. Và cũng đừng nên nói gì với bà Westenra đấy! Cần phải giữ sức cho bà ấy. Lại đây!
Cả ba chúng tôi cùng bước lên cầu thang. Nhưng giáo sư Van Helsing không muốn Arthur bước vào phòng cùng một lúc với chúng tôi. Anh ta phải đứng đợi ở chiếu nghỉ cầu thang. Trông thấy chúng tôi, Lucy quay mặt lại nhưng không nói năng gì. Cô không ngủ mà chỉ nằm im vì quá yếu. Cố gắng nói đối với cô lúc này là một điều không thể. Nói bằng ánh mắt là tất cả những gì cô có thể làm được trước chúng tôi.

Vản Helsing mở túi đồ lấy ra một số thứ đặt lên bàn, nơi người bệnh không nhìn thấy. Ông chuẩn bị một liều thuốc gây mê rồi quay trở lại giường Lucy :
- Nào, cô bé, cô dùng liều thuốc này nhé! Hãy cố gắng uống hết cốc này như một đứa con ngoan. Chú ý nhé, tôi sẽ cầm cốc cho cô uống, như vậy sẽ dễ hơn. Thế... Tốt rồi!
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy liều thuốc ngủ có tác dụng nhanh quá, điều đó chứng tỏ cô gái yếu đến mức nào. Dường như trong mắt cô, khi cô bắt đầu khép đôi bờ mi lại, là cả một thế giới vĩnh hằng bất tận. Ngay sau khi liều thuốc ngủ phát huy tác dụng, Van Heising cho gọi Arthur vào phòng và bảo anh cởi áo vét ra.
- Bây giờ, - Ông nói - anh có thể ôm cô ấy như tôi đã nói. Trong thời gian đó, tôi sẽ kê một cái bàn ở gần giường bệnh nhân. Anh bạn John, giúp tôi một tay nào!
Do bận chuẩn bị dụng cụ nên chúng tôi không để ý tới Arthur đang lúi húi bên Lucy.
Van Helsing nói nhỏ vào tai tôi :
- Anh ta vẫn còn trẻ và khỏe lắm, tôi tin rằng chúng ta sẽ không cần phải loại tơ huyết.
Và rồi bằng mấy động tác thật nhanh, chính xác và tất nhiên là có phương pháp, ông bắt đầu công việc truyền máu :
Cuộc sống dường như đang dần tô hồng trở lại đôi má Lucy, trong khi đó khuôn mặt của Arthur chuyển nhanh sang một màu tái nhợt, nhưng ánh mắt anh vẫn ánh lên một niềm vui khôn tả. Nhìn người bạn, tôi không khỏi chạnh lòng.
Tôi sợ một người như anh khó có thể bình phục sau khi bị mất quá nhiều máu.
Nét mặt của vị giáo sư đang rất nghiêm trọng và căng thẳng. Cầm đồng hồ trên tay, ông hết nhìn bệnh nhân rồi lại nhìn Arthur. Tôi cũng hồi hộp đến mức nghe rõ cả từng nhịp đập trong lồng ngực mình. Van Helsing chợt bảo tôi :
- Như thế là đủ rồi đấy. Bây giờ anh phải để ý anh ta, còn tôi sẽ lo cho bệnh nhân...
Arthur yếu đi trông thấy. Tôi chỉ dám nhìn vào sự thực này sau khi công việc đã xong xuôi. Tôi đang chuẩn bị đưa Arthur ra ngoài khi đã băng bó xong vết thương cho anh thì nghe thấy tiếng Van Helsing - ông nói mà không quay mặt lại, tôi có cảm tưởng ông như có mắt ở sau gáy.
Tôi cho rằng anh chồng chưa cưới dũng cảm này xứng đáng được nhận một nụ hôn. Anh có thể làm ngay bây giờ. Vừa nói ông vừa luồn gối xuống dưới đầu bệnh nhân.
Nhưng khi Lucy có cử động nhẹ đầu tiên sau khi được tiếp máu, dãy băng nhung đen mà cô luôn quấn ở cổ chợt nhích cao lên, để lộ ra một vết đỏ. Có vẻ như Arthur không để ý, song Van Helsing thì không phải như vậy, bởi rõ ràng tôi vừa nghe thấy tiếng hít hơi vào rất mạnh và đột ngột của ông. Mỗi khi xúc động và ngạc nhiên về một điều gì đó, tôi đều thấy ông phản ứng như vậy.
Ông vẫn tỏ vẻ không để ý thấy gì và quay sang bảo tôi :
- Ừ, anh hãy xuống cùng anh bạn dũng cảm này đi, cho anh ta uống một cốc rượu vang Pooc-tô và để anh ta ngả lưng một lúc. Sau đó anh ta sẽ trở về nhà để nghỉ ngơi, rồi ngủ cho thật đấy, ăn thật nhiều, càng nhiều càng tốt, để bù đắp lại những gì vừa làm cho cô vợ chưa cưới. Đừng nên ở lại đây lâu! Khoan đã, còn điều này nữa! Anh bạn ạ, tôi cho rằng thế nào anh cũng muốn biết kết quả của cái việc mà chúng tôi vừa làm. Cứ yên tâm đi! Ca xử lý đã thành công mỹ mãn. Anh đã cứu sống cô bạn trẻ, và bây giờ anh có thể yên tâm trở về nhà mà không cần phải lo nghĩ gì cả. Anh đã làm tất cả những gì anh có thể làm được cho cô ấy. Tôi sẽ tâm sự với cô ấy khi cô ấy đã bình phục. Chắc chắn cô ấy sẽ yêu anh hơn. Tạm biệt nhé.
Khi Arthur đã ra khỏi nhà, tơi quay trở lại gặp Van Helsing. Lucy vẫn ngủ, nhưng hơi thở của cô có vẻ nhẹ nhàng hơn khá nhiều. Vị giáo sư đang chăm chú theo dõi cô. Dãy nhung đen đã được sửa lại đúng vị trí che lấp vết đỏ trên cổ cô Tôi khẽ hỏi giáo sư :
- Giáo sư giải thích như thế nào về cái vết thương ấy?
- Thế còn anh, anh giải thích ra sao?
- Tôi vẫn chưa xem kỹ cái vết ấy, để tôi tháo dãy băng ra xem nào.
Đúng là ở bên ngoài tĩnh mạch cảnh trên cổ cô gái còn hằn hai vết nhỏ như hai vết trích chưa lành. Chắc chắn đó không phải là cái triệu chứng của một bệnh lý nào đó, nhưng ở miệng các vết thương đều có một màu trắng nhợt với các mép sờn như đã bị từ lâu. Tôi nghĩ ngay rằng vết thương này nếu có thể gọi đó là vết thương có thể gợi nhắc tới một nguyên nhân gây mất máu hết sức nguy hiểm của cô gái, song tôi cũng phải vội xua đuổi ngay cái ý nghĩ mới manh nha ấy đi, bởi tôi thấy đó là điều hết sức vô lý. Nếu nhìn thấy cái vẻ xanh xao như một kẻ sắp chết của Lucy trước lúc truyền máu, thì hẳn trên giường cô lúc này phải đẫm những giọt máu mà cô đã mất.
- Thế nào? - Van Helsing hỏi tôi.
- Lạ thật? Tôi chẳng hiểu gì cả.
- Tối nay tôi phải trở về Amsterdam bằng mọi giá. Giáo sứ vừa nói vừa đứng dậy. - Tôi cần tra cứu thêm một số cuốn sách và tài liệu. Anh ở đây cả đêm với bệnh nhân vậy nhé!
Tôi có cần phải gọi thêm một y tá không?
- Tôi và anh, chúng ta sẽ là những y tá tốt nhất. Anh sẽ phải để ý tới chuyện ăn uống của cô ta, và nhất là đừng để cô ta bị quấy rầy. Nhớ là đừng có ngủ đấy nhé? Cả anh và tôi sẽ ngủ bù sau. Tôi sẽ cố gắng quay trở lại đây trong thời gian sớm nhất, và khi đó chúng ta có thể bắt đầu.
- Có thể bắt đầu? Giáo sư định nói gì vậy?
- Rồi anh sẽ thấy? - Van Helsing vừa nói vừa vội vàng bỏ đi.
Nhưng được một lúc, tôi lại thấy ông mở cửa, thò đầu và giơ ngón trỏ lên bảo tôi :
- Đừng có quên đấy: tôi rất tin tưởng ở anh. Nếu cứ tùy tiện rời khỏi phòng này và để xảy ra chuyện gì đáng tiếc, thì chắc chắn là anh sẽ phải thức thêm nhiều đêm trắng nữa đấy!
* * * * *
Ngày 18 tháng 9
Tôi đã thức suốt đêm và tất nhiên là không dám bỏ ra khỏi phòng bệnh nhân một phút. Đêm xuống, tác dụng của thuốc ngủ không còn nữa, Lucy đã thức tỉnh một cách hoàn toàn tự nhiên. Đó là một cô gái trẻ trung khác hẳn với cô gái mà chúng tôi đã gặp trước lúc truyền máu. Thậm chí trong mắt cô còn ánh lên sự vui vẻ và hoạt bát, mặc dù dấu hiệu của sự mệt mỏi đắm chìm vẫn còn đó. Khi tôi nói với bà Westenra rằng bác sĩ Van Helsing đã bảo tôi phải thức trông nom con bà suốt đêm, bà đã tỏ ý không muốn chấp nhận đề nghị này với lý do rằng con gái bà đã hoàn toàn hồi phục. Tuy nhiên, tôi vẫn không chịu nhượng bộ và tiếp tục chuẩn bị tinh thần thức suốt đêm bên giường Lucy. Khi người hầu phòng làm vệ sinh cá nhân cho cô xong và sau khi vội vàng ăn xong bữa tối, tôi quay trở lại ngồi bên giường cô. Chẳng có ai khác trong phòng. Cứ mối lần chúng tôi nhìn nhau, tôi lại đọc được sự biất ơn trong ánh mắt cô. Tôi có cảm giác như cô đang chìm dần vào giấc ngủ, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được rằng hình như cô đang cưỡng lại giấc ngủ đó. Cô liên tục cố gắng như vậy, và mỗi lần cố gắng là một lần khó nhọc hơn. Rõ ràng là cô không muốn ngủ; tôi buộc phải hỏi cô tại sao.
- Em cảm thấy sợ ngủ quá. - Cô thú nhận.
- Sợ ngủ! Vậy mà chúng tôi, ai cũng coi giấc ngủ như một thứ của cải quý giá nhất đấy!
- Ôi! Chắc là ông sẽ không nói như vậy nếu như ông ở vào địa vị của em...
nếu như trong giấc ngủ ông chỉ gặp toàn những cơn ác mộng khủng khiếp.
- Những cơn ác mộng? Lạy trời, em định nói gì vậy?
- Em không biết, em không biết... Và chính cái không biết ấy lại càng làm em thấy sợ hơn! Cứ nghĩ đến giấc ngủ là em lại thấy rùng mình?
- Nhưng cô bé ạ, đêm nay em có thể ngủ vô tư mà không phải sợ gì cả. Tôi hứa là tôi sẽ ở gần em, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp thôi.
- Ôi! Em tin ở ông, em luôn tin ở ông!
- Ừ, tôi xin hứa rằng nếu nhận ra ở em một dấu hiệu nào đó cho thấy em đang gặp ác mộng, tôi sẽ đánh thức em đậy ngay lập tức.
- Đánh thức em? Ông nói thật đấy chứ? Ôi! Ông tốt với em quái. Nếu vậy thì em sẽ ngủ...
Nói tới đây, Lucy trút một hơi thở thật dài nhẹ nhõm rồi chìm ngay vào giấc ngủ.
Tôi thức trông cô suốt đêm. Cô cứ nằm như vậy với một giấc ngủ thật sâu, thật êm đềm mà không hề có một lần trở mình. Đôi môi cô hơi hé mở với một nụ cười hạnh phúc đọng lại trên gương mặt, ngực cô phập phồng cùng những nhịp thở đều đều như quả lắc đồng hồ. Rõ ràng là không có một giấc mộng khủng khiếp nào quấy rầy sự bình yên trong tinh thần cô.
Người hầu phòng tới gọi cửa từ rất sớm, tôi giao cho bà ta nhiệm vụ tiếp tục chăm sóc cô gái rồi vộĩ vàng quay về dưỡng đường để giải quyết một số việc.
Tôi đánh điện gửi Van Helsing và Arthur để thông báo cho họ biết kết quả tuyệt vời của ca truyền máu. Lúc tôi giải quyết xong các việc riêng cũng là lúc một ngày mới sắp tàn. Tôi chợt nhớ tới Renfield và muốn biết tin tức về hắn. Toàn những tin tốt lành. Hắn vẫn bình yên suất từ đêm hôm qua. Tôi nhận được điện của Van Helsing khi đang ngồi ăn tối; ông đề nghị tôi quay trở lại Hillingham ngay tối nay, bởi ông nghĩ có thể đây sẽ là một việc làm hữu ích. Ông thông báo sẽ trở lại Hillingham vào sáng mai.
* * * * *
Ngày 9 tháng 9
Tôi cảm thấy rất mệt khi đã tới Hillingham.
Sau hai đêm không ngủ, sức tôi đã giảm sút rõ rệt. Ngược lại, Lucy đã có thể đứng dậy được, tính khí của cô cũng ổn định hơn.
Hai tay nắm chặt tay tôi, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, cô nói bằng một giọng xúc động :
- Tối nay ông không cần phải thức nữa đâu. Em xin đảm bảo với ông rằng em đã hoàn toàn bình phục! Nếu như có người cần phải thức, thì người đó phải là em, em sẽ phải thức cho ông ngủ mới phải?
Tôi không muốn làm trái lời cô. Chúng tôi ngồi ăn tối lùng nhau, được ngồi ăn cùng cô quả là một điều thật dễ chịu đối với tôi. Tôi uống liền hai cốc vang Bồ Đào Nha hảo hạng trước khi cùng Lucy lên cầu thang. Cô chỉ cho tôi một căn phòng đang bập bùng ánh lửa hồng bên cạnh phòng cô.
- Đó, ông sẽ nghỉ ở đó. Em sẽ để mở cả hai cánh cửa của hai phòng. Ông sẽ nằm trên ghế trường kỷ... Em biết rằng theo đạo lý, chẳng có một thầy thuốc nào muốn nằm trên giường khi có một bệnh nhân... Ông hãy cứ yên tâm, nếu cần một cái gì đó, em sẽ gọi ông ngay lập tức.
Tôi chỉ còn biết nghe theo lời Lucy, bởi thú thực là tôi cảm thấy mình không còn đủ sức để thức nữa. Mà dù sao thì cô cũng đã hứa với tôi một lần nứa là nếu cần cô ta sẽ gọi tôi kia mà! Nghĩ vậy, tôi yên tâm nằm xuống ghế trường kỷ và chìm sâu vào giấc ngủ ngay sau đó vài phút.


Nhật ký của Lucy Westenra


Ngày 9 tháng 9
Quả là một đêm thật dễ chịu! Những bước chân tự tin đi thơ thẩn trong nhà đã mang lại cho tôi một cảm giác như đang được dạo chơi dưới ánh nắng chan hòa sau một mùa lộng gió đông dưới bầu trời xám xịt ảm đạm. Tôi bỗng thấy Arthur có vẻ như đang rất gần gũi với tôi, gần gũi hơn so với bình thường mà không hiểu tại sao.
Thậm chí tôi còn cảm thấy cả hơi ấm nồng nàn tỏa ra từ người anh. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính bệnh tật và sự yếu đuối của tôi đã khiến anh xích lại gần tôi hơn. Giá như Arthur biết được tôi đang nghĩ gì về anh trong lúc này? Ơn Chúa đã ban cho tôi một giấc ngủ êm đềm đêm hôm qua? Sự có mặt của bác sĩ Seward đã đảm bảo cho giấc ngủ ngon lành của tôi! Và đêm nay tôi cũng sẽ không sợ ngủ, bởi bác sĩ vẫn đang ở đây, nếu cần, tôi chỉ cần tới một tiếng là xong. Tất cả mọi người đều tốt với tôi quá! ơn Chúa? Arthur ơi, chúc anh ngủ ngon!


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 10 tháng 9
Tôi cảm thấy có ai đó vừa đặt tay lên đầu mình, tôi nghĩ ngay ra rằng đó chính là bàn tay của giáo sư và lập tức mở mắt ra. Ỏ bệnh viện, chúng tôi đã quen với kiểu giật mình tỉnh đậy này.
- Thế nào, bệnh nhân của chúng ta sao rồi?
Rất tốt khi tôi rời chỗ cô ấy...
- Tốt. Đi thăm cô ấy đi!
Hai chúng tôi cùng quay sang phòng Lucy.
Bức mành cửa sổ phòng cô đã được hạ xuống từ lúc nào; và để kéo mành lên, tôi phải đi rón rén về phía cửa sổ tìm sợi dây kéo. Trong khi đó, giáo sư cũng hết sức nhẹ nhàng bước về phía giường Lucy.
Khi bức mành được kéo lên, ánh ban mai lập tức ùa vào căn phòng nhỏ. Tôi bỗng giật mình khi nghe thấy tiếng rít kinh ngạc của giáo sư, tim tôi lập tức như thắt lại. Người tôi chết lặng đi khi nghe tiếng kêu nghèn nghẹt của giáo sư lúc ông quay trở ra. Tiếng kêu hoảng sợ của ông, lạy Trời, lạy Đất! đủ để làm cho tôi hiểu ngay ra tình hình thực tế, dù tôi còn chưa kịp nhìn thấy sự đau đớn khổ sở hiện rõ trên gương mặt ông. Ông run run chỉ vào giường. Tôi cảm thấy hai đầu gối mình sắp đổ quỵ đến nơi.
 
Trên giường, Lucy đang nằm như bất tỉnh, nước da tái xám như một xác chết, trông cô yếu hơn bao giờ hết. Đôi môi cô trở lại một màu trắng bệch, hai hàm răng nhe ra như không còn lợi - một cảnh tượng mà chúng ta vẫn thường thấy ở một người đã chết sau quãng thời gian mắc bệnh rất dài. Van Helsing có vẻ rất tức giận, ông định co chân giậm xuống sàn nhưng rồi lại từ từ hạ xuống.
Sau giây lát lo lắng bàng hoàng, ông khẽ bảo tôi, giọng quả quyết :
- Cũng chưa đến nỗi quá muộn. Tim cô ta vẫn còn đập, dù đã rất yếu. Nhưng chúng ta phải bắt tay vào việc ngay.
Bây giờ Arthur không còn ở đây nữa, vì vậy tôi cần phải trông chờ vào sự hào hiệp của anh, anh bạn John ạ?
Giáo sư vừa nói vừa lôi trong túi đồ ra mấy dụng cụ cần cho ca truyền máu; tôi cũng vội vàng cởi áo vét và kéo tay áo sơ mi lên thật cao. Chúng tôi khẩn trương bắt tay vào công việc. Sau vài phút tưởng như dài đến vô tận - quả thực là rất cơ cực khi cảm thấy dòng máu đang chảy ra khỏi các huyết mạch của mình, kể cả khi bạn là một người tình nguyện Van Helsing giơ ngón tay lên cảnh báo tôi :
- Đừng có cử động nữa, phải kiên nhẫn chứ... Nhưng tôi sợ khi sức lực đã hồi phục, cô ta sẽ tỉnh, và như vậy sẽ rất nguy hiểm... Chúng ta cần phải đề phòng. Có khi tôi phải tiêm cho cô ta một liều mooc-phin mới được.
Liều mooc-phin đã nhanh chóng phát huy tác dụng, bởi chúng tôi thấy dường như bệnh nhân của chúng tôi đang chuyển dần dần từ trạng thái hôn mê sang một giấc ngủ tự nhiên. Thú thực là trong lòng tôi đang trào dâng một cảm xúc rất tự hào khi thấy đôi má, rồi đôi môi của cô bắt đầu hồng sắc trở lại.
Giáo sư Van Helsing vẫn đang quan sát tôi.
- Có lẽ như thế là đủ rồi đấy. - Ông nói.
- Đủ rồi? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại. - Hôm nọ, khi Arthur hiến máu, ngài để lâu thế kia mà?
Ông bỗng bật cười, một nụ cười có cái gì đó buồn buồn, rồi trả lời tôi :
- Arthur là chồng chưa cưới của cô gái. Còn anh, anh vẫn còn rất nhiều việc phải làm; anh không phải chỉ có mỗi nhiệm vụ là chăm sóc một mình cô ta, mà còn rất nhiều bệnh nhân khác nữa chứ. Thôi, như vậy là đủ rồi.
Nói xong, ông quay sang chăm sóc cho Lucy, còn tôi phải tự lo cho mình những chăm sóc cần thiết đầu tiên sau ca truyền máu. Tôi nán lại nằm thêm một chút, bởi thú thực là tôi cảm thấy mình hơi bị choáng và yếu hẳn đi. Giáo sư.
Băng vết chích cho tôi rồi khuyên tôi xuống dưới nhà uống một cốc rượu vang cho lại sức. Khi tôi mở cửa chuẩn bị bước ra khỏi phòng, ông bước theo và nói nhỏ vào tai tôi :
- Đừng nói gì với ai đấy nhé! Nếu anh bạn Arthur có. tình cờ tới đây thì anh cũng cứ coi như không có chuyện gì xảy ra. Bỏi điều đó có thể vừa làm anh ta lo lắng, lại vừa làm cho anh ta ghen đấy, chúng ta nên tránh bằng mọi giá! Thôi, xuống đi?
Một lúc sau, khi gặp lại nhau, ông nhìn tôi rất chăm chú.
- Bây giờ, ông bảo tôi anh nên nằm nghỉ đi, khoảng một hai tiếng gì đó cũng được, nằm trên cái trường kỷ ở phòng bên kia kìa! Rồi sau khi ăn trưa căng rốn xong ừ, anh phải ăn cho thật nhiều vào anh sẽ quay lại đây tìm tôi!
Tôi vâng lời ông, bởi tôi biết rằng ông có lý, rằng lời khuyên của ông bao giờ cũng xác đáng. Tôi đã làm cái tôi cần phải làm, và bây giờ việc lấy lại sức cũng là một nhiệm vụ tôi không thể chối bỏ.
Sự suy kiệt đã không ngăn tôi ngạc nhiên về những gì đã xảy ra. Nằm trên trường kỷ mà tôi cứ thắc mắc không hiểu nguyên nhân gì đã khiến Lucy tàn tạ, kiệt cùng đến thế.
Tại sao cô lại mất máu? Tại sao trong phòng cô, hay bất cứ một chỗ nào khác, lại không có một dấu vết gì? Chắc chắn là dù ngủ hay thức, thì những câu hỏi này vẫn cứ lảng vảng trong đầu tôi, bởi tôi biết các suy nghĩ của mình luôn bị ám ảnh bởi hai vết thương nhỏ trên cổ Lucy, hai vết thương rách mép và trong đó không có bất cứ một thực thể nào.
Bệnh nhân của chúng tôi dậy hơi muộn, trông cô có vẻ khá hơn nhiều, song không thể so sánh được với bộ dạng của chính cô tối hôm qua. Tuy nhiên, chỉ cần thấy thế thôi là chúng tôi cũng cảm thấy được an ủi rồi. Sau khi kiểm tra cho cô xong, Van Helsing lui ra tìm một chút không khí ngoài trời. Trước khi rời khỏi phòng, ông vẫn không quên dặn tôi là đừng để cô ấy một mình, cho dù chỉ là một phút. Tôi còn nghe thấy tiếng ông hỏi ai đó ở dưới cầu thang về bất điện tín gần nhất.
Lucy lại hồn nhiên nói chuyện dài dài với tôi, hình như cô vẫn không hề hay biết gì về chuyện vừa xảy ra. Tôi cố gắng làm cho cô vui, cuốn hút cô vào hết chuyện này đến chuyện khác. Và khi mẹ cô bước vào thăm, tôi tin là bà cũng không nhận ra bất cứ một sự thay đổi nào nơi cô.
- Chúng tôi thật chẳng biết làm gì để cảm ơn tất cả những gì mà hai thầy trò đã làm cho chúng tôi? - Bà nói với tôi bằng một giọng biết ơn sâu sắc. - Nhưng bây giờ, anh cũng nên quan tâm tới mình một chút, đừng để mình bị suy kiệt như thế. Trông anh hôm nay xanh quá? Có lẽ anh cũng phải lấy vợ đi, vợ anh sẽ chú ý săn sóc anh, sẽ hết lòng vì anh, theo tôi thì đó là việc anh nên làm trong lúc này đấy?
Lucy bỗng bừng đỏ mặt, các huyết mạch nghèo nàn trong người cô không còn đủ máu để cung cấp cho bộ não. Được một lúc, mặt cô lại dần dần chuyển sang một màu xám ngắt, cô đưa mắt nhìn tôi như cầu khẩn. Tôi mỉm cười gật đầu và đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho cô. Cô thở dài, buông mình nằm xuống gối.
Hai tiếng sau, Van Helsing quay trở lại. Vừa nhìn thấy tôi, ông nói luôn :
- Anh về nhà đi, và nhớ phải ăn uống thật nhiều cho lại sức. Đêm nay tôi sẽ ở lại đây cùng cô bé. Tôi và anh sẽ phải cùng nghiên cứu trường hợp này, song đừng để ai biết việc chúng ta làm đấy nhé. Tôi đã nghĩ tới những nguyên do rất nghiêm trọng, nhưng thôi, tôi sẽ chưa cho anh biết vào lúc này đâu. Anh hãy cứ nghĩ những gì anh đang nghĩ, và đừng có sợ nghĩ tới những điều mà anh cho là không thể nghĩ được. Chúc anh ngủ ngon?
Xuống tới hành lang, có hai người giúp việc chạy tới hỏi tôi rằng họ - hoặc ít nhất là một trong hai người - có thể qua đêm cùng Lucy được không. Họ nài nỉ tôi cho phép họ lên phòng cô. Và khi tôi trả lời rằng giáo sư Van Helsing chỉ muốn một trong hai chúng tôi thức đêm trông nom bệnh nhân thôi, họ đã bật khóc và nhờ tôi nói giùm với “ngài ngoại quốc” ấy. Cử chỉ của họ làm tôi thực sự xúc động, đến nỗi tôi không thể nói lên điều này: họ làm vậy có thể là do nhận thấy tôi đã quá xuống sức, hoặc do muốn tỏ rõ lòng tốt và sự tận tụy của mình đối với Lucy.
Tôi trở về viện tâm thần đúng vào lúc còn kịp cho tôi ăn bữa tối trước khi đi thăm các bệnh nhân của mình tất cả đều ổn. Và bây giờ, tôi đang viết những dòng nhật ký trong khi chờ đợi giấc ngủ. Một giấc ngủ chóng vánh và thật sâu là điều tôi hy vọng sẽ xảy ra.
* * * * *
Ngày 11 tháng 9
Chiều nay, tôi trở lại Hillingham. Lucy có vẻ khá hơn nhiều, khiến cho Van Helsing rất hài lòng. Sau khi tôi đến được một lát thì có người mang cho giáo sư một kiện hàng khá lớn từ nước ngoài gửi tới. Ông vội vàng nhưng cũng rất nhẹ nhàng mở gói hàng ra rồi qúáy sang đưa cho Lucy một bó hoa màu trắng thật to :
- Cho cô đấy, Lucy à!
- Cho tôi? Ôi? Bác sĩ Van Helsing?
- Đúng thế, cô bé thân mến ạ, nhưng không phải là để trang trí cho căn phòng đâu nhé. Là thuốc cả đấy. – Nghe thấy vậy, Lucy chun mũi lại. - Nhưng không phải là để hãm lấy nước hoặc sắc uống với cái vị ghê ghê đâu mà cô phải sợ. Đừng làm bộ như thế kẻo anh chàng Arthur lại cười cho đấy, trông xấu lắm?
Ồ? Đó, cái mũi xinh xắn của cô đã trở lại bình thường rồi đó! Có thế chứ! Đây đúng là thuốc, nhưng cô không cần phải hấp thụ đâu, Tôi sẽ đặt một số bông trên cửa sổ, số còn lại sẽ được kết thành một tràng quàng vào cổ cô để cô có thể ngủ bình yên. Đúng thế, như những bông hoa sen này chẳng hạn, chúng sẽ giúp cô quên đi tất cả. Hương thơm của loài hoa này cũng giống với hương thơm của loại mỹ phẩm Léthé hoặc loại Jouvence mà các nhà thám hiểm châu Mỹ đã tìm thấy ở Florida.
Trong lúc giáo sư thuyết giảng, Lucy cứ ngồi yên ngắm nhìn bó hoa rồi đưa lên mũi ngửi. Cô bỗng bật cười và đẩy bó hoa ra xa, tiếng cười của cô có một cái gì đó như không vừa lòng.
Ôi! Giáo sư, chắc là giáo sư đang giễu tôi đấy thôi! Đây mà cũng gọi là hoa ư? Tôi thấy nó có khác gì mùi tỏi đâu.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Van Helsing đứng bật dậy rồi cau mày đáp lại lời cô gái :
- Tôi chưa bao giờ giễu cợt ai, chưa bao giờ! Tất cả những gì tôi đã làm đều được làm với một thái độ nghiêm túc nhất. Và tôi muốn rằng cô không được làm trái với các ý định của tôi, cũng như các biện pháp mà tôi muốn sử dụng. Cô hãy nhớ lấy, nếu không phải vì lợi ích của riêng cô thì hãy vì lợi ích của những người đang hết lòng thương yêu cô!
Nhưng trước vẻ sợ hãi lộ rõ trên nét mặt cô gái, ông buộc phải hạ giọng xuống :
- Ôi! Cô gái bé bỏng của tôi ạ, không việc gì mà phải sợ cả! Tất cả những gì tôi muốn nói với cô đều là tốt cho cô. Tất cả những bông hoa trong bó hoa này đều mang một đặc tính có thể chữa bệnh cho cô? Cô hãy trông đây này! Chính tôi sẽ đặt bó hoa này vào trong phòng cô, chính tôi sẽ kết một tràng hoa đeo vào cổ cô. Nhưng, suỵt! Cô đừng nói gì với ai, và cũng đừng trả lời câu hỏi của bất cứ ai nếu họ hỏi cô về điều này nhé. Điều mà cô cần phải làm là nghe lời và im lặng. Nếu biết nghe lời, cô sẽ nhanh chóng bình phục và cũng sẽ nhanh được trở lại với vòng tay của người đang chờ đợi cô hơn! Bây giờ cô cứ yên tâm mà nghỉ đi! Nào, anh bạn John, giúp tôi cắm mấy bông hoa này vào trong phòng đi, toàn là hoa tôi đặt ở Harlem đấy. Ông bạn Vanderpool của tôi đã phải chăm chút từ đầu năm đến cuối năm mới có được những bông hoa trong nhà kính này. Hôm qua tôi đã đánh điện bảo ông ta gửi tới đây.
Và hai chúng tôi đã cùng nhau lúi húi cắm các đóa hoa vào trong phòng của Lucy. Tất cả những gì vị giáo sư đã làm rõ ràng là rất khác thường và hoàn toàn xa lạ với dược hiển hiện có. Trước hết, ông cẩn thận đóng tất cả các cánh cửa sổ lại cho thật chắc để không ai có thể mở la. Sau đó, ông lấy mấy cành hoa quét đi quét lại trên các khung cửa sổ, dường như ông muốn bất cứ một luồng không khí nào, dù là nhỏ nhất, khi len lỏi qua các khe cửa cũng bị nhiễm một mùi như mùi tỏi của các đóa hoa. Cuối cùng, ông cũng làm như vậy đối với khung cửa ra vào. Tốt nhiên là ông không quên đặt bó hoa vào hòm lò sưởi trong phòng.
Tôi cứ thắc mắc hoài không hiểu ông làm như vậy là vì mục đích gì.
- Thưa giáo sư, tôi nói khi không chịu được nữa dù vẫn biết rằng tất cả những gì giáo sư đã làm đều có một lý do xác đáng, nhưng quả thực lần này thì tôi không hiểu. Nhìn những gì giáo sư đang làm, tôi tin chắc giáo sư đang chuẩn bị một thứ bùa ngải ngăn chặn một linh hồn ma quái nào đó định xâm nhập vào căn phòng này.
- Nghe hay đấy! Ừ, cũng có thể là như vậy. - Ông thản nhiên trả lời tôi trong khi tay đang bận tết tràng hoa.
Chúng tôi nóng lòng chờ đợi Lucy đi vào giấc ngủ, và khi bà giúp việc đến nói cho chúng tôi biết cô đã lên giường, Van Helsing bèn đích thân sang quàng tràng hoa vào cổ cô.
- Chú ý nhé? Nhớ giữ tràng hoa cho thật cẩn thận và với bất cứ một lý do nào, kể cả khi cảm thấy khó chịu vì các cánh cửa đã bị đóng kín, cô cũng chớ có mở ra đấy, nghe chưa!
- Cháu xin hứa với giáo sư như vậy. - Lucy đáp lời - Xin ngàn lần cảm ơn lòng tốt của hai thầy trò giáo sư? Ôi! Tôi đâu đã làm được gì mà Chúa lại mang tới cho tôi những tình bạn cao cả và đáng quý đến vậy?
Khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà, Van Helsing bảo tôi :
- Cuối cùng thì đêm nay tôi cũng có thể ngủ yên được rồi, sao tôi thèm ngủ đến thế không biết! Hai đêm trên đường đi rồi một ngày đọc sách nghiên cứu, bao nỗi âu lo khi trở lại đây, và còn thêm một đêm thức trắng không hề được chợp mắt một giây nữa chứ, như thế là đủ rồi! Sớm mai anh gọi tôi dậy nhé, chúng ta sẽ cùng nhau quay lại thăm cô bạn nhỏ khỏe khoắn hơn nhờ thứ “bùa” kỳ diệu của tôi. Ha! Ha!
Trước niềm tin có vẻ như không thể lay chuyển của ông, tôi bỗng nhớ lại những gì đã xảy ra hai đêm trước để rồi tôi phải hứng chịu một nỗi thất vọng ghê gớm. Tôi bắt đầu nghi ngờ về một điều tồi tệ nhất có thể xảy ra nhưng không dám thú nhận với ông.

Chương 11

Nhật ký của Lucy Wec


Ngày 12 tháng 9
Tất cả những người xung quanh tôi đều tốt với tôi quá!
Tôi rất quý ông bác sĩ già Van Helsing ấy, nhưng chỉ có điều là không hiểu tại sao ông cứ nhất thiết phải đặt những bông hoa như vậy. Quả thực ông đã làm tôi sợ ông có vẻ hơi độc đoán! Tuy nhiên, hẳn là ông phải có lý của ông, bởi bây giờ tôi đã cảm thấy trong người khỏe khoắn và nhẹ nhõm hơn. Buổi tối, tôi đã ngủ thật yên giấc và không còn sợ ở một mình nữa. Tiếng vỗ cánh cửa chim thú đập vào cửa kính cũng không còn là vấn đề đối với tôi. Ôi! Vậy là tôi không còn phải nghĩ đến chuyện ra sức cưỡng lại giấc ngủ như trước? Xin chào từ biệt nỗi cơ cực của những đêm chống lại cơn buồn ngủ, chào nỗi sợ chìm vào giấc ngủ cùng những cơn ác mộng đổ lên người tôi! Thật là hạnh phúc cho những người không sợ ai, không nghi ngờ điều gì bao giờ, những người hễ đặt lưng là chìm vào giấc ngủ bình yên với những giấc mơ êm dịu! Thật là hạnh phúc? Tối nay tôi cũng sẽ như họ, tôi sẽ gọi giấc ngủ đến với mình, tôi hy vọng mình sẽ đi ngay vào giấc ngủ! Tôi không biết rằng mùi tỏi lại có thể đem tới sự dễ chịu - trái lại... Cái mùi đã dịu đi của nó... Tôi cảm thấy mình đang thiếp đi. Chúc mọi người ngủ ngon...


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 13 tháng 9
Tới Berkeley, tôi thấy Van Helsing đã đứng đợi tôi từ lúc nào. Chiếc xe do khách sạn gọi hộ chúng tôi đang đậu ở trước cửa. Như thường lệ, hôm nay ông cũng mang theo chiếc túi đựng đồ lề.
Chúng tôi tới Hillingham vào khoảng 8 giờ. Một buổi sáng rạng rỡ ánh mặt trời mùa thu đang đón chào chúng tôi. Các tán lá đủ màu sắc vẫn e lệ lấp ló trên những hàng cây như chưa muốn buông rơi trước những cơn gió đầu thu mát lạnh.
Tới hành lang, chúng tôi gặp bà Westenra. Như thường lệ, bà luôn dậy từ rất sớm. Bà đón chúng tôi bằng một giọng rất hồ hởi :
- Hẳn các ngài sẽ rất vui khi biết tình hình của Lucy đã khá hơn nhiều! Tôi vừa hé cửa ra nhòm vào, nó vẫn đang, ngủ, tôi không dám vào vì sợ làm nó tỉnh giấc.
Giáo sư mỉm cười, rõ ràng là ông đang rất sung sướng. Một lát sau ông mới xoa tay nói :
- Hay! Chẩn đoán của tôi thế mà đúng! Vậy là phương pháp điều trị đã mang lại kết quả.
Bà Westenra cũng góp thêm lời :
- Sức khỏe của cơn gái tôi khá lên không phải chỉ do cách điều trị của ông đâu nhé. Nếu như Lucy có được một thể trạng khỏe khoắn như sáng nay, thì một phần cũng là nhờ công của tôi đấy.
- Bà muốn nói gì vậy, thưa bà?
- Có gì đâu! Tối qua, tự nhiên cảm thấy lo, tôi đã mò sang phòng con bé. Nó ngủ say đến nỗi tôi bước vào phòng mà nó vẫn không hề biết. Căn phòng thiếu không khí quá. Ai lại đóng kín mít phòng lại như thế bao giờ. Mà không hiểu con bé đã thưa ở đâu về toàn những bông hoa có cái mùi ghê thế không biết. Nó lại còn quấn hoa xung quanh cổ nữa chứ! Thật không thể nào chịu nổi! Nhìn cái thể trạng nhợt nhạt của nó, tôi thấy để mấy bông hoa ấy ở trong phòng là không ổn nên đã bỏ hết đi trước khi mở hé cửa sổ ra cho thoáng. Tôi tin chắc ông sẽ rất hài lòng về tình hình sức khỏe của con bé.
Nói chưa dứt lời, bà tủm tỉm bỏ sang phòng khác, nơi bà vẫn quen ngồi ăn sáng một mình. Trong lúc người đàn bà tội nghiệp này luyên thuyên kể về công trạng của mình, tôi quay sang quan sát thái độ của giáo sư: nét mặt ông càng lúc càng tái dại hẳn đi. Tuy nhiên, đứng trước bà chủ nhà vô tội, ông vẫn cố mỉm cười giữ cửa cho bà đi về phòng khách. Nhưng khi bà vừa khuất bóng, ông lập tức đẩy tôi vào phòng ăn rồi đóng sập cửa lại.
Quả thực đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy Van Helsing có những dấu hiệu mất can đảm như vậy. Ông giơ tay lên trời như muốn nói rằng mọi dự tính của ông từ lúc này trở đi sẽ chỉ là vô ích. Cuối cùng, ông buông người đổ vật xuống ghế, hai tay ôm mặt mà khóc. Vâng, ông đã khóc. Tiếng thổn thức của ông dường như được trào ra từ một cõi lòng tan nát, bất lực. Rồi ông lại giơ tay lên như muốn được thanh minh trước thế giới này.
- Chúa ơi! - Ông than thở trong tiếng thổn thức ấm ức - Chúng con đã làm gì, cô bé tội nghiệp ấy đã làm gì để đến nông nỗi này? Chẳng lẽ số phận lại cay nghiệt đến vậy ư? Người mẹ tội nghiệp vô tội ấy, chỉ vì những ý định tốt đẹp cho con gái mình, đã tình cờ đẩy linh hồn và thể xác cô bé vào chỗ nguy hiểm mà không biết. Nhưng chúng con lại không thể nói sự thật cho người phụ nữ ấy, bởi bà ta đang sống dở chết dở, cái chết của bà ta cũng đồng nghĩa với cái chết của đứa con gái. Ôi! Tại sao chúng con lại rơi vào cảnh ngộ như thế này, Chúa ơi?
Nhưng rồi ông bỗng đứng bật dậy bảo tôi bằng một giọng khác hẳn :
- Lại đây, chúng ta phải làm một cái gì đó mới được! Cho dù đó là một con quỷ, hay cả một bầy quỷ hùa nhau lại đây chống lại chúng ta thì cũng vậy thôi... Chúng ta sẽ chiến đấu sẽ đánh tan tát cả...
Ông chạy nhanh ra cửa lấy túi đồ rồi kéo tôi chạy lên phòng Lucy.
Cũng như lần trước, tôi bước ra kéo rèm cửa trong lúc Van Helsing hồi hộp bước lại giường cô gái. Song lần này ông không còn ngạc nhiên khi trông thấy một màu xám ngoét trên khuôn mặt của bệnh nhân. Trên mặt ông chỉ còn lại một nỗi buồn thê thảm lẫn nỗi lòng thương hại khôn cùng đối với cô gái.
- Tôi sẽ chờ ở đây! - Ông lẩm bẩm, giọng như rít lên.
Không nói thêm một lời, ông hối hả chạy ra khóa trái cửa chuẩn bị cho ca truyền máu thứ ba. Nhìn sự khẩn trương của ông, tôi tự giác cởi áo vét ra. Tuy nhiên, Van Helsing đã khoát tay ra hiệu dừng lại.
- Không được! - Ông nói. - Hôm nay anh sẽ là người thao tác, còn tôi là người hiến máu. Trông anh tiều tụy lắm rồi.
Vừa nói, ông vừa cởi phăng chiếc áo rét ra trước khi kéo cao tay áo sơ mi lên.
Lại truyền máu, lại tiêm thuốc an thần, và lại một lần nữa đôi má Lucy dần dần ửng hồng, hơi thở của cô đều đều trở lại trong lồng ngực không còn sức sống. Giấc ngủ của cô lúc này đích thực là một giấc ngủ tự nhiên. Và lần này đến lượt tôi trông nom cho cô, trong khi Van Helsing tranh thủ nằm nghỉ cho lại sức.
Trong cuộc nói chuyện sau đó với bà Westenra, giáo sư đã buộc phải nói cho bà hiểu rằng bà đừng bao giờ vứt bỏ bất cứ một thứ gì bày trong phòng Lucy khi chưa nói với ông, rằng những bông hoa đặt trong phòng có tác dụng chứa bệnh, và rằng phương pháp điều trị mà ông đang thực hiện đối với Lucy có cả phần hấp thụ hương thơm của những bông hoa này. Sau đó, ông bảo ông muốn tận mắt chứng kiến sự tiến triển trong thể trạng của bệnh nhân, và ông sẽ ở lại hai đêm nữa bên giường của cô.
Khoảng hai tiếng sau, Lucy tỉnh giấc, trông cô tươi như một đóa hồng. Nói tóm lại, dường như cô không hề cảm thấy mình vừa thoát khỏi một cơn nguy kịch.
Không hiểu cô đang mắc bệnh gì? Do sống quá nhiều với các bệnh nhân tâm thần, tôi bỗng giật mình tự hỏi không biết mình có điên hay không.


Nhật ký của Lucy Westenra


Ngày 17 tháng 9
Bốn ngày đêm bình yên - vâng, đã bốn ngày đêm trôi qua bình yên đến tuyệt đối! Tôi cảm thấy đã đủ sức để nhận ra chính mình. Tôi còn cảm tưởng như mình vừa trải qua một cơn ác mộng dài, rất dài để rồi được thức dậy trong một căn phòng chan hòa ánh nắng dưới cái không khí mát rượi của buổi sáng. Tôi bỗng nhớ, nhớ rất mơ hồ những kỷ niệm tăm tối, tuyệt vọng trong cảnh khốn cùng, sau đó là những lúc dài quên lãng. Còn một cảm giác nữa: tôi thấy mình đang vươn lên bề mặt của cuộc sống, giống như một người thợ lặn ngoi lên khỏi một vực thẳm ngột ngạt. Thực lòng mà nói, từ khi bác sĩ Van Helsing tới đây, mọi cơn mê khủng khiếp đối với tôi đều trở thành những chuyện xưa cũ Những âm thanh từng làm tôi hoảng hốt - tiếng chim thú đập cánh vào cửa kính chẳng hạn, hay những tiếng nói từ cõi xa xôi vọng về mỗi lúc một gần, rồi những tiếng gọi như ra lệnh cho tôi không biết từ đâu vọng tới - đã không còn xuất hiện trở lại. Bây giờ tôi cũng đã mất đi cảm giác sợ ngủ, vì thế tôi không cần phải ra sức giữ cho mình phải thức. Và đặc biệt là những bông hoa có mùi tỏi kia đã làm tôi thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngày nào tôi cũng nhận được một thùng hoa từ Harlem gửi tới. Tối nay, bác sĩ Van Helsing tạm biệt tôi, ông phải về Amsterdam một ngày. Nhưng cảm giác khỏe khoắn, thoải mái trong người đã mang lại cho tôi một sự tự tin thực sự để có thể ở trong phòng một mình. Tôi mang ơn Chúa khi nghĩ tới mẹ tôi, tới Arthur thân yêu của tôi và những người bạn đã hết lòng vì chúng tôi? Cho dù có người trông nom tôi hay không thì tôi vẫn thấy không có gì khác biệt nữa, bởi vì tối hôm trước, trong hai lần thức giấc, tôi đều thấy giáo sư đang nằm ngủ trên trường kỷ, Và mặc dù vậy, tôi vẫn không cả thấy sợ chìm vào một giấc ngủ mới. Trong khi đó, không hiểu là các cành cây hay lũ rơi bay ngoài cửa sổ thỉnh thoảng lại đập lộp bộp vào các ô kính cửa sổ như đang tức giận.
“Pall Mall Gazette”, 18 tháng 9
 
Con sói trốn mất
Cuộc phiêu lưu mạo hiểm của một nhà báo phỏng vấn người gác vườn bách thú


Sau rất nhiều nỗ lực vô ích, và lần nào tôi cũng thích nhắc tới các từ Pall Mall Gazette như một thứ bùa may mắn, cuối cùng thì tôi cũng tìm được người trông coi khu vực dành cho chó sói trong vườn bách thú. Thomas Bilder trú ở một trong những lô nhà gần với khu chuồng voi. Tôi đến nhà ông đúng vào lúc ông đang ngồi uống trà. Ông và vợ ông tỏ ra rất mến khách. Hai vợ chồng đều đã luống tuổi, không có con và theo tôi nghĩ họ hẳn phải có một cuộc sống khá tiện nghi. Người gác vườn thú từ chối “nói chuyện công việc” khi chưa xong bữa như ông đã nói và tốt nhiên là tôi không định làm trái ý ông.
Dọn sạch bàn ăn, ông chậm rãi châm tẩu rồi mới bảo tôi :
- Bây giờ thì tôi có thể ngồi nghe được rồi, ông có thể hỏi tất cả những gì ông muốn! Xin lỗi vì đã không định nói với ông về chuyện nghề nghiệp khi chưa xong bữa ăn, nhưng cũng như lũ chó sói, chó rừng và linh cẩu thôi, tôi thường cho chúng ăn trước khi vặn vẹo chúng đủ điều.
- Sao cơ, ông cũng hỏi được chúng kia à? - Tôi hỏi cất để gợi chuyện ông chủ nhà.
- Hoặc là tôi gõ một gậy vào đầu chúng, hoặc là tôi gãi vào tai chúng để làm đẹp lòng những gã thanh niên mang người đẹp tới đây làm trò sau khi đã bỏ ra mấy đồng xu? Tính tôi không thích quấy rầy chúng trước khi cho chúng ăn, nhưng thực tình mà nói, tôi cũng thích cho chúng dùng tạm một tí chút cà phê hoặc chút rượu nhẹ trước khi cào vào tai chúng, ông hiểu những gì tôi nói chứ? Ông thử nghĩ mà xem ông nói như một triết gia - giữa lũ thú vật và chúng ta cũng có nhiều điểm giống nhau đấy chứ. Ông tới đây là để hỏi về nghề của tôi chứ gì? Nói thật nhé, nếu như không phải là ông còn trẻ thì chắc là tôi đã tống cổ ông ra khỏi cửa từ lâu rồi, chứ đừng hòng chờ đợi ở tôi một câu trả lời? Bây giờ, cũng như lũ cọp beo và chó sói ngoài kia, sau khi đã chén sạch khẩu phần ăn mà bà già tốt bụng đã dọn để được ngồi uống trà và ngậm tẩu như thế này, ông có thể gãi tai tôi tùy thích, tôi sẽ không còn khó chịu nữa đâu. Nào, bắt đầu đi. Hỏi đi! Tôi đang đợi đây? Tôi biết tỏng là ông đang định hỏi về con sói vừa bỏ trốn rồi.
- Đúng thế. Quả thật là tôi đang định hỏi xem ông nghĩ gì về việc này. Ông làm ơn kể cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào đi. Một khi ông đã kể cho tôi mọi tình tiết, tôi sẽ hỏi ông tại sao, theo ông, con thú này lại có thể trốn thoát như vậy và rồi mọi chuyện sau này kết thúc ra sao?
- Được thôi, thưa ông chủ. Nếu ông hỏi thì tôi cũng sẽ cho ông biết thôi. Con sói mà chúng tôi đặt tên là Bersicker ấy được chúng tôi bỏ tiền mua cùng với hai con khác cách đây bốn năm. Đó là một con vật từng được dạy dỗ rất chu đáo nên nó chưa bao giờ gây phiền toái cho chúng tội. Ấy vậy mà nó đã bỏ trốn! Đó là điều khiến tôi rất ngạc nhiên. Nhưng ông thấy đấy, rõ ràng là người ta không thể tin ở lũ chó sói như đã tin ở những người đàn bà được.
- Đừng có nghe lão ấy, thưa ông! - Bà Bilder vừa cười vừa nói với tôi. - Đã từ lâu lắm rồi, lúc nào tôi cũng thấy lão đâm đầu vào lũ thú vật ấy, đến nỗi có lúc tôi tưởng lão cũng đã biến thành một con sói già rồi cơ đấy! Nhưng ông biết đấy, lão không nguy hiểm chút nào đâu!
- “Ừ, ông chủ ạ, khoảng hai giờ chiều hôm qua, khi cho lũ thú vật ấy ăn, tôi chợt nhận ra một điều gì đó không bình thường. Lúc đến chỗ khu chuồng khỉ để trải đệm rơm cho một con báo sư tử đang bị ốm, tôi bỗng nghe thấy một chuỗi những tiếng tru man rợ. Tôi lập tức tìm đến xem đã xảy ra chuyện gì. Thì ra đó chính là tiếng gào thét của Bersicker. Con vật đang lồng lộn như điên dại, nó liên tục lao vào các thanh trấn song như muốn thoát ra ngoài. Lúc ấy không có nhiều khách tới tham quan, và ở gần chuồng Bersicker chỉ có một người - một gã đàn ông cao lớn, người mảnh dẻ, mũi dài và khoằm, chòm râu dài và có một vài sợi bạc trắng. Cái nhìn của lão thật tàn nhẫn và lạnh lùng, đôi mắt lão sang quắc lên như có ánh lửa. Trông thấy lão, tôi chỉ muốn đuổi đi ngay, bởi hình như con vật trong chuồng đang nỗi cơn điên vì sự có mặt của lão. Lão đeo đôi găng tay da màu trắng. Trông thấy tôi đến gần, lão chỉ tay vào con sói và hỏi :
- “Ông gác vườn này, ông có tin là có một cái gì đó đang làm mấy con vật này bị kích động không?”
- “Có lẽ là do ông đấy” - Tôi trả lời, bởi cử chỉ của lão đã thực sự làm tôi thấy khó chịu.
Thay vì nổi khùng lên như tôi nghĩ, lão bật cười sằng sặc, một nụ cười vừa ngạo mạn lại vừa quái gở, để nhe ra hai hàm răng trắng ởn, nhọn hoắt.
- “Ồ, không đâu” - Lão nhăn nhở đáp lại - “lũ thú vật này không thấy tôi hợp với khẩu vị của chúng đâu!”
- “Ồ. Có đấy, chúng đang khoái khẩu với mùi thịt của ông đấy. Vào cái giờ này, chúng rất muốn gặm một vài cái xương còm cho đỡ ngứa răng, và khi thấy ông...”
Có một điều thật lạ là khi trông thấy chúng tôi đứng nói chuyện, lũ chó sói bỗng im hẳn và khi tôi bước lại gần, con Bersicker vẫn để cho tôi vuốt ve nó như thường lệ. Nhưng ngay cả lão già kia cũng làm được như thế đối với con sói già mới chết chứ!
- “Cẩn thận”, - Tôi nhắc lão - “con Bersicker này dữ lắm đấy!”
- “Sợ gì chứ”, - Lão đáp lại - “lũ chó sói và tôi biết nhau hết mà?”
- “Thế à! Ông cũng có nghề giữ chó sói à?” - Tôi ngạc nhiên hỏi lại, bởi tôi luôn coi những ai làm nghề trông giữ chó sói, tức là những ông chủ, là bạn mình.
- “Không, không phải như vậy”, - Lão giải thích – “Không phải, tôi không giữ chó sói bao giờ... nhưng nói cho cùng, đôi khi cũng có một vài con có quan hệ khá thân thiết với tôi”.
Nói tới đây, lão bỏ mũ cúi chào với điệu bộ giống y như điệu bộ của một nhà quý tộc rồi bỏ đi.
Con sói già Bersicker đứng ngây ra trông theo lão cho tới khi lão già quái lạ ấy khuất bóng. Sau đó, nó lầm lũi đi vào góc chuồng và nằm lì ở đó suốt cả buổi tối. Nhưng thật kỳ lạ, khi ánh trăng vừa xuất hiện cũng là khi bầy sói lại bắt đầu thi nhau gào thét ầm ĩ mà không rõ nguyên do gì ở quanh đó chỉ có một bóng người đang lấp ló gọi một con chó nhà đằng sau mấy vườn hoa ở đại lộ Park.
Cũng có một hai lần tôi quay trở lại thăm lũ thú vật, nhưng khi ấy chẳng có chuyện bất thường nào xảy ra... Thế rồi bỗng nhiên, cả lũ đều im bặt... Sau đấy, trước nửa đêm khoảng vài phút, tôi lại quyết định quay trở lại kiểm tra chúng một lần nữa trước khi đi ngủ, và khi đến chuồng con sói già Bersicker, tôi đã giật mình vì nhận thấy các chấn song xung quanh chuồng bị vặn xoắn hoặc bị gãy ở một vài chỗ... và dĩ nhiên là trong chuồng chẳng còn gì cả! Đó là tất cả những gì tôi được biết, ông bạn ạ!”
- Thế ông có thấy ai đáng chú ý tối hôm ấy không?
- Cũng vào khoảng nửa đêm, trên đường trở về sau khi chia tay đội kèn, một người lính của chúng tôi chợt trông thấy một con chó sói lớn lông xám xịt bất ngờ lao ra khỏi một bờ rào. Nói gì thì nói, đó cũng chỉ là lời kể, còn tôi thì tôi không tin cho lắm, bởi khi về tới nhà, anh ta đã chẳng thèm kể cho cô vợ nghe lấy một câu, chỉ khi biết con sói già biến mất khiến chúng tôi phải lục xục tìm kiếm cả đêm, anh ta mới mở mồm kể chuyện. Theo tôi, có lẽ anh ta đã bị rối loạn đầu óc vì dư âm inh ỏi của những tiếng kèn đồng.
- Ông Bilder ạ, bây giờ ông có thể nói cho tôi biết tại sao, theo ý ông, con sói ấy lại bỏ trốn được không?
- Được chứ, tôi tin là có thể lý giải được. - Người gác vườn trả lời bằng một vẻ khiêm tốn. - Nhưng chỉ có điều tôi không biết lời giải thích của tôi cỏ đủ để làm ông hài lòng không thôi.
- Không sao, ông bạn ạ, cứ yên tâm đi? Nếu như ông, người biết rất rõ về tập tính của các con vật, không thể khẳng định được chính xác những gì đã xảy ra, thì xin hãy cứ nói đúng sự thật, được chứ?
- Xin nghe ông vậy? Thế này nhé: theo tôi nghĩ, con sói đã bỏ trốn... đơn giản chỉ là vì nó muốn về với bầu trời tự do.
Sau lời nói đùa ấy, cả Thomas và bà vợ cùng bật cười sặc sụa. Tôi hiểu đây không phải là lần đầu tiên ông già tốt bụng này làm như vậy. Tôi dùng cách khác mà tôi cho là hiệu quả hơn để moi tin ở ông.
- Thôi được, ông Bilder, như thế này vậy nhé, chúng ta cứ coi như đồng nửa bảng mà tôi vừa đưa cho ông đã thanh toán hết những gì xứng đáng với giá trị của nó, còn đây là nửa bảng nữa đang chờ đợi ông một khi ông chịu nói ra những gì ông có thể nói. Nào, theo ông nghĩ thì câu chuyện kết thúc như thế nào?
- Tuyệt! Ông bạn ạ, hy vọng là ông sẽ không cố chấp, nhưng lúc nãy, bà già này đã nháy mắt ra hiệu cho tôi khiến tôi phải...
- Tôi? Ông đừng phát ngôn bừa bãi như vậy? - Bà vợ phản đối.
- Thú thực nhé, tôi tin là con sói ấy đang trốn ở đâu đó. Thằng lính ấy bảo con vật đã phi như hóa dại về phía bắc, nó phi còn nhanh hơn cả ngựa. Tôi thì tôi không tin, bởi ông thấy đấy, lũ sói có khi chạy còn chậm hơn cả giống chó nhà ấy chứ. Thằng nhóc đó chỉ ăn nói bậy bạ. Giống chó sói có thể là những tạo hóa gây nhiều chuyện ghê người trong các cuốn truyện hoang đường, khi chúng bu lại với nhau để đuổi bắt một con vật yếu ớt nào đó. Nhưng cũng may có Chúa rủ lòng thương? Trong cuộc sống, lũ sói thậm chí còn kém cỏi hơn cả một con chó nhà: chúng ngu ngốc hơn và cũng kém liều lĩnh hơn nhiều. Con Bersicker ấy, vốn không được huấn luyện về cách cắn xé nhau hoặc cách bắt mồi, chắc bây giờ cũng chỉ đang loanh quanh ở đâu đó trong vườn bách thú này để chờ chết đói thôi. Cũng có thể là nó đang chui vào một hầm than nào đó ở xa hơn. Hoặc thế này nữa, có thể là do chẳng tìm thấy gì ăn, nó đã tới rình mò ở một cửa hàng bán thịt... và vậy đấy! Nếu không thì nó cũng bị tống vào hòm xe của một ông lính nào rồi. Chuyện này nếu xảy ra cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên, bởi ở đây đâu có vắng người. Đó, tôi thấy câu chuyện có thể có kết cục như vậy đó.
Tôi đang đưa cho ông già đồng nửa bảng như đã mặc cả thì có một cái gì đó bất ngờ xuất hiện ngoài sổ và đập bộp vào ô kính. Bộ mặt của ông già Bilder vốn đã dài lại càng dài hơn vì kinh ngạc.
- Lạy Chúa? - Ông thốt lên - Kia không phải con sói già Bersicker trở về thì còn là giống gì nữa?
Ông già đứng bật dậy ra mở cửa - một việc làm theo tôi nghĩ là vô ích. Tôi luôn cho rằng một con thú hoang chẳng bao giờ chịu đứng một chỗ khi nó nhận ra một chướng ngại vật ngăn cách giữa nó và chúng tôi. Kinh nghiệm đã giúp tôi khẳng định sự đúng đắn của ý nghĩ này.
Quả là ông già Bllder và bà vợ đã không hề sợ chó sói như tôi vẫn sợ chó nhà. Trái với dự đoán của tôi, con vật vẫn đứng yên ngoài cửa với một vẻ dịu hiền đến ngạc nhiên. Nó ngoan ngoãn đến mức khiến tôi phải nhớ lại ông tổ của nó trong câu câu chuyện cổ tích Cô bé quàng khăn đỏ lúc chưa lộ rõ bộ mặt thật.
Cảnh trở về tổ ấm của nó có một cái gì đó vừa khôi hài lại vừa cảm động mà tôi không sao diễn tả được. Con sói độc ác từng làm cho cả thành Luân Đôn phải lo sợ suốt gần một ngày trời là thế bỗng dưng lại xuất hiện ngay trước mặt chúng tôi với một vẻ khác hẳn. Ông già Bilder sốt sắng kiểm tra từ đầu xuống chân con vật rồi gào lên :
- Biết ngay mà, tôi biết là thế nào con vật này cũng gặp phiền toái mà; từ hôm qua tới giờ tôi đã chẳng bảo thế là gì? Nhìn mõm nó này, rách hết cả rồi, lại còn vẫn dính đầy mảnh thủy tinh nữa chứ! Chắc chắn là nó định lao qua một bức tường nào đó rồi. Thật xấu hổ cho nhà nào cứ thích cắm mảnh chai lên tường? Ông thấy chưa, tệ hại thế đấy... Lại đây đi, Bersicker...
Ổng già nhẹ nhàng lôi con vật vào trong một ngăn chuồng rồi khóa cửa lại.
Ông không quên quẳng cho nó một tảng thịt trước khi tìm đến nhà ông tổ trưởng báo cáo về sự trở về của con vật.
 
Nhật ký của bác sĩ Seward

Ngày 17 tháng 9
Ăn tối xong, tôi quay về phòng, định bụng sẽ lên lịch cho những ngày làm việc tiếp theo. Bất thình lình, cánh cửa phòng tôi bỗng bật mở, tiếp đó là sự xuất hiện đường đột của Renfield: hắn lao thẳng về phía tôi với bộ mặt thật hung tợn. Tôi sững sờ đứng nhìn, bởi một bệnh nhân bất ngờ đến tìm bác sĩ trưởng mà không xin phép ai là một việc làm rất ít khi xảy ra ở đây. Tay hắn lăm lăm một con dao sáng loáng. Tôi ý thức ngay được rằng trong cơn điên, hắn có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vậy tôi phải cảnh giác lùi lại, định bụng sẽ lấy cái bàn gỗ làm chướng ngại vật ngăn cách hắn với tôi. Nhưng hắn đã nhanh hơn tôi, trước khi tôi kịp lấy lại thăng bằng, hắn đã vung tay chém tôi một nhát khá sâu vào cổ tay trái. Tuy nhiên, không để hắn vung dao lên lần thứ hai, tôi lập tức lao vào đẩy hắn ngã ngửa xuống sàn nhà. Máu từ vết thương ở tay tôi chảy túa ra thành một vũng nhỏ trên tấm thảm. Renfield vẫn nằm im, dường như không định tấn công lần nữa. Tới lúc đó tôi mới có thời gian băng bó vết thương trong khi mắt vẫn không rời khỏi gã bệnh nhân. Khi mấy tay giám thị tới, chúng tôi mới xúm lại xốc hắn dậy và đẩy hắn trở về phòng, song hắn đã giãy nảy lên và quay ngoắt lại để làm một việc khiến tôi một lần nữa phải kinh ngạc: hắn bò sát xuống sàn nhà giống như điệu bộ của một con chó, và lè lưỡi liếm sạch các vết máu vừa chảy xuống từ vết thương của tôi. Hắn vừa liếm láp vừa luôn mồm lải nhải mãi một câu: “Máu là cuộc sống? Máu là cuộc sống!”
Đúng ra là tôi không được phép sơ ý để mất những giọt máu này mới phải, cho dù chỉ là một giọt. Những ngày qua, tôi cho máu như thế là đủ lắm rồi, biết đâu Lucy lại bị mất máu một lần nữa thì sao? Tôi không thể làm hơn được nữa, dường như tôi đang sắp lâm vào cảnh kiệt quệ nếu như tôi không được nghỉ một đêm. Ôi! Ngủ? Sao tôi muốn ngủ thế không biết! Cũng may là Van Helsing đã không cho gọi tôi, vậy là tôi có thể ngủ dài dài được rồi.


Điện của Van Helsing, Anvers gửi Seward, Carfax


Ngày 17 tháng 9
Tối nay, nhớ phải trở lại Hillingham. Nếu không thức suất được, thì cũng nên thường xuyên vào phòng cô ấy xem mấy bông hoa còn được đặt đúng chỗ không. Rất hệ trọng. Khi tới Luân Đôn, tôi sẽ cố gắng tới gặp anh sớm nhất trong chừng mực có thể.


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 18 tháng 9
Tôi sẽ lại đi tàu hỏa tới Luân Đôn. Bức điện của Van Helsing khiến tôi muốn rụng rời chân tay. Lạy Chúa? Kinh nghiệm mấy lần vừa rồi đã cho tôi thấy những gì có thể xảy ra trong một đêm. Có thể là mọi chuyện sẽ suôn sẻ, nhưng cũng có thể sẽ xảy ra một chuyện tồi tệ nhất? Chắc hẳn là phải có một lời nguyền nào đó đang đeo đuổi chúng tôi, bởi nỗ lực nào của chúng tôi cũng được đáp lại bằng kết quả ngược với mong muốn.


Bản ghi nhớ do Lucy Westenra để lại


Ngày 17 tháng 9
Tôi viết những dòng này trên những tờ giấy rời để còn có người tìm đọc được, bởi tôi muốn họ biết thật chính xác những gì xảy ra đêm nay. Tôi cảm thấy mình sẽ chết vì yếu sức. Cầm bút viết đối với tôi bây giờ quả là một việc vô cùng khó khăn, nhưng dù sao thì tôi cũng phải viết, kể cả khi thần chết rắp tâm giữ chặt tay bút của tôi.
Như thường lệ, tôi lên giường nằm sau khi quàng một tràng hoa quanh cổ theo lệnh của giáo sư Van Heling, và tôi chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Nhưng tôi lại bị đánh thức bởi những tiếng cánh vỗ đập vào cửa sổ, đó cũng chính là những tiếng động tôi đã được nghe lần đầu tiên khi còn ở Whitby, chính xác là khi tôi bị mộng du rồi mò mẫm lên vách đá khiến cho Mina phải đi tìm và kể từ đó đến nay, tôi vẫn rất hay nghe thấy những tiếng cánh vỗ quái gở đó. Dù không sợ, nhưng tôi vẫn muốn có bác sĩ Seward ở phòng bên cạnh để có thể gọi khi cần. Tôi cố ngủ lại mà không được. Và rồi nỗi lo sợ bị chìm vào giấc ngủ lại ập đến trong tôi, buộc tôi phải quyết định không ngủ nữa. Nhưng thật kỳ lạ, tôi càng cố gắng thức bao nhiêu thì cơn buồn ngủ lại càng đè nặng lên người tôi bấy nhiêu. Cảm giác cô đơn làm tôi sợ. Tôi vùng dậy mở cửa và kêu lên: “Có ai ở đây không?” Không có tiếng trả lời. Tôi không dám gọi nữa vì sợ sẽ làm mẹ tôi thức giấc. Khi tôi vừa khép cửa lại thì ở đâu đó như là dưới những lùm cây, chợt vang lên một tiếng kêu như tiếng chó tru, nhưng nghe còn thê thảm và đáng sợ hơn nhiều. Tôi đến bên cửa sổ và nhoài người ra xem có cái gì dưới bóng tối ấy, nhưng chẳng thể phân biệt được một vật gì ngoài một con dơi to bự - có lẽ đó chính là con vật vẫn thường đập cánh vào cửa kính phòng tôi Tôi trở lại giường nằm nhưng không thấy buồn ngủ trở lại. Một lát sau, mẹ tôi hé mở cửa và thò đầu vào. Nhìn thấy tôi không ngủ, bà mới bước vào và ngồi gần giường tôi. Bà nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi và nói với tôi bằng một giọng rất dịu dàng, dịu dàng hơn so với thường lệ rất nhiều :
- Mẹ cứ phân vân không hiểu con có cần gì hay không, con gái yêu ạ, vì vậy mẹ phải mò lên đây cho yên tâm.
Sợ bà bị cảm lạnh, tôi bảo bà lên giường nằm cạnh tôi, song bà bảo bà chỉ định nán lại một lúc rồi sẽ về phòng mình. Nằm gọn trong vòng tay bà mà tôi vẫn bị giật mình, bởi cái tiếng động quái gở ấy lại bất ngờ vang lên một lần nứa. Mẹ tôi cũng giật thót người kêu lên: “Cái gì thế”. Tôi phải lựa lời trấn an bà. Cuối cùng thì bà cũng yên tâm nằm xuống bên tôi, mặc dù trống ngực vẫn đập thình thịch. Nhưng rồi tôi lại giật thót người một lần nữa, bởi có một cái gì đó vừa bất thình lình đập vào ô cửa kính khiến nó vỡ tan. Mảnh kính vỡ tung tóe khắp sân nhà. Bức rèm bị gió thổi bay phất phơ như một bóng ma. Người tôi bắt đầu run lên như cầy sấy khi nhận ra cái đầu của một con sói lớn, gầy đét, đang thò đầu qua ô cửa bị vỡ. Mẹ tôi buột miệng thất lên một tiếng khiếp sợ. Bà ngồi dựng dậy trên giường, hay tay vùng vẫy lung tung như muốn túm lấy một vật gì đó để tự vệ. Trong cơn hoảng loạn, bà đã giật đứt tràng hoa ở cổ tôi ném ra giữa phòng. Sau cái hành động tuyệt vọng ấy, bà ngồi đờ đẫn như mất hồn, trong khi tay vẫn không quên chỉ về phía con sói như một bức tượng. Được một lát, bà bỗng đổ vật xuống như bị sét đánh, đầu bà đập cả vào trán tôi. Tôi chết lặng đi trong giây lát. Căn phòng, rồi mọi đồ đạc xung quanh, như đang đảo điên trước mắt tôi, nhưng tôi vẫn cố dán mắt về phía cửa sổ, con sói đã biến mất từ lúc nào. Những chấm nhỏ li ti cuốn ào ào vào trong phòng qua ô cửa vỡ - cảnh tượng này gợi cho tôi nhớ tới những cột cát bị gió cuốn nơi sa mạc. Tôi cố gượng ngồi dậy nhưng vô ích, không hiểu sức mạnh bí ẩn nào đã cản trở tôi làm như vậy. Cơ thể mẹ tôi lúc này có vẻ như hơi lành lạnh... Tôi bỗng không còn ý thức được một điều gì nữa. Tất cả những gì xảy ra sau đó đều không đọng lại trong tiềm thức của tôi.
Mặc dù bị ngất không lâu, nhưng tôi vẫn rất mơ hồ về những phút giây khủng khiếp đã trôi qua. Khi tôi tỉnh táo trở lại, âm thanh đầu tiên vẳng đến tai tôi là tiếng chuông cầu hồn ngân xa, rồi tiếp đó là tiếng chó sủa xung quanh ngôi nhà, và trong các bụi cây giữa vườn, không xa cửa sổ phòng tôi, còn vọng tới những tiếng hót lảnh lót của một con sơn ca. Nỗi ưu phiền, sự sợ hãi, tình trạng sức khỏe suy sụp nghiêm trọng, tất cả như cùng hùa tới một lúc khiến người tôi đờ ra như một kẻ chết rồi. Tuy nhiên, nghe thấy tiếng hót của chim sơn ca, tôi có cảm giác như được nghe thấy giọng nói thân thương của mẹ tôi, giọng nói dịu dàng cất lên giữa đêm tối để an ủi tôi.
Chắc hẳn chuỗi tiếng động lạ tai đã làm những người hầu trong nhà thức giấc, bởi tới nghe rất rõ bước chân trần của họ nhẹ bước trên chiếu nghỉ cầu thang. Nghe tiếng tôi gọi phều phào, họ bước nhanh vào phòng. Tất cả cùng kêu rú lên sợ hãi, khỏi phải nhắc lại họ đã khiếp đảm như thế nào khi hiểu ra nỗi bất hạnh đã xảy đến với chúng tôi và trông thấy mẹ tôi nằm đè lên người tôi. Cơn gió lùa vào qua ô cửa vỡ làm cho cửa phòng thỉnh thoảng lại nghiến ken két. Những cô gái can đảm xúm lại đỡ mẹ tôi sang một bên để tôi có thể ngồi dậy. Biết họ đang rất xúc động, tôi bảo họ nên xuống phòng ăn làm một hớp rượu vang cho bình tĩnh trở lại. Họ mở cửa rồi lại đóng sập lại ngay sau khi bước chân ra khỏi phòng. Tôi còn nghe thấy tiếng họ thất lên một lần nữa, rồi tiếp đó là tiếng những bước chân lao vội vã xuống cầu thang. Lúc này, tôi chẳng còn biết làm gì ngoài việc đau đớn nhặt những bông hoa đặt lên ngực mẹ tôi và hồi tưởng lại những lời dặn bảo của giáo sư Van Helsing, nhưng nhớ chỉ là để nhớ thôi, chứ tôi cũng chẳng cần tới những bông hoa này làm gì nữa... Tôi sốt ruột đợi đám người hầu quay trở lại: chúng tôi sẽ cùng thức bên nhau. Song họ đã không quay trở lại. Tôi cất tiếng gọi: không thấy ai trả lời? Thấy lạ, tôi quyết định mò xuống phòng ăn.
Tôi suýt ngã quỵ khi bất ngờ chứng kiến cảnh tượng trước mắt: bốn người hầu nữ đều đang nằm sóng soài dưới sàn nhà với những hơi thở khó nhọc. Bình rượu vang cạn một nửa vẫn nằm ngay ngắn trên bàn, nhưng trong phòng lại bốc lên một mùi hăng hắc kỳ lạ. Tôi cầm bình rượu lên ngửi: toàn là mùi cồn cần sa. Mở tủ buýp-phê, tôi nhận ra bình thuốc mà người thầy thuốc vẫn dùng để chăm sóc cho mẹ tôi đã hết nhẵn nhụi. Phải làm gì bây giờ? Phải làm gì đây?... Tôi loạng choạng trở về phòng, đến bên giường với mẹ. Tôi không thể rời xa bà. Bây giờ tôi đang ở trong phòng có một mình nếu như không kể đến những nàng hầu tội nghiệp đang lăn ra bất tỉnh dưới nhà bởi thứ cồn thuốc phiện ai đó đã đổ vào bình rượu vang. Một mình với cái chết? Mà tôi cũng không dám ra ngoài, bởi tiếng tru man rợ của con sói ở đâu đó vẫn đang vẳng tới tai tôi qua ô cửa bị vỡ. Những chấm nhỏ li ti kia cũng không chịu dừng nhảy nhót, quay cuồng điên loạn trong phòng theo từng đợt gió lùa ở cửa sổ. Cả ngọn đèn cầy bây giờ cũng trở nên hiu hắt như đang báo hiệu một cảnh sớm lụi tàn... Tôi biết làm gì bây giờ? Đến nay, có lẽ cũng đã đến lúc tôi phải ra đi cùng người! Vĩnh biệt mọi người! Arthur ơi, nếu như phải chết trong đêm nay, thì em cũng xin được vĩnh biệt anh!



Chương 12


Nhật ký của bác sĩ Seward

Ngày 18 tháng 9
Tôi tới Hillingham từ rất sớm. Để xe đỗ ngoài cổng, tôi đi bộ vào tận nhà. Tôi gọi cửa thật nhẹ để không làm Lucy và bà Westenra thức giấc nếu như họ vẫn đang ngủ. Tôi hy vọng chỉ có người giúp việc nghe thấy tiếng gọi cửa. Đợi một lát không thấy ai ra, tôi gõ cửa một lần nữa, rồi đập mạnh tay hơn. Vẫn không có tiếng trả lời. Tôi đâm ra bực mình với đám người hầu, bởi đã gần mười giờ sáng rồi mà họ vẫn còn say sưa ngủ. Nghĩ mà điên tiết và sốt ruột, tôi đập cửa liên hồi, nhưng tất cả vẫn vô ích. Đành rằng đám người hầu phải chịu trách nhiệm chính cho sự im lặng này, nhưng không hiểu sao trong tôi vẫn trào dâng một cảm giác sợ hãi khó tả. Phải chăng sự im lặng này lại chính là một dấu hiệu nữa của lời nguyền vẫn dai dẳng bám riết chúng tôi bấy lâu nay? Tôi có thực sự đủ can đảm bước chân vào một ngôi nhà mà thần chết đã ập đến trước tôi không? Tôi biết rằng mỗi phút, mỗi giây trôi qua đều có thể dẫn đến những kết cục cực kỳ hiểm nghèo đối với Lucy nếu như tình trạng sức khỏe của cô một lần nữa lâm vào cảnh bi đát, chính vì thế tôi phải quyết định lượn vòng quanh ngôi nhà với hy vọng sẽ tìm được một lối vào mà tôi chưa từng biết.
Tất cả các cánh cửa bị khóa chặt, các ô cửa sổ bị đóng kín đã làm tôi vô cùng thất vọng. Tôi chỉ biết quay trở về chỗ cũ. Đúng vào lúc về tới cửa chính, tôi bỗng ngờ ngợ khi nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập ngoài đường, rồi đột ngột dừng lại ngay trước cổng; vài giây sau, tôi nhận ra bóng Van Helsing bước xuống xe, ông đi như chạy vào nhà. Nhận ra tôi, ông hỏi luôn trong hơi thở hổn hển :
- À! Thì ra là anh? Vậy là anh cũng chỉ vừa mới đến? Cô ta sao rồi? Có còn kịp không? Chẳng lẽ anh không nhận được điện của tôi?
Tôi cố gắng trả lời rành mạch và ngắn gọn rằng tôi chỉ vừa nhận được điện của ông vào đầu giờ sáng, rằng tôi đã thu xếp mọi công việc để đến đây ngay lập tức. Tôi đã gõ cửa, đập cửa hoài mà vẫn không thấy ai trả lời.
Van Helsing bỏ mũ, đứng lặng người đi một lúc. Cuối cùng, ông nói với tôi bằng một giọng rất nghiêm trọng :
- Tôi cho là chúng ta đã đến quá muộn. Ý Chúa vậy là đã thành sự thực!
Ông dừng lại như để lấy thêm can đảm, rồi quả quyết :
- Đi! Nếu các cánh cửa đều không mở, thế nào chúng ta cũng phải tìm một cách nào đó để vào nhà chứ.
Hai chúng tôi cùng vòng ra sau nhà. Van Helsing cầm con dao mổ chỉ về phía một ô cửa sổ bếp. Tôi cầm con dao mỏng manh luồn qua khe cửa hất tung chiếc móc cài và mở rộng hai cánh cửa sổ ra. Tôi giúp giáo sư trèo vào trong bếp trước, tôi leo vào sau. Trong bếp chẳng có ai, trong gian bếp phụ cũng vậy. Chúng tôi nhòm vào các phòng ở tầng trệt, nhưng tất cả cũng đều trống không. Chỉ khi vào tới phòng ăn, nhờ một chút ánh sáng hắt hiu chiếu qua các ô cửa tò vò, chúng tôi mới nhận ra bốn người đầy tớ đang nằm dài trên sàn nhà. Chúng tôi không nghĩ là họ chết, bởi hơi thở nồng nặc mùi cồn thuốc phiện của họ trong phòng đã cho thấy hiện trạng của họ. Van Helsing bình tĩnh bảo tôi: “Chúng ta sẽ trở lại với họ sau”, rồi kéo ngay tôi lên phòng Lucy. Tuy nhiên, lên tới nơi, chúng tôi không vào ngay mà chỉ dám dừng ở cửa để nghe ngóng: tất cả chỉ là một sự im lặng ghê người. Chúng tôi run run mở cửa trong một tâm trạng hồi hộp, lo lắng.
Tôi không biết tả lại cảnh tượng trước mắt như thế nào. Cả Lucy và mẹ cô đều đang nằm dài trên giường. Trên người bà mẹ được đắp một mảnh ga trắng, mép ga bị gió thổi từ ô cửa kính bị vỡ bỏ đi ngược trở ra để lộ một khuôn mặt xám ngoét, hằn rõ những nét nhăn nhúm vì khiếp sợ. Nét mặt Lucy trông còn thảm hại hơn. Tràng hoa quàng cổ lúc này được đặt trên ngực bà Westenra. Tôi dễ dàng nhận thấy hai vết thương nhỏ của cô bây giờ đã trở nên sâu và rộng hơn hẳn so với cách đây ít hôm mà không hiểu tại sao. Chẳng nói chẳng rằng, giáo sư Van Helsing cúi thấp người xuống giường, đầu gần như chạm cả vào ngực Lucy; nghe ngóng được khoảng một giây, ông bỗng đứng bật dậy bảo tôi :
- Chưa đến nỗi quá muộn! Nhanh lên, nhanh lên? Rượu mạnh!
Tôi chạy bổ xuống phòng ăn cầm một chai rượu đưa lên mũi ngửi rồi nếm thử để đảm bảo rằng rượu trong chai không bị ai đó đổ cồn thuốc phiện vào.
Đám người hầu vẫn nằm thở, hơi thở của họ lúc này có vẻ nhẹ nhàng và đều đặn hơn; có lẽ tác dụng của cồn thuốc phiện đang dần dần tiêu tan. Tôi chạy vội trở lại phòng Lucy. Van Helsing vồ lấy chai rượu, dốc ra tay rồi xoa mạnh lên môi, lên cổ tay, cườm tay Lucy. Làm xong cái công việc cấp cứu ấy, ông mới khẽ nói với tôi :
- Tạm thế đã. Bây giờ chẳng còn gì khác để làm cả... Anh xuống đánh thức mấy cô kia dậy đi. Cứ lấy khăn ướt mà vỗ vào mặt họ, đừng sợ như thế là tàn nhẫn! Tôi cần họ tỉnh để đất lửa đun nước nóng. Cô bé này gần như đang chết cóng đây này, người cô ta chẳng khác gì một cục nước đá. Cô ta cần phải được sưởi ấm trước cái đã, sau đó có làm gì thì làm.
Tôi không gặp khó khăn gì khi đánh thức ba người gia nhân đầu tiên; nhưng người thứ tư thì vẫn nằm lì ra như một đứa trẻ, dường như cô ta là người bị ngấm thuốc phiện nhiều nhất. Tôi phải bế cô ta đặt lên trường kỷ để cô ta ngủ tiếp. Ba cô gái vừa tỉnh cứ ngơ ngơ như những kẻ ngây độn. Tuy nhiên, khi sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra, họ bỗng khóc òa lên và nức nở kể lại sự tình với tôi. Nhưng tôi vẫn tỏ ra cương quyết và nghiêm nghị, không để họ kể lể nhiều. Tôi bảo họ rằng có một người chết trong nhà là đủ lắm rồi, và rằng nếu họ cứ kể lể mãi như vậy thì có lẽ đến lượt Lucy cũng chết mất. Nghe tôi nói vậy, họ buộc phải nức nở đi vào bếp. Cũng may là bếp lò chưa tắt nên nước trong nồi vẫn còn nóng. Chuẩn bị bồn tắm xong, chúng tôi đặt Lucy vào ngâm. Khi chúng tôi đang tập trung xoa bóp chân tay cho cô thì ở ngoài cổng bỗng có tiếng gõ cửa. Một người hầu tốt tưởi chạy ra mở cửa. Giây lát sau, chị ta chạy vào báo cho chúng tôi biết có một người đàn ông đang đứng đợi ngoài đó, ông ta nói là có thư của Holmwood. Biết không thể tiếp khách trong lúc này, tôi cho người ra bảo ông ta thông cảm đứng đợi. Thú thực là tôi đã quên ngay lập tức sự có mặt của ông ta, tất cả những gì tôi có thể làm bây giờ là tập trung cứu bệnh nhân.
Từ khi làm việc với Van Helsing, chưa bao giờ tôi thấy ông chiến đấu chống lại tử thần theo kiểu này. Bởi cả hai chúng tôi đều biết rằng đây là cách duy nhất, là cuộc chiến tận cùng chống lại một cái chết. Khi tôi nói nhỏ điều đó, ông đã đứng ngây người ra trong giây lát. Tôi không hiểu câu trả lời của ông, song cứ nhìn nét mặt nghiêm trọng của ông là tôi khắc biết.
Nếu chỉ có thế, ông nói tôi sẽ cố gắng rời khỏi nơi đây, và tôi sẽ để cho cô bé được nghỉ ngơi yên bình, bởi tôi cũng không dám chắc là cuộc sống có còn đến với cô bé hay không nữa.
Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục các nỗ lực xoa bóp cho cô bệnh nhân trẻ tuổi của mình một cách không mệt mỏi.
Chẳng cần phải đợi lâu, chúng tôi bắt đầu nhận thấy bồn nước nóng đã phát huy tác dụng. Qua ống nghe, tôi cảm thấy nhịp tim và hơi thở của Lucy đang dần dần ổn định trở lại. Khi nhấc cô ra khỏi bồn nước và quấn xung quanh người cô mấy lớp khăn ấm, Van Helsing bảo tôi, nét mặt có vẻ đỡ nặng nề hơn :
- Bước đầu chúng ta đã giành được thắng lợi? Thần Chết đang lùi bước!
Chúng tôi đặt Lucy nằm vào trong một phòng khác. Tôi đặt cô lên giường rồi nhỏ mấy giọt rượu mạnh vào miệng cô. Van Helsing quấn vào cổ cô một mảnh khăn lụa thật mềm. Cô vẫn chưa tỉnh. Nhìn nét mặt cô, tôi biết là cô đang trải qua một cơn đau mà tôi chưa bao giờ được thấy.
Giáo sư Van Helsing cho gọi một đầy tớ lên và ra lệnh cho chị ta đứng ở đầu giường trông bệnh nhân, ông dặn chị ta tuyệt đối không được để mắt đi nơi khác cho tới khi chúng tôi quay trở lại. Sau đó, ông vẫy tay ra hiệu cho tôi cùng bước ra khỏi phòng.
- Bây giờ chúng ta phải nghĩ xem cần tiếp tục phải làm gì. - Giáo sư bảo tôi trong lúc đi xuống cầu thang.
Hai chúng tôi bước vào phòng ăn để nói chuyện cho tiện. Các ô cửa sổ trong phòng đều mở nhưng lại được che rèm kín. Giáo sư quay ra đóng cửa cẩn thận, căn phòng tối sầm lại, nhưng ánh sáng lọt qua các ô cửa sổ vẫn đủ để chúng tôi nhận biết mọi vật xung quanh. Vẻ nghiêm trọng trên nét mặt giáo sư khi nãy đã không còn nữa, thay vào đó là những cảm xúc bối rối. Rõ ràng ông đang tìm cách giải quyết một khó khăn mới nào đó.
- Thế đấy! Chúng ta biết phải làm gì bây giờ? – Ông trầm ngâm. - Ai sẽ là người giúp chúng ta? Dù thế nào thì chúng ta cũng phải thực hiện một ca truyền máu nữa. Ừ, một ca nữa, càng nhanh càng tốt, nếu không cô bé tội nghiệp kia sẽ không thể sống thêm một giờ. Anh bạn trẻ ạ, cũng như tôi thôi, trông anh đã suy kiệt lắm rồi. Tôi thì tôi không muốn bắt những người giúp việc kia phải hiến máu cho dù họ có dù can đảm làm điều đó. Biết tìm đâu ra một người hiến máu bây giờ?
- Chẳng phải tôi đang ở đây hay sao?
Tiếng nói bất ngờ vọng tới từ trên chiếc ghế trường kỷ ở phía bên kia phòng; tôi lập tức thở phào nhẹ nhõm, vì tôi không thể nhầm được, đó chính là giọng của Quincey Morris. Lúc đầu, Van Helsing cớ vẻ rất tức giận, ông quay phắt lại nhìn vị khách trẻ tuổi, nhưng rồi nét mặt ông cũng dần dần dịu dàng trở lại, ánh mắt rạng rỡ hẳn lên. Tôi dang tay bước nhanh về phía người bạn, miệng reo lên :
- Quincey Morris! Làn gió nào đã đưa ông tới đây vậy?... Chắc là Athur đã...
Thay vì câu trả lời, anh ta đưa cho tôi một bức điện. Tôi hồi hộp đọc ngay :
“Không có tin của Seward từ ba hôm nay. Lo kinh khủng. Không thể rời cha, ông cụ vẫn còn ốm. Cho tôi biết ngay tình hình của Lucy. Holmwood.”
- Tôi nghĩ là mình đã đến rất đúng lúc. - Quincey nói. - Bây giờ ông chỉ việc bảo tôi điều tôi sẽ phải làm, đừng nói nhiều nữa.
Van Helsing bước tới nắm chặt bàn tay vị khách mới đến :
- Khi một phụ nữ sức cùng lực kiệt cần được tiếp máu thì dòng máu của một người đàn ông can đảm sẽ là cứu cánh duy nhất cứu sống được cô ta. Quỷ dữ có thể lấy hết quyền năng chống lại chúng ta, nhưng Chúa sẽ luôn mang tới cho chúng ta những người đàn ông thực sự dũng cảm.
Và chẳng nhiều lời, chúng tôi khẩn trương bắt tay vào một ca tiếp máu mới. Công việc diễn ra quá cực nhọc nên tôi không thể kể hết ra đây mọi chi tiết. Lucy hẳn đã phải trải qua một cú sốc khủng khiếp, bởi lần này tôi không thấy cô có những phản ứng như những lần trước. Nếu nhìn cô, nghe cô thổn thức chiến đấu chống lại cái chết để trở về với cuộc sống, chắc bạn sẽ không cầm lòng được. Song rồi nhịp đập của trái tim cô cũng trở nên đều đặn hơn, hơi thở khó nhọc thoát ra từ lồng ngực cô cũng khá lên trông thấy. Tiếp máu xong, Van Helsing còn cẩn thận tiêm cho cô một liều moóc-phin, ông muốn biến trạng thái bất tỉnh bệnh lý của cô thành một giấc ngủ sâu bình thường. Giáo sư ở lại trông Lucy, còn tôi phải đưa Quincey xuống và bảo một người đầy tớ ra trả tiền cho tay xà ích đang đợi ngoài cổng. Sau khi cho Quincey uống một cốc rượu vang, tôi đỡ anh nằm xuống ghế trường kỷ và bảo người làm bếp chuẩn bị cho anh một bữa trưa thật đủ chất dinh dưỡng. Như sực nghĩ ra một điều gì, tôi quay trở lại ngay phòng bệnh nhân. Van Helsing vẫn đứng đó, trên tay ông là mấy tờ giấy. Thoáng nhìn, tôi biết ngay là ông đang nghi ngờ một điều gì đó. Ông chìa tay đưa cho tôi mấy tờ giấy và nói gọn lỏn một câu không đâu vào đâu :
- Chiếc áo cánh của Lucy đã bị rơi lúc chúng ta nhấc cô ra khỏi bồn nước.
Đọc xong mấy tờ giấy, tôi lén nhìn giáo sư một lát rồi mới dám hỏi :
- Lạy Chúa tôi, thế này là thế nào? Cô ấy đã, hay nói đúng hơn là cô ấy đang bị điên hay sao? Hay có một mối nguy hiểm khủng khiếp nào đang rình rập chúng ta ở đâu đó?
Van Helsing lấy lại mấy tờ giấy trên tay tôi.
- Bây giờ chưa phải là lúc để anh nghĩ ngợi lung tung, - Ông nói - hãy cố gắng quên nó đi. Rồi thời gian sẽ trả lời anh tất cả, sẽ giúp anh hiểu tất cả... Nhưng không phải là lúc này. Rồi về sau... Tại sao anh lại quay lên đây? Anh có điều gì muốn nói phải không?
 
Câu hỏi của giáo sư đã giúp tôi trở lại với chính mình.
- Vâng, chuyện về giấy chứng tử ấy mà. Nếu chúng ta không thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết thì chắc chắn sẽ có người đến điều tra. Tôi cho rằng không cần thiết để chuyện ấy xảy ra, bởi điều đó rất có thể sẽ làm cho cô bé Lucy tội nghiệp đau lòng mà chết. Giáo sư, tôi và bác sĩ của bà Westenra, tất cả đều biết tại sao bà ấy chết, và chúng ta chỉ việc khai vào giấy chứng tử theo đúng như những gì đã xảy ra. Có lẽ chúng ta phảí làm ngay. Tự tay tôi sẽ mang tờ giấy đến cho nhà chức trách, sau đấy tôi sẽ đi tìm người lo liệu ma chay.
- Được đấy, anh bạn John ạ? Anh nghĩ sâu xa lắm? Quả thực là nếu như Lucy bị những bóng thù hắc ám đeo đuổi, thì ít nhất cô cũng cảm thấy một chút an ủi bởi lúc nào cô cũng có nhưng người yêu thương mình bên cạnh. Đã có một, hai và ba người đàn ông sẵn sàng mở ven tiếp máu cho cô, tất nhiên tôi không kể tới cái thân xác già nua của mình. Quả thật là tôi cũng rất biết ơn anh, anh bạn John ạ! Và tôi rất muốn anh tiếp tục phát huy phẩm chất đáng quý ấy. Bây giờ, có lẽ chúng ta nên xuống dưới nhà đi!
Xuống tới hành lang, chúng tôi gặp lại Quincey Morris lúc anh đang chuẩn bị gửi một bức điện cho Arthur để thông báo về cái chết của bà Westenra cũng như tình hình sức khỏe của Lucy.
Khi tôi nói tôi có việc phải rời khỏi đây một lúc, Quincey không giữ lại mà chỉ hỏi một câu :
- Jack này, khi nào quay về, ông có thể dành một chút thời gian nói chuyện với tôi được không?
Tôi khẽ gật đầu đồng ý.
Khi nói đến cái chết của bà Westenra, tay nhân viên nhà nước dân sự không gây cho tôi bất cứ một phiền hà nào. Và tay phụ trách các vấn đề ma chay của địa phương cũng sốt sắng hẹn tôi rằng anh ta sẽ đến vào buổi chiều tối để giải quyết mọi việc có liên quan.
Khi tôi về, Quincey vẫn đang ngồi đợi. Tôi bảo lúc nào lên thăm Lucy xong tôi sẽ xuống nói chuyện với anh ta. Lucy vẫn đang ngủ, và hình như Van Helsing đã ngồi bên giường cô trong suốt thời gian tôi đi vắng. Trông thấy tôi vào, giáo sư vội đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho tôi giữ im lặng. Chắc hẳn ông đang nghĩ Lucy sắp tỉnh dậy đến nơi, song ông muốn giấc ngủ của cô phải là một giấc ngủ tự nhiên, và sự thức dậy của cô cũng phải là một cái gì đó thật tự nhiên chứ không phải là một sự khiên cưỡng do một tiếng động nào đó gây nên. Vì vậy, tôi phải quay xuống gặp Quincey. Tôi mời anh ta sang một phòng khách sáng sủa hơn, bởi căn phòng này không buông rèm. Vừa ngồi xuống ghế, Quincey nói luôn :
- Jack Seward này, tôi không muốn nói linh tinh về những gì mình không biết tường tận, nhưng xem ra tình hình có vẻ rất nghiêm trọng, đặc biệt... Ông biết rằng tôi cũng rất yêu cô bé này và rằng tôi đã có lần cầu hôn với cô ấy. Mặc dù đó đã là chuyện cũ, song tôi vẫn rất quan tâm và lo lắng. Thực ra tôi vẫn chưa biết chính xác Lucy bị làm sao và đang phải chịu đựng nỗi đau gì. Hồi nãy, khi còn ở trong phòng ăn bên kia, tôi thấy vì giáo sư người Hà Lan đã nói với ông là cần phải có một lần truyền máu nữa, nhưng giáo sư cũng nói thêm rằng cả ông và ông ấy đều đã suy kiệt. Như vậy, Van Helsing và ông đều có ít nhất là một lần hiến máu cho Lucy, tôi hiểu như vậy có đúng không ạ?
- Chính xác là như vậy.
- Thậm chí tôi còn nghĩ rằng cả Arthur cũng đã làm như vậy. Cách đây bốn hôm, khi chúng tôi gặp nhau, tôi thấy anh ta cũng có vẻ xanh lắm. Tôi chưa bao giờ thấy ai thay đổi nhanh đến như vậy, trừ một lần tôi được chứng kiến con ngựa yêu quý của mình bị một giống dơi mà người ta vẫn gọi là ma cà rồng xé động mạch cổ rồi hút bằng sạch máu. Đêm đó, con ngựa đã không đủ sức đứng dậy, tôi đã phải cho nó một phát đạn vào đầu để nó khỏi chết đau chết đớn. Jack ạ, nếu không phải giữ bí mật nghề nghiệp thì xin ông nói cho tôi biết đi. Có phải Arthur là người đã hiến máu đầu tiên không?
Càng nói, chàng trai trẻ càng tỏ ra thiếu bản lĩnh che giấu những lo lắng về tình trạng sức khỏe của người con gái bất hạnh mà anh ta còn yêu mến. Tôi nhận thấy anh ta chỉ còn thiếu mỗi một nước là khóc òa lên mà thôi.
Tôi lặng im suy nghĩ trước khi trả lời Quincey, vì tôi đang do dự không biết có nên nói hết sự thật ra hay không khi còn chưa biết phản ứng của giáo sư Van Helsing như thế nào. Nhưng rõ ràng anh ta cũng đã biết ít nhiều, và cũng không ngoại trừ trường hợp anh ta đoán già đoán non là tôi không thể không trả lời câu hỏi của mình.
- Đúng thế, - Tôi trả lời - Arthur là người đầu tiên...
- Thế chuyện xảy ra khi nào?
- Cách đây khoảng chục ngày.
- Chục ngày? Vậy thì cô bé đáng thương mà tất cả chúng ta đều yêu mến kia đã nhận máu của bốn người trong vòng có mươi ngày thôi ư? Nếu bình thường thì lượng máu ấy quả là quá nhiều đối với một cơ thể mảnh mai như cô ấy.
Quincey bỗng ngồi sát lại gần tôi :
- Thế tại sao cô ấy vẫn thiếu máu nhiều đến thế?
- Đó còn là một dấu hỏi. - Tôi lắc đầu. - Cả Van Helsing và tôi bây giờ đều chưa rõ tại sao... Đúng là có một thế lực nào đó đã chống lại các nỗ lực của giáo sư. Nhưng điều đó không thấy xảy ra nữa. Bây giờ chúng tôi đã quyết định phải ở lại đây cho tới khi mọi việc diễn ra thật tốt đẹp, hoặc cho tới khi mọi chuyện đã kết thúc.
Quincey nắm chặt lấy tay tôi.
- Tôi sẽ giúp các ông một tay. - Anh ta nói - Chỉ cần vị giáo sư người Hà Lan và ông bảo tôi phải làm gì là tôi sẽ làm ngay.
Buổi chiều, khi tỉnh dậy, trước sự kinh ngạc của tôi, cử chỉ đầu tiên mà Lucy làm là luồn tay xuống dưới áo ngủ lấy mấy mẩu giấy mà Van Helsing đã đưa cho tôi đọc. Giáo sư đã cẩn thận trả lại đúng chỗ cũ vì sợ rằng khi tỉnh dậy, nếu không thấy những mẩu giấy ấy, cô bé sẽ hoảng sợ. Cầm mấy mẩu giấy trên tay, cô ngước nhìn Van Helsing một lúc rồi lại quay sang nhìn tôi, vẻ thật sự hài lòng. Rồi cô ngước mắt nhìn khắp phòng như một đứa trẻ vừa được làm quen với một thế giới mới, nhưng khi chợt nhận thấy đây không phải là phòng mình, cô đã khóc nấc lên và đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt còn trắng bệch như người chết đuối. Chỉ tới lúc này cô mới nhớ ra một thực tế là cô đã mất mẹ. Chúng tôi xúm lại an ủi vỗ về cô. Nếu chúng tôi làm cho cô nhẹ nhõm trong lòng được ngần nào thì cô sẽ đỡ bị cơn đậu hành hạ ngần ấy. Nhưng Lucy vẫn khóc nức nở trước mặt chúng tôi. Chỉ tới khi tôi nói rằng từ nay trở đi, tôi và Van Helsing hoặc sẽ cùng nhau, hoặc sẽ thay nhau ở bên cô, cô mới an tâm hơn đôi chút.
Màn đêm buông xuống, cô lại bắt đầu đi vào giấc ngủ. Thêm một điều nữa làm tôi ngạc nhiên: trong lúc ngủ, cô đã cầm mấy mẩu giấy khi nãy xé ra làm đôi. Van Helsing định gỡ những mảnh giấy ấy ra, nhưng cô vẫn giữ rất chặt và thậm chí còn xé nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, cô đưa tay lên và xòe bàn tay ra như thể muốn ném vung những mẩu giấy vụn lên thật cao. Van Helsing rất lấy làm lạ, nhưng không thấy ông nói gì.
* * * * *
Ngày 19 tháng 9
Suốt đêm hôm đó, Lucy ngủ không yên. Tôi nhận thấy không ít lần cô có những biểu hiện của một tâm trạng sợ ngủ, nhưng cuối cùng thì cô cũng vẫn cứ chìm vào một giấc ngủ sâu. Chính giấc ngủ mê mệt đã làm cô bộc lộ hết những nét bạc nhược trên gương mặt đau khổ, thậm chí còn bộc lộ rõ nét hơn so với lúc cô thức. Van Helsing và tôi thay nhau trong nom cơ; chúng tôi không dám để cô nằm lại một mình một phút nào. Không biết Quíncey Morris nghĩ gì, nhưng suất đêm, tôi cứ thấy anh ta đi đi lại lại xung quanh ngôi nhà.
Buổi sáng, nhìn Lucy, chúng tôi biết là cô không còn một chút sức lực nào. Tôi không dám nói quá lời bởi vì đã có lúc cô không thể trở mình hoặc quay đầu từ bên này sang bên kia được. Hình như lượng dinh dưỡng ít ỏi mà chúng tôi cho cô dùng hôm qua đã không được tiêu hóa để chuyển hóa thành năng lượng. Thỉnh thoảng tôi và Van Helsing lại hồi hộp quan sát những thay đổi diễn ra trên nét mặt cô lúc cô đang chìm sâu trong giấc ngủ buổi sáng. Cũng có lúc nhịp thở của cô chậm và đều hơn. Cô ngủ mà miệng há hốc, để trơ ra hai hàng lợi tím tái tụt sâu xuống dưới chân .răng, khiến cho hai hàm răng có vẻ dài và nhọn hơn hẳn so với bình thường. Khi tính dậy, sự dịu dàng trong ánh mắt, dù vẫn còn lờ đờ, đã trả lại cho cô cái cảm xúc quen thuộc thường ngày. Buổi chiều, cô bỗng đòi gặp Arthur; chúng tôi đành phải đánh điện gọi anh ta đến, và người ra ga đón anh ta sẽ là Quincey.
Arthur đến vào khoảng 6 giờ. Tlết trời chiều vẫn còn nóng bức, đôi má của bệnh nhân có vẻ ửng hồng lên dưới những tia nắng còn vương lại trong phòng. Nhìn thấy Lucy, phải cố gắng lắm Arthur mới giấu được cảm xúc. Chúng tôi không ai có đủ can đảm để nói cho anh ta biết sự thật. Sự xuất hiện của Arthur dường như đã làm cho Lucy dần dần lấy lại sức lực. Kể từ khi tới nhà cô đến nay, chưa bao giờ tôi thấy cô lại nói năng sôi nổi đến vậy.
Bây giờ đã gần một giờ; Van Helsing và Arthur vẫn ngồi trông nom bệnh nhân. Khoảng mười lăm phút nữa, tôi sẽ tới thay ca cho họ. Trong lúc chờ đợi, tôi đã ghi lại những chi tiết này vào chiếc máy hát của Lucy. Sau khi tôi lên thay, hai người sẽ tranh thủ ngủ một giấc đến 6 giờ sáng. Hy vọng là một ngày mai, chúng tôi sẽ chẳng cần phải thức để trông nom cô nữa. Rồi cô bé khốn khổ sẽ phải bình phục. Cầu Chúa hãy giúp chúng con!


Thư của Mina Harker gửi Lucy Westenra
(Thư người nhận chưa mở)


Ngày 17 tháng 9
Lucy thân mến,
Tớ có cảm giác như cả thế kỷ trôi qua mà không nhận được tin tức gì của cậu, hay nói đúng hơn là cả thế kỷ nay tớ chưa viết thư cho cậu. Hy vọng cậu sẽ thứ lỗi cho tớ sau khi đọc những dòng này. Đầu tiên tớ phải thông báo cho cậu biết hai vợ chồng tớ đã về đây ở. Lúc xuống tàu ở Exeter, tớ thấy ngài Hawkins, mặc dù đang bị căn bệnh thống phong hành hạ, đã ngồi sẵn trong xe đợi đón chúng tới Hawkins tự tay lái xe chở hai vợ chồng tớ về nhà ông. Cả ba người đã cùng ngồi ăn tối với nhau. Bọn tớ được ông dành cho những căn phòng rất tiện nghi. Sau bữa tối, ông nói với bọn tớ :
- Các bạn ạ, tôi đã uống vì sức khỏe và hạnh phúc trăm năm của các bạn! Cầu mong các bạn luôn có được những niềm vui trọn vẹn? Tôi biết các bạn từ khi các bạn còn nhỏ, bởi vậy tôi cũng rất tự hào khi được chứng kiến các bạn trưởng thành. Hôm nay, tôi muốn các bạn hay coi đây như là nhà của chính mình vậy. Tôi sống độc thân, chẳng có con cái gì, nên tôi sẽ viết di chúc để lại tất cả gia sản của mình cho các bạn.
Lucy ạ, nghe ngài Hawkins nói, trông thấy cảnh ông và chồng tớ bắt tay nhau hồi lâu mà tớ không sao cầm được nước mắt. Buổi tối hôm ấy sao mà hạnh phúc đến thế.
Vậy là chúng tớ đã may mắn được dọn tới ở trong một ngôi nhà cổ kính tuyệt đẹp. Tất cả các phòng mà bọn tớ được lui tới, từ phòng ngủ cho tới phòng ăn và phòng khách, đều trông ra những bóng cây du già bao quanh giáo đường, nhưng chỉ có điều là tối đến, tớ thường hay phải nghe tiếng bầy quạ lượn qua lượn lại trên nóc nhà. Kể ra lũ quạ này cũng lắm lời thật, chúng cứ kêu quang quác đến nhức cả đầu? Tớ biết nói gì với cậu bây giờ nhỉ? Hiện tại, tớ đang rất bận sắp xếp nhà cửa, đồ đạc. Còn Jonathan thì suốt ngày chu mũi vào công việc, vì bây giờ anh đã là phụ tá của ngài Hawkins - người đang khẩn trương bàn giao cho anh tất cả các công việc liên quan đến từng khách hàng.
Mẹ cậu thế nào rồi? Tớ rất muốn tới thăm bà và cậu một vài ngày, nhưng bây giờ thì khó quá, tớ vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Vả lại, nếu Jonathan có khỏe hơn đi chăng nữa thì bệnh tình của anh vẫn chưa thể hoàn toàn bình phục. Thực tình, trông anh ấy vẫn còn vẫn yếu. Thỉnh thoảng tớ lại thấy anh ấy giật mình trong giấc ngủ để rồi lại hốt hoảng tỉnh dậy, mặt mày thì ngơ ngác như một kẻ mất hồn, người run cầm cập. Cứ mỗi lần như valy, tớ lại phải ra sức an ủi, vỗ về anh ấy. Ơn Chúa, chứng bệnh của anh đang mỗi ngày một giảm, và tớ đã dám hy vọng rằng dần dần anh ấy sẽ khỏi hẳn. Bây giờ, cho phép tớ hỏi vài câu về tình hình của cậu. Cậu định bao giờ cưới, và cưới ở đâu? Ai sẽ là chủ hôn? Cậu định mặc áo dài gì? Cậu sẽ mời nhiều bạn bè hay chỉ tổ chức đơn giản thôi? Nhớ phải trả lời đấy, cô bạn yêu quý ạ bởi cậu thừa biết là tớ luôn nghĩ tới cậu, luôn quan tâm tới những gì cậu đang ấp ủ trong lòng như thế nào rồi. Jonathan cũng nhờ tớ chuyển tới cậu những lời thăm hỏi chân tình và cả những lời chúc tốt lành nhất, nhưng tớ thề rằng như thế vẫn là chưa đủ đối với một phụ tá trẻ của một công ty lớn như công ty của Hawkins và Harker. Cũng như cậu thương yêu tớ và anh ấy thương yêu tớ, tớ xin gửi tới cậu những tình cảm chân thành của họ. Tạm biệt nhé, Lucy thân thương. Chúc cậu ngàn lần hạnh phúc.
Mina của cậu”.


Báo cáo của bác sĩ tâm thần Patrick Hennessey gửi bác sĩ John Seward


Ngày 20 tháng 9
“Ông bạn đồng nghiệp thân mến.
Tôi xin được thuật lại rằng tình trạng của một vài bệnh nhân mà tôi đang chăm sóc không có gì đáng nói... Còn về trường hợp của Renfield, tôi thấy có rất nhiều điều cần phải nói. Hắn lại một lần nữa lên cơn, song cơn điên lần này đã kết thúc mà không có một hậu quả đáng buồn nào xảy ra. Tlện thể tôi cũng xin được nói luôn rằng chiều nay, một chiếc tải chở hàng cùng hai người đàn ông đã xuất hiện tại ngôi nhà hoang gần bệnh viện của chứng ta - ngôi nhà mà Renfield đã hai lần trốn viện và vượt rào sang đó, hẳn ông vẫn còn nhớ? Hai gã đàn ông này đã dừng lại trước bệnh viện để hỏi đường người gác cổng, vì theo tôi được biết thì đây không phải là người trong vừng. Lúc đó tôi vừa ăn trưa xong và đang đứng hút thuốc trước cửa phòng, vì vậy tôi đã nhận thấy một trong hai gã đi về phía hành lang ngoài của bệnh viện. Khi gã đi qua cửa sổ phòng Renfield, bệnh nhân này lập tức nhỏm dậy chửi bới lung tung. Hắn chửi rằng gã đàn ông kia không chỉ đến để ăn trộm mà còn định giết hắn, và hắn còn thề lần sau, hắn sẽ không để gã làm hại hắn. Tôi mở cửa sổ và bảo gã lái xe tải đừng để bụng về chuyện này. Sau khi liếc mắt nhìn lại mặt trước tòa nhà bệnh viện, gã mới nhận ra là mình đang đứng ở đâu. Chỉ khi ấy gã mới bảo tôi :
- Cầu Chúa hãy ban phước lành cho ông. Quả thực là tôi vẫn chưa hình dung hết cái cảnh phải đứng trước bọn người điên. Tôi thật ái ngại cho ông và ông chủ của ông đã phải sống giữa những kẻ hung tợn đến như vậy!
Rồi gã lịch sự hỏi tôi lối sang ngôi nhà hoang bên cạnh. Tôi cũng đáp lễ chỉ đường cho gã. Gã đi rồi nhưng Renfield vẫn điên khùng phun ra hàng tràng những lời chửi bới và đe dọa. Khi tôi xuống thăm hắn, trong đầu tôi vẫn tự hỏi là lần này mình có thể tìm ra nguyên nhân khiến cho hắn tức giận hay không.
Xuống tới phòng hắn, tôi rất ngạc nhiên vì không hiểu sao hắn lại lặng lẽ và hiền hòa đến thế. Tôi cố gặng hỏi xem hắn nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng hắn lại hỏi lại là tôi định nói gì. Tôi thấy dường như hắn đã thực sự không còn nhớ gì nữa. Thật không hay ho tí nào khi đó chỉ là một ví dụ mới về đầu óc xảo trá của hắn, bởi chưa đầy nửa giờ đồng hồ sau, hắn lại khiến tôi phải nói về hắn. Lần này, hắn đã nhảy ra ngoài qua cửa sổ và bỏ chạy thục mạng. Sợ hắn làm bậy, tôi buộc phải gọi mấy giám thị và bảo họ bằng mọi giá phải bắt bằng dược hắn về. Và tôi đã không nhầm. Một lúc sau, tôi thấy chiếc xe tải quay ngược trở lại phía bệnh viện, trên xe lúc này là những chiếc thùng lớn. Hai gã trên xe đang lấy khăn lau mồ hôi trên trán, mặt mũi họ đỏ gay đỏ gắt như thể vừa trải qua một cuộc vật lộn ác liệt. Trước khi tôi chộp được tên bệnh nhân, hắn đã kịp nhảy lên bậc xe tóm gáy một gã lái xe và lôi xuống đất, rồi hắn túm tóc nạn nhân và đập đầu gã túi bụi xuống mặt đường. Nếu lúc ấy tôi không kịp chạy bám theo thì có lẽ hắn đã đập chết tươi gã đàn ông kia rồi.
Gã lái xe còn lại cũng vội vàng nhảy xuống đất, tay cầm một ống dây cao su vụt lia lịa vào người tên bệnh nhân. Những đòn đánh này lẽ ra phải làm cho hắn đau đớn điên dại, nhưng không, nhìn hắn không có vẻ gì là như thế, bởi vì sau đó hắn đã thản nhiên đứng dậy đánh lại gã đàn ông đang tấn công hắn, rồi hắn tấn công lại cả ba chúng tôi, xô đẩy chúng tôi nghiêng ngả, dúi dụi dễ dàng như thể hắn làm với mấy con mèo hen. Ông biết rằng tôi chỉ là một thằng còm nhom, song tôi không thể nói như vậy với hai gã lái xe tải: đó là hai gã khỏe như trâu mộng. Lúc đầu, hắn chẳng nói chẳng rằng gì hết, chỉ đến khi chúng tôi tìm cách làm chủ được hắn và khi mấy tay giám thị khoác áo trói lên người hắn, hắn mới gào lên: “Tôi đang phá kế hoạch của chúng! Chúng sẽ không thể ăn trộm của tôi, chúng không thể giết tôi được nữa! Tôi phải chiến đấu vì đức Chúa Trời và vì ông chủ!” Hắn không ngớt tuôn ra những lời nói điên rồ chẳng ai hiểu nổi. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới dẫn được hắn về bệnh viện và nhất vào trong phòng. Còn hai gã lái xe tải, lúc đầu cứ luôn mồm dọa sẽ đưa vụ hành hung này ra tòa; nhưng sau đó, tôi lại thấy lẫn với lời đe dọa đó là những câu nói có hàm ý ăn năn, hối tiếc vì cả hai đã để mặc cho một kẻ điên rồ mất trí như vậy đánh đập. Cả hai đều có ý phân bua rằng nếu không phải chịu nhục để mang các thùng hàng đi cho êm xuôi, thì chắc chắn họ đã thắng thế chứ không phải là thằng điên kia! Song họ cũng đưa ra một lý do khác để biện hộ cho thất bại của mình: cơn khát cháy họng sau khi hoàn thành xong công việc bốc vác hàng lên xe đã làm cho họ bị mất sức, trong khi đó, xung quanh đây lại không có bất cứ một quán giải khát nào. Tôi hiểu thực ra họ muốn gì. Vì vậy, sau khi cho họ uống mỗi người hai cốc rượu trắng pha chanh, đường và nước nóng, và giúi vào tay mỗi người một đồng tiền vàng, tôi không thấy họ đả động gì đến chuyện kiện tụng nữa. Thậm chí họ còn nói đùa rằng sẽ có ngày họ sẵn sàng tới tỉ thí với một thằng điên khác, kể cả một kẻ hung tợn hơn nhiều. Tôi đã cẩn thận ghi lại tên tuổi và địa chỉ của họ, vì biết đâu sẽ có ngày chúng ta cần đến. Tất cả những gì tôi ghi là thế này: Jack Smoliet, khu nhà Dudding, phố King George, Great Walworth; và Thomas Snelling, dãy nhà Peter Farley, Guide Court, Bethnal Green. Hai gã này đang làm việc tại công ty vận tải biển Orange Masters Yard của Harris.
Tôi sẽ thông báo tường tận cho ông biết về tất cả những gì quan trọng xảy ra ở đây và sẽ đánh điện gửi ông ngay sau khi có tin mới.
Kính chào ông, Patrick Hennesey”.

Mina Harker gửi Lucy Westenra
(Thư người nhận chưa mở)


“Ngày 18 tháng 9
Lucy thương nhớ.
Bọn tớ đang trải qua một bất hạnh thật lớn lao. Ngài Hawkins vừa đột ngột qua đời, khiến bọn tớ cảm thấy như vừa mất đi một người cha thật sự. Tớ cảm nhận rất rõ điều này, vì tớ chưa một lần được biết mặt cha mẹ đẻ của mình. Còn đối với Jonathan, sự ra đi của một con người hào hiệp luôn coi anh như một người con đẻ đã để lại trong anh một nỗi buồn khôn nguôi. Vậy là trách nhiệm đối với mọi công việc lúc này bắt đầu thuộc về anh ấy, làm cho anh ngày càng cảm thấy căng thẳng hơn và thậm chí, đã có lúc anh bông tỏ ra nghi ngờ với chính mình. Tuy nhiên, tớ đã hết sức cố gắng động viên anh, và chính lòng tin mà tớ đang gửi gắm nơi anh đã làm cho anh tự tin hơn. Dẫu sao thì đây cũng là kết quả của một cú sốc ghê gớm mà chính anh là nạn nhân. Ngày trước, tớ còn nhớ Jonathan luôn là một người đàn ông can đảm và đầy nghị lực - chính đức tính này đã thuyết phục được Hawkins khi ông quyết định giao cho anh nhiệm vụ của một người phụ tá. Thật khó mà hình dung ra rằng bây giờ anh ấy lại suy sụp đến thế! Cô bạn thân à, nếu những điều tớ vừa nói ra đây khiến cậu phải bận tâm lo lắng và làm ảnh hưởng tới hạnh phúc của cậu thì xin cậu hãy thứ lỗi! Nhưng tớ buộc phải tâm sự với một người nào đó trong lúc này, bởi nếu đứng trước Jonathan, tớ tỏ ra can đảm và vững tâm bao nhiêu, thì việc phải âm thầm chịu đựng nỗi ưu tư một mình lại làm tớ suy sụp bấy nhiêu. Tớ sợ rằng ngày kia - tức là ngày bọn tô phải đưa Hawkins về Luân Đôn chôn cất bên mộ cha ông theo ý nguyện cuối cùng của ông tớ sẽ không thể đứng vững được nữa nếu không tâm sự được với cậu. Jonathan sẽ là người đứng đầu lễ tang vì anh cũng chẳng còn cha mẹ nứa. Song dù thế nào thì tớ cũng sẽ cố gắng đến thăm cậu, Lucy thân yêu ạ. Một lần nữa xin cậu đừng trách tớ vì những tin buồn này nhé!
Chúc cậu ngàn lần may mắn?
Mãi mãi là người bạn lớn của cậu, Mina Harker”.


Nhật ký của bác sĩ Seward


Ngày 20 tháng 9
Tối nay, tôi tình nguyện ở lại một mình, và như thường lệ, tôi lại giở sổ ra viết nhật ký. Tôi cảm thấy bất hạnh, mệt mỏi và yếu ớt - cứ như đang chán đời và chán tất cả mọi người - đến nỗi nếu lúc này nghe thấy tiếng đàn dơi vỗ cánh, thế nào tôi cũng nghĩ là thần Chết đang mời mọc mình. Đúng là trong những ngày vừa qua, chúng tôi đã thấy... Lúc đầu là bà mẹ của Lucy, rồi đến cha của Arthur, và bây giờ... Nhưng cứ để cho tôi kể...
Đến giờ hẹn, tôi lên trông Lucy để Van Helsing có thể nghỉ ngơi một chút. Cả tôi và giáo sư đều cố gắng thuyết phục Arthur cùng đi nghỉ, song anh cứ nhất định từ chối. Tuy nhiên, khi tôi giảng giải cho anh biết là ngày hôm sau, chúng tôi có thể rất cần tới sự giúp đỡ của anh và chúng tôi không nên để mệt mỏi thêm chỉ vì mất ngủ, anh đã vâng lời. Van Helsing cũng động viên anh ta :
- Xuống nghỉ đi, anh bạn trẻ? Sự đau đớn và lòng ưu phiền có lẽ cũng đủ làm anh suy kiệt rồi, đừng để cho tình trạng ấy quá lên. Không nên ở lại một mình, bởi vì sự cô đơn có thể sẽ càng làm cho anh thêm đau khổ đấy. Xuống phòng khách cùng tôi đi, ở dưới đó có sẵn lò sưởi và hai chiếc trường kỷ rồi. Hai chúng ta sẽ nằm mỗi người một ghế thay giường vậy. Tôi sẽ kéo ghế lại gần anh, chúng ta phải nằm gần nhau để an ủi nhau trong lúc này, kể cả khi hai chúng ta cùng nằm ngủ khì và không ai nói gì cũng được.
Arthur đau đớn đứng nhìn Lucy một hồi lâu rồi lặng lẽ bước theo Van Helsing xuống cầu thang. Lucy vẫn nằm im bất động trên giường. Đưa mắt nhìn khắp căn phòng, tôi nhận thấy giáo sư vẫn tiếp tục dùng những bông hoa tỏi: ông đã chà xát hoa tỏi vào tất cả cửa sổ của các phòng, chỗ nào cũng sực một mùi hôi hắc của giống cây khó ngửi này. Ông còn tốt vội những bông hoa tỏi vào chiếc khăn tay của Lucy và quàng vào cổ cô. Lucy chưa bao giờ có những biểu hiện đau đớn đến thế. Thỉnh thoảng cô lại thở rống lên với những nhịp thở không đều. Cô vẫn ngủ với những biểu hiện của lần trước: miệng há hốc, hai hàng lợi tím tái và co tụt hẳn lại, hai hàm răng trông có vẻ dài và thậm chí còn nhọn hơn cả lúc sáng, đặc biệt những chiếc răng nanh, trông chúng còn dài và nhọn hơn hẳn những chiếc còn lại. Lúc tôi ngồi xuống mép giường, cô chợt khẽ cựa quậy yếu ớt như thể đang trải qua một cơn đau. Đó cũng chính là lúc có một vật gì đấy vừa đập mạnh vào ô cửa kính. Tôi rón rén bước lại gần cửa sổ, nâng một góc rèm lên nhìn ra ngoài. Dưới ánh trăng bàng bạc, tôi nhận ra một con dơi to bự đang miệt mài lượn đi lượn lại như điên, có lẽ là những tia sáng, dù yếu ớt, hắt ra từ phòng ngủ đã thu hút nó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy nó vỗ cánh đập lướt qua mặt kính cửa sổ. Khi tôi quay lại giường, Lucy đã hơi thay đổi tư thế nằm và gạt vung vòng hoa tỏi ra khỏi cổ từ lúc nào mà tôi không biết. Tôi cố gắng sắp xếp lại như cũ. Nằm thêm được một lúc nữa thì cô tỉnh dậy. Tôi cố gắng cho cô ăn một chút đúng như lời dặn của Van Helsing, cô ăn mà cứ như phải chịu một cực hình! Phải nói rằng mặc dù ngay cả cái sức lực vô thức của bản năng bây giờ cũng đã từ bỏ cô, nhưng dường như vẫn có một cái gì đó đang thôi thúc cô chiến đấu đến cùng chống lại bệnh tật và sẽ chiến thắng bệnh tật bằng mọi giá. Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy vừa mới tỉnh dậy, cô đã vội ôm xiết lấy tràng hoa tỏi. Tôi rất lấy làm lạ về điều này: cứ mỗi lần cô rơi vào trạng thái ngủ vùi khiến cho nhịp thở củạ cô trở nên rất khó nhọc là một lần cô lại đẩy tràng hoa ra xa. Ngược lại, cứ mỗi lần cô tỉnh hoặc sắp tỉnh dậy, tôi lại thấy cô ôm chặt lấy tràng hoa vào người. Còn một chuyện nữa mà tôi không thể nhầm: trong những giờ đồng hồ sau đó, tôi thấy cô tỉnh dậy rồi lại ngủ lịm đi rất nhiều lần, và sự việc cứ tiếp diễn như vậy với những động tác giống nhau của cô.
Vào sáu giờ tối Van Helsing lên thay ca cho tôi. Arthur đã ngủ thiếp đi nên ông không nỡ đánh thức anh dậy. Ông nhìn Lucy mà không khỏi xuýt xoa. Lát sau, ông quay sang bảo tôi, giọng rất nhẹ song cũng rất rõ ràng :
- Kéo rèm lên hộ tôi? Tôi muốn có ánh sáng!
Ông cúi xuống nhấc tràng hoa tỏi ra khỏi cổ Lucy để kiểm tra tình hình cho người bệnh. Tiếng kêu tắc nghẹn trong cổ họng ông đã làm tôi giật mình: “Lạy Chúa?” Tôi lặng người cúi xuống cùng ông, và những gì đập vào mắt đã khiến tôi rùng mình, run rẩy.
Các vết thương trên cổ cô đã hoàn toàn biến mất.
Van Helsing chết lặng đi một lúc, nét mặt ông lộ rõ vẻ cam chịu và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Khoảng năm phút sau, ông quay sang bảo tôi :
- Cô bé đang chết, mọi chuyện chắc cũng sẽ sớm kết thúc thôi. Nhưng anh hãy nghe tôi nói đây, dù cô ta có chết trong lúc ngủ hay không thì cũng thế thôi. Anh xuống đánh thức Arthur dậy cho anh ta được nhìn thấy người yêu mình lần cuối cùng. Anh ta đang đợi chúng ta gọi dậy vì tôi hứa thế mà.
Tôi bàng hoàng chạy xuống gọi Arthur. Phải mất một lúc anh mới tinh thần lại được sau một giấc ngủ mê mệt. Lúc đầu, tôi buộc phải nói dối anh ta là Lucy vẫn đang ngủ, nhưng dần dần tôi cũng phải thú thực rằng tôi và giáo sư Van Helsing đều rất sợ một kết cục buồn đang tới gần.
Arthur cảm thấy bầu trời như sắp đổ sập xuống, anh ta quỳ gối xuống ghế, hai tay ôm mặt, bờ vai rung lên bần bật bởi những tiếng nấc nghẹn ngào. Anh cứ quỳ gối như vậy mà cầu nguyện trong nhiều phút đồng hồ. Tôi phải nắm tay anh kéo dậy.
- Nào, anh bạn, tôi nói hãy can đảm lên, phải cản đảm lên vì cô ấy chứ.
Trở lại phòng Lucy, tôi thấy Van Helsing vẫn cố gắng tỏ ra bình thường nếu không muốn nói là còn cố làm ra vẻ vui hơn như mọi khi. Thậm chí ông còn lấy lược chải lại mái tóc óng ả như một dãy lụa vương lòa xóa trên gối của cô gái.
Khi chúng tôi vừa bước vào cũng là khi cô mở mắt. Nhìn thấy chồng chưa cưới, cô khẽ thì thào :
- Arthur! Tình yêu của em! Thật là vui khi được thấy anh ở đây!
Arthur cúi xuống định ôm chầm lấy cô gái, nhưng Van Helsing đã kịp ngăn lại :
- Đừng, đừng làm thế, bây giờ chưa phải lúc? Anh cầm lấy tay cô ấy là được rồi, làm như vậy có khi còn an ủi cô ấy được nhiều hơn đấy!
Arthur đành lòng cầm tay người vợ chưa cưới và quỳ xuống bên giường cô. Dù thế nào đi nữa thì trông cô vẫn rất xinh đẹp, những nét dịu dàng trên gương mặt thanh tú của cô thật hài hòa với vẻ đẹp thiên thần của đôi mắt. Hai hàng mi cô từ từ khép lại đưa cô vào giấc ngủ mới. Có đôi lúc, tôi trông thấy lồng ngực cô phồng lên rồi lại từ từ xẹp xuống, nhìn cô thở mà tôi ngỡ là đang nhìn một đứa trẻ bị ốm.
Sự thay đổi bất bình thường mà tôi thấy ở cô trong những giờ trước đó lại bắt đầu xuất hiện: nhịp thở khó nhọc với những hơi thở bị ngắt đoạn, mồm miệng há hốc ra để trơ hai hàng lợi trắng nhợt cùng hai hàm răng dài và nhọn.
Cô mở mắt ra trong một trạng thái gần như vô thức, trong ánh mắt ấy là một nỗi buồn vô tận lẫn với sự đau đớn vô vọng, chỉ có giọng nói là vẫn vậy, dịu dàng và chan chứa yêu thương :
- Arthur! - Cô nhắc lại những lời trước đó – Ôi! Tình yêu của em! Em thật hạnh phúc khi lại được thấy anh bên mình? Hãy ôm hôn em đi?
Chỉ đợi có thế, Arthur lập tức lao tới định ôm chầm lấy người vợ chưa cưới, nhưng một lần nữa, tôi và Van Helsing buộc phải cản anh lại. Van Helsing túm chặt hai vai Arthur và đẩy mạnh anh ta lùi lại tới tận gần cuối phòng, quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ ông khỏe đến thế.
- Anh bạn tội nghiệp ơi, đừng nên làm như vậy? – Ông khẽ kêu lên - Đừng bao giờ làm như vậy, phải biết thương cô ấy và thương lấy chính mình chứ!
Arthur chỉ còn biết đứng chết lặng tại chỗ, mặt thẫn thờ đau khổ như đang chờ đợi một điều tồi tệ nhất sắp xảy ra. Van Helsing và tôi không đám rời mắt khỏi Lucy lấy một phút. Chúng tôi thấy hình như trên khuôn mặt cô bắt đầu có những biểu hiện đầu tiên giống như những biểu hiện của chứng co giật. Tiếp đó, hai hàm răng nhọn của cô chợt há ngoác ra rồi bất ngờ khợp mạnh vào nhau tạo thành một âm thanh nghe khô khốc và ghê rợn. Tôi có cảm giác như cô vừa cắn một cái gì đó. Rồi đôi mắt cô từ từ khép lại, và cũng như những lần trước, nhịp thở của cô bắt đầu trở nên khó nhọc hơn.
Nhưng chỉ ít phút sau, cô lại mở mắt ra, vẫn ánh mắt dịu dàng trên khuôn mặt đau khổ. Cô khó nhọc đưa bàn tay trắng muốt nhưng gầy guộc nắm lấy bàn tay Van Helsing rồi hôn nhẹ lên đó.
- Người bạn già đáng kính của tôi. - Cô thổn thức nói bằng một giọng yếu ớt và run run như không còn kìm nén được cảm xúc khó tả trong lòng. - Người bạn già tốt bụng của tôi, cũng là người bạn già tốt bụng của anh ấy! Ôi? Hãy chăm sóc anh ấy giúp tôi, và hãy cứ để mặc tôi?
- Xin cô hãy yên tâm, tôi xin hứa với cô như vậy? – Giáo sư vừa nói vừa quỳ xuống bên giường bệnh.
Rồi ông quay sang bảo Arthur :
- Lại đây đi, anh bạn, hãy cầm lấy tay và hôn lên trán cô bé đi, song nhớ là chỉ được một lần thôi đấy nhé!
Đôi vợ chồng chưa cưới lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau thay vì một nụ hôn. Arthur chỉ làm có thế rồi lại lui xa ra.
Đôi mắt cô gái một lần nữa từ từ khép lại. Van Helsing cầm tay Arthur, trong khi mắt ông vẫn không rời khỏi cô gái.
Chúng tôi chợt nghe thấy những tiếng ran thoát ra từ lồng ngực thoi thóp của cô gái và rồi chẳng còn gì nữa, đến một hơi thở nhẹ cũng không!
- Thế là hết, ông lẩm bẩm tất cả đã kết thúc rồi.
Tôi nặng nề dìu Arthur xuống phòng khách, chỉ đợi đến bên chiếc ghế bành, anh đổ vật xuống, hai tay ôm mặt khóc nức nở. Nhìn người anh rung lên trong tiếng nấc nghẹn ngào, tôi không sao cầm lòng được.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải lên gặp Van Helsing. Ông đang đứng chết lặng nhìn cô gái xấu số, nét mặt ông đau khổ hơn bao giờ hết. Phải tội, nhìn Lucy, tôi có cảm giác như cái chết phũ phàng đã trả lại cho cô cái vẻ đẹp vốn có: vầng trán, rồi cả hai gò má của cô nữa, lúc này không còn những nếp nhăn nheo, thậm chí cả đôi bờ môi cô cũng đã mất đi cái màu trắng nhợt của xác chết. Dường như khi trái tim cô không còn đập nữa, dòng máu trong người cô đã dồn lại tô hồng cho làn môi để làm mất đi cái vẻ nhợt nhạt đáng sợ của một thây ma. “Vậy là khi cô bé đang ngủ, chúng tôi cứ tưởng là cô đã chết; còn bây giờ, khỉ cô ấy đã chết, chúng tôi lại ngỡ là cô đang ngủ”. - Tôi thầm nghĩ, trong lòng xót xa, cay đắng.
Tôi đến bên Van Helsing và khe khẽ nói như sợ làm cô bé thức dậy :
- Cuối cùng thì cô bé cũng được bình yên! Mọi nỗi đau đối với cô coi như đã chấm dứt.
- Chúa ơi, không đâu? - Ông quay sang nói với tôi, giọng thì thào. - Chúa ơi, không phải như vậy đâu! Những nỗi đau ấy mới chỉ vừa bắt đầu thôi.
Tôi hỏi giáo sư nói gì tôi không hiểu; ông lắc đầu trả lời :
- Bây giờ vẫn còn quá sớm để hành động. Chúng ta hãy cứ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra!
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top