Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Ảnh hưởng Cung đình trong phong cách Huế .
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 12643" data-attributes="member: 6"><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 22px"><span style="color: #800000"><strong>Huế của một thời</strong></span></span></p><p> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #00008a"> ẢNH HƯỞNG CUNG ĐÌNH</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #00008a"> TRONG PHONG CÁCH HUẾ (2)</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"> <img src="https://www.art2all.net/tho/tho_vha/huecuamotthoi/hue-vietnam.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Khó mà xác định đến thời điểm nào thì hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh với mái tóc thề, chiếc nón bài thơ và tà áo trắng đã trở thành một trong những biểu tượng của xứ Huế, mang đặc tính tượng trưng gợi cảm chẳng khác gì sáu nhịp cầu Trường Tiền mềm mại, dòng sông Hương lặng lẽ và tháp Thiên Mụ cổ kính soi bóng lung linh. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Hẳn hình ảnh duyên dáng yêu kiều và nên thơ đó không phải được hình thành do một quyết định của Bộ Giáo Dục, buộc học sinh trung học nam nữ phải đồng phục, như người ta có thể nghĩ một cách đơn giản. Có lẽ nó phải được kế thừa từ một phong cách Huế, thắm đậm từ hàng trăm năm, làm cho người phụ nữ Huế, trong một thời quá khứ không xa, dù giàu hay nghèo, nhàn du hay buôn gánh bán bưng, cũng khoát chiếc áo dài trên mình khi bước chân ra đường.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Anh bạn người Cần Thơ của tôi lần đầu tiên bước chân đến Huế đã “nhín cười muốn chết” khi thấy bà bán xu-xoa vai gánh hàng, mặc áo dài, mà . . . chân đất ! Đó là một hình ảnh đầy vẻ cầu kỳ và mâu thuẩn của người Huế so với lối sống bình dị của người miền Nam. . . Mặc dù trí nhớ ngày càng tồi tệ với thời gian, nhưng một trong những hình ảnh thời thơ ấu còn in đậm trong ký ức tôi trên đất khách này là mụ Mì và mụ Ngãi.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Mụ Mì là một người đàn bà tứ cố vô thân, sống trong một căn lều xiêu vẹo sau lưng lầu Ông Hoàng Tùng Đệ . Mụ sinh nhai bằng nghề nói vè: Vè Thất thủ Kinh đô, Vè Cô Thông Tằm, Vè Mụ Đội. . . Hàng ngày, với cặp sanh bằng gỗ trắc lên nước bóng như mun, mụ bước dò dẫm khắp mọi nẽo đường của Huế để nói vè, kiếm vài xu độ nhật. Giọng mụ khàn khàn, khi phải lên giọng diễn tả, cả con người ốm o của mụ rướn lên cùng cặp mắt trắng dã, đã phụ họa hữu hiệu vào tình tiết câu chuyện bi thảm và làm cho nước mắt người nghe khó mà ngăn được tuôn trào. Bà ngoại tôi và mạ tôi đã đổ nước mắt như thế không biết mấy lần, dù nội dung câu chuyện đã được các bà thuộc nằm lòng. Tôi gọi đó là những giọt nước mắt nuôi sống mụ Mì. Dù cơ cực như thế, dù làm nghề hát dạo của một kẻ ăn xin, mụ Mì vẫn luôn luôn mặc áo dài, một manh áo dài vá chằm vá đụp. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Còn mụ Ngãi, có khá hơn mụ Mì một tí, ở ngay trong xóm tôi, và vốn liếng sinh nhai là đôi triên gióng, chiếc đòn gánh lên nước và mấy cái mẹt và mũng đựng nào me, ổi, đào, sấu, khế ngọt, sim, hột móc, hột sót . . . mùa nào thức nấy, cung cấp quà vặt cho bọn thò lò mũi xanh “nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò”. Tứ thời bát tiết, mụ Ngãi cũng áo dài . . . chân đất. Thậm chí đến mấy o, mấy chị làng Chuồng hay Cửa Thuận, người tanh rình, gánh cá chạy ào ào, làm đày và chửi rất ngọt, mồ hôi mồ kê tùm lum . . vậy mà cũng áo dài.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Chế độ phong kiến nào cũng tạo ra đẳng cấp với sự phân biệt về đặc quyền đặc lợi trong đời sống, vì đó là một nguyên tắc phải có nhằm mục đích duy trì quyền uy của chế độ và sự hưởng thụ của người ngồi trên. Những đặc quyền đặc lợi đó được thể hiện rõ rệt trong ở trong lối ăn, mặc và ở. Giai cấp quan quyền, ngoài phẩm phục vua ban, họ còn có khả năng may mặc với lụa là gấm vóc, chế tác theo sở thích trong khuôn khổ của luật pháp. Các bà có chồng làm quan, dĩ nhiên cũng được thơm lây, được sắc phong tùy theo chức tước và địa vị của chồng, từ đó có những quyền lợi phụ thuộc đi kèm. Chiếc áo “mạng phụ” (mệnh phụ) của các bà cùng với chiếc khăn vành về sau đã được phóng tác và phổ biến trong xã hội qua chiếc áo cưới khoác ngoài và cái khăn vành rây đội đầu của các cô dâu ngày nay. Những gì về ăn mặc đã được vua qui định, dĩ nhiên không ai dám vi phạm, nhưng không cấm được những chế tác mô phỏng từ những qui định đó để làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Chẳng hạn, phụ nữ vào các dịp lễ lạc, không phân biệt giai tầng, nếu có điều kiện tài chánh vẫn diện được áo “mớ hai mớ ba” như ai. “Mớ hai” là mặc hai lớp áo dài, “mớ ba” là ba lớp. Các bà chọn màu theo “gam” các bà thích và bảo thợ may các áo đó cùng một lần. Vì sao? Vì các áo đó phải mặc chồng lên nhau và các màu sắc phải được phô bày nên thợ phải đo may một lần mới tính toán được. Áo trong bao giờ cũng hẹp và ngắn hơn áo ngoài để khi mặc vào các lớp áo ôm sát nhau và khi bước đi, những tà áo theo bước chân phe phẩy khoe màu theo thứ lớp, trông đẹp mắt và khác lạ hơn người.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Áo mớ hai, mớ ba, áo gấm, áo mệnh phụ hay bất cứ loại áo đẹp nào cũng phải đi với quần “xếp con”, là loại quần có hai ba đường xếp nhỏ, rộng độ năm sáu ly, chạy hai bên hông. Đường xếp chạy dọc từ lưng xuống lai. Hai tà áo gặp nhau vừa đúng đường xếp của quần.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"> <img src="https://www.art2all.net/tho/tho_vha/huecuamotthoi/mangphu2.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Khăn vành và áo mạng phụ, tiền thân</em></span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #000080"><strong><em><span style="font-family: 'Times New Roman'">của khăn và áo cưới của cô dâu ngày nay</span><span style="font-family: 'Times New Roman'">.</span></em></strong></span></span> </p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Phụ nữ Huế bình dân còn có một kiểu áo dài khác rất sáng tạo, đó là “áo nối khoác”. Cơm ăn và áo mặc là hai vấn đề bức thiết trong cuộc sống, nên càng tiết kiệm càng tốt. Thế nên khi các bà có áo dài rách vạt hoặc rách vai, rách cổ, thấy chằm vá cũng kỳ mà bỏ đi thì phí của trời, vậy nên các bà mới đem nửa dưới lành lặn của cái này chắp với nửa trên lành lặn của cái kia, tạo thành một chiếc áo mới với hai màu sắc khác nhau, có khi rất nhã. Diễn tả như thế, bạn đọc cũng đã hiểu được chữ “nối” trong “áo nối khoác” là gì. Thế còn “khoác” là gì? Đây không phải là một từ đệm, nó có một nghĩa ngang hàng với “nối”. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Như đã nói, mặc áo dài ra đường là phép lịch sự tối thiểu của phụ nữ Huế, bất kể giàu nghèo sang hèn. Tỏ ra lịch sự, nề nếp, con nhà, là điều cần thiết, dù ăn rau ăn mắm đi nữa, nhưng . . . thiệt tình mà nói, đôi lúc cũng phiền toái. Bước ra đầu xóm hỏi thăm chút việc, ra quán đầu ngõ chờ cá Cửa Thuận gánh lên, bước qua nhà bà Cửu cách có ba nhà để xin ít lá chanh nướng thịt . . . mà cũng mặc nguyên chiếc áo dài sao? Có vẻ long trọng quá! Đã thế, tiết hè oi ả, có việc gì quan trọng để phải chịu cực hình trong chiếc áo dài như thế ? Trong những trường hợp đó, chiếc “áo nối khoác” thật là thích hợp: quơ vội cái áo, các bà khoác lên mình, không xỏ tay, chỉ cài một khuy cho chiếc áo khỏi rơi, và cứ thế ung dung dạo xóm, vẫn giữ được phép lịch sự mà không thiếu thoải mái! Trong ý nghĩ “cù lần” của tôi, chiếc áo nối khoác này là một sáng tạo có giá trị như giá trị sáng tạo của món cơm hến.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Hình như cơm hến được chế tác trong mục đích tiêu thụ cơm nguội của tối hôm trước với vật liệu sẵn có trong tầm tay: ruốc, mỡ hẳn là luôn luôn sẵn có trong nhà; môn bạc hà, bắp chuối, rau thơm, ớt tươi . . . có sẵn sau vườn. Chỉ cần chịu khó đợi “con mệ bán hến” đi ngang ngõ là có đầy đủ thành phần cho một bữa ăn khoái khẩu. Không có một sáng tạo nào vừa tiết kiệm lại vừa có tính nghệ thuật cao tuyệt vời đến thế, vừa vị nghệ thuật vừa vị nhân sinh. Cái áo nối khoác ra đời cũng trong điều kiện tương tự.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Sau năm 1975, với “nếp sống văn minh” thể hiện từ những “đỉnh cao trí tuệ”, tà áo dài chợt biến đi như một quá khứ. Trong một lần đi quét vôi thuê cho một gia đình nọ để chuẩn bị đám cưới, tôi đã được nghe một mẩu đối thoại lý thú giữa hai bà sui về chiếc áo dài truyền thống.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Bên đàng gái ở Huế, thuộc gia đình “có công với cách mạng”. Đàng trai gốc Quảng Bình, bà mẹ là một cán bộ trung cấp làm việc tại Hà Nội, có con trai vào làm việc ở Sàigòn và gặp người yêu ở đó. Cả hai dẫn nhau về Huế, đón mẹ từ Hà Nội vào để làm lễ cưới.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Bà sui gái:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> -Chị có đem theo áo dài không?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Bà sui trai:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> -Chị nói áo dài gì cơ?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> -Thì áo dài để mặc vào các dịp lễ như cưới hỏi như ri nì.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> -Ồ, làm gì có. Loại áo đó xưa rồi, ở ngoài ta họa may chỉ có mấy bà cụ già bảy tám mươi mới còn có loại áo đó. Bây giờ, nếp sống văn minh, để tiện công tác, sinh hoạt, lễ lạc gì người ta cũng ăn mặc đơn giản thôi.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> -Ở ngoài đó thì được, chớ ở đây cưới hỏi như ri mà mặc rứa không được mô, bà con người ta cười chết. Thôi, chị cở người cũng bằng em . . .chị coi cái mô mặc vừa và ưng ý thì lấy để mai mốt mặc khi làm lễ. Ở mô thì phải theo phong tục ở đó, làm không giống ai, thiên hạ người ta cười, em chịu không được mô.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Ồ, ồ, hay nhỉ. Mà làm sao chị có nhiều áo dài đẹp thế ?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Câu chuyện xảy ra vào mùa hè 1985. Cũng may nhờ có “đổi mới tư duy” nên nay chiếc áo dài truyền thống đã sống lại, nếu không, nghề may áo dài chừng mươi năm nữa thì tuyệt giống và các nhà dân tộc học quốc tế hẳn sẽ khổ công tìm kiếm cái gọi là quốc phục của một nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến! </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Thành ngữ “ăn Bắc mặc Kinh” phổ biến khắp mọi miền, ai cũng biết. Chữ “Ăn” với nghĩa là “nói năng” hay “ăn uống”, người ta vẫn còn bàn cãi, chưa ai chịu ai, nhưng “mặc Kinh” thì ý nghĩa đã quá rõ ràng, hiển nhiên. Do ảnh hưởng của lối sống cung đình, việc ăn mặc ở chốn kinh đô đã trở thành một tiêu chuẩn thời trang chẳng khác gì thế giới khi hướng về thời trang Paris hay New York.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Vua Minh Mạng, sau cuộc kinh lý miền Bắc (ngự giá Bắc tuần, 1821), thấy lối mặc váy của phụ nữ ngoài đó không được nhã, đã hạ chiêu bắt phải thay đổi cách ăn mặc. Dư luận nhao nhao lên phản đối, phản ảnh qua bài ca dao sau : </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Tháng Tám có chiếu vua ra,</em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.</em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Không đi thì chợ không đông, </em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Đi, thì phải lột quần chồng, sao đang?</em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Có quần thì ra đứng đàng,</em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"><em>Không quần, về đứng đầu làng trông quan.</em> </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Cũng may là con người có ý hướng hướng thượng, dần dà rồi cũng hiểu ăn thế nào là ngon, mặc thế nào là đẹp, và dù phản đối, dần dà rồi chiếc váy sồi dày như mo cau kia cũng lui về quá khứ, nhường chỗ cho chiếc quần dài tha thướt, hài hoà với chiếc áo dài xinh đẹp, làm tôn giá trị của người phụ nữ Việt Nam. Trong tiến trình làm đẹp cho dân tộc, Huế không dấu diếm niềm hãnh diện mở đường. Nếu bài thơ “Áo lụa Hà Đông” đã đưa Nguyên Sa vào lịch sử văn học thì người dân Huế cũng biết ơn nhạc sĩ Hoàng Nguyên với “Tà Áo Tím”. Màu “Tím Huế” đã trở thành một đặc trưng của Huế mơ màng và trầm mặc. Tạ ơn đời, ngày nay những tà áo trắng đã sống lại bên bờ sông Hương, nối lại một truyền thống tưởng như đã mất hẳn kể từ cái năm 1975 đó.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">O</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Nếu ảnh hưởng cung đình trên cách ăn mặc nặng về phong thái hơn là vật chất thì xem ra ảnh hưởng này trên ngôn ngữ có vẻ phong phú hơn. Hẳn là vì “lời nói không mất tiền mua” và giai tầng nào cũng có thể đóng góp vào sự phong phú đó một cách dễ dàng, tùy nhận thức và cảm tính. Theo thiển nghĩ, cung đình đã ảnh hưởng trên lối nói của người Huế qua hai yếu tố tác động: sự bắt buộc phải kiêng húy và sự phân biệt đẳng cấp qua ngôn ngữ. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Nhớ hồi còn bé, anh chị em chúng tôi nhiều lần bị bố mẹ la rầy là “đồ bất hiếu”, “đồ vô lễ”, chỉ vì trong lúc nói năng không kịp suy nghĩ trước sau đã phạm vào “trọng húy”, dùng những chữ trùng tên ông bà nội, ông bà ngoại hoặc các bậc trưởng thượng khác. Ôi, biết bao kiêng cử phải theo, làm sao mấy đứa nhỏ nhớ cho xuể: nào kiêng tên ông bà, tổ tiên, nào kiêng tên vua chúa, nào kiêng tên thần hoàng, khai canh . . . Cô em tôi sinh ra, được đặt tên là Xuân Minh, trong nhà thường gọi tắt là Minh. Tôi nhớ rằng cái tên Minh được gọi đâu chừng bốn năm tháng thì thầy mẹ tôi bảo cả nhà từ nay phải gọi tên em là Miên. Tôi hỏi mẹ: “Tại răng lại đổi tên em? Tên Miên nghe dở ỏm”. Mẹ tôi cho biết là cậu tôi đề nghị đổi tên, vì tên Minh trùng với tên của một bậc trưởng thượng bên ngọai, đang còn sống. Rút kinh nghiệm đó, khi nhà tôi có thai đứa con đầu, hai vợ chồng tôi chọn một loạt tên con trai và con gái, xong đưa danh sách cho thầy tôi duyệt. Những cái tên “phạm húy” được gạch bỏ, phần còn lại, chúng tôi cứ thế mà dùng đặt tên cho các con. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Vào nửa trước thế kỷ XX, khi ảnh hưởng của tư tưởng Tây phương chưa lấy gì làm sâu đậm, hầu như đại đa số người Việt, theo truyền thống, đã quan niệm rằng cái tên rất đáng trọng, nhất là khi địa vị người đó trong xã hội càng cao, hoặc khi người đó đã quá vãng. Gọi tên tục của người khác là một thái độ bất kính. Vì vậy, để tỏ sự kính trọng, phải kiêng tên người đó, chỉ được gọi bằng chức tước, địa vị hoặc thứ bậc trong gia đình mà thôi. Ví dụ, trước năm 1945, ở Huế và Quảng Trị, khi người ta muốn nói đến ông Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư Bộ Lại của triều đình Huế trước 1932, thường gọi là “cụ Quận Phước Môn”, vì ông được phong làm Phước Môn Quận Công.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Trong các dịp ma chay, cúng giỗ, khi các thầy đọc sớ, điệp (nếu cúng Phật), thường ngân nga lên giọng, thế nhưng đến tên người quá cố, liền xuống giọng như thì thầm là để tỏ lòng tôn kính người đã khuất. Thời còn cắp sách đến trường tiểu học (cấp 1), ai trong chúng ta hẳn cũng đã hơn một lần bằng mọi cách bảo vệ cho được cái thông tín bạ (học bạ ) thầy cô phát ra chỉ vì không muốn cho đứa bạn ngồi bên cạnh đọc thấy tên cha mẹ mình, sợ có ngày nó đem ra chửi. Réo tên ông bà, cha mẹ của đối phương ra mà chửi là một thái độ mạ lỵ cùng tột. Ở trong dân gian mà còn thế, huống gì đối với tâng lớp thống trị đương quyền. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Triều đại nào cũng coi trọng sự kiêng tên của các vua chúa và điều này thường được thể hiện bằng luật pháp, nghĩa là bắt buộc mọi người phải thi hành. Hãy lấy một thí dụ về cái tên cửa Tư Hiền, một trong hai của biển của Thừa Thiên mà không một người Huế nào không biết. Nguyên cửa biển này đời Nhà Lê đặt tên là Tư Dung. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi Nhà Lê, bèn ra lệnh đổi tên là Tư Khách. Khi Nhà Lê trung hưng, chiếm lại được Thuận Hóa, liền ra lệnh trở lại tên cũ là Tư Dung. Đào Duy Từ, khi theo chân nhạc gia từ Khánh Hoà ra Phú Xuân để mưu cầu một cuộc tiến thân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi), ghe của ông đã vào cửa Tư Dung để ngược dòng Hương đến kinh đô. Đối cảnh sinh tình, Đào Duy Từ đã sáng tác bài ca Tư Dung Vãn để ký thác tâm sự của kẻ chưa gặp thời. Nhiều người không rõ nguyên ủy, đã lấy làm lạ tại sao Đào Duy Từ vào cửa Tư Hiền mà lại gọi là Tư Dung? Cái tên Tư Dung tồn tại đến năm 1841 thì chấm dứt. Năm đó, hoàng tử Miên Dung lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu là Thiệu Trị (1841-1847). Gọi Tư Dung là phạm trọng húy, nên Bộ Lễ phải tâu xin đổi lại tên khác; cái tên Tư Hiền ra đời từ đó. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Thời trước, thí sinh dưới bất cứ triều đại nào cũng lấy làm lo sợ về việc phạm húy vì việc này sẽ dẫn đến những hậu quả lắm khi thật tệ hại. Trước mọi kỳ thi, những qui định về việc kiêng húy được thông báo cho thí sinh rõ và thầy nào dạy học trò đi thi cũng phải dạy kỹ điều đó. Tuy nhiên, vì phải kiêng húy quá nhiều, có khi nhớ không xuể, sơ sót vi phạm là thường. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Đến triều Nhà Nguyễn,xem ra việc kiêng húy càng trầm trọng hơn. Một ông vua Nhà nguyễn thường có năm tên:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-<em>Danh tự</em>: là tên tục, tên móc nôi, tên do cha mẹ đặt khi mới sinh ra.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-<em>Ngự danh</em>: là tên mới, nhận lãnh khi lên làm vua. Vua Minh Mạng (1820-1841 sau khi chọn 20 chữ có ý nghĩa hay, viết theo bộ Nhật (mặt trời), đã cho khắc vào Kim sách (sách đóng bằng những lá vàng dát mỏng, thay cho giấy) và qui định rằng khi một hoàng tử được chọn nối ngôi, sẽ không dùng tên cũ nữa, mà phải mang một tên mới, lấy theo thứ tự ghi trong Kim sách. Thừa mệnh Trời, nhận lãnh nhiệm vụ mới đầy thiêng liêng và cao cả, vậy phải có tên mới và phải tỏ ra xứng đáng với tên mới đó. Ấy là ý nghĩa của sự chế tác Kim sách.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-<em>Niên hiệu</em>: là tên của triều đại đương thời. Ví dụ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị . . . là niên hiệu.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-<em>Thụy hiệu</em>: là tên gọi khi chết, tên dùng để khấn khi cúng bái (tên cúng cơm). Khi vua băng hà, triều đình dâng thụy hiệu, nghĩa là đặt tên mới cho vua. Việc đặt tên mới cho người quá vãng là một việc phổ biến đối với mọi người (tên này sẽ được viết vào lá triệu ) chứ không phải là một đặc quyền của hoàng gia.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-<em>Miếu hiệu</em>: sau khi chôn cất xong, vua quá cố sẽ được thờ tại Thế miếu và Triều đình lại đề nghị một tên mới để thờ, gọi là miếu hiệu. Ví dụ vua Gia Long có miếu hiệu là Thế tổ Cao Hoàng đế, vua Minh Mạng là Thánh tổ Nhơn Hoàng đế.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Khi vua mới lên ngôi, Bộ Lễ có nhiệm vụ rà soát lại tất cả mọi địa danh trong nước, xem có nơi nào trùng tên với vua không. Nếu có thì phải dâng sớ đề nghị xin đổi tên mới, vì danh tự và ngự danh là trọng húy, tuyệt đối không được nói đến, vi phạm sẽ bị ghép vào tội khi quân, là một trọng tội theo pháp luật xưa. Quan hay dân có tên trùng với tên của vua cũng phải lo đổi gấp. Thậm chí, đối với các quan nếu có họ hay chữ lót trùng với tên vua mới cũng phải thay đổi. Khi hoàng tử Ưng Đăng trở thành vua Kiến Phúc (1884) thì dòng họ Trương Đăng, một thế gia vọng tộc ở Quảng Ngãi, phải đổi thành Trương Quang để khỏi trùng tên với vua. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Như vậy, cứ mỗi lần có vua mới, trong dân gian lại có thêm những chữ phải kiêng cử, không được nói tới, có nghĩa là phải sáng tác ra chữ mới để dùng. Cái tên của vua thiêng liêng cho tới nổi các sử thần không dám viết thẳng tên vua vào sử mà phải viết theo lối chiết tự, ai muốn biết thì tự ghép lại, sẽ đọc được đó là chữ gì. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Hẳn có người sẽ đặt câu hỏi: việc kiêng tên người đâu phải là một đặc điểm của Huế, bằng cớ là ở trong Nam, người ta kiêng tên ông Tả Quân Lê Văn Duyệt nên gọi “duyệt” là “dượt”, kiêng tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên nên gọi “nguyên” là “nguơn”. Còn ở ngoài Bắc, người ta kiêng tên chúa Trịnh Tùng nên gọi “tùng” là “tòng” v.v. và v.v.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Vâng, chúng tôi cũng hiểu điều đó, nhưng điều cần lưu ý ở đây là Huế, chốn kinh đô, gần mặt trời, do đó việc kiêng húy càng được đặt nặng hơn các nơi khác. Trong việc kiêng húy này, giới nào phải chấp hành trước và chấp hành triệt để? Đó chính là giới quan lại mà Huế là nơi “thổ sản”. Chính phát xuất từ gia đình các quan lại mà ảnh hưởng lan vào quần chúng, một kiểu ảnh hưởng dây chuyền, như chúng tôi có dịp trình bày trong bài trước, khi nói về ảnh hưởng cung đình qua cách ăn của người Huế (Tiếng Sông Hương, Dallas,1992).</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Thầy tôi vốn làm quan dưới hai triều Khải Định (1916-1925) và Bảo Đại (1925-1945), hồi chúng tôi mới bắt đầu cắp vở đi học đã được dặn là phải kiêng húy của “hai ngài”, ngoài tên của các ông bà nội và ngoại. Vua Khải Định có tên là Bửu Đảo, vua Bảo Đại có tên là Vĩnh Thụy. Thế là chúng tôi phải gọi hòn đảo là “hòn cù lao”, gọi thụy là “thị”. Khi muốn nói “đảo ngược” thì phải nói là “trở ngược”. Thử hỏi lúc bấy giờ, dưới sự đô hộ của người Pháp, vua Việt Nam đã không còn thiêng như ngày trước mà còn đến thế huống hồ là vào lúc thịnh thời của đế chế. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">“Hồng” đã được người Huế biến thành “hường” , “hoa” trở thành “bông”, vì vậy ngưới ta thì gọi là “hoa hồng” nhưng người Huế cứ là “bông hường”, chỉ vì kiêng tên vua Tự Đức (húy là Hồng Nhậm) và tên của của bà Hồ Thị Hoa, thân mẫu vua Thiệu Trị. Tỉnh Thanh Hoa trở thành Thanh Hóa và “trách nhậm” trở thành “trách nhiệm” cũng là thế.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span> <p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">O</span></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"></span> </p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Nếu có những chữ “đặc Huế” mà chúng ta có thể truy tìm được nguồn gốc của sự thay đổi như đã dẫn chứng đại khái ở trên thì cũng có những chữ đặc Huế khác mà chúng ta khó biết do đâu mà thành hình, ngoại trừ kết luận một cách chung chung là do vấn đề kiêng húy mà ra. Chẳng hạn người Huế thường gọi mẹ là “mạ”, có vùng gọi cậu mợ là “cụ mự”, gọi nước là “nác”, bản là “biển”, lạt là “lợt”, và ít khi phân biệt sự khác nhau giữa “màu” và “mùi”, v.v.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Sự kiêng húy quả có ảnh hưởng trên lời nói của người Huế, nhưng thực sự không mạnh mẽ và sâu xa bằng ảnh hưởng của vấn đề phân biệt đẳng cấp qua ngôn ngữ, phát xuất từ trật tự cung đình. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Do ảnh hưởng của truyện Tàu, của hát bội, cải lương, nên không ít người nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày nơi cung cấm hẳn hoàng gia cũng gọi nhau như tiểu thuyết từng mô tả. chẳng hạn con gọi mẹ là “mẫu hậu”, mẹ gọi con làm vua là “vương nhi” v.v. Tôi cũng hơn một lần nghĩ như thế cho đến khi biết được sự thật. Hoàng gia Nhà Nguyễn gọi nhau khá bình dị nhưng trong sự bình dị đó vẫn hàm chứa tính cách vương giả. Chẳng hạn:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Vua gọi mẹ (hoàng thái hậu) là <em>Ả</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Hoàng thái hậu gọi vua là <em>Con</em> hay <em>Hoàng đế</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Vua gọi hoàng hậu (hay Nhứt giai phi) và các thứ phi bằng <em>Bà</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Con gọi vua cha là <em>Đức Cha</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Cháu gọi bà là <em>Đức Bà</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Em gọi anh là <em>Đức Anh</em> (hay Đức Yên), gọi chị là <em>Đức Chị</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Hoàng gia và triều thần gọi vị vua đã quá cố (băng hà) là <em>Đức Tiên Đế</em> và các vị vua đời trước là <em>Liệt Thánh</em>.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Vua xưng với các quan là <em>Trẫm</em> hay <em>Ta</em> và gọi các quan là <em>ngươi</em>. Để tỏ lòng yêu mến thì gọi là <em>khanh</em>, hoặc tôn trọng hơn nữa thì gọi là <em>thầy</em>. Các quan khi đối thoại với vua thì xưng là <em>chúng tôi</em>. Những danh xưng như thần, hạ thần, cũng có thể dùng hoặc không trong đối thoại nhưng tuyệt đối phải dùng trong giấy tờ dâng lên vua (sớ, biểu). Ngoại trừ hoàng thái hậu, còn tất cả, từ hoàng hậu trở xuống cho tới các quan và thứ dân, mở đầu đối thoại với vua, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều phải dùng chữ <em>tâu</em> hoặc <em>tấu</em> để mở đầu câu nói.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Vua thì phải khác người thường, do đó những gì liên hệ tới công việc và cuộc sống hàng ngày của vua cũng có thể cách riêng để diễn tả. Vua ăn thì gọi là <em>Ngài ngự thiện</em>; vua ngủ là <em>Ngài ngơi</em> hay <em>Ngài ngự ngơi</em>; vua ngủ chưa dậy là <em>Ngài ngơi chưa tánh</em>; vua bệnh gọi là <em>Ngài se mình</em>; vua cho ai cái gì thì gọi là <em>Ngài ban</em> hay <em>Ngài ân tứ</em>. <em>Ngài ban</em> cũng có nghĩa là vua ra lệnh, vua truyền phán, vua nói về một điều gì đó. Nếu bữa cơm của vua với ba mươi lăm phẩm vị đã có thể được mô phỏng để trở thành mâm giỗ đặc biệt của người Huế thì lối nói năng của cung đình, qua trung gian của đẳng cấp quan lại và gia đình họ, hẳn phải gây ít nhiều ảnh hưởng trong cách nói của người Huế. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Người Huế chúng ta, nhất là lớp cũ, hẳn không lạ gì phong cách của các “mệ” (danh xưng để chỉ nhưng người trong Hoàng tộc, bất kể nam hay nữ) trong cách ăn nói, luôn luôn biểu lộ cái vẻ quyền uy, đài các, có khi đến độ gần như giả tạo, nếu nhìn dưới một khìa cạnh khác. Một giai thoại kể rằng có một “mệ” vốn là con cháu của một ông hoàng, nhưng vì ăn chơi quá độ nên cảnh nhà trở thành sa sút, thường phải vay mượn, thậm chí, có khi phải xin tiền của người quen biết trước kia để mà tiêu. Thế nhưng kiểu xin của mệ cũng khác người ta. Xin vài xu để mua khoai lang luộc ăn cho đở đói nhưng mệ lại nói: “Nì, có tiền dâng mệ ít nhiều để mệ chém đầu mấy củ khoai.” Nếu không phải là Huế, đã biết về các mệ, thật khó thưởng thức câu nói đầy tính hài hước đó.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Trong giao tiếp, đối với vua, muốn nói một điều gì, tất cả phải mở đầu bằng “tâu”. Còn quan cấp nhỏ nói với quan cấp trên thì phải “thưa” hoặc “bẩm”, có khi còn phải thêm chữ “kính” ở đàng trước nếu muốn tỏ lòng cung kính hơn, hoặc muốn giở giọng nịnh. Những lối nói này cũng áp dụng trong dân dã khi họ đối thoại với những người có địa vị hoặc những bậc tuổi tác, trưởng thượng trong gia đình.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Về cách mời ăn, để tỏ lòng kính trọng, người Bắc bao giờ cũng nói “mời .(ông, bà, anh, chị . . .) xơi cơm.” Với người Huế, tôi thấy cả một loạt từ ngữ phong phú nói về việc ăn, áp dụng cho từng đối tượng khác nhau, tùy theo mối tương quan thứ bậc gia đình hoặc xã hội giữa hai bên, biểu lộ tính đẳng cấp rõ rệt. Chẳng hạn:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Để tỏ lòng kính trọng thì mời <em>xơi cơm</em>, <em>thời cơm</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Vừa phải, lịch sự, thì mời <em>dùng cơm</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Ngang hàng, cùng trang lứa, thận mật thì mời <em>ăn cơm</em>;</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Coi thường, nói với kẻ dưới tay, nói với “bầy quân”, “sáp nhỏ”,nói giận dỗi, nói làm đày, thì có: <em>làm năm ba hột, mần một bụng, ních, đẫn, tứa, dộng, tạp, táp...</em></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> </span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Người ta kể rằng hồi còn chế độ thuộc địa, Chánh Sở Mật thám Trung kỳ, Léon Sogny, rất thông thạo chữ Hán và tiếng Việt. Tuy vậy, ông ta vẫn không ngừng tìm cách học hỏi thêm, bất cứ ở đâu, với bất cứ ai. Để thông hiểu ngôn ngữ của giới bình dân xứ Huế, Sogny thuê một chiếc xe kéo, dặn mỗi buổi chiều khi đến giờ tan sở thì đem xe đến trước cửa Tòa Khâm để chở “quan lớn” đi dạo mát. Một khi đã ngồi trên xe, Sogny tìm mọi cách gợi chuyện và chuyện trò rôm rả với anh phu kéo xe. Thấy “quan lớn” bình dân, lại thông thạo tiếng “An-Nam”, anh phu kéo xe tỏ ra rất hứng khởi trong những lần kéo xe chở quan đi dạo. Sau một thời gian thực tập như thế, Sogny cảm thấy vốn liếng ngôn ngữ bình dân của mình ngó bộ đã vững vàng hung, bèn thử tìm cách tự trắc nghiệm khả năng. Một buổi chiều, “quan lớn” nói với anh phu xe kéo : “ Từ bữa ni, tau cho phép mi nói bất cứ câu chi mà tau không hiểu thì tau thưởng cho mi một đồng bạc.” Anh xe kéo tưởng mình nghe lầm, vì đồng bạc lúc bấy giờ có giá trị lớn lắm, một cuốc xe chừng năm, sáu xu, chạy đổ mồ hôi trán mới có, nay chỉ nói chơi chơi mà được cả đồng bạc, sướng biết chừng mô. Ấy vậy mà không dễ ăn. Mấy bữa liên tiếp, anh ta đều thất bại, vì “quan lớn” rành tiếng “An-Nam” quá, nói chi quan cũng hiểu. Một hôm, anh chợt nghĩ ra diệu kế, bèn đem ra thực hành ngay. Sau khi “quan lớn” an tọa trên nệm xe, anh xe kéo vừa nâng càng xe lên vừa hỏi: </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Da, bẩm quan lớn, chiều ni ngài đã <em>tứa</em> chưa mà đi <em>giởi</em> sớm ri?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Sogny khựng người khi nghe câu hỏi. Im lặng một lát, ông ta lên tiếng:</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Giỏi! Rứa là mi được thưởng một đồng bạc như tau đã hứa. Mi nói câu nớ nghĩa là răng?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Da, có chi mô. Con chỉ hỏi quan lớn là quan đã xơi cơm chưa mà đi chơi, đi dạo sớm như thế này. Nhà quê nhà mùa tụi con, có khi gọi ăn cơm là tứa hoặc dộng, còn gọi đi chơi, đi dạo là đi giởi. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Cái điều anh xe kéo nghĩ ra là mấy lâu nay anh đã cố gắng dùng ngôn ngữ lịch sự để nói chuyện với “quan lớn” cho khỏi thất lễ, do đó quan hiểu hết. Nay thử cho quan nghe ngôn ngữ của bọn cùng đinh xem sao. Quả thật quan chịu thua. Câu chuyện không biết chứa được bao nhiêu phần trăm sự thât, nhưng ý nghĩa của nó thật thú vị: “quan lớn” tuy học giỏi thiệt nhưng không phải cái gì ngài cũng biết hết; muốn biết, phải tốn tiền cho thầy, mà thầy là anh phu xe kéo. </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Không biết bạn nào gặp bài học như trường hợp của tôi hồi còn bé như thế này chưa? Một lần, sau khi ăn xong hai chén cơm, tôi buông đũa rút lui, vì trước đó đã “lót dạ” hai chén chè đậu đen rồi. Thầy tôi hỏi: </span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Răng bữa ni con ăn ít rứa?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Dạ, thưa thầy, con no rồi.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">-Ờ, nhưng lần sau con đừng nói “no rồi”. Khi người trên hỏi như rứa mà con trả lời “no rồi”, người ta có thể hiểu lầm là con nói lẩy. Con nên nói là con “vừa bụng rồi”, không ai trách mình được.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Chữ “no” người Huế có thể hiểu theo nghĩa bóng, biểu lộ một sự chán ngấy về mặt tâm lý trước một hành động hay lời nói của kẻ khác đối với mình: “nghe hắn nói, tau no cả ruột”.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Chữ “cụ” trong ngôn ngữ Huế cũng có một ý nghĩa khá phức tạp, tùy ngữ cảnh mà nó mang ý nghĩa khinh trọng khác nhau. Khi dùng chữ cụ để gọi một người có chức tước địa vị hay tuổi tác, thì cụ mang ý nghĩa kính trọng. Nhưng khi dùng chữ cụ để gọi một người đàn ông đi ăn xin, một người đàn ông sống bằng nghề lam lủ thì cụ mang ý nghĩa là thằng. Cụ Ngáo, cụ Trâu ở Huế thuộc loại này. Ngoài ra, hàng ngày người ta cũng nghe nói về nhiều loại cụ khác, chẳng hạn cụ thợ nề, cụ thợ mộc, cụ ăn mày v.v.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Phân biệt mà không phân biệt, sự lập lờ trong ngôn ngữ này phải chăng cũng là một đặc điểm của Huế ?</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Người Bắc thường dạy cho trẻ biết “gọi dạ bảo vâng” để phân biệt hai cách trả lời, biết khi nào thì dạ, khi nào thì vâng. Người Huế cũng áp dụng điều đó nhưng hơi khác một chút. Trong gia đình Huế, khi tập cho trẻ con trả lời câu hỏi của người lớn, trẻ con được dạy phải nói là <em>dạ có, dạ không, dạ chưa, dạ rồi</em>, . . . chứ không được nói trống rằng có, không, chưa, rồi. Chữ dạ đối với người Huế đã trở thành một chữ đệm cần thiết, mở đầu trong mọi câu nói, dù là câu hỏi hay câu trả lời cũng vậy. Thiếu nó, là thiếu lịch sự, nếu không nói là vô lễ. Đó là một đặc điểm mà người ngoại tỉnh đôi khi cho là cầu kỳ.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"></span></span></strong> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080"> Những điều vừa trình bày khái quát ở trên có cái ngày nay đã không còn hoặc đã phai nhạt, nhưng có cái vẫn đang hiện hành trong mỗi gia đình. Sự đổi thay là một tất yếu vì cuộc sống là một dòng sông luôn luôn đổi mới bởi nước từ trăm khe nghìn suối tuôn dồn về để tạo nên dòng nước vô tận. Dẫu còn hay mất, những đặc điểm ấy cũng đã một thời tạo nên cái gọi là phong cách Huế.</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">Võ Hương-An</span></span></strong></span></p><p><span style="font-size: 15px"> <strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="color: #000080">San Jose, 8/93</span></span></strong></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 12643, member: 6"] [CENTER] [SIZE=6][COLOR=#800000][B]Huế của một thời[/B][/COLOR][/SIZE][/CENTER] [CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#00008a] ẢNH HƯỞNG CUNG ĐÌNH[/COLOR][/FONT][/B][/SIZE] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#00008a] TRONG PHONG CÁCH HUẾ (2)[/COLOR][/FONT][/B][/SIZE] [SIZE=4] [IMG]https://www.art2all.net/tho/tho_vha/huecuamotthoi/hue-vietnam.jpg[/IMG][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Khó mà xác định đến thời điểm nào thì hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh với mái tóc thề, chiếc nón bài thơ và tà áo trắng đã trở thành một trong những biểu tượng của xứ Huế, mang đặc tính tượng trưng gợi cảm chẳng khác gì sáu nhịp cầu Trường Tiền mềm mại, dòng sông Hương lặng lẽ và tháp Thiên Mụ cổ kính soi bóng lung linh. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Hẳn hình ảnh duyên dáng yêu kiều và nên thơ đó không phải được hình thành do một quyết định của Bộ Giáo Dục, buộc học sinh trung học nam nữ phải đồng phục, như người ta có thể nghĩ một cách đơn giản. Có lẽ nó phải được kế thừa từ một phong cách Huế, thắm đậm từ hàng trăm năm, làm cho người phụ nữ Huế, trong một thời quá khứ không xa, dù giàu hay nghèo, nhàn du hay buôn gánh bán bưng, cũng khoát chiếc áo dài trên mình khi bước chân ra đường.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Anh bạn người Cần Thơ của tôi lần đầu tiên bước chân đến Huế đã “nhín cười muốn chết” khi thấy bà bán xu-xoa vai gánh hàng, mặc áo dài, mà . . . chân đất ! Đó là một hình ảnh đầy vẻ cầu kỳ và mâu thuẩn của người Huế so với lối sống bình dị của người miền Nam. . . Mặc dù trí nhớ ngày càng tồi tệ với thời gian, nhưng một trong những hình ảnh thời thơ ấu còn in đậm trong ký ức tôi trên đất khách này là mụ Mì và mụ Ngãi.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Mụ Mì là một người đàn bà tứ cố vô thân, sống trong một căn lều xiêu vẹo sau lưng lầu Ông Hoàng Tùng Đệ . Mụ sinh nhai bằng nghề nói vè: Vè Thất thủ Kinh đô, Vè Cô Thông Tằm, Vè Mụ Đội. . . Hàng ngày, với cặp sanh bằng gỗ trắc lên nước bóng như mun, mụ bước dò dẫm khắp mọi nẽo đường của Huế để nói vè, kiếm vài xu độ nhật. Giọng mụ khàn khàn, khi phải lên giọng diễn tả, cả con người ốm o của mụ rướn lên cùng cặp mắt trắng dã, đã phụ họa hữu hiệu vào tình tiết câu chuyện bi thảm và làm cho nước mắt người nghe khó mà ngăn được tuôn trào. Bà ngoại tôi và mạ tôi đã đổ nước mắt như thế không biết mấy lần, dù nội dung câu chuyện đã được các bà thuộc nằm lòng. Tôi gọi đó là những giọt nước mắt nuôi sống mụ Mì. Dù cơ cực như thế, dù làm nghề hát dạo của một kẻ ăn xin, mụ Mì vẫn luôn luôn mặc áo dài, một manh áo dài vá chằm vá đụp. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Còn mụ Ngãi, có khá hơn mụ Mì một tí, ở ngay trong xóm tôi, và vốn liếng sinh nhai là đôi triên gióng, chiếc đòn gánh lên nước và mấy cái mẹt và mũng đựng nào me, ổi, đào, sấu, khế ngọt, sim, hột móc, hột sót . . . mùa nào thức nấy, cung cấp quà vặt cho bọn thò lò mũi xanh “nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò”. Tứ thời bát tiết, mụ Ngãi cũng áo dài . . . chân đất. Thậm chí đến mấy o, mấy chị làng Chuồng hay Cửa Thuận, người tanh rình, gánh cá chạy ào ào, làm đày và chửi rất ngọt, mồ hôi mồ kê tùm lum . . vậy mà cũng áo dài.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Chế độ phong kiến nào cũng tạo ra đẳng cấp với sự phân biệt về đặc quyền đặc lợi trong đời sống, vì đó là một nguyên tắc phải có nhằm mục đích duy trì quyền uy của chế độ và sự hưởng thụ của người ngồi trên. Những đặc quyền đặc lợi đó được thể hiện rõ rệt trong ở trong lối ăn, mặc và ở. Giai cấp quan quyền, ngoài phẩm phục vua ban, họ còn có khả năng may mặc với lụa là gấm vóc, chế tác theo sở thích trong khuôn khổ của luật pháp. Các bà có chồng làm quan, dĩ nhiên cũng được thơm lây, được sắc phong tùy theo chức tước và địa vị của chồng, từ đó có những quyền lợi phụ thuộc đi kèm. Chiếc áo “mạng phụ” (mệnh phụ) của các bà cùng với chiếc khăn vành về sau đã được phóng tác và phổ biến trong xã hội qua chiếc áo cưới khoác ngoài và cái khăn vành rây đội đầu của các cô dâu ngày nay. Những gì về ăn mặc đã được vua qui định, dĩ nhiên không ai dám vi phạm, nhưng không cấm được những chế tác mô phỏng từ những qui định đó để làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Chẳng hạn, phụ nữ vào các dịp lễ lạc, không phân biệt giai tầng, nếu có điều kiện tài chánh vẫn diện được áo “mớ hai mớ ba” như ai. “Mớ hai” là mặc hai lớp áo dài, “mớ ba” là ba lớp. Các bà chọn màu theo “gam” các bà thích và bảo thợ may các áo đó cùng một lần. Vì sao? Vì các áo đó phải mặc chồng lên nhau và các màu sắc phải được phô bày nên thợ phải đo may một lần mới tính toán được. Áo trong bao giờ cũng hẹp và ngắn hơn áo ngoài để khi mặc vào các lớp áo ôm sát nhau và khi bước đi, những tà áo theo bước chân phe phẩy khoe màu theo thứ lớp, trông đẹp mắt và khác lạ hơn người.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Áo mớ hai, mớ ba, áo gấm, áo mệnh phụ hay bất cứ loại áo đẹp nào cũng phải đi với quần “xếp con”, là loại quần có hai ba đường xếp nhỏ, rộng độ năm sáu ly, chạy hai bên hông. Đường xếp chạy dọc từ lưng xuống lai. Hai tà áo gặp nhau vừa đúng đường xếp của quần.[/COLOR][/FONT][/B] [/SIZE] [CENTER] [SIZE=4] [IMG]https://www.art2all.net/tho/tho_vha/huecuamotthoi/mangphu2.jpg[/IMG][/SIZE] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Khăn vành và áo mạng phụ, tiền thân[/I][/COLOR][/FONT][/B][/SIZE] [SIZE=4][COLOR=#000080][B][I][FONT=Times New Roman]của khăn và áo cưới của cô dâu ngày nay[/FONT][FONT=Times New Roman].[/FONT][/I][/B][/COLOR][/SIZE] [/CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Phụ nữ Huế bình dân còn có một kiểu áo dài khác rất sáng tạo, đó là “áo nối khoác”. Cơm ăn và áo mặc là hai vấn đề bức thiết trong cuộc sống, nên càng tiết kiệm càng tốt. Thế nên khi các bà có áo dài rách vạt hoặc rách vai, rách cổ, thấy chằm vá cũng kỳ mà bỏ đi thì phí của trời, vậy nên các bà mới đem nửa dưới lành lặn của cái này chắp với nửa trên lành lặn của cái kia, tạo thành một chiếc áo mới với hai màu sắc khác nhau, có khi rất nhã. Diễn tả như thế, bạn đọc cũng đã hiểu được chữ “nối” trong “áo nối khoác” là gì. Thế còn “khoác” là gì? Đây không phải là một từ đệm, nó có một nghĩa ngang hàng với “nối”. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Như đã nói, mặc áo dài ra đường là phép lịch sự tối thiểu của phụ nữ Huế, bất kể giàu nghèo sang hèn. Tỏ ra lịch sự, nề nếp, con nhà, là điều cần thiết, dù ăn rau ăn mắm đi nữa, nhưng . . . thiệt tình mà nói, đôi lúc cũng phiền toái. Bước ra đầu xóm hỏi thăm chút việc, ra quán đầu ngõ chờ cá Cửa Thuận gánh lên, bước qua nhà bà Cửu cách có ba nhà để xin ít lá chanh nướng thịt . . . mà cũng mặc nguyên chiếc áo dài sao? Có vẻ long trọng quá! Đã thế, tiết hè oi ả, có việc gì quan trọng để phải chịu cực hình trong chiếc áo dài như thế ? Trong những trường hợp đó, chiếc “áo nối khoác” thật là thích hợp: quơ vội cái áo, các bà khoác lên mình, không xỏ tay, chỉ cài một khuy cho chiếc áo khỏi rơi, và cứ thế ung dung dạo xóm, vẫn giữ được phép lịch sự mà không thiếu thoải mái! Trong ý nghĩ “cù lần” của tôi, chiếc áo nối khoác này là một sáng tạo có giá trị như giá trị sáng tạo của món cơm hến.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Hình như cơm hến được chế tác trong mục đích tiêu thụ cơm nguội của tối hôm trước với vật liệu sẵn có trong tầm tay: ruốc, mỡ hẳn là luôn luôn sẵn có trong nhà; môn bạc hà, bắp chuối, rau thơm, ớt tươi . . . có sẵn sau vườn. Chỉ cần chịu khó đợi “con mệ bán hến” đi ngang ngõ là có đầy đủ thành phần cho một bữa ăn khoái khẩu. Không có một sáng tạo nào vừa tiết kiệm lại vừa có tính nghệ thuật cao tuyệt vời đến thế, vừa vị nghệ thuật vừa vị nhân sinh. Cái áo nối khoác ra đời cũng trong điều kiện tương tự.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Sau năm 1975, với “nếp sống văn minh” thể hiện từ những “đỉnh cao trí tuệ”, tà áo dài chợt biến đi như một quá khứ. Trong một lần đi quét vôi thuê cho một gia đình nọ để chuẩn bị đám cưới, tôi đã được nghe một mẩu đối thoại lý thú giữa hai bà sui về chiếc áo dài truyền thống.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Bên đàng gái ở Huế, thuộc gia đình “có công với cách mạng”. Đàng trai gốc Quảng Bình, bà mẹ là một cán bộ trung cấp làm việc tại Hà Nội, có con trai vào làm việc ở Sàigòn và gặp người yêu ở đó. Cả hai dẫn nhau về Huế, đón mẹ từ Hà Nội vào để làm lễ cưới.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Bà sui gái:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] -Chị có đem theo áo dài không?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Bà sui trai:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] -Chị nói áo dài gì cơ?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] -Thì áo dài để mặc vào các dịp lễ như cưới hỏi như ri nì.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] -Ồ, làm gì có. Loại áo đó xưa rồi, ở ngoài ta họa may chỉ có mấy bà cụ già bảy tám mươi mới còn có loại áo đó. Bây giờ, nếp sống văn minh, để tiện công tác, sinh hoạt, lễ lạc gì người ta cũng ăn mặc đơn giản thôi.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] -Ở ngoài đó thì được, chớ ở đây cưới hỏi như ri mà mặc rứa không được mô, bà con người ta cười chết. Thôi, chị cở người cũng bằng em . . .chị coi cái mô mặc vừa và ưng ý thì lấy để mai mốt mặc khi làm lễ. Ở mô thì phải theo phong tục ở đó, làm không giống ai, thiên hạ người ta cười, em chịu không được mô.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Ồ, ồ, hay nhỉ. Mà làm sao chị có nhiều áo dài đẹp thế ?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Câu chuyện xảy ra vào mùa hè 1985. Cũng may nhờ có “đổi mới tư duy” nên nay chiếc áo dài truyền thống đã sống lại, nếu không, nghề may áo dài chừng mươi năm nữa thì tuyệt giống và các nhà dân tộc học quốc tế hẳn sẽ khổ công tìm kiếm cái gọi là quốc phục của một nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến! [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Thành ngữ “ăn Bắc mặc Kinh” phổ biến khắp mọi miền, ai cũng biết. Chữ “Ăn” với nghĩa là “nói năng” hay “ăn uống”, người ta vẫn còn bàn cãi, chưa ai chịu ai, nhưng “mặc Kinh” thì ý nghĩa đã quá rõ ràng, hiển nhiên. Do ảnh hưởng của lối sống cung đình, việc ăn mặc ở chốn kinh đô đã trở thành một tiêu chuẩn thời trang chẳng khác gì thế giới khi hướng về thời trang Paris hay New York.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Vua Minh Mạng, sau cuộc kinh lý miền Bắc (ngự giá Bắc tuần, 1821), thấy lối mặc váy của phụ nữ ngoài đó không được nhã, đã hạ chiêu bắt phải thay đổi cách ăn mặc. Dư luận nhao nhao lên phản đối, phản ảnh qua bài ca dao sau : [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Tháng Tám có chiếu vua ra,[/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.[/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Không đi thì chợ không đông, [/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Đi, thì phải lột quần chồng, sao đang?[/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Có quần thì ra đứng đàng,[/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080][I]Không quần, về đứng đầu làng trông quan.[/I] [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Cũng may là con người có ý hướng hướng thượng, dần dà rồi cũng hiểu ăn thế nào là ngon, mặc thế nào là đẹp, và dù phản đối, dần dà rồi chiếc váy sồi dày như mo cau kia cũng lui về quá khứ, nhường chỗ cho chiếc quần dài tha thướt, hài hoà với chiếc áo dài xinh đẹp, làm tôn giá trị của người phụ nữ Việt Nam. Trong tiến trình làm đẹp cho dân tộc, Huế không dấu diếm niềm hãnh diện mở đường. Nếu bài thơ “Áo lụa Hà Đông” đã đưa Nguyên Sa vào lịch sử văn học thì người dân Huế cũng biết ơn nhạc sĩ Hoàng Nguyên với “Tà Áo Tím”. Màu “Tím Huế” đã trở thành một đặc trưng của Huế mơ màng và trầm mặc. Tạ ơn đời, ngày nay những tà áo trắng đã sống lại bên bờ sông Hương, nối lại một truyền thống tưởng như đã mất hẳn kể từ cái năm 1975 đó.[/COLOR][/FONT][/B] [/SIZE] [CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]O[/COLOR][/FONT][/B][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Nếu ảnh hưởng cung đình trên cách ăn mặc nặng về phong thái hơn là vật chất thì xem ra ảnh hưởng này trên ngôn ngữ có vẻ phong phú hơn. Hẳn là vì “lời nói không mất tiền mua” và giai tầng nào cũng có thể đóng góp vào sự phong phú đó một cách dễ dàng, tùy nhận thức và cảm tính. Theo thiển nghĩ, cung đình đã ảnh hưởng trên lối nói của người Huế qua hai yếu tố tác động: sự bắt buộc phải kiêng húy và sự phân biệt đẳng cấp qua ngôn ngữ. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Nhớ hồi còn bé, anh chị em chúng tôi nhiều lần bị bố mẹ la rầy là “đồ bất hiếu”, “đồ vô lễ”, chỉ vì trong lúc nói năng không kịp suy nghĩ trước sau đã phạm vào “trọng húy”, dùng những chữ trùng tên ông bà nội, ông bà ngoại hoặc các bậc trưởng thượng khác. Ôi, biết bao kiêng cử phải theo, làm sao mấy đứa nhỏ nhớ cho xuể: nào kiêng tên ông bà, tổ tiên, nào kiêng tên vua chúa, nào kiêng tên thần hoàng, khai canh . . . Cô em tôi sinh ra, được đặt tên là Xuân Minh, trong nhà thường gọi tắt là Minh. Tôi nhớ rằng cái tên Minh được gọi đâu chừng bốn năm tháng thì thầy mẹ tôi bảo cả nhà từ nay phải gọi tên em là Miên. Tôi hỏi mẹ: “Tại răng lại đổi tên em? Tên Miên nghe dở ỏm”. Mẹ tôi cho biết là cậu tôi đề nghị đổi tên, vì tên Minh trùng với tên của một bậc trưởng thượng bên ngọai, đang còn sống. Rút kinh nghiệm đó, khi nhà tôi có thai đứa con đầu, hai vợ chồng tôi chọn một loạt tên con trai và con gái, xong đưa danh sách cho thầy tôi duyệt. Những cái tên “phạm húy” được gạch bỏ, phần còn lại, chúng tôi cứ thế mà dùng đặt tên cho các con. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Vào nửa trước thế kỷ XX, khi ảnh hưởng của tư tưởng Tây phương chưa lấy gì làm sâu đậm, hầu như đại đa số người Việt, theo truyền thống, đã quan niệm rằng cái tên rất đáng trọng, nhất là khi địa vị người đó trong xã hội càng cao, hoặc khi người đó đã quá vãng. Gọi tên tục của người khác là một thái độ bất kính. Vì vậy, để tỏ sự kính trọng, phải kiêng tên người đó, chỉ được gọi bằng chức tước, địa vị hoặc thứ bậc trong gia đình mà thôi. Ví dụ, trước năm 1945, ở Huế và Quảng Trị, khi người ta muốn nói đến ông Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư Bộ Lại của triều đình Huế trước 1932, thường gọi là “cụ Quận Phước Môn”, vì ông được phong làm Phước Môn Quận Công.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Trong các dịp ma chay, cúng giỗ, khi các thầy đọc sớ, điệp (nếu cúng Phật), thường ngân nga lên giọng, thế nhưng đến tên người quá cố, liền xuống giọng như thì thầm là để tỏ lòng tôn kính người đã khuất. Thời còn cắp sách đến trường tiểu học (cấp 1), ai trong chúng ta hẳn cũng đã hơn một lần bằng mọi cách bảo vệ cho được cái thông tín bạ (học bạ ) thầy cô phát ra chỉ vì không muốn cho đứa bạn ngồi bên cạnh đọc thấy tên cha mẹ mình, sợ có ngày nó đem ra chửi. Réo tên ông bà, cha mẹ của đối phương ra mà chửi là một thái độ mạ lỵ cùng tột. Ở trong dân gian mà còn thế, huống gì đối với tâng lớp thống trị đương quyền. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Triều đại nào cũng coi trọng sự kiêng tên của các vua chúa và điều này thường được thể hiện bằng luật pháp, nghĩa là bắt buộc mọi người phải thi hành. Hãy lấy một thí dụ về cái tên cửa Tư Hiền, một trong hai của biển của Thừa Thiên mà không một người Huế nào không biết. Nguyên cửa biển này đời Nhà Lê đặt tên là Tư Dung. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi Nhà Lê, bèn ra lệnh đổi tên là Tư Khách. Khi Nhà Lê trung hưng, chiếm lại được Thuận Hóa, liền ra lệnh trở lại tên cũ là Tư Dung. Đào Duy Từ, khi theo chân nhạc gia từ Khánh Hoà ra Phú Xuân để mưu cầu một cuộc tiến thân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi), ghe của ông đã vào cửa Tư Dung để ngược dòng Hương đến kinh đô. Đối cảnh sinh tình, Đào Duy Từ đã sáng tác bài ca Tư Dung Vãn để ký thác tâm sự của kẻ chưa gặp thời. Nhiều người không rõ nguyên ủy, đã lấy làm lạ tại sao Đào Duy Từ vào cửa Tư Hiền mà lại gọi là Tư Dung? Cái tên Tư Dung tồn tại đến năm 1841 thì chấm dứt. Năm đó, hoàng tử Miên Dung lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu là Thiệu Trị (1841-1847). Gọi Tư Dung là phạm trọng húy, nên Bộ Lễ phải tâu xin đổi lại tên khác; cái tên Tư Hiền ra đời từ đó. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Thời trước, thí sinh dưới bất cứ triều đại nào cũng lấy làm lo sợ về việc phạm húy vì việc này sẽ dẫn đến những hậu quả lắm khi thật tệ hại. Trước mọi kỳ thi, những qui định về việc kiêng húy được thông báo cho thí sinh rõ và thầy nào dạy học trò đi thi cũng phải dạy kỹ điều đó. Tuy nhiên, vì phải kiêng húy quá nhiều, có khi nhớ không xuể, sơ sót vi phạm là thường. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Đến triều Nhà Nguyễn,xem ra việc kiêng húy càng trầm trọng hơn. Một ông vua Nhà nguyễn thường có năm tên:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-[I]Danh tự[/I]: là tên tục, tên móc nôi, tên do cha mẹ đặt khi mới sinh ra.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-[I]Ngự danh[/I]: là tên mới, nhận lãnh khi lên làm vua. Vua Minh Mạng (1820-1841 sau khi chọn 20 chữ có ý nghĩa hay, viết theo bộ Nhật (mặt trời), đã cho khắc vào Kim sách (sách đóng bằng những lá vàng dát mỏng, thay cho giấy) và qui định rằng khi một hoàng tử được chọn nối ngôi, sẽ không dùng tên cũ nữa, mà phải mang một tên mới, lấy theo thứ tự ghi trong Kim sách. Thừa mệnh Trời, nhận lãnh nhiệm vụ mới đầy thiêng liêng và cao cả, vậy phải có tên mới và phải tỏ ra xứng đáng với tên mới đó. Ấy là ý nghĩa của sự chế tác Kim sách.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-[I]Niên hiệu[/I]: là tên của triều đại đương thời. Ví dụ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị . . . là niên hiệu.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-[I]Thụy hiệu[/I]: là tên gọi khi chết, tên dùng để khấn khi cúng bái (tên cúng cơm). Khi vua băng hà, triều đình dâng thụy hiệu, nghĩa là đặt tên mới cho vua. Việc đặt tên mới cho người quá vãng là một việc phổ biến đối với mọi người (tên này sẽ được viết vào lá triệu ) chứ không phải là một đặc quyền của hoàng gia.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-[I]Miếu hiệu[/I]: sau khi chôn cất xong, vua quá cố sẽ được thờ tại Thế miếu và Triều đình lại đề nghị một tên mới để thờ, gọi là miếu hiệu. Ví dụ vua Gia Long có miếu hiệu là Thế tổ Cao Hoàng đế, vua Minh Mạng là Thánh tổ Nhơn Hoàng đế.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Khi vua mới lên ngôi, Bộ Lễ có nhiệm vụ rà soát lại tất cả mọi địa danh trong nước, xem có nơi nào trùng tên với vua không. Nếu có thì phải dâng sớ đề nghị xin đổi tên mới, vì danh tự và ngự danh là trọng húy, tuyệt đối không được nói đến, vi phạm sẽ bị ghép vào tội khi quân, là một trọng tội theo pháp luật xưa. Quan hay dân có tên trùng với tên của vua cũng phải lo đổi gấp. Thậm chí, đối với các quan nếu có họ hay chữ lót trùng với tên vua mới cũng phải thay đổi. Khi hoàng tử Ưng Đăng trở thành vua Kiến Phúc (1884) thì dòng họ Trương Đăng, một thế gia vọng tộc ở Quảng Ngãi, phải đổi thành Trương Quang để khỏi trùng tên với vua. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Như vậy, cứ mỗi lần có vua mới, trong dân gian lại có thêm những chữ phải kiêng cử, không được nói tới, có nghĩa là phải sáng tác ra chữ mới để dùng. Cái tên của vua thiêng liêng cho tới nổi các sử thần không dám viết thẳng tên vua vào sử mà phải viết theo lối chiết tự, ai muốn biết thì tự ghép lại, sẽ đọc được đó là chữ gì. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Hẳn có người sẽ đặt câu hỏi: việc kiêng tên người đâu phải là một đặc điểm của Huế, bằng cớ là ở trong Nam, người ta kiêng tên ông Tả Quân Lê Văn Duyệt nên gọi “duyệt” là “dượt”, kiêng tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên nên gọi “nguyên” là “nguơn”. Còn ở ngoài Bắc, người ta kiêng tên chúa Trịnh Tùng nên gọi “tùng” là “tòng” v.v. và v.v.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Vâng, chúng tôi cũng hiểu điều đó, nhưng điều cần lưu ý ở đây là Huế, chốn kinh đô, gần mặt trời, do đó việc kiêng húy càng được đặt nặng hơn các nơi khác. Trong việc kiêng húy này, giới nào phải chấp hành trước và chấp hành triệt để? Đó chính là giới quan lại mà Huế là nơi “thổ sản”. Chính phát xuất từ gia đình các quan lại mà ảnh hưởng lan vào quần chúng, một kiểu ảnh hưởng dây chuyền, như chúng tôi có dịp trình bày trong bài trước, khi nói về ảnh hưởng cung đình qua cách ăn của người Huế (Tiếng Sông Hương, Dallas,1992).[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Thầy tôi vốn làm quan dưới hai triều Khải Định (1916-1925) và Bảo Đại (1925-1945), hồi chúng tôi mới bắt đầu cắp vở đi học đã được dặn là phải kiêng húy của “hai ngài”, ngoài tên của các ông bà nội và ngoại. Vua Khải Định có tên là Bửu Đảo, vua Bảo Đại có tên là Vĩnh Thụy. Thế là chúng tôi phải gọi hòn đảo là “hòn cù lao”, gọi thụy là “thị”. Khi muốn nói “đảo ngược” thì phải nói là “trở ngược”. Thử hỏi lúc bấy giờ, dưới sự đô hộ của người Pháp, vua Việt Nam đã không còn thiêng như ngày trước mà còn đến thế huống hồ là vào lúc thịnh thời của đế chế. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]“Hồng” đã được người Huế biến thành “hường” , “hoa” trở thành “bông”, vì vậy ngưới ta thì gọi là “hoa hồng” nhưng người Huế cứ là “bông hường”, chỉ vì kiêng tên vua Tự Đức (húy là Hồng Nhậm) và tên của của bà Hồ Thị Hoa, thân mẫu vua Thiệu Trị. Tỉnh Thanh Hoa trở thành Thanh Hóa và “trách nhậm” trở thành “trách nhiệm” cũng là thế.[/COLOR][/FONT][/B] [/SIZE] [CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]O[/COLOR][/FONT][/B] [/SIZE] [/CENTER] [SIZE=4] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Nếu có những chữ “đặc Huế” mà chúng ta có thể truy tìm được nguồn gốc của sự thay đổi như đã dẫn chứng đại khái ở trên thì cũng có những chữ đặc Huế khác mà chúng ta khó biết do đâu mà thành hình, ngoại trừ kết luận một cách chung chung là do vấn đề kiêng húy mà ra. Chẳng hạn người Huế thường gọi mẹ là “mạ”, có vùng gọi cậu mợ là “cụ mự”, gọi nước là “nác”, bản là “biển”, lạt là “lợt”, và ít khi phân biệt sự khác nhau giữa “màu” và “mùi”, v.v.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Sự kiêng húy quả có ảnh hưởng trên lời nói của người Huế, nhưng thực sự không mạnh mẽ và sâu xa bằng ảnh hưởng của vấn đề phân biệt đẳng cấp qua ngôn ngữ, phát xuất từ trật tự cung đình. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Do ảnh hưởng của truyện Tàu, của hát bội, cải lương, nên không ít người nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày nơi cung cấm hẳn hoàng gia cũng gọi nhau như tiểu thuyết từng mô tả. chẳng hạn con gọi mẹ là “mẫu hậu”, mẹ gọi con làm vua là “vương nhi” v.v. Tôi cũng hơn một lần nghĩ như thế cho đến khi biết được sự thật. Hoàng gia Nhà Nguyễn gọi nhau khá bình dị nhưng trong sự bình dị đó vẫn hàm chứa tính cách vương giả. Chẳng hạn:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Vua gọi mẹ (hoàng thái hậu) là [I]Ả[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Hoàng thái hậu gọi vua là [I]Con[/I] hay [I]Hoàng đế[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Vua gọi hoàng hậu (hay Nhứt giai phi) và các thứ phi bằng [I]Bà[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Con gọi vua cha là [I]Đức Cha[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Cháu gọi bà là [I]Đức Bà[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Em gọi anh là [I]Đức Anh[/I] (hay Đức Yên), gọi chị là [I]Đức Chị[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Hoàng gia và triều thần gọi vị vua đã quá cố (băng hà) là [I]Đức Tiên Đế[/I] và các vị vua đời trước là [I]Liệt Thánh[/I].[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Vua xưng với các quan là [I]Trẫm[/I] hay [I]Ta[/I] và gọi các quan là [I]ngươi[/I]. Để tỏ lòng yêu mến thì gọi là [I]khanh[/I], hoặc tôn trọng hơn nữa thì gọi là [I]thầy[/I]. Các quan khi đối thoại với vua thì xưng là [I]chúng tôi[/I]. Những danh xưng như thần, hạ thần, cũng có thể dùng hoặc không trong đối thoại nhưng tuyệt đối phải dùng trong giấy tờ dâng lên vua (sớ, biểu). Ngoại trừ hoàng thái hậu, còn tất cả, từ hoàng hậu trở xuống cho tới các quan và thứ dân, mở đầu đối thoại với vua, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều phải dùng chữ [I]tâu[/I] hoặc [I]tấu[/I] để mở đầu câu nói.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Vua thì phải khác người thường, do đó những gì liên hệ tới công việc và cuộc sống hàng ngày của vua cũng có thể cách riêng để diễn tả. Vua ăn thì gọi là [I]Ngài ngự thiện[/I]; vua ngủ là [I]Ngài ngơi[/I] hay [I]Ngài ngự ngơi[/I]; vua ngủ chưa dậy là [I]Ngài ngơi chưa tánh[/I]; vua bệnh gọi là [I]Ngài se mình[/I]; vua cho ai cái gì thì gọi là [I]Ngài ban[/I] hay [I]Ngài ân tứ[/I]. [I]Ngài ban[/I] cũng có nghĩa là vua ra lệnh, vua truyền phán, vua nói về một điều gì đó. Nếu bữa cơm của vua với ba mươi lăm phẩm vị đã có thể được mô phỏng để trở thành mâm giỗ đặc biệt của người Huế thì lối nói năng của cung đình, qua trung gian của đẳng cấp quan lại và gia đình họ, hẳn phải gây ít nhiều ảnh hưởng trong cách nói của người Huế. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Người Huế chúng ta, nhất là lớp cũ, hẳn không lạ gì phong cách của các “mệ” (danh xưng để chỉ nhưng người trong Hoàng tộc, bất kể nam hay nữ) trong cách ăn nói, luôn luôn biểu lộ cái vẻ quyền uy, đài các, có khi đến độ gần như giả tạo, nếu nhìn dưới một khìa cạnh khác. Một giai thoại kể rằng có một “mệ” vốn là con cháu của một ông hoàng, nhưng vì ăn chơi quá độ nên cảnh nhà trở thành sa sút, thường phải vay mượn, thậm chí, có khi phải xin tiền của người quen biết trước kia để mà tiêu. Thế nhưng kiểu xin của mệ cũng khác người ta. Xin vài xu để mua khoai lang luộc ăn cho đở đói nhưng mệ lại nói: “Nì, có tiền dâng mệ ít nhiều để mệ chém đầu mấy củ khoai.” Nếu không phải là Huế, đã biết về các mệ, thật khó thưởng thức câu nói đầy tính hài hước đó.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Trong giao tiếp, đối với vua, muốn nói một điều gì, tất cả phải mở đầu bằng “tâu”. Còn quan cấp nhỏ nói với quan cấp trên thì phải “thưa” hoặc “bẩm”, có khi còn phải thêm chữ “kính” ở đàng trước nếu muốn tỏ lòng cung kính hơn, hoặc muốn giở giọng nịnh. Những lối nói này cũng áp dụng trong dân dã khi họ đối thoại với những người có địa vị hoặc những bậc tuổi tác, trưởng thượng trong gia đình.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Về cách mời ăn, để tỏ lòng kính trọng, người Bắc bao giờ cũng nói “mời .(ông, bà, anh, chị . . .) xơi cơm.” Với người Huế, tôi thấy cả một loạt từ ngữ phong phú nói về việc ăn, áp dụng cho từng đối tượng khác nhau, tùy theo mối tương quan thứ bậc gia đình hoặc xã hội giữa hai bên, biểu lộ tính đẳng cấp rõ rệt. Chẳng hạn:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Để tỏ lòng kính trọng thì mời [I]xơi cơm[/I], [I]thời cơm[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Vừa phải, lịch sự, thì mời [I]dùng cơm[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Ngang hàng, cùng trang lứa, thận mật thì mời [I]ăn cơm[/I];[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Coi thường, nói với kẻ dưới tay, nói với “bầy quân”, “sáp nhỏ”,nói giận dỗi, nói làm đày, thì có: [I]làm năm ba hột, mần một bụng, ních, đẫn, tứa, dộng, tạp, táp...[/I][/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Người ta kể rằng hồi còn chế độ thuộc địa, Chánh Sở Mật thám Trung kỳ, Léon Sogny, rất thông thạo chữ Hán và tiếng Việt. Tuy vậy, ông ta vẫn không ngừng tìm cách học hỏi thêm, bất cứ ở đâu, với bất cứ ai. Để thông hiểu ngôn ngữ của giới bình dân xứ Huế, Sogny thuê một chiếc xe kéo, dặn mỗi buổi chiều khi đến giờ tan sở thì đem xe đến trước cửa Tòa Khâm để chở “quan lớn” đi dạo mát. Một khi đã ngồi trên xe, Sogny tìm mọi cách gợi chuyện và chuyện trò rôm rả với anh phu kéo xe. Thấy “quan lớn” bình dân, lại thông thạo tiếng “An-Nam”, anh phu kéo xe tỏ ra rất hứng khởi trong những lần kéo xe chở quan đi dạo. Sau một thời gian thực tập như thế, Sogny cảm thấy vốn liếng ngôn ngữ bình dân của mình ngó bộ đã vững vàng hung, bèn thử tìm cách tự trắc nghiệm khả năng. Một buổi chiều, “quan lớn” nói với anh phu xe kéo : “ Từ bữa ni, tau cho phép mi nói bất cứ câu chi mà tau không hiểu thì tau thưởng cho mi một đồng bạc.” Anh xe kéo tưởng mình nghe lầm, vì đồng bạc lúc bấy giờ có giá trị lớn lắm, một cuốc xe chừng năm, sáu xu, chạy đổ mồ hôi trán mới có, nay chỉ nói chơi chơi mà được cả đồng bạc, sướng biết chừng mô. Ấy vậy mà không dễ ăn. Mấy bữa liên tiếp, anh ta đều thất bại, vì “quan lớn” rành tiếng “An-Nam” quá, nói chi quan cũng hiểu. Một hôm, anh chợt nghĩ ra diệu kế, bèn đem ra thực hành ngay. Sau khi “quan lớn” an tọa trên nệm xe, anh xe kéo vừa nâng càng xe lên vừa hỏi: [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Da, bẩm quan lớn, chiều ni ngài đã [I]tứa[/I] chưa mà đi [I]giởi[/I] sớm ri?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Sogny khựng người khi nghe câu hỏi. Im lặng một lát, ông ta lên tiếng:[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Giỏi! Rứa là mi được thưởng một đồng bạc như tau đã hứa. Mi nói câu nớ nghĩa là răng?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Da, có chi mô. Con chỉ hỏi quan lớn là quan đã xơi cơm chưa mà đi chơi, đi dạo sớm như thế này. Nhà quê nhà mùa tụi con, có khi gọi ăn cơm là tứa hoặc dộng, còn gọi đi chơi, đi dạo là đi giởi. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Cái điều anh xe kéo nghĩ ra là mấy lâu nay anh đã cố gắng dùng ngôn ngữ lịch sự để nói chuyện với “quan lớn” cho khỏi thất lễ, do đó quan hiểu hết. Nay thử cho quan nghe ngôn ngữ của bọn cùng đinh xem sao. Quả thật quan chịu thua. Câu chuyện không biết chứa được bao nhiêu phần trăm sự thât, nhưng ý nghĩa của nó thật thú vị: “quan lớn” tuy học giỏi thiệt nhưng không phải cái gì ngài cũng biết hết; muốn biết, phải tốn tiền cho thầy, mà thầy là anh phu xe kéo. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Không biết bạn nào gặp bài học như trường hợp của tôi hồi còn bé như thế này chưa? Một lần, sau khi ăn xong hai chén cơm, tôi buông đũa rút lui, vì trước đó đã “lót dạ” hai chén chè đậu đen rồi. Thầy tôi hỏi: [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Răng bữa ni con ăn ít rứa?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Dạ, thưa thầy, con no rồi.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]-Ờ, nhưng lần sau con đừng nói “no rồi”. Khi người trên hỏi như rứa mà con trả lời “no rồi”, người ta có thể hiểu lầm là con nói lẩy. Con nên nói là con “vừa bụng rồi”, không ai trách mình được.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Chữ “no” người Huế có thể hiểu theo nghĩa bóng, biểu lộ một sự chán ngấy về mặt tâm lý trước một hành động hay lời nói của kẻ khác đối với mình: “nghe hắn nói, tau no cả ruột”.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Chữ “cụ” trong ngôn ngữ Huế cũng có một ý nghĩa khá phức tạp, tùy ngữ cảnh mà nó mang ý nghĩa khinh trọng khác nhau. Khi dùng chữ cụ để gọi một người có chức tước địa vị hay tuổi tác, thì cụ mang ý nghĩa kính trọng. Nhưng khi dùng chữ cụ để gọi một người đàn ông đi ăn xin, một người đàn ông sống bằng nghề lam lủ thì cụ mang ý nghĩa là thằng. Cụ Ngáo, cụ Trâu ở Huế thuộc loại này. Ngoài ra, hàng ngày người ta cũng nghe nói về nhiều loại cụ khác, chẳng hạn cụ thợ nề, cụ thợ mộc, cụ ăn mày v.v.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Phân biệt mà không phân biệt, sự lập lờ trong ngôn ngữ này phải chăng cũng là một đặc điểm của Huế ?[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Người Bắc thường dạy cho trẻ biết “gọi dạ bảo vâng” để phân biệt hai cách trả lời, biết khi nào thì dạ, khi nào thì vâng. Người Huế cũng áp dụng điều đó nhưng hơi khác một chút. Trong gia đình Huế, khi tập cho trẻ con trả lời câu hỏi của người lớn, trẻ con được dạy phải nói là [I]dạ có, dạ không, dạ chưa, dạ rồi[/I], . . . chứ không được nói trống rằng có, không, chưa, rồi. Chữ dạ đối với người Huế đã trở thành một chữ đệm cần thiết, mở đầu trong mọi câu nói, dù là câu hỏi hay câu trả lời cũng vậy. Thiếu nó, là thiếu lịch sự, nếu không nói là vô lễ. Đó là một đặc điểm mà người ngoại tỉnh đôi khi cho là cầu kỳ. [/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080] Những điều vừa trình bày khái quát ở trên có cái ngày nay đã không còn hoặc đã phai nhạt, nhưng có cái vẫn đang hiện hành trong mỗi gia đình. Sự đổi thay là một tất yếu vì cuộc sống là một dòng sông luôn luôn đổi mới bởi nước từ trăm khe nghìn suối tuôn dồn về để tạo nên dòng nước vô tận. Dẫu còn hay mất, những đặc điểm ấy cũng đã một thời tạo nên cái gọi là phong cách Huế.[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]Võ Hương-An[/COLOR][/FONT][/B] [B][FONT=Times New Roman][COLOR=#000080]San Jose, 8/93[/COLOR][/FONT][/B][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Ảnh hưởng Cung đình trong phong cách Huế .
Top