• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Đã tắt lặng Cây đàn thơ Hoàng Cầm

Hide Nguyễn

Du mục số
Cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế...

Thế là giữa cuộc đời dâu bể này, đã tắt lặng cây đàn thơ điệu nghệ- Hoàng Cầm. Dù thông tin ông ốm nặng khó bề qua khỏi, lặng lẽ truyền đi trong giới văn chương và những người yêu thơ ông từ khá lâu. Nhưng tin ông ra đi, vẫn khiến văn đàn và không ít người ngưỡng mộ ông hụt hẫng, thương tiếc, xót xa. Dẫu biết tử sinh là lẽ thường tình...

Bởi cái tên Hoàng Cầm- mà người viết bài này, tự đặt - Cây đàn thơ- không chỉ được tạc trong "từ điển văn chương" của nước Việt, mà từ lâu, đã "tạc" trong tâm thức của những người yêu cái đẹp của thi ca, mà nhờ đó, trên hành trình của kiếp người, giữa bao nhiêu nhọc nhằn, biết "vịn" câu thơ mà đứng dậy

Một cuộc đời thấm đẫm chữ Tình

Ông tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, (Việt Yên, Bắc Giang); nhưng quê gốc của ông ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của những làn điệu quan họ óng ả, tình tứ, trong một gia đình nhà nho lâu đời. Cụ thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên.

Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ra Hà Nội học Trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Văn chương, trong đó, kịch nghệ và thi ca, với ông dường như là một duyên nghiệp, một duyên trời định. Và mảnh đất Kinh Bắc tài hoa làng nghề, tài hoa các làng quan họ như có sứ mệnh tạo nên một thi nhân- một cây đàn thơ lóng lánh muôn điệu: "Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông... hay Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh/ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ...

ori71005531le-dat.jpg


Nhà thơ Hoàng Cầm (bên phải) và nhà văn Kim Lân - ảnh chụp năm 2003, Ảnh Nhasachtritue

Ông lấy bút danh Hoàng Cầm, tên một vị thuốc đắng trong các vị thuốc bắc. Ông chọn tên vị thuốc đắng cho mình, như một ám ảnh, một linh cảm của tâm hồn thi sĩ bẩm sinh quá nhạy cảm? Hay chính định mệnh khắc nghiệt đã chọn sự cay đắng "tặng"cho số phận ông?

Không biết nữa!

Chỉ biết, chẳng có người yêu nước nào, dù bé nhỏ đến đâu, vào thời tao loạn của dân tộc, có thể đứng ngoài lề. Đời ông, có đủ đầy cung bậc thăng trầm của một người nghệ sĩ chân chính. Năm 1944, vào đúng lúc Thế chiến II diễn ra khốc liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc tại Thuận Thành, bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình...

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Tháng 10 năm 1954, giải phóng Thủ đô, đoàn trở về Hà Nội. Do mở rộng thêm nhiều bộ môn, năm 1955, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Nhưng trước đó, từ năm 1945, ông đã nổi tiếng vì đóng góp không nhỏ cho sân khâu kịch nghệ Việt Nam, với hai vở kịch thơ: Hận Nam Quan và Kiều Loan.

hoangcamphotondtoan.jpg


Lão nhà thơ Hoàng Cầm, Ảnh TN Hòa bình được lập lại, cuối năm 1955, ông trở về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. rồi tham gia thành lập Hội Nhà văn và được bầu vào Ban chấp hành. Rồi, giữa lúc cuộc đời tưởng như yên ả nhất, ông bị cuốn vào bão tố của vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", buộc phải rút khỏi Hội Nhà văn- năm 1958 và về hưu non năm 1970, lúc mới 48 tuổi, cái tuổi sung sức nhất của sáng tạo.

Nhưng ẩn dật trong thi ca, lấy thi ca làm mái chắn che chở cho sự bình yên của tâm hồn, và con tim không ngừng náo động bồn chồn vì yêu- đời ông sống được bởi chữ Yêu- ông vẫn tiếp tục thai nghén, sáng tác trong âm thầm, lặng lẽ, trong bóng tối của số phận bất ngờ... Bởi những người vợ của ông- như Tuyết Khanh, như Hoàng Yến dẫu mặn nồng hương lửa, cũng đã lặng lẽ bỏ ông ra đi, về nơi cuối trời.

Hành trình cuộc đời ông là hành trình của những tập thơ nổi tiếng: "Tiếng hát quan họ", "Men đá vàng", "Mưa Thuận Thành" và đặc biệt là "Về Kinh Bắc"...Một cuộc đời hoạt động sôi nổi, khi thăng khi giáng, lúc ấm áp lúc cô đơn, nhưng luôn thấm đẫm chữ Tình: Yêu nước- yêu người- yêu đời, dù không ít cay đắng và bi kịch số phận cá nhân.

Đôi khi, người viết bài này tự hỏi, trong những đêm dài giá lạnh của cõi nhân gian, ông nghĩ gì, và tìm cho mình cuộc sống như thế nào nhỉ? Bỗng nhớ tới cái quán rượu số 43 con phố nhỏ Lý Quốc Sư. Rượu và Thơ- hai người bạn "tâm giao" không thể thiếu để đến lượt ông "vịn" vào, trong hành trình còn lại dằng dặc, cô độc, dù có thể lúc này lúc khác, bạn bè vẫn thăm hỏi...

Cho đến năm 75 tuổi, cái chữ Tình thấm đẫm cuộc đời ông như được kết tinh nhất, ngọt ngào nhất, đằm thắm nhất, ở tập "Thơ Hoàng Cầm- 99 tình khúc".

Còn sự bình yên với nhân thế, phải gần 40 năm sau mới đem đến cho con tim người nghệ sĩ tài hoa. Đầu năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

Lá Diêu bông- hành trình kiếm tìm hạnh phúc

Trong tài sản thơ phú giầu có của ông, Hoàng Cầm có rất nhiều tác phẩm, ngay cả khi chưa công bố, đã được "ngôn truyền" trong công chúng. Và khi cất tiếng hoan ca, nó đủ sức lay động tới con tim mọi giai tầng. Lá Diêu bông là một bài thơ có số phận "hạnh phúc" như thế, cho dù nó nói về nỗi bất hạnh- hay hạnh phúc "ảo" của kiếp người.

Bài thơ dạng kể chuyện, ngắn gọn đến mức tiêu biểu cho sự hàm súc, hàm súc từ hình ảnh đến ngôn từ, khó có thể lược bớt đi một từ nào trong bài thơ.

Câu chuyện có hai nhân vật: Em - tác giả và Chị - đối tượng mối tình thơ ấu của ông. Người ta thường cho rằng bài thơ nói về mối tình đầu đơn phương mộng ảo của người nghệ sỹ tài ba. Nhiều người đã kiếm tìm để biết thêm về cuộc sống tình duyên của hai nguyên mẫu - tác giả và chị Vinh, khai thác sâu các tầng bậc chất lãng mạn trong con người và thơ Hoàng Cầm.

Nhưng thực ra, ngoài phần nổi của bài thơ đã là khá đẹp và hấp dẫn, còn có phần chìm, phần hồn- đó cũng chính là thông điệp của của bài thơ nữa. Cũng giống như người đi tìm trầm hương, cái lõi trầm bên trong mới thực sự quý giá.

Untitled-11.jpg


Nhà thơ Hoàng Cầm. Tranh sơn dầu của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh

Ta hãy quay lại bài thơ và cùng thưởng thức nó.

"Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng Chị thẩn thơ đi tìm Đồng chiều - cuống rạ" Chỉ với ba câu, tác giả giới thiệu ngay với chúng ta nhân vật chính: Cô thiếu nữ dậy thì mặc váy (con gái Đình Bảng từ tuổi nào đó mới mặc váy), đang vu vơ đi tìm một cái gì đó phi vật thể giữa cuống rạ đồng chiều (có phiên bản chép là thẫn thờ, đúng ra phải là thẩn thơ, chữ thẫn thờ không hợp với tuổi thơ).
Đồng thời tác giả cũng đã tự giới thiệu về mình: Một chú nhi đồng. Một người trai mười tám chắc đã tả "em" nào là hai mắt lá răm, nào đôi môi hồng, nào làn thu thuỷ nét xuân sơn v.v. Còn chú bé nhi đồng chắc chắn chưa hề biết về những cái đó, chú chỉ nhìn thấy có mỗi cái váy (chắc vì ngang tầm mắt của chú!).

Tuổi Trẻ ngày nay ít người biết cửa võng là gì. Cửa võng- một thứ cửa làm bằng gỗ hoặc vải thêu, nhà giàu thì sơn son thếp vàng, hình chữ ∏, ba bên chạm trổ nhiều hoạ tiết, hoặc ghép thêm những chi tiết phụ nhằm tăng thêm sự cầu kỳ của cửa.

Váy buông chùng cửa võng nghĩa là hai thân váy thu sang hai bên rồi buông chùng xuống. Có thể Chị chưa hết tuổi lớn nên váy mặc còn tém sang hai bên như cửa võng.

"Chị bảo đứa nào tìm được lá diêu bông Từ nay ta gọi là chồng"

Chắc hẳn có mấy chú bé nhằng nhẵng bám theo nên chị nói cho qua chuyện. Xin lưu ý chữ "bảo", không phải Chị nói mà là bảo, bảo là khi người trên nói với người dưới. Hơn nữa, Chị chỉ gọi là chồng, như một trò chơi đóng giả vợ chồng con cái của trẻ con chứ không như Trần Tiến "Em đố ai tìm được lá diêu bông, xin lấy làm chồng"

"Hai ngày em tìm thấy lá Chị chau mày đâu phải lá diêu bông"

"Chau mày" không phải vì thằng bé dốt quá, làm gì có lá Diêu bông (lá Diêu bông là do nhà thơ sáng tạo ra, có thể hiểu là lá của một loài hoa phiêu diêu, không có thực, giống như hạnh phúc ở trên đời này vậy, cũng là một cái gì đó hư ảo). Hãy phân tích tiếp xem vì cái gì.

"Mùa đông sau em tìm thấy lá Chị lắc đầu trông nắng vãn bên sông"

"Lắc đầu' là một động tác mạnh hơn "chau mày", cộng thêm động tác nhìn về phía xa xa, như trông đợi một cái gì đó.

"Ngày cưới chị, em tìm thấy lá Chị cười xe chỉ ấm trôn kim"

Chữ "cười" ở đây cho ta lời giải thích vì sao chị "chau mày" và "lắc đầu" ở hai thời điểm trước đó. Nghiã là chị đã đi tìm, đã mong mỏi hạnh phúc lứa đôi. Khi làm đám cưới, chị cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện (có bản chép xe chỉ cắm trôn kim hay ấn trôn kim, nghe thô lỗ quá, ấm trôn kim mới đúng, nó nói lên người con gái đã sẵn sàng cho vai trò làm vợ, may vá thêu thùa, giữ gìn mái ấm gia đình).

"Chị ba con em tìm thấy lá Xoè tay phủ mặt chị không nhìn"

Khi đã có ba con, lúc nghe nhắc lại lá Diêu bông, Chị có thái độ hoàn toàn thất vọng, không còn muốn nhìn thấy một sự thật phũ phàng: Làm gì có hạnh phúc lứa đôi trong cuộc đời Chị, cái hạnh phúc mà Chị mong mỏi khi nhẩn nhơ đi tìm trong đồng chiều cuống rạ trước đây?

Từ thuở ấy Em cầm chiếc lá Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi. Diêu Bông hời... ới Diêu Bông!

Khổ cuối của bài thơ như một lời kết cho câu chuyện, như láy lại sự kiên trì ngây thơ suốt cả cuộc đời "Em" trong mối tình vô vọng với "Chị", như một lời than cho số phận bất hạnh của người đàn bà nói riêng và kiếp người nói chung.

Bài thơ thoạt tưởng chỉ là kể về câu chuyện tình liêu trai bất thành, mà thực ra nó là khúc ca xót xa, khóc cho người mình yêu chứ không phải là than thân trách phận. Nó triết lý về hành trình tìm kiếm hạnh phúc đời người. Và nó nói hộ nỗi lòng khát khao. Ai đọc, cũng thấy mình trong đó...
Hạnh phúc chỉ là ảo. Nhưng người ta vẫn không ngừng kiếm tìm...

Vì khát vọng vẫn mạnh hơn ảo vọng. Đó là cái lẽ, bài thơ Lá Diêu bông luôn được mọi lớp người yêu thích, nhập tâm suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Và vì thế, cho dù tiếng tơ đồng của cây đàn thơ Hoàng Cầm đã tắt lặng, nhưng dư âm của nó vẫn ngân nga, vọng mãi trên thi đàn, trong lòng người và nhân thế...


Theo : Tác giả: Kim Dung- Phan Chí Thắng
Tuanvietnam.net
 
Vĩnh biệt thi sĩ của “Bên kia sông Đuống”: Người đi, tình ở lại

Vẫn biết đã đến "phút thứ 89 của đời người" (như cách ví của những người bạn Hoàng Cầm) thì tin nhà thơ của “Bên kia sông Đuống”, "Lá diêu bông" ra đi vẫn cứ khiến lòng ta thương xót lắm. Hoàng Cầm đã khép lại trang cuối cùng của cuộc đời vào sáng qua (6-5) tại Hà Nội sau những ngày đau yếu; để lại khối tình mênh mông rất riêng của ông, cái tình thi sĩ cao cả dẫn lối để Hoàng Cầm "Mơ mộng. Học, tìm, mơ mộng, rồi lại học, lại tìm, tìm mãi cái Đẹp, cái Thật, cái Thiện"…
hoangcam.jpg

Biết bao thế hệ bạn đọc Việt Nam đã say mê, đã nao nao trước hình ảnh dòng Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Người đã nâng niu dòng Đuống, kể câu chuyện đầy cảm xúc về Kinh Bắc, về đất nước một thời ấy là thi sĩ Hoàng Cầm. Tên thật của ông là Bùi Tằng Việt, ghép từ tên nơi ông sinh ra: xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ngày sinh của Hoàng Cầm cũng thật đặc biệt, 22-2-1922.

Cái tên Hoàng Cầm (tên một vị thuốc quý) có từ khi dựng vở Hậu Nam quan, là một bút danh nhưng cuối cùng đã trở thành chính danh của thi sĩ họ Bùi. Nhưng ông cũng còn những bút danh khác như Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi mà có thể không nhiều người biết tới.

Người của vùng Kinh Bắc ấy (quê gốc của ông ở Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) là thi sĩ với đầy đủ ý nghĩa của hai từ này. Luôn mang trong mình cái tình trẻ mãi không già; nó khiến ông để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng bạn đọc. Hội Nhà văn Việt Nam ghi rõ: “Hoàng Cầm dịch sách từ năm 1940, tham gia Việt Minh từ 1944. Hoạt động văn nghệ quân đội trong những năm kháng chiến chống Pháp. Từng là Trưởng đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam”.

Hoàng Cầm không chỉ là một nhà thơ, đúng hơn ông là tác giả với trái tim thơ đã làm nên nhiều công trình văn học, sân khấu để đời. Chỉ nhìn vào chừng hơn chục tác phẩm chính đã xuất bản của ông, có thể cảm nhận được khối tình mênh mông ấy. Đó là: Hận ngày xanh (phóng tác theo La Martine, 1940); Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942); Hậu Nam quan (kịch thơ, 1944); Ông cụ Liêu (kịch nói, 1952); Tiếng hát quan họ (Trường ca, in chung trong tập Cửa biển, 1956); Mưa Thuận Thành (Thơ, 1991); Lá diêu bông (Thơ, 1993); Bên kia sông Đuống (Thơ chọn lọc, 1993); Kiều Koan (kịch thơ, 3 hồi, 1995).

Hoàng Cầm đã ra đi, nhưng tình còn ở lại, đậm đà trong những tác phẩm văn chương; trong những ký ức đẹp với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, bạn đọc yêu quý ông. Nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán, người chụp ảnh Hoàng Cầm từ cuối những năm 1980 và gần gũi với ông lâu nay, đang phải thực thi nhiệm vụ thật buồn - tìm một bức ảnh vừa ý về Hoàng Cầm để làm ảnh tiễn đưa ông.

Hội Nhà văn Việt Nam cũng đang cùng gia đình chuẩn bị cho lễ viếng Hoàng Cầm, thi sĩ của “Bên kia sông Đuống”, “Lá diêu bông”. Giờ đây, lại thấy vọng về những chia sẻ giản dị, nhưng là chắt chiu từ cả đời cầm bút của ông: “Mơ mộng. Học, tìm, mơ mộng, rồi lại học, lại tìm, tìm mãi cái Đẹp, cái Thật, cái Thiện. Trung thực với bản ngã, dần dần tự tạo ra phong cách thơ riêng, thế giới thơ riêng, không vay mượn lặp lại người khác, không tự mãn, cố gắng không lặp lại mình”.


Sưu tầm
 
Nhà thơ Hoàng Cầm qua đời

9h30 sáng nay (6/5), thi sĩ "Lá diêu bông" đã nhẹ bước vào cõi hư không, để lại một di sản tinh thần độc đáo, tài hoa, in dấu ấn riêng biệt vào lịch sử văn chương Việt Nam.


ahoang-cam-2.jpg


Nhà thơ Hoàng Cầm. Ảnh: Nguyễn Đình Toán
.

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh năm 1922. Ở tuổi xấp xỉ 90, vì một cú ngã dẫn đến bại chân, nhiều năm qua, ông hoàng thơ tình Việt Nam chỉ còn quanh quẩn nằm ngồi trong căn phòng nhỏ trên con phố Lý Quốc Sư. Tối 2/5, bệnh trở nặng, ông được đưa vào Bệnh viện Hữu Nghị (Hà Nội) cấp cứu. Hơn 3 ngày sau, tác giả Bên kia sông Đuống qua đời, hưởng thọ 89 tuổi.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho biết, hôm 3/5, ông cùng Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh và một số bạn văn nữa vào viện thăm Hoàng Cầm. "Lúc này, nhà thơ không nói được nữa, tuy ánh mắt vẫn còn tỏ vẻ nhận ra mọi người. Tay ông dường như đã lạnh".

"Tôi đã lường trước được chuyến đi cuối cùng của Hoàng Cầm. Nhưng khi nghe tin ông mất, tôi vẫn không tránh khỏi cảm giác bàng hoàng, đau xót. Đối với tôi, Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn với những tác phẩm mang đậm dấu ấn truyền thống, nhưng lại có đóng góp rất quan trọng trong công cuộc cách tân thơ ca Việt Nam. Thơ ông ảnh hưởng đến nhiều thế hệ thi sĩ Việt Nam", Nguyễn Trọng Tạo chia sẻ.

Hiện tại, thi hài nhà thơ đang được quàn tại phòng lạnh Bệnh viện 108. Nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết: "Hội và gia đình nhà thơ đang bàn bạc về ngày giờ và địa điểm tổ chức tang lễ cho Hoàng Cầm. Tang lễ của ông sẽ được tổ chức với nghi thức cao nhất của Hội Nhà văn. Ông không chỉ là tác giả đoạt giải thưởng Nhà nước mà còn là một tên tuổi lớn trên văn đàn Việt Nam hiện đại".

hoang-cam-1.jpg


Nhà thơ Hoàng Cầm và nhà văn Kim Lân năm 2003. Cả hai giờ đều đã là "người của muôn năm cũ". Ảnh: Nguyễn Đình Toán.


Nhà thơ Hoàng Cầm, tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ra tại làng Lạc Thổ, nay là xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, trong một gia đình nhà Nho nghèo sống bằng nghề làm thuốc Đông y. Ông làm thơ từ năm lên tám, chín tuổi, bắt đầu được in từ những năm 1936 - 1937. Bút danh Hoàng Cầm xuất phát từ tên của một vị thuốc quý.

Những năm kháng chiến, Hoàng Cầm gia nhập quân đội, chuyên hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Năm 1957, ông là một trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.

Hoàng Cầm được biết đến trong nhiều lĩnh vực, nhưng nổi tiếng nhất là thơ ca. Những tác phẩm chính trong sự nghiệp sáng tác của ông gồm: Trương Chi (xuất bản năm 1993), Bên kia sông Đuống (thơ, 1948), Kinh Bắc (thơ, 1959), Men đá vàng (truyện thơ, 1973), Mưa Thuận Thành (thơ, 1959), Lá Diêu Bông (thơ, 1993), Đến từ hư không (thơ, 2000)...

Năm 2007, Hoàng Cầm được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top