MỞ ĐẦU
Văn học Mỹ Latinh là một nền văn học có sức sống mạnh mẽ và đạt rất nhiều thành tựu rực rỡ. Từ giữa thế kỉ XX đã có tiếng vang trên thế giới, thu hút nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đặc biệt quan tâm. Với sự xuất hiện nhiều tên tuổi nổi tiếng như Miguel Angel Asturias, Jorge Luis Borges, Alejo Carpentier, Carlos Fuen- tes, Pablo Neruda, Otavio Paz…. Và không thể không nói đến Gabriel Garcia Marquez, một đại diện tiêu biểu xuất sắc của nền văn học dân tộc Côlômbia nói riêng và Mỹ Latinh nói chung.
G. Marquez xuất hiện trên văn đàn thế giới và được mọi người biết đến là một “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”. Với tài năng và tấm lòng nhiệt huyết của mình ông đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm rất xuất sắc và được độc giả yêu mến. Tiêu biểu nhất, là tiểu thuyết Trăm năm cô đơn – một kiệt tác xuất sắc của ông.
Trăm năm cô đơn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của G.Marquez. Tác phẩm được nhà xuất bản Subamerica xuất bản lần đầu bằng tiếng Tây Ban Nha vào năm 1967 tại Buenos Aires (Argentina). Vào năm 1970, truyện đã được in bằng tiếng Tây Ban Nha hơn nửa triệu bản. Cho đến nay, tác phẩm đã chuyển dịch qua hơn 30 ngôn ngữ trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tác phẩm được tặng giải Chianchiano của Ý, được Pháp công nhận là cuốn sách hay nhất trong năm và được giới phê bình văn học Mỹ đánh giá là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong thập niên 1960. Và chính tác phẩm này đã mang đến cho tác giả vinh dự đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1982.
Cho đến nay tác phẩm vẫn còn sức hút đặc biệt với nhiều thế hệ độc giả. Rõ ràng Trăm năm cô đơn là cuốn sách ăn khách, mặc dù tác giả viết không phải mục đích câu khách. Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại - Trăm Năm Cô Đơn của niềm tin và số phận con người.
Sự thành công của cuốn tiểu thuyết không chỉ dừng lại ở mức độ đó, mà nó còn thành công trên rất nhiều phương diện… Và cuốn tiểu thuyết này chính là tất cả tâm huyết của tác giả. Có thể nói cuốn tiểu thuyết này là cả một quá trình lao động sáng tạo miệt mài không ngừng nghỉ của tác giả.
Vì lẽ lý do trên và ước muốn nên người viết đã chọn đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez” làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho người viết có những nhìn nhận thật đúng đắn và hiểu rõ hơn tác phẩm nghệ thuật tầm vóc này, qua đó có thể hiểu thêm về G.Marquez. Và đồng thời, đây cũng là cơ sở cho công tác nghiên cứu giảng dạy và học về sau này của người viết.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Như trên đã giới thiệu tiểu thuyết Trăm năm cô đơn là một hiện tượng văn học trên thế giới. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Con số độc giả đón đọc cuốn tiểu thuyết này lên đến hàng tỉ người và có “nguy cơ” chưa dừng lại (theo tác giả). Không những thế tác phẩm này đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã đổ không biết bao nhiêu giấy mực quan tâm đến. Giới nghiên cứu phê bình văn học Anh, Mỹ và châu Âu đánh giá tác cuốn tiểu thuyết này: “có thể là một tác phẩm vĩ đại nhất của văn học Mỹ Latin và văn học thế giới và chắc chắn là một tác phẩm được nhiều người biết đến nhất” [10, tr.139].
Một nhà nghiên cứu văn học Nga và là một trong hai người dịch tác phẩm này sang tiếng Nga, V. Stolbov đánh giá: “Ông (Marquez) đã sáng tạo ra một tác phẩm không những duy nhất trong văn học Mỹ Latin mà cả văn học thế giới hiện đại: một cuốn tiểu thuyết sử thi độc đáo với một sự bao quát hùng vĩ các sự kiện, với những tính cách anh hùng đồ sộ, một cuốn tiểu thuyết chứa đựng trong môt dòng duy nhất cả sự thật lẫn tưởng tượng, vừa cái bi vừa cái hài, tính kịch với chất thơ, nhưng vẫn thường xảy ra trong cuộc sống” [10, tr.139].
Pablo Neruda - một nhà thơ vĩ đại của Chile, người được tặng Giải Nobel Văn học năm 1971, đánh giá: “tác phẩm này là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất trong nền văn học Mỹ Latin hiện đại” [10, tr.139].
Ở Việt Nam, việc tiếp cận tác phẩm này được biết đến qua bản dịch của một số dịch giả. Về việc nhiên cứu về tác giả và tác phẩm này vẫn chưa có nhiều những nghiên cứu sâu. Tuy nhiên cũng phải kể đến:
Nguyễn Trung Đức trong bản dịch tác phẩm Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học, HN, 2000. Tác giả đã đưa ra những kiến giải về các vấn đề như cốt truyện và đề tài, kết cấu và thời gian nghệ thuật, nhân vật và thông điệp… Tuy nhiên, bài giới thiệu này chỉ dừng lại ở mức khái quát, chưa đi sâu vào nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Trong cuốn Văn học Mỹ Latin do Lại Văn Toàn (chủ biên), Nxb Thông tin Khoa học xã hội - chuyên đề, HN, 1999 đã tổng tập một số bài dịch của Nguyễn Thị Khánh, Lê Sơn, Thi Nguyên, Đinh Công Bắc, Đinh Quang Trung … từ các bài viết của các tác gia nước ngoài. Cuốn sách đã giới thiệu cho ta một cách rõ nét về tình hình phát triển của nền văn học Mỹ Latin, trong đó cũng giới thiệu một cách khái quát về tác giả G. Marquez và tiểu thuyết Trăm năm cô đơn.
Đào Thị Thu Hằng trong bài viết Yếu tố huyền ảo trong tác phẩm Kawabata và Marquez trong cuốn Văn học so sánh – nghiên cứu và triển vọng, Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn), Nxb ĐHSP, 2005. Tác giả đã so sánh Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng tác của hai nhà văn nói trên và qua đó đã khám phá đặc sắc về không gian và thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Tuy nhiên bài viết vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể về cuốn tiểu thuyết Trăm năm cô đơn.
Đỗ Xuân Hà trong bài viết tiểu thuyết hiện thực huyền ảo: Trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez trong cuốn Văn học thế giới thế kỉ XX, Nxb ĐHQGHN, 2006. Trong bài viết này, Đỗ Xuân Hà thông qua những nét tiêu biểu nhất về con người cũng như những sáng tác của G.Marquez, nêu lên một số thành tựu của G.Maquez trong Trăm năm cô đơn trên các mặt nội dung và nghệ thuật và chỉ ra phương pháp sáng tác trong Trăm năm cô đơn là Chủ nghĩa huyền ảo kết hợp với Chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo và các yếu tố hoang đường. Bên cạnh những cái có thực trong đời sống xã hội của Mỹ Latin thời bấy giờ, tác giả cũng đã phân tích những yếu tố kì ảo trong tác phẩm và chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu như: sự kết hợp nhiều loại thời gian trong quá trình kể chuyện của tác giả, nghệ thuật cá tính hóa nhân vật làm cho người đọc không bị nhầm lẫn giữa các nhân vật trùng tên nhau, thông qua đó ông chỉ những thành công của Maquez trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Và phải kể đến cuốn chuyên luận về Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabrile Garcia Marquez của Lê Huy Bắc, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009. Tác giả đã tóm lượt được nội dung của tiểu thuyết Trăm năm cô đơn một cách cụ thể và khái quát nhất qua từng chương để người đọc có thể hình dung được, Ngoài ra còn đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm ở một số mặt nội dung cũng như nghệ thuật để cho người đọc có thể hình dung và hiểu một cách sâu sắc nhất nhất.
Nhìn chung những công trình trên đã phần nào khái quát lên được những đặc điểm về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật…. của tiểu thuyết Trăm năm cô đơn và đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu, nghiên cứu. Trên cơ sở đó cộng với sự kết hợp một số nguồn tư liệu khác, chúng tôi mạnh dạn đi vào việc nghiên cứu đề tài : “Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. Marquez
Phạm vi nghiên cứu là văn bản khảo sát, chúng tôi dựa vào cuốn Trăm năm cô đơn do tác giả Nguyễn Trung Đức, (dịch), Nxb Văn học, HN, 2003.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống:
- Phương pháp so sánh - đối chiếu:
- Phương pháp phân tích - chứng minh:
- Phương pháp tổng hợp:
5. Cấu trúc đề tài:
Cấu trúc đề tài nghiên cứu này gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong phần nội dung được chia làm hai chương chính:
Chương một: Những vấn đề chung
Chương hai: Trăm năm cô đơn – một cuốn tiểu thuyết mang nhiều yếu tố kì ảo
Cuối cùng là tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
Chương một: Những vấn đề chung
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Theo Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: Tiểu thuyết là: “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [tr. 277].
1.1.2. Khái niệm cái kì ảo
Cái kì ảo trong văn học nghệ thuật là đối tượng hấp dẫn giới nghiên cứu phê bình văn học phương Tây. Năm 1963, Hiệp hội “Những người nghiên cứu văn học đã được thành lập tại Bruxenlles (thủ đô Bỉ)”, với mục đích hợp tác nghiên cứu và công bố các phát hiện liên quan đến vấn đề này. Vì thế các công trình nghiên cứu về cái kì ảo cũng đã ra đời. Việc chuyển dịch thuật ngữ “Le Fantastique” (tiếng Pháp) sang tiếng Việt có nhiều cách gọi khác nhau, điều này cũng cho thấy sự đa dạng và phong phú trong cách nhìn nhận một vấn đề. Lê Nguyên Cẩn dịch là “cái kì ảo”, GS Hoàng Trinh dịch là “Kì dị, quái dị”, Trọng Đức dịch là “quái dị”, Tạp chí văn học nước ngoài dịch là “kinh dị”. Trong đề tài này chúng tôi dựa trên cách gọi và dịch của Lê Nguyên Cẩn là “cái kì ảo”.
Định nghĩa về cái kì ảo là một vấn đề, có nhiều ý kiến đưa ra khác nhau:
Adrian Mario trong Từ điển các ý kiến văn học thì cái kì ảo chỉ là “những cái không tồn tại trong hiện thực, những cái không có thực và được tạo ra do tưởng tượng”. Tiếp theo đó thuật ngữ này tiếp nhận ý nghĩa là “hình ảnh cảm giác (trong tâm lí học cổ điển) và hình ảnh trí tuệ (tâm lý học hiện đại). Ông xác định “cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, hư cấu”, “trong thực tế, cái kì ảo chỉ có thể ra đời từ bản thân cái tưởng tượng (Fantaisie) – cái duy nhất sinh ra nó, hợp pháp hóa nó và xác định nó như một sản phẩm mĩ học đặc thù”, “cái kì ảo tạo ra khả năng thường trực về suy luận, một sự thâm nhập của cái không có khả năng hoặc không thể nhìn thấy được trong lĩnh vực của những điều giải thích được” [2, tr.28].
George Munteanu trong Từ điển thuật ngữ văn học có xác định: “Cái kì ảo bao hàm mọi cái ngẫu nhiên không quen thuộc, nhưng giải thích được bằng hàng loạt nghiên nhân có thực” [2, tr.28].
Trong Văn học Kì ảo Pháp, M.Schneider cũng đưa ra nhận xét: “Cái kì ảo khai thác không gian nội tâm, nó gắn liền với sự sợ hãi trong cuộc sống và trong hi vọng thay đổi” [2, tr.18].
P.G.Castex cũng có cho rằng: “Cái kì ảo trong văn học là hình thức thuần túy (…) nó được tạo ra từ giấc mơ, từ sự mơ tín, sợ hãi, hối hận, từ sự kích thích quá độ của trí não hay tâm linh, từ sự mê đắm và từ tất cả mọi hiện tượng mang tính chất bệnh lí. Nó được nuôi dưỡng bằng ảo giác, bằng sự khủng khiếp điên cuồn” [2, tr.20].
Theo các Từ điển giải nghĩa của Pháp, Từ điển thuật ngữ văn học của Rumani, Từ điển Pháp – Việt của các soạn giả khác nhau, thì nội hàm thuật ngữ được xác định như sau: “Cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, được tạo ra nhờ khả năng suy tưởng; ở đó cái siêu nhiên chiếm ưu thế. Đó là những cái không mang tính chân thực, chỉ tuân theo quy luật của tưởng tượng. Đó là cái kì quặc, dị thường, hư ảo, quái dị, siêu nhiên, kinh khủng, huyễn hoặc” [2, tr.15].
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, đã đưa ra định nghĩa từng các thuật ngữ kì ảo, quái dị, kinh dị… có thể mỗi từ có một ý nghĩa riêng nhất định song chúng điều nói lên một nội dung là: những điều không thực, gấy ấn tượng mạnh.
Trên đây là những ý kiến của các nhà nghiên cứu, phê bình khi đi vào mảnh đất của những cái kì ảo. Còn Lê Nguyên Cẩn trong cuốn chuyên luận “Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac” cũng đưa ra nhận định dựa trên sự tổng hợp các ý kiến trên, tác giả đã đưa ra kết luận rất xác đáng về khái niệm cái kì ảo: “Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng” [2, tr.16].
1.2. G.Marquez – bóng dáng tài năng của một thiên tài
1.2.1. G.Marquez – bóng dáng một thiên tài
G. Marquez sinh ngày 6 - 4 - 1928 tại một làng trồng chuối ở Aracataca của đất nước Côlômbia. Xuất thân trong một gia đình tri thức nghèo, bố mẹ ông phải vật lộn kiếm sống nên ông được ông bà ngoại đón về nuôi dạy từ thơ ấu. Thời điểm ông sinh ra cũng là khi nghành chuối bắt đầu phát triển và cũng là khi Hoa Kỳ khai thác Nam Mỹ qua các đồn điền chuối.
Tên gọi thân mật của “Gabriel bé bỏng” là Gabito. Cậu là một đứa bé trầm lặng và nhút nhát. Ngay từ thơ ấu, Gabio được tắm mình trong những câu chuyện hoang đường do ông bà kể. Ngoại trừ ông bà ngoại là một cựu đại tá và cậu, ngôi nhà toàn là phụ nữ. Đặc biệt họ rất hay kể chuyện ma. Chú bé Gabio nghe chuyện, sợ đến múc không dám rời khỏi ghế. Những câu chuyện đó đã ươm trong cậu hạt giống của trái cây văn học khổng lồ, để chờ ngày vươn dậy trên đất nước Côlômbia đầy đau thương. Chuyện về cuộc nội chiến, về vụ đình công của công nhân chuối, chuyện lấy nhau của bố mẹ… cứ được kể đi kể lại từ các gì, các bà và các cô con gái ngoài giá thú của ông ngoại đã khảm sâu vào trong kí ức Marquez. Ông ngoại mất khi Marquez lên tám và vì bà ngoại bị mù lòa, Marquez chuyển về sống với cha mẹ ở Sucre, nơi bố ông làm dược sĩ. Tại đó ông được gởi đến trường nội trú ở Barranquilla, một thành phố cảng nằm ở sông Magdalena. Đến trường, ông vẫn giữ tính rụt rè nhưng nổi tiếng với những vần thơ trào phúng và tranh biếm họa. Sự nghiêm túc và ít say mê thể thao đã khiến các bạn đặt cho ông biệt danh ông cụ.
Năm 1940, tại trường trung học cơ sở, ông nhận phần thưởng đầu tiên trong đời. Phần thưởng của các giáo sĩ Dòng Tên (thuộc Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã) trao cho các học sinh tài năng. Ngôi trường ông theo học có tên là Liceo Nacional, nằm ở Zipaquira, thành phố cách Bogota khoảng 60 cây số về phía bắc. Hành trình đi học phải mất cả tuần lễ và vào ngay lúc đó ông đã cảm thấy không thích thành phố thủ đô Bogota theo ông là ảm đạm và khắc nghiệt. Ông quyết tâm thành nghệ sĩ lãng du.
Ở trường, ông gắn bó với bạn bè. Buổi tối ông thường đọc sách cho các bạn kí túc cùng nghe. Là người có khiếu hài đặc biệt, tuy chưa viết được tác phẩm nào to tác nhưng tình yêu văn học, tranh biếm họa đã mang lại cho ông biệt hiệu nhà văn. Có lẽ danh tiếng này đã góp phần định hướng cho văn nghiệp đồ sộ sau này của ông. Như vậy, cuộc phưu lưu văn chương của Marquez bắt đầu khá sớm, ông viết truyện ngắn và viết báo chí khi còn là sinh viên.
Năm 1946, chàng trai 18 tuổi, theo ước nguyện của bố mẹ đã vào nghành luật tại Đại học Quốc gia Bogota. Trong thời gian này, Ông gặp và yêu Mercedes Barcha Pardo khi cô 13 tuổi, ông tuyên bố cô là người thú vị nhất mà mình từng gặp và đã cầu hôn cô một cách nồng nàn. Nhưng mãi đến mười bốn năm sau họ mới làm lễ cưới.
Năm 1959, khi cách mạng Cuba thành công – một sự kiện làm chấn động Mỹ Latinh và toàn bộ Châu Âu đã tác động không nhỏ đến G.Marquez. Ông nhiệt liệt chào mừng sự kiện đó và nhận làm phóng viên cho hãng thông tấn thường trú Cuba và Mỹ.
Từ năm 1961 đến 1967, ông sống ở Mêhicô và tiếp tục sáng tác. Năm 1967 tiểu thuyết Trăm năm cô đơn ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong lòng độc giả và được dư luận trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Năm 1969 Q.Marquaz nhận giải thưởng Rômugô Gazêrô của Vênêzuêla. Năm 1971, trường Đại học Côlômbia (Mĩ) tặng ông bằng tiến sĩ danh dự văn học và giải Nôxtat dành cho người nước ngoài.
Năm 1981, G.Marquez bị chính phủ Côlômbia trục xuất vì bị nghi là có liên hệ với phong trào du kích ở miền núi nước này và phải sống lưu vong ở Mêhicô. Cũng trong năm này ông được chính phủ Pháp tặng huân chương bắc đẩu bội tinh. Năm 1982, ông nhận giải thưởng Nôbel về văn học, ghi nhận sự đóng góp của ông không chỉ với văn học Mỹ Latinh mà còn với cả nền văn học nhân loại.
Năm 2002, mặc dù sức khỏe yếu, G.Marquez đã hoàn thành cuốn hồi ký đầu tiên Vivir para contarla (Sống để kể lại) về 30 năm đầu của đời mình, trước khi tới châu Âu lần thứ nhất. Tháng 10 năm 2004, G.Marquez xuất bản cuốn Memoria de mis putas tristes (Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi).
1.2.2. G.Marquez – quá trình lao động miệt mài không mệt mỏi
Trong suốt 60 năm sáng tác và cống hiến chi niềm đam mê của mình, Q.Marquez đã sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ và là một nhà văn, nhà báo xuất sắc của nền văn học Mĩ Latinh.
Ngay từ khi còn ngồi ghế nhà trường đại học, ông bắt đầu viết truyện ngắn đầu tay. Tuy chưa tạo được dư âm lớn, nhưng nó vẫn có sức lộ cuốn và tạo được sự chú ý của dư luận. Những truyện ngắn thời kì này được tập hợp và xuất bản trong tập Đôi mắt chó xanh (1955).
Ở thể loại tiểu thuyết, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm đỉnh cao như: Lá rụng (1955), Giờ xấu (1962), Trăm năm cô đơn (1967), Mùa thu của ngài tộc trưởng (1976), Tình yêu thời thổ tả (1985), Vị tướng trong mê cung (1989), Tình yêu và những quái vật khác, Kí sự về một cái chết đã được báo trước.
Ở thể loại truyện ngắn, ông cho xuất bản nhiều truyện ngắn tiêu biểu như: Bão lá (1954), Ngài đại tá chờ thư (1961), Đám tang bà mẹ vĩ đại (1962), Chuyện buồn không thể tin được của Ê-rênh-đi-na ngây thơ và người đàn bà bất lương (1979), Mười hai truyện phiêu dạt, Cụ già với đôi cánh khổng lổ, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (2004)…
Ở thể loại kí sự, phóng sự với những tác phẩm tiêu biểu như: Nhật kí chìm tàu (1970), Chilê – cuộc đảo chính và bàn tay bọn Mĩ, Tin tức về một vụ bắt cóc (1996), Sống để kể lại (2002),…
Hiện nay dù tuổi đã cao, nhưng ông vẫn tiếp tục viết những câu chuyện dữ dội với sức hấp dẫn lớn và chinh phục được trái tim độc giả khắp mọi nơi.
Với G.Marquaz “những điều dối trá trong văn chương là nguy hiểm hơn so với những điều dối trá trong cuộc đời”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã cống hiến cho nền văn học Mỹ Latinh nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, kí sự. Sáng tác của ông tập trung ở hai cách viết: Viết theo bút pháp hiện thực nghiêm ngặt, bằng ngôn ngữ khúc chiết, mộc mạc trong sáng gần gũi với đời thường và bút pháp hiện thực huyền ảo. Mà chủ yếu ở bút pháp hiện thực huyền ảo.
Trong sáng tác của Marquez, ta bắt gặp những câu chuyện ông đưa vào những hiện tượng thuộc đời sống ý thức ở trình độ trực quan và cả những hiện tượng thần giao cách cảm mà theo ông đó là những điều có thực ở Mỹ Latinh. Ông luôn vận dụng vào trong tác phẩm của mình kiểu kiến trúc nhiều tầng, phương thức kỹ thuật tự sự nhiều người kể chuyện trên cơ sở thời gian đa chiều, sử dụng phép loại hình hóa nhân vật và nghệ thuật dân gian. Đó chính là những đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. G.Marquez đã khẳng định mình bằng việc cách tân trong sáng tác viết tiểu thuyết và được độc giả hoan nghênh rất nhiều
1.3. Trăm năm cô đơn – một cuốn tiểu thuyết xuất sắc của thế kỷ XX, một đại diện xuất sắc của thể loại văn học kì ảo
Gabriel Garcia Marquez bắt đầu viết Trăm năm cô đơn vào đầu năm 1965. Trước đó, trong khoảng thời gian từ 1961 tới 1965, với văn học, ông không sáng tác một dòng nào do tâm lý sợ thất bại từ các tác phẩm trước. Tháng 1 năm 1965, khi đang lái xe từ thành phố Mexico tới khu nghỉ mát Acapulco, Garcia Marquez bỗng dừng xe và nói với vợ, bà Mercedes Barcha: "Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể lại câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại khi kể cho anh nghe những câu chuyện lạ, bắt đầu từ cái buổi chiều nọ khi đứa bé được bố đưa đi xem nước đá."
Garcia Marquez gom được 5000 USD tiếp kiệm và bạn bè giúp đỡ để đưa cho vợ lo chi tiêu trong gia đình, còn ông đóng cửa viết trong 18 tháng. Khi cuốn sách hoàn thành cũng là lúc vợ ông cho biết gia đình đã nợ lên tới 10.000 USD. Để có tiền gửi bản thảo, Garcia Marquez phải bán nốt một số vật dụng giá trị trong nhà. Được xuất bản vào năm 1967, Trăm năm cô đơn ngay lập tức gây được tiếng vang lớn.
Câu chuyện kể về một dòng họ và ngôi làng họ sống, Macondo qua một trăm năm, tựa như một phần lịch sử của Colombia. Macondo là ngôi làng do Gabriel Garcia Marquez tưởng tượng ra, dựa trên những ký ức của ông về ngôi làng thời niên thiếu của mình, điều này đã được ông kể lại trong cuốn hồi ký Sống để kể lại ( Vivir para contarla). Dòng họ Buendia bao gồm 7 thế hệ. Người đầu tiên trong dòng họ là Jose Acardio Buendia và người cuối cùng của dòng họ là Aureliano đã bị kiến ăn khi vừa mới được sinh ra. Dòng họ này đã tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân.
Theo cuốn hồi ký Sống để kể lại thì rất nhiều sự kiện, nhân vật của Trăm năm cô đơn được tác giả lấy từ cuộc đời thật. Đại tá Aureliano Buendía nhiều điểm giống với ông ngoại của Garcia Marquez: cùng là đại tá thuộc phái Tự do trong cuộc chiến tranh. Nhưng chính ông ngoại của Garcia Marquez đã giết một người trong một cuộc thách đấu, điều này trùng với nhân vật José Arcadio Buendía trong tiểu thuyết. Nhân vật Úrsula Iguarán thì giống với bà ngoại của Marquez, người cuối đời cũng bị mù. Nhóm bạn của Aureliano Babilonia ở phần cuối tiểu thuyết, mà trong đó cũng có một nhân vật mang họ Marquez, chính là một nhóm bạn của Garcia Marquez khi ông bắt đầu tham gia báo chí. Sự kiện thảm sát cũng đã từng xảy ra và thị trấn quê hương của ông cũng có thời thịnh vượng rồi suy tàn như Macondo. Công ty Chuối trong tiểu thuyết giống với một công ty hoa quả của Mỹ từng xây dựng ở quê hương ông
Với “Trăm năm cô đơn”, sự nghiệp của G. Marquez đã được đưa lên đỉnh cao vinh quang trên văn đàn thế giới. Trăm năm cô đơn được xem là “một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất viết bằng tiếng Tây Bang Nha kể từ thời Đônkihôtê”. Theo số liệu tác giả cung cấp đến năm 1970, Trăm năm cô đơn đã được in bằng tiếng Tây Bang Nha hơn nửa triệu bảng, chưa kể hai lần in ở Cuba Xã hội chủ nghĩa và mười bảy hợp đồng xin phép tác giả được dịch tác phẩm này ra các thứ tiếng khác nhau. Cho đến nay, tác phẩm đã được chuyển dịch qua hơn ba mươi ngôn ngữ trên thế giới.
Trăm năm cô đơn đã được nước Ý trao tặng giải thưởng Chian Chiao, nước Pháp công nhận là cuốn sách hay nhất trong những năm 60 của thế kỉ này. Tác phẩm cũng mang đến vinh dự cho G.Marquez nhận được giải thưởng Nôbel Văn học năm 1982. Đã gần nửa thế kỉ từ khi ra đời, Trăm năm cô đơn vẫn có sức thu hút mạnh mẽ tới độc giả khắp thế giới và tiếp tục có mặt khắp mọi nơi trên hành tinh, tìm đến với những độc giả yêu thích nó.
Qua tác phẩm này G.Marquez cũng được gọi là người đại diện xuất sắc trong thế giới văn chương Mĩ Latinh, cho một khuynh hướng Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, mà Trăm năm cô đơn được xem là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ở châu Mỹ Latinh
Trăm năm cô đơn là tác phẩm có nhiều bình diện phản ánh một cách độc đáo cuộc sống mọi mặt của các dân tộc Mỹ Latinh, kể cả những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của họ. Về mặt thi pháp, sự kết hợp của thần thoại thổ dân da đỏ với trí tuệ văn minh hiện đại, sự pha trộn giữa các yếu tố huyền thoại và hoang đường đã tạo ra một hệ thống thẩm mỹ đặc biệt mà các nhà nghiên cứu lí luận và phê bình gọi là Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo – một sản phẩm đặc thù của Mỹ Latinh hiện đại. Về mặt ý nghĩa, Trăm năm cô đơn như là một lời cảnh báo, một lời kêu gọi đoàn kết đối với nhân loại ngày nay: tai họa sẽ đến nếu như sự cô đơn, sự tha hóa sẽ thắng thế trong đời sống con người. Chỉ có đoàn kết con người trong tình yêu thương, lòng nhân ái và nỗ lực diệt trừ cái ác, những dòng họ bị kết án vĩnh viễn trăm năm cô đơn mới có thể có cơ hội được hồi sinh trên trái đất này.
Chương hai: Trăm năm cô đơn của G.Marquez – một cuốn tiểu thuyết mang nhiều yếu tố kì ảo
2.1.1. Những lời dự báo, tiên tri
Trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, chúng ta bắt gặp những hiện tượng thuộc đời sống tiền logic của những nhân vật. Đó là khả năng tuyệt vời của đại tá Aurêlianô Buênđya, là một người trầm tính nhưng chàng luôn làm cả nhà ngạc nhiên bởi những tiên đoán hết sức chính xác của mình. “Một ngày nọ, cậu bé Aurêlianô mới lên ba, bước vào phòng bếp giữa lúc Ucsula nhắc nồi canh ra khỏi bếp và đặt nó lên bàn, chính trong ngày này bà mới nhận ra sức nặng của cái nhìn ấy. Cậu bé thập thò ngoài của sổ nói “nó sẽ đổ đấy”, cái nồi đã được đặt chắc chắn trên bàn, nhưng bỗng nhiên đúng như lời cậu bé báo trước, nó bắt đầu rung lên bần bật rồi lăn ra mép bàn như có sức đẩy từ bên trong và nó vỡ toang từng mảnh trên sàn nhà”
Đó là dự báo trước của Aurêlianô cho cả nhà biết sẽ có người lạ đến ở nhà mình khi Rêbêca trên đường đến làng Macônđô cùng với những người Digan “có người đến nhà mình đấy (…) quả nhiên Rêbêca đến vào một ngày chủ nhật”. Hay là khả năng ngoại cảm của ông về cái chết của Hôsê Accadiô Buênđya đã làm Usula hoảng hốt. Dù ở xa nhưng Aurêlianô vẫn cảm nhận được cái chết của Hôsê Accadiô Buênđya đang đến gần khi ông cho sứ giả mang bức thư báo cho gia đình biết trước hãy trông nom cha cẩn thận vì cha sẽ mất.
Đó có thể là những điềm báo trước những sự việc sắp xảy ra mà những người thuộc dòng họ Buênđya cảm nhận được. Linh tính đã báo trước cho Usula trước buổi hành hình đại tá Aurêlianô khi bên tai bà bỗng nghe tiếng nói của anh. Hay là là điềm báo trước cho bà về việc đại tá Aurêlianô sẽ tự tử “Usula mở vung nồi sữa đang nấu trên bếp, ngạc nhiên thấy rằng sao nó lâu sôi thế và cụ thấy giòi bọ đầy nồi sữa”. Vào những năm cuối đời mình, Amanta cũng đã linh tính được rằng cái chết của mình sẽ đến sớm hơn dự định vài năm nên bà đã tự may đồ liệm cho mình và nhận những bức thư của người còn sống mang xuống mộ gửi cho người đã chết.
Đó là khả năng đồng cảm tuyệt vời giữa hai chú bé Hôsê Accađiô Sêgunđô và Aurêlianô: khi người này uống nước chanh thì người bên kia nói đúng một trăm phần trăm là nước chanh không pha đường, bên cạnh đó họ còn có những đặc điểm sinh hoạt giống nhau “họ cùng dậy một lúc, cùng vào nhà tiêu một giờ, cùng chịu cơn trái nắng trở trời và họ mơ thấy giấc mơ giống hệt nhau”. Chỉ khi lớn lên họ mới mang những nét khác biệt nhau, nhưng đến khi chết họ lại giống nhau như đúc khiến người ta nhầm lẫn người này sang người khác như khi họ còn nhỏ. Những linh tính, điềm báo đó nó như một thứ giác quan thứ sáu giúp con người cảm nhận dược những sự việc, những biến cố quan trọng sẽ xảy ra trong cuộc đời mình hoặc của những người thân mình.
Những hiện tượng đó khó giải thích, nhất là ở làng Môcônđô còn chìm đắm trong u mê lạc hậu này nhưng nó đã tồn tại trong nhận thức của dân chúng thời xưa. Nó như một biến ảo kì diệu được cảm nhận bằng tâm linh, dựa trên niềm tin về một thế giới vô hình của người dân. Đây là những hiện tượng thuộc đời sống trực quan tiền lôgic của dân chúng mà theo G.Marquez đó là những hiện tượng có thật trong đời sống ý thức của người dân Mỹ Latinh. Thực chất những hiện tượng đó có mặt khắp mọi nơi, tồn tại trong mọi dân tộc nhưng nó đã được G.Marquez đưa vào tác phẩm, tạo thành những nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm của ông. Trong sáng tác của ông người đọc bắt gặp ông sử dụng nhiều đặc điểm của hiện tượng này, tạo nên một nét độc đáo riêng trong phong cách sáng tác của G.Marquez.
2.1.2. Hình ảnh thiên nhiên kì diệu, dị thường:
Cùng với việc sử dụng những hiện tượng thuộc đời sống ý thức còn ở trình độ trực quan tiền lôgic của người dân, Marquez đưa vào tác phẩm những hiện tượng đời sống tinh thần kết hợp với cảm quan người nghệ sĩ. Đó có thể là những vấn đề có thật trong cuộc sống, cũng có thể là những chi tiết do tác giả tưởng tượng ra nhưng được tái hiện qua lăng kính chủ quan của tác giả nó cũng mang một màu sắc huyền ảo. Vì “thực tại không chỉ bao gồm những hoạt động thực tiễn của con người tác động vào thế giới tự nhiên, xã hội… mà còn bao gồm cả đời sống tâm linh, niềm tôn giáo, các huyền thoại và truyền thuyết”. Và hiện thực trong tác phẩm qua cảm quan của G.Marquez là những hư cấu tạo nên một thủ pháp nghệ thuật.
Khi đọc tác phẩm Trăm năm cô đơn, chúng ta bắt gặp những hình ảnh kì diệu, dị thường, phi thường qua ngoài bút khoa trương của tác giả nhằm thể hiện quan niệm, tư tưởng của mình trước cuộc sống của con người, xã hội Mỹ Latinh thời bấy giờ.
Đó là những hình ảnh về nột trời mưa hoa trong đám ma của Hôsê Accađiô Buêđya, một đám ma chưa từng có trong lịch sử của làng Môcônđô “Cả đem ấy những bông hoa li ti màu vàng rơi xuống một cái làng đang trong nỗi âm thầm đau khổ. Hoa phủ kín các nóc nhà và hoa lấp kín các lối ra vào. Bầu trời sực nức mùi hoa khiến cho các con vật ngủ ngoài trời phải ngột thở. Hoa rơi xuống không biết cơ man nào mà kể, đến mức khi trời sáng các con đường phủ đầy hoa phẳng lì như một tấm chăn. Người ta phải dùng gậy mà hất hoa đi để lấy lối cho đám tang đi qua”. Trận mưa hoa thể hiện cảm quan thương xót của G.Marquez trước con người đầy nghị lực, thông minh, luôn đam mê hiểu biết. Hôsê Accađiô Buênđya là người khai sinh ra làng Macônđô, người có nhiều công lao trong việc xây dựng và dẫn dắt dân làng phát triển theo mô hình phong kiến. Ông là người được toàn bộ những người dân trong làng kính trọng, mọi quyết định của ông trong việc xây dựng và phát triển ngôi làng đều được mọi người đồng tình ủng hộ. Cái chết của ông không chỉ làm cho cả làng chìm trong nỗi âm thầm đau khổ mà còn khiến trời phải động lòng rơi những giọt mưa hoa đau xót tiến đưa.
Khi đọc hết tác phẩm Trăm năm cô đơn, có lẽ người đọc khó có thể quên ngay được những hình ảnh về trận lụt kéo dài bốn năm mười một tháng hai ngày, trận hạn hán mười một năm và một trận cuồng phong xóa sạch mọi dấu vết về làng Macônđô. Đó là những chi tiết được tác giả sử dụng ngòi bút phóng đại khoa trương, nhằm thể hiện cảm quan của mình trước thực tại Mỹ Latinh. Đó là những chi tiết được tác giả sử dụng ngòi bút phóng đại khoa trương, nhằm thể hiện cảm quan của mình trước thực tại Mỹ Latinh. Bọn tư sản Bắc Mỹ, ở đây là công ty chuối của ngài Brao khi tới làng Macônđô đã mang đến đây nhiều phát minh mới nhưng cũng đưa đến không biết bao nhiêu là tệ nạ, nhiều thứ văn hóa đồ trụy, làm cho ngôi làng hiền hòa năm nào giờ thay đổi một cách chống mặt. Người Mỹ, ở đây là Brao rất xảo quyệt và tráo trở tìm mọi cách thoái thác những yêu cầu chính đáng của công nhân đòi hỏi cho quyền lợi của họ, buộc họ phải đứng lên đấu tranh. Khi cuộc đấu tranh lên đến cao trào, người Mỹ thẳng tay tắm máu công nhân bằng một vụ thảm sát tất cả những ai có mặt ở sân ga và sau đó dùng đoàn tàu dài trăm toa chở xác chết ném xuống biển như công ty chuối vẫn đổ chuối thối. Hình ảnh trận mưa lụt thể hiện cảm quan của tác giả trước thực tại trì động đến ngày tận thế của Mỹ Latinh. Một vùng đất lạc hậu, chậm phát triển so với sự biến đổi của thế giới
2.1.3. Hình tượng con người mang đặc điểm huyền thoại, ma quỷ
Hình tượng về con người quá dị có cái đuôi lợn - là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng đang bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân. Cái tội loạn luân này khởi sự từ việc tên cướp biển Phranxit Đrăc tấn công Riôacha khiến các cụ tổ của Ucsula Igoaran phải chuyển đến lập nghiệp ở một làng hẻo lánh. Tại đây các cụ tổ của Hôsê Accađiô Buênđya đã lập nghiệp bằng nghề trồng thuốc lá. Qua ba thế kỷ, hai dòng họ này đã có quan hệ thâm giao, cháu chắt họ lấy lẫn nhau dẫn tới thảm hoạ đẻ ra một người đàn ông có đuôi lợn. Chính cái gương tày liếp này đã khiến cha mẹ Hôsê Accađiô Buênđya và Ucsula Igoaran tìm mọi cách ngăn cản nhưng họ vẫn cứ lấy nhau. Khi đã là vợ chồng rồi và dẫu Hôsê Accađiô Buênđya tuyên bố "dù có đẻ ra kỳ đà anh cũng cóc cần". Ucsula Igoaran vẫn sợ đẻ ra đứa con có đuôi lợn, nên khi đi ngủ bao giờ cô cũng mặc chiếc quần trinh tiết do mẹ may cho… Và rồi, những Hôsê Accađiô và những Aurêlianô, những Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống cuộc đời với số phận bi đát dường như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Và một thảm cảnh vì không biết rõ gốc gác, không nắm được quan hệ ruột thịt, Amaranta Ucsula và Aurêlianô Babilônia đã yêu nhau mãnh liệt, ăn nằm với nhau và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ đã đẻ ra đứa con quái thai có đuôi lợn và con vật huyền thoại này đã kết liễu dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ.
Ở trong tác phẩm, chúng ta còn bắt gặp những nhân vật mang nhiều nét quái dị phi thường bên cạnh những con người bình thường. Đó là những người trần mắt thịt, những con người luôn hiện diện trong cuộc sống hàng ngày với nhiều mối quan hệ, giao tiếp bình thường. Nhưng cũng có những nhân vật mang nhiều đặc điểm huyền thoại, ma quái, những bóng ma luôn hiện về dằn vặt con người. Prudenxiô Aghila chỉ vì một lời nói lỡm mà bị Hôsê Accađiô Buênđya đâm chết nhưng linh hồn của ông vẫn vẫn vương trên trần gian với cái nhìn rầu rĩ, oán trách, dằn vặt lương tâm những con người mang dòng họ Buênđuya. “Có một đêm mất ngủ, Ucsula ra ngoài sân uống nước, đã nhìn thấy Prudenxiô Aghila đứng ngay bên cạnh chum. Anh ta đứng đấy da xanh tái, vẻ rầu rĩ đang dùng nắm rơm bát để nhét vào lỗ thủng nơi cổ họng”. Ucsula và Hôsê Accađiô Buênđya luôn thấy bóng ma của Prudenxiô hiện về vì “anh bị dằn vặt bởi chính nỗi mênh mang của người chết từ trong mưa nhìn anh, bởi chính nỗi thương cảm sâu sắc của người chết đối với người sống, bởi chính cơn khát của người chết lục khắp nhà để tìm nước dấp bã lau”. Sự dằn vặt lương tâm ấy đã ăn sâu vào dòng học Buênđya, cái chết của Prudenxiô đã tạo nên nỗi hoài nhớ do lương tri bị dằn vặt đến với các đời con cháu trong dòng họ Buênđya. Pruđenxiô Aghila, người đến từ cõi âm là ám ảnh trạng thái tâm lí thường gặp ở conn người mang tội lỗi. Dù họ cố gắng gạt bỏ đi tất cả sự dằn vặt, ân hận vì tội lỗi, nỗi lo sợ bị trả thù, cố tỏ ra là người “duy vật” thì những bóng ma vẫn bám lấy họ. Đó là trạng thái hằng nhớ, dằn vặt vặt lương tâm đã khiến cuộc sống của họ trở thành địa ngục trần gian, bị dày vò bởi những cơn mơ va những cơn khắc khỏi đỏ màu máu.
2.1.4. Hình tượng nhân vật khác thường, dị thường, quái dị
Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn có khoảng sáu mươi nhân vật cả chính lẫn phụ, nhưng độc giả vẫn dễ dàng phân biệt các nhân vật với nhau mặc dù có rất nhiều nhân vật trùng tên giữa hệ thống nhân vật có quan hệ mật thiết với nhau. Họ được miêu tả như những con người sống trong thực tại cùng sinh sống và tồn tại trong ngôi nhà yên bình, hẻo lánh, họ cố mối quan hệ yêu thương lẫn nhau như vợ chồng, anh chị, mẹ con, tình nhân,… và cũng có những mối quan hệ đối địch với nhau như quan hệ giữa phái bảo hoàng và phái tự do. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân vật bình thường, thì trong thế giới nhân vật đó, tác giả dùng những biện pháp miêu tả, cường điệu, phóng đại với phong cách quái dị pha trộn với phong cách kỳ diệu, huyền thoại và đời thường kết hợp với hiện thực và huyền ảo để tạo nên những con ngươi phi thường, quái dị.
Đầu tiên phải kể đến nhân vật Menkyađêt – một con người phi thường, ông già thông thái, người gắn bó với nhiều thế hệ trong gia đình Buênđya. Menkyađêt hiện lên trong tâm trí người đọc với hình ảnh một người đàn ông đầu đội mũ cách quạ mang nhiều nét huyền bí về lai lịch và thân thế. “Một người Digan lực lưỡng, hàm râu lởm chởm, bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình là Menkyađêt, làm ngay một thí nghiệm kinh rợn trước công chúng về cái mà ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các nhà thuật sĩ về luyện đá giả kim uyên bác xứ Masêđoan”. Cùng với những người trong bộ tộc của mình, ông đã mang những phát minh vĩ đại của thế giới bên ngoài để giới thiệu cho dân làng Macônđô và đã làm kinh ngạc những người dân sống khép kín đến u mê lạc hậu nơi đây. Menkyađêt trở thành người bạn thâm tam giao của Hôsê Accađiô Buêđya và đã khơi nguồn đam mê nghiên cứu khoa học của ông.
Một nhân vật nữa được G. Marquez xây dựng mang nhiều nét phi thường, quái dị là nàng Rêmêđiôt – người đẹp, con gái Accađiô Hôsê và nàng Santa Sôpia Dêlapieđat. Nàng được miêu tả là một thiếu nữ tuyệt trần, vẻ đẹp của nàng ngơ ngẩn biết bao nhiêu người đàn ông vô tình nhìn thấy. Có biết bao nhiêu chàng trai si mê và đã chết oan vì nàng. Kẻ chết gục ngoài song cửa sổ. Kẻ lao đầu từ mái nhà xuống chết tươi. Kẻ bị ngựa đá dập ngực mà chết. Lại có kẻ say mê nàng lại hóa rồ. Rêmêđiôt – người đẹp được xem người hơi thở “không phải là làn hơi ái tình mà là luồng khí giết người”. Nhưng “thực ra Rêmêđiôt – người đẹp không phải là người thuộc cõi thế tục này. Cho đến nay khi cô đã qua tuổi dậy thì từ lâu rồi… hai mươi tuổi đầu rồi mà cô vẫn chưa học đọc và học viết, vẫn chưa ngồi vào bàn ăn và tự dùng lấy thìa nỉa, vẫn cứ để truồng thổn thển đi lại trong nhà bởi vì bản thể trong người cô không chịu được bất kỳ hình thức lễ nghi nào”. Nàng sống với những hồn nhiên, ngây thơ, khờ dại mà không để ý đến bất kỳ lời ong bướm nào của những người đàn ông đau khổ thể hiện tình yêu đối với nàng. Nàng đã “một mình bơi trong sa mạc cô đơn, chẳng có cây thánh giá trên vai, chìm đắm trong những giấc mơ tươi đẹp, trong những buổi tắm triền miên, trong những bữa ăn không giờ giấc, trong chuỗi im lặng của hồi tưởng”. Nàng sống cô đơn bởi vì những người đàn ông chỉ biết si mê sắc đẹp của nàng như một thứ cần hưởng thụ ngay. Họ không biết cách mở của trái tim nàng, mà chỉ biết tỏ tình vụng dại ngây ngô như cái cách của viên sĩ quan, hoặc thô bạo như cái cách của anh chằng xem trộm nàng tắm, hoặc đểu cán như cách của kẻ bị ngựa đá dập ngực….Cái mà nàng cần là một thứ tình cảm nguyên thủy và giản dị như tình yêu là đủ để không chỉ chinh phục được nàng mà tránh được mọi nguy hiểm. Cõi thế tục này không phù hợp với nàng, nàng đã vẫy tay từ biệt mọi người, vĩnh biệt cõi đời này “giữa luồng ánh sáng phập phồng của những chiếc khăn cùng bay theo nàng, có cả mùi bò cạp và hoa mẫu đơn. Tất cả đều theo nàng trong bầu không khí kết thúc lúc lúc bốn giờ chiều, và tất cả cùng theo nàng biến mât trên tầng cao không khí nơi những con chim bay cao nhất cũng chẳng võ cánh bay đến bao giờ”.
Rêbêca – một cô gái có tình yêu mãnh liệt, vẻ đẹp diệu dàng, quyến rũ nhưng cô cũng là nười mang nhiều nét khác thường, dị thường. Xuất thân của Rêbêca là một điều bí ẩn, không ai biết được xuất thân và gia đình, cha mẹ cô như thế nào, cô đến với gia đình Buênđya cùng với những bao tải đựng hài cốt cha mẹ luôn phát ra tiếng kêu lộc cọc khắp mọi nơi. Rêbêca khác hoàn toàn với những người mang dòng họ Buênđya những thứ mà những Buênđya thiếu là trái tim và tình yêu sôi nổi thì cô lại có thừa. Cô yêu da diết anh chàng người Ý Piêtrô Crêspi tưởng như không gì có thể chia cách tình yêu của họ. Nhưng một lần nữa tình yêu lại đến với cô một cách mãnh liệt khi cô gặp Hôsê Accađiô, cô yêu anh ta say đắm, cùng anh xây dựng gia đình và chia sẻ với anh nỗi cô đơn truyền kiếp của dòng họ mình. Một đặc điểm ở nhân vật này để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không phải ở sắc dẹp, tình yêu mãnh liệt mà đó là cô gái nặng hoài nhớ ăn đất. Rêbêca “không thích ăn cơm mà trái lại chỉ thích ắn đát ẩm ngoài sân và vách đất do cô dùng ngón tay cậy ra từ các bức tường”. Đó là đặc điểm khác thường khu biệt dễ nhận thấy giữa nhân vật này với các nhân vật khác.
Khi đọc tác phẩm, người đọc không khỏi ngạc nhiên và buồn cười trước những đặc điểm dị thường, quái dị của nhân vật Pêtra Côtêt. Đó là tình dục của cô ta có ảnh hưởng quyết định đến tính mắn đẻ của bầy gia súc, “Chỉ cần anh mang Pêtra Côtêt đến các chuồng trại, để ả ngồi trên ngựa, dẫn ả đi chơi các trang trại là đủ cho súc vật của anh phải sinh đẻ rất nhanh”. Aurêlianô Sêgunđo là tình nhân của ả, sự nồng thắm trong yêu đương của hai người không chỉ giúp họ thỏa mãn hạnh phúc mà khiến cho đàn gia súc của họ sinh sôi nảy nở một cách nhanh chóng đến mức kì lạ, mang tính chất hoang đường.
2.1.5. Macôndô - một không gian huyền ảo, thần thoại
Được lấy cảm hứng từ một lần đi tàu hỏa cùng mẹ quay về Aracataca để bán ngôi nhà cũ của ông ngoại, địa danh Macôndô xuất hiện bất ngờ trước mắt tác giả khi nhìn thấy tên của một đồn điền chuối. Trong quá trình tìm hiểu sau đó, Marquez biết được rằng Macôndô có thể bắt nguồn từ tên gọi Makondos của một bộ tộc du mục ở Tanganyika, hoặc cũng có thể là tên của một loài cây vùng nhiệt đới khá giống với cây gạo. Tuy nhiên, sở dĩ vùng đất Macôndô đã ám ảnh xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Marquez, không phải bởi sự ngẫu nhiên khi tìm thấy một địa danh, mà bởi tên gọi này đã phù hợp với dự phóng sáng tạo của người cầm bút. Bởi đó là một tên gọi: “khiến tôi chú ý ngay từ những chuyến đi đầu tiên với ông ngoại, nhưng chỉ khi trở thành người lớn, tôi mới phát hiện rằng mình thích nó bởi nó đọc lên nghe rất nên thơ”. Như vậy, vùng đất Macôndô trong những sáng tác của Marquez không mang cảm hứng từ một loài cây nhiệt đới, một tộc người du mục, hoặc một đồn điền chuối có thật ở Aracataca, mà là địa danh nên thơ của một giấc mơ. Lựa chọn hình tượng có tính chất phiếm chỉ đó, Marquez đã có dụng ý để cho Macôndô: “luôn luôn tồn tại một không gian huyền thoại”
Tính chất huyền thoại của Macônđô không chỉ tạo ra không gian nghệ thuật, giọng điệu trữ tình nên thơ trong tác phẩm, mà quan trọng hơn, đó là dụng ý xây dựng một hình tượng “mẫu gốc” cho mọi địa danh, mọi xứ sở ở Mỹ Latinh. Macônđô chính vì thế là một địa danh thuộc về huyền thoại, một ngôi làng đã biến mất cùng sự tuyệt diệt của những dòng họ trăm năm cô đơn bởi tội lỗi loạn luân bị nguyền rủa. Chính vì tầm ý nghĩa quan trọng trên, hình tượng Macôndô đã xuất hiện ít nhất trong năm tác phẩm của Marquez, mà đó đa phần lại là những tác phẩm quan trọng nhất sự nghiệp sáng tác của ông. Trong Trăm năm cô đơn, hình tượng Macôndô không đơn thuần chỉ là không gian diễn ra câu chuyện, mà hình tượng này còn được đặt trong chiều kích sử tính của thời gian huyền ảo, tạo nên một dòng chảy thời gian biên niên, được đánh mốc bởi bảy thế hệ cô đơn của dòng họ Buendía. Bảy thế hệ dòng họ Buendía lại biểu trưng cho sự phát triển và tuyệt diệt của loài người, nên Macônđô là một thế giới thu nhỏ, đặt trong tiến trình lịch sử trải qua bốn chặng chính là khai lập - phát triển - thịnh vượng và suy tàn, nói cách khác là từ “lịch sử hồng hoang của con người cho đến thời hậu hiện đại”. Macônđô chính vì thế là hình tượng mang tính chất cảnh tỉnh nhân loại, cùng nền văn minh cô đơn “không có dịp may lần thứ hai để trở lại làm người trên mặt đất này”
Quá trình khai lập ra Macônđô của những cư dân đầu tiên, mà vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán chính là những người dẫn đầu, luôn thấm đẫm truyền thống văn hóa Mỹ Latinh. Đầu tiên là câu chuyện ly hương để tìm ra Macônđô đã được tác giả xây dựng đầy tính chất huyền thoại. Lý do trực tiếp dẫn đến sự ly hương của hai vợ chồng nhà Buendía là bởi cái chết của Prudencio Aguilar trong một cuộc chọi gà. Chỉ một câu nói lỡm khi gà mình thua cuộc: “Tao mừng cho mày… để xem xem cuối cùng con gà ấy có làm ơn cho vợ mày không nào” Prudencio Aguilar đã phải trả giá bằng mạng sống của chính mình, khi José Arcadio Buendía thách đấu và đã ném cây lao bách chiến bách thắng của dòng họ mình xuyên qua cổ của nạn nhân. Nhưng sau đó, ám ảnh hối lỗi cùng sự xuất hiện đầy bi thảm của hồn ma P.Aguilar trong ngôi nhà của dòng họ Buendía, hai vợ chồng trẻ đã quyết định ra đi tìm một vùng đất mới, nhằm làm thanh thản vong hồn người đã chết, và cũng để làm nguôi ngoai chính sự dằn vặt trong lòng mình. Như vậy, cuộc hành trình khám phá ra thế giới mới là một hành trình nhằm trốn chạy khỏi ám ảnh tội lỗi vì đã giết đồng loại.
Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa cho hành trình đó lại là ám thị về tội loạn luân. Hai vợ chồng José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán đều lấy nhau với địa vị là những người bà con gần gũi về huyết thống, trong một dòng họ có truyền thống loạn luân. Chính vì vậy, sự cảnh báo của tổ tiên về hậu quả sẽ đẻ ra những đứa con kì đà, những đứa con có cái đuôi lợn luôn ám ảnh hai vợ chồng trẻ, khiến Úrsula luôn đeo chiếc quần trinh tiết mỗi khi gần gũi chồng. Chính cái quần này làm người ta nghi ngờ bản năng đàn ông của José A.Buendía, và cơn giận giữ đó đã bùng phát không thể nào cưỡng nổi khi P.Aguilar vô tình nói lỡm. Ngay trong đêm mà cả làng khóc thương cho cái chết bi thảm của P.Aguilar, José A.Buendía đã quyết tâm xé tan chiếc quần trinh tiết, và cả hai vợ chồng ái ân trong hoan lạc cho đến sáng.
Chủ thể làng Macônđô trong giai đoạn khai lập là lão trượng José Arcadio Buendía, người điều hành và cũng là người khai phá ra vùng đất này. Lão trượng José Arcadio Buendía đã điều hành Macônđô trong sự công bằng của một thị tộc công xã nguyên thủy, và chính đạo đức lẫn sức mạnh thể chất đã đem lại vị trí thống ngự cho ông, hệt như một tù trưởng thông thái và anh minh. Macônđô do đó được tạo dựng nên với tư cách là một “tân thế giới” thu nhỏ, một vùng đất không có người chết và không ai quá ba mươi tuổi, được đối xử công bằng và tự do đậm chất văn hóa châu Mỹ.
Quá trình tìm ra Macônđô là một sự ngẫu nhiên không mong muốn. José Arcadio Buendía trên hành trình đi tìm một vùng đất hứa có vị trí thuận lợi, nhằm thông thương với toàn thế giới, nhưng đoàn người đã bị chặn lại bởi bốn bề là đầm lầy, rừng và biển. Trước ý định muốn đi tiếp để tìm ra vùng đất hứa, Úrsula Iguarán với sự quyết liệt không khoan nhượng của mình đã giữ mọi người ở lại Macônđô.
Điểm kết thúc và hủy diệt của dòng họ Buendía cũng cùng thời điểm với sự biến mất của Macônđô. Sau một cơn mưa kéo dài bốn năm, mười một tháng và hai ngày, và tiếp đó là suốt mười năm hạn hán không có lấy một giọt nước, Macônđô đã bị nhấn chìm và xóa sạch trong một cơn cuồng phong bão táp của số phận.
Có thể nhận định rằng, nếu “nỗi cô đơn” là chủ đề lớn nhất mà G.G.Marquez dành cả cuộc đời để theo đuổi, thì hình tượng trung tâm nhất, có tính xuyên suốt các tác phẩm của nhà văn người Colombia lại không phải là một nhân vật cụ thể, mà chính là hình tượng về vùng đất Macônđô. Qua sự lựa chọn này, G.G.Marquez đã có dụng ý xây dựng một hình tượng đủ sức đảm trách những vai trò lớn lao. Macônđô qua đó trở thành không gian và khả tính của một nền văn hóa trong cả hai chiều kích: chiều rộng của không gian vùng Caribbe và chiều dài sử tính của văn hóa Mỹ Latinh. Như vậy, hình tượng Macôđô được xây dựng dựa trên sự giao cắt của huyền thoại với hiện thực, là hình tượng được tái hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau, mà chủ yếu được phác họa trong Trăm năm cô đơn (Cien anos de soledad - 1967), tiểu thuyết lớn nhất trong sự nghiệp của G.G.Marquez và cũng là một trong những cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất mọi thời đại.
2.2. Nghệ thuật thể hiện tạo nên yếu tố kì ảo
2.2.1. Nghệ thuật kể chuyện
Mở đầu tác phẩm chúng ta không bắt gặp những kiểu câu : ngày xửa ngày xưa, thời xa xưa, ngày xưa… như trong các câu chuyện cổ tích dân gian, nhưng toàn bộ tác phẩm được G. Marquez sử dụng lối kể chuyện dân gian từ ngôn từ, giọng điệu, thời gian, không gian cho dế cách xây dựng nhân vật.
Một đặc điểm của lối kể chuyện dân gian là tác giả sử dụng thủ pháp nghệ thuật phúng dụ, G. Marquez đã áp dụng thủ pháp này khi tái hiện những vốn lạc hậu, cổ hủ của làng Macônđô rất thành công, qua giọng điệu hài hước tạo nên tiếng cười cho độc giả. Trong tác phẩm ta bắt gặp những chi tiết gây cười như khi nói về đá nam châm, kính lúp, thước đo góc, la bàn ở phần đầu tác phẩm và máy hát máy nổ, phim ảnh, xe lửa ở phần cuối tác phẩm. Tất cả những phát minh đó vốn là những công cụ được sử dụng khá phổ biến trên thế giới nhưng khi đến với người dân Macônđô thì đối với họ thì đó là những thứ thần kì. Khi thấy khối nước đá, Hôsê Accađiô Buênđya cho đó là “một phát minh lớn nhất của mọi thời đại”. Ngay lập tức ông quên hết mọi thí nghiệm đang gian dở của mình mà nghĩ đến “một tương lai không xa, người ta có thể sản xuất hàng loạt khối nước đá bằng những vật liệu thông thường như nước lả, và dùng chúng để xây dựng những ngôi nhà mới cho làng”.
G. Marquez còn thành công trong việc miêu tả thời gian theo lối kể chuyện dân gian. Thời gian trong tác phẩm không được tác giả cụ thể hóa trong các hình thức miêu tả hiện thực mà chủ yếu là lối miêu tả các thời gian phiếm định. Ở đây chúng ta thường bắt gặp những cụm từ miêu tả các thời gian vô định như trong các truyện cổ tích thần thoại, nhưng nó không mở ra mênh mông nhằm giúp con người đủ điều kiện mà chỉ gợi nỗi u ám, mặt khác phản ánh tâm lý chán ngán của nhân vật trước thực tại. trong tác phẩm ta thường bắt gặp các cụm từ thời gian được tác giả miêu tả trong những mốc thời gian xác định như: “rất nhiều năm sau này, trước đội hình đại tá Aurêlianô Buêđya đã nhớ lại buổi chiều xã xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá, “cứ vào tháng ba hàng năm, một gia đình Đơgan rách rưới dựng một túp liều bạt ngay cạnh làng, rồi với tiếng kèn trống om xòm quảng cáo những phát minh mới”…
Cùng với miêu tả thời gian nghệ thuật G. Marquez đã xây dựng một thế giới nghệ thuật mang màu sắc kì ảo, với sự chối bỏ những quy ước thẩm mỹ cũ, mang đến không gian nghệ thuật màu sắc phi lịch sử cụ thể. Trong tác phẩm này, tác giả đã tạo ra một không gian nghệ thuật riêng cho tác phẩm khi sử dụng các chi tiết kì ảo. Đó là không gian mơ hồ mông lung, không có đường viền xác định, không gian hòa trộn âm dương, xóa nhòa ranh giới giữa thực và hư khiến cho người đọc như có cảm giác bước vào không gian của một thiên truyện thần thoại, cổ tích. Không gian trong tác phẩm trước tiên đó là một địa danh hư cấu, làng Macônđô đủ sức dung nạp mọi chuyện, từ chuyện có thực đến chuyện tưởng tượng theo nguyên tắc thần thoại (được tìm hiểu ở phần trên)
Khi xây dựng nhân vật trong Trăm năm cô đơn. Tác giả sử dụng thủ pháp chấm phá gợi lên một vài nét nổi bậc của nhân vật. Như trên đã tìm hiểu, tác phẩm có số lượng nhân vật tương đối nhiều, cả chính lẫn phụ, nhân vật nào cũng có tính cách riêng sống động nên người đọc dễ dàng phân biệt được những Aurêlianô, những Hôsê Accađiô, những Amaranta của dòng họ Buênđya. Những thành công đó là nhờ thủ pháp xây dựng nhân vật của truyện dân gian chỉ chấm phá đôi nét mà nhường chỗ cho trí tưởng tượng của người đọc. Tùy từng nhân vật cụ thể, ông cần nhấn mạnh những nét tính cách nào thì ông tập trung mô tả biểu hiện những tính cách ấy…
2.2.2. Sự kết hợp, đan xen giữa yếu tố thực và hư tạo nên cái kì ảo
Khi xây dựng tác phẩm Trăm năm cô đơn, G. Marquez đã sử dụng những phương pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Bên cạnh những cái siêu nhiên, kì bí, dị thường khác ông còn kết hợp giữa hiện thực và bí ẩn, thực và ảo hòa quyện tổng hợp lạ thường. Trong sáng tác của mình, G. Marquez không dựa vào những điều kì bí, huyền ảo để nâng thành phương pháp huyền thoại hóa cuộc sống mà trái lại trên cơ sở cho rằng huyền thoại là một hiện tượng có thực trrong đời sống tinh thần của người dân Mỹ Latinh, ông khai thác nó trong tác phẩm để làm phong phú hơn bức tranh về xã hội Mỹ Latinh.
Thời gian trong Trăm năm cô đơn đã góp phần làm thành công tác phẩm. Ông thể hiện câu chuyện trăm năm tồn tại và phát triển của dòng họ Buênđya hết sức phức tạp với nhiều tầng, nhiều tầng lớp trên toàn tác phẩm, nhưng lại tạo ra một lối kết cấu vũng chắc, chặt chẽ, bền vững nhất quán từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm. Thời gian trong Trăm năm cô đơn là thời gian đồng hiện song song tồn tại bổ sung và chi phối cho nhau, là sự hòa quyện ba loại thời gian: thời gian người kể chuyện thứ nhất, thời gian người kể chuyện thứ hai, thời gian sự kiện tạo nên thời gian đồng hiện nhiều chiều, phức tạp trong tác phẩm. Đó là thời gian thực, thời gian sinh hoạt hàng ngày nhưng được huyền ảo hóa để làm cho thời gian thực trong tác phẩm bị đảo lộn đan xen lẫn nhau giữa quá khứ, hiện tại, tương lai, qua đó tác giả muốn gửi gắm chủ đề tư tưởng của mình vào tác phẩm.
Trăm năm cô đơn còn là sự kết hợp hài hòa giữa không gian chỉ cái có thực và không gian chỉ cái không có thực. Bức tranh xã hội được G. Marquez mô hình hóa theo phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, nói lên chiều sâu của sự cảm nhận hiện thực trong một quan niệm mới mẻ. Trong sáng tác của G. Marquez, người đọc có thể thấy sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái thực và cái ảo tạo nên một không gian bàng bạc, mơ hồ mang đến những nhận thức chính xác và thỏa đáng về một hiện thực đang diến tiến như nó đang tồn tại.
Trong Trăm năm cô đơn, với việc sử dụng những đặc trưng thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo; sự hòa quyện tổng hợp lạ thường giữa cái thực và cái bí ẩn, thực và ảo, G. Marquez đã tạo nên một không gian nghệ thuật đặc sắc cho tác phẩm. Đó là một không gian mơ hồ, mông lung không có đường viền xác định, không gian hòa trộn âm dương, xóa nhòa ranh giới giữa thực và hư. Cảm nhận đầu tiên của người đọc khi bước vào không gian hiện trong tác phẩm là không gian mơ hồ, một không khí lạ mà hấp dẫn. Không gian trong Trăm năm cô đơn trước tiên là một địa danh hư cấu (như trên đã trình bày), ngôi làng Macônđô đủ sức dung nạp mọi chuyện, từ chuyện có thực đến những chuyện tưởng tượng theo nguyên tắc thần thoại, nhờ vậy mà thực tại đời sống ùa vào tác phẩm một cách phong phú đa dạng. Mượn không gian làng Macônđô, G. Marquez muốn khái quát lên không gian hiện thực rộng lớn của Mỹ Latinh những năm giữa đầu thế kỉ XX. Đó là thời kì chứa nhiều biến động dữ dội. cái thực vốn có những sự kiện được tác giả tái hiện chính xác đến từng chi tiết.
Bên cạnh đó, không gian tác phẩm là một không gian rất hẹp, nó chỉ tồn tại qua những không gian cụ thể như: sân ga, quán trọ, xưởng kim hoàn… nó cô đơn như chính sự cô đơn của các nhân vật trong tác phẩm. Đó là một không gian đóng khung khép kín với vẻ ngưng trợ đóng kín hoàn toàn không có sợi dây liên hệ nào với bên ngoài. Chỉ có nhân vật trong đó giãy giụa một cách tuyệt vọng, tìm cách giải thoát cho bi kịch số phận của mình nhưng càng giãy giụa lại càng lún sâu vào một sự khắc khoải tiếp cận cái chết.
Trong Trăm năm cô đơn, chúng ta còn bắt gặp một không gian bất định, trộn giữa cái thực và cái ảo, dự lắp ghép rời rạc giữa các hiện tượng sự vật làm nên thế giới mộng ảo, phản ánh một cách trung thực về nỗi cô đơn, kiếp lưu đày, tình trạng bủa vây, nỗi hoang mang của con người trước thực tại bất thường, biến động dữ dội những cơn ác mộng. Ranh giới giữa thực và hư trở nên mơ hồ, khó nắm bắt khi chuyện xảy ra hoàn toàn trong thế giới của những người sống và chết, cõi âm và cõi dương có sự tương thông và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy không gian là những thế giới ảo nhưng chúng mang dáng dấp của những người sống, của cõi trần xuyên qua lớp sương khói huyễn hoặc, những ý nghĩa thực lộ ra.
Không gian mơ hồ, hư ảo là một phương tiện nghệ thuật để tác giả phản ánh hiện thực và gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình về cuộc sống. Vì vậy bên cạnh những khía cạnh những không gian có thực đã được tác giả phản ánh một cách trung thực, chi tiết trong tác phẩm thì còn có không gian kì ảo, đó là những cái có thực nhưng được tác giả tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hóa đẩy nó đến mức phi thường, quái dị
Không gian nghệ thuật ở Trăm năm cô đơn bên cạnh những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày, một không gian thực thì nó còn mang nhiều nét hoang đường, huyền ảo nhưng tất cả đều góp phần thể hiện những ý nghĩa sâu sắc của dời sống hiện tại. Tác giả dựng lên không gian huyền ảo nhằm thể hiện cái cô đơn, lạc loài của dòng họ Buênđya sống giữa xã hội loài người, cuộc sống của họ có nhiều nét rời xa hiện thực như chính không gian mà họ đã tồn tại trng khoẳng thời gian một trăm năm cô đơn.
2.3. Vai trò các yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez
2.3.1. Kì ảo hóa hiện thực để nhằm phản ánh xã hội
Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn không đơn thuần chỉ phản ánh trình trạng loạn luân và nỗi cô đơn của dòng họ Buênđya mà phạm vi phản ánh còn lan rộng ra nỗi cô đơn của làng Macônđô nói riêng và xã hội Mỹ Latinh nói chung. Đưa vào trong tác phẩm hai câu chuyện – câu chuyện về con người và câu chuyện về sự vật – G.Marquez đã mở rộng phạm vi phản ánh của tác phẩm: tình trạng trì trệ, lạc hậu, chậm phát triển và nỗi cô đơn của Mỹ Latinh.
Trong Trăm năm cô đơn, có nhiều sự kiện xảy ra ở Mỹ Latinh đã được tác giả tái hiện chính xác tới từng chi tiết. Người ta tìm thấy ở đây, qua số phận của dòng họ Buênđya bóng dáng của những sự kiện chính trị xã hội phức tạp: sự tìm ra châu Mỹ, đời sống của những thổ dân Anhđiêng, cuộc đấu tranh giữa các đảng và những cuộc nối chiến triền miên kéo dài. Sự xâm nhập của chủ nghĩa đế quốc Bắc Mỹ, những tội ác của nó và cuộc đấu tranh của những người lao động chống lại sự thống trị của những tư bản nước ngoài.
Cùng với nỗi cô đơn của dòng họ Buênđya, tác phẩm còn phản ánh nỗi cô đơn của làng Macônđô, một ngôi làng tách biệt khép kín, cô lập với thế giới bên ngoài. Trải qua một quá trình phát triển, tính chất khép kín của Macônđô dần dần bị phá vỡ khi những dòng người Digan đi ngang qua, những người ở những nơi khác đến và những người của chính phủ mang tới. Họ mang đến làng này không biết bao nhiêu phát minh mới, Macônđô từ một ngôi làng chưa ai biết đã phát triển lên thành phố. Người dân Macônđô choáng ngợp trước những thay đổi một cách chống mặt. Vô tình những yếu tố bên ngoài xâm nhập vào Macônđô cũng chỉ giúp ngôi làng phát triển một cách chóng vánh chỉ trong một thời gian ngắn rồi quay sang tác động tiêu cực đến nó, thậm chí là hủy hoại nó. Sự thống trị nhà nước cuối cùng cũng vươn tới Macônđô. Đó là một biểu hiện của sự phát triển về mặt ý thức xã hội nhưng rồi chính đều này đã dẫn tới cuộc nội chiến khốc liệt tàn phá Macônđô ghê gớm, làm cho ngôi làng trở nên tiêu điều xơ xác. Mối liên hệ duy nhất của Macônđô với thế giới bênn ngoài là đoàn tàu hỏa, nó chở tới đây biết bao nhiêu điều mới lạ, những thành tựu của thế giới bên ngoài đến với Macônđô, đã khai sáng ngôi làng này. Nhưng cuối cùng chính đoàn tàu hả dài hơn hai trăm toa này lại chở ba nghìn xác chết từ nơi đây đi đổ xuống biển như người ta vẫn đổ chuối thối. Công ty chuối đã dìm chết Macônđô trong một trận lụt kéo dài bốn năm mười một tháng hai ngày, giam nó trong cơn hạn hán nười một năm và xóa sạch dấu vết làng Macônđô trên mặt đất trong một trận cuồng phong đó là hậu quả của công ty chuối mà thực hiện là do tư bản gây ra.
G. Marquez đã khéo léo lồng câu chuyện về dòng họ Buênđya và làng Macônđô tạo nên một câu chuyện hoàn chỉnh về cái cô đơn. Tác giả đã xây dựng ngôi làng này mang tính chất điển hình, nó có thể là bất cứ ngôi làng nào, thành phố nào của Côlômbia nói riêng và Mỹ Latinh nói chung. Nhưng ý nghĩa của nó không bó hẹp trong một ngôi làng, một thành phố mà thông qua đó tác giả phản ánh khái quát nỗi cô đơn của châu Mỹ Latinh. G.Marquez đã từng nói: Lịch sử của công ty chuối là hoàn toàn có thực, thế nhưng hiện thực của châu Mỹ Latinh, kể cả những sự kiện lịch sử của công tuy chuối nặng nề và cay đắng đến mức cuối cùng nó có tính chất hão huyền, kì ảo... Ở châu Mỹ Latinh, chỉ cần có một sắc lệnh chính thức là có thể buộc người ta quên mất một sự việc như cái chết của ba nghìn người. Cái điều tường là hoang đường đó được rút ra rừ những hiện thực khủng khiếp của chúng ta... đó chính là hiện thực của xã hội Mỹ Latinh trong thời kì đế quốc xâm chiếm.
Hình ảnh công ty chuối cùng đoàn tàu chở xác chết và trận lụt, trận cuồng phong ập đến làng Macônđô thể hiện dự báo của tác giả về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của hình thái tư bản chủ nghĩa,. Bởi đó là quy luật chung của toàn nhân loại, là một mặt do khách quan tác động, một mặc sự chuyển biến nội tại của bản thân xã hội Mỹ Latinh. Khi nhân loại đang chuyển sang một hình thái kinh tế xã hội mới thì khu vực này kịp thời “bùng cháy”. Sự hủy diệt của dòng họ Buênđya và làng Macônđô, nhường chỗ cho những con người mới, những ngôi làng mới hình thành và phát triển hơn. Qua đó nhà văn cũng dự báo sự ra đời tất yếu của xã hội mới, con người mới với đúng tên gọi của nó.
2.3.2. Kì ảo hóa hiện thực để phản ánh cái cô đơn của con người
Xuất phát từ thực tại Mỹ Latinh lúc bấy giờ, thế kỷ của tròa lưu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, nó đều phản ánh một nét gì cô đơn cảu con người trong sáng tác của các tác giả Mỹ Latinh. Đối với Marquez, trong toàn bộ sáng tác của ông điều nằm trên trục chủ đề phản ánh cái cô đơn của con người. Cái cô đơn ấy được ông biểu hiện như là mặt trái của sự đoàn kết, sự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội loài người.
Trăm năm cô đơn là một khoảng thời gian dằng dặc, đó là một thế kỷ, một đời người và trong tác phẩm là sự cô đơn của một ngôi làng và dòng họ trải qua bảy thế hệ. Ngay tên nhan đề của tác phẩm, người đọc có thể bao quát một cách cô đọng toàn bộ hiện thực được thể hiện. Đó là những gì người đọc được tận mắt chứng kiến qua từng đồ vật, từng con người và cả không gian bao trùm lên trên tác phẩm. Đó là một câu chuyện vê dòng họ Buênđya, người đầu tiên bị trói vào gốc cây, người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, những Aurêlianô, những Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã định trước: lay lắt trong cõi cô đơn và hoài nhớ, thấp thoảng lo phạm tội loạn luân. Đó là nội dung chính của câu chuyện mang sắc thái buồn nhưng có ánh sáng cả hy vọng.
Trước hết chúng ta thấy trong Trăm năm cô đơn, những con người trong dòng họ Buênđya ngày càng tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội và trong quá trình hiện hữu, họ càng trở thành một người trái tính trái nết. Cái thói trái tính trái nết này đên lượt nó đào sâu cái hố ngăn cách họ với cộng đồng xã hội và ngày càng đẩy họ vào cuộc sống cô đơn
Người đầu tiên thành lập làng là Hôsê Accađiô Buênđya, vì phạm tội giết oan một người mà lương tâm luôn cắn dứt, ông đã cùng vợ bỏ làng ra đi. Tưởng sống trong môi trường mới thì có thể thanh thản hơn. Nhưng cuối cùng cuộc đời ông kết thúc bằng cái chết trong cô đơn, điên loạn. Đến những đứa con, cháu, chắt mang dòng họ Buênđya đều mang trong mình dòng máu cô đơn
Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, nghe tiếng khóc của con, Ucsula đã nhận ra tiếng khóc của Aurêlianô Buênđya không phải là người có tài nói giọng bụng hay có tài tiên tri mà chỉ là dấu hiệu không nhầm lẫn được cựa bất lực trước tình yêu, nó là dấu hiệu của cái cô đơn. Sống tách biệt với cộng đồng Aurêlianô Buênđya, trở thành một người sống ích kỉ, chỉ biết lợi danh cho bản thân. Và rồi cũng chết trong cảnh cô đơn, không yêu ai ngoài bản thân mình và mang một nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn.
Từ Hôsê Accađiô Buênđya đến Aurêlianô Babilônia, tất cả họ đều thông mình tài giỏi và tất cả đều mang một nỗi dằn vặt lương tâm truyền kiếp. Trong cuộc sống của mình, dù có sống sôi nổi hay trầm tư thì bản chất sâu kín của mình vẫn là sự cô đơn. Họ tìm cánh vùng vẫy thoát ra nỗi cô đơn, tìm đến với thứ nhục dục xác thịt không có tình yêu. Chính thứ tình yêu xác thịt đó lại càng làm cho họ dấn sâu vào nỗi cô đơn. Với những môtip nhân vật trùng tên, tác giả đã đẩy trạng thái cô đơn của con người lên đến đỉnh điểm và những nhân vật này trở thành diện mạo vĩnh cửu trong văn học. Họ trở thành những tượng đài nghệ thuật trong văn học thế giới với nỗi cô đơn khủng khiếp, nỗi cô đơn sâu thẳm trong tâm hồn và nỗi cô đơn không lối thoát.
Cái cô đơn còn là trạng thái của con ngươi khép kín, không giao tiếp, đánh mất xã hội, tính cộng đồng hay nói khác đi, đó là những biểu hiện khác của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ đó trong dòng họ Buênđya là những thói trái tính trái nết đã đẩy những con người tròn dòng họ này lún sâu vào nỗi cô đơn và tội loạn luân.
Cũng như Aurêlianô Buênđya, Accađiô Hôsê từ nhỏ đã sống không có bạn bè, không có sự quan tâm của người thân, không biết được gốc gác của mình. “Accađiô vốn là một đứa trẻ đơn độc và hoảng sợ trong suốt thời kỳ dịch bện mất ngủ hoành hoành, trong hoàn cảnh Ucsula mãi mê làm giàu, Hôsê Accađiô Buênđya điên rồ... trường học là nơi cậu ta dốc sức làm việc và được mọi người kính trọng. Sau đó chức quyền được giao với những mệnh lệnh dứt khoát và bộ quan phục vinh quang, những thứ đó giải thoát cho cậu ta khỏi nỗi cay đắng trước đây”. Dường như để chạy trốn cái cô đơn, muốn được mọi người quan tâm chú ý thì cậu ta trở thành một tên độc tài giết người nghê tay, còn ghê hơn cả những tên bạo chúa thời trung cổ, chỉ có cái chết mới thật sự giải th