Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Ý nghĩa của tục thả diều ở Đông Nam Á
Thả diều là một trò chơi thú vị, hấp dẫn, có từ lâu đời. Những năm gần đây, diều được phục hồi và cải tiến, xuất hiện nhiều kiểu, nhiều vẻ, rất đẹp mắt. Nhiều địa phương tổ chức thi diều, triển lãm diều, thu hút đông người tham dự. Nhưng, diều không chỉ là một trò chơi mà còn là một phong tục cổ truyền có nhiều ý nghĩa sâu xa.
Tục thả diều phổ biến ở nhiều nước Đông Nam á từ Thái Lan, Campuchia, Lào, Nam Trung Quốc (vốn thuộc cơ tầng văn hóa Đông - Nam á), Việt Nam cho đến các nước Đông - Nam á hải đảo. Một tài liệu có niên đại 972 ghi rằng các vật thờ của người Khmer cổ gồm có chén, đĩa, nhạc cụ, lao và năm chiếu diều. Cũng ở Campuchia, xưa kia, khi có gió mùa đông Bắc, các nhà sư thường thả một hoặc hai chiếu diều bay lơ lửng trên các chùa. Diều có gắn công cụ phát ra âm thanh. Việc thả diều có ý nghĩa cầu sự bình yên tốt lành. Hễ có chiếc diều bị rơi, nhà chùa phải làm lễ xua đuổi tà ma và cầu an.
Diều còn là một phong tục của vua chúa. Ban đêm vào kỳ sáng trăng, vua và quần thần thả diều coi như là những vật dâng các đấng thần linh. Họ quan niệm tục thả diều là lễ cúng chiếc răng của Phật được cất giữ ở vương quốc của rắn thần Naga. ở Thái Lan, đôi khi người ta gắn vào diều một ngọn đèn tượng trưng cho ngôi sao và cũng có người đã ghép vào diều một mẩu vàng, để giữ cho dây diều khỏi đứt và phải kéo nó về nếu nó rơi xa. Vì vậy, vào dịp triều đình thả diều, nhà vua phải ở ngoài trời suốt hai tháng và các quan phải theo dõi cẩn thận để cùng vua giữ cho diều khỏi đứt dây.
Ở Thái Lan còn có tục đấu diều. Nhà vua trực tiếp tham dự cuộc đấu này. Người ta bố trí làm hai phe, diều đực gọi là Kula, diều cái là Pắc kao. Diều đực có nhiệm vụ làm đứt dây diều của đối phương. Diều cái có hình dáng nhỏ và thon theo hình thoi, có đính những dải dài để quấn quanh dây của diều đực, nhằm bảo vệ mình, hạn chế sức công phá của diều đực.
Diều giấy là biểu trưng của loài chim ăn thịt. Nhiều tộc có người có tên diều giấy trùng với tên loại chim nói trên. ở Campuchia, diều giấy và chim diều đều là Khlen, người Chăm gọi là Kalan, người Mơnông gọi là Khang, người ÊĐê gọi là Rlang.... Cụ thể ở Việt Nam diều giấy và chim diều vừa là đồng âm vừa là cùng nguồn gốc. ở Trung Quốc cũng vậy.
Chim diều là loại bay lên trời, đối lập với loài dưới nước. Diều ở nơi cao ráo, đối lập với nơi ẩm thấp. Con diều được coi là sứ giả đem lại sự khô ráo. Tục thả diều chủ yếu được thực hiện sau mùa mưa, cầu mong tạnh ráo, cầu gió mát trăng thanh. Lúc bấy giờ nông nghiệp cần khô ráo để thu hái, phơi phóng.
Chùm diều mà hiện thân nhân tạo của nó là diều giấy được đặt trong sự đối lập Chim - Cá, Trời - Nước, Khô - ẩm là những đặc điểm trong hệ thống đặc điểm của nền văn minh các tộc người Đông - Nam á. Các đặc điểm gồm:
- Các tổ chức xã hội thành hai bộ phận ngoại hôn với những vật tổ đối lập nhau, một bên là các động vật sống nơi khô cạn, bên kia là là động sống nơi ẩm ướt hoặc sống ở nước. Mở đầu lịch sử của Campuchia là triều đại Mặt trăng của Rắn thần Naga, đối với bên kia là triều đại Mặt trời của Chim thần Garuđa.
- Hát giao duyên nam nữ và việc tính giao theo mùa liên quan đến truyền thuyết về ngôi tháp và vì sao buổi sáng. Truyền thuyết này trong mối liên quan đến hát giao duyên lưu truyền rộng rãi ở Campuchia, Thái từ Nam Trung Quốc cho đến Giava.
- Các huyền thoại đặt nền móng trên sự hướng lập Khô-ẩm, Chim-Rắn. ở người Mường trong lễ diễn xướng mo có một vật thiêng trên đó vẽ hai vật biểu tượng chim và cá... Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ của người Việt ghi dấu quan niệm lưỡng lập giữa hai bộ tộc thủy tổ thờ hai vật tổ đối lập nhau. Rồng-Rắc (thuộc vế Nam) và Chim Âu (thuộc vế nữ)
Có rất nhiều dân tộc Đông-Nam á có huyền thoại tương tự như trên.
- Hội đua thuyền mang tính chất lưỡng lập gồm một bên là thuyền chim có đầu chim và đuôi chim, đối với bên kia là thuyền có có đầu cá, đuôi cá.
- Và đặc biệt là tục thả diều với quan niệm lưỡng lập Chim-Rắn, Khô-ẩm, cầu cho ưu thế của Chim và của Khô ráo (đã trình bày ở trên).
Quan niệm lưỡng lập được rút ra từ toàn bộ hoạt động thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, với nền văn minh sông nước, việc trồng cấy lúa nước và trở thành tư tưởng quán xuyến của huyền thoại, lễ tiết và cấu trúc xã hội ở Đông-Nam á. Có thể nói lưỡng lập là một trong những nền tảng tư duy của văn minh Đông-Nam á. Người Trung Quốc đã tổng kết lý thuyết này dưới dạng triết học về sự đối lập và hòa hợp âm dương. Nó được trình bày một cách chắc chắn lần đầu tiên trong Hy Tử, có thể được hoàn thành vào cuối thế kỷ 5, trước Công nguyên. Lý thuyết lưỡng lập của nền văn minh Đông-Nam á có lẽ hình thành từ thời tiền sử xa xưa.
Khuếch trương việc chơi diều là một việc làm đáng hoan nghênh. Nhưng bên cạnh việc coi nó như một trò chơi, cần phải tìm hiểu ở đây chiều sâu tâm nguyện của nhân dân, ý nghĩa triết học chứa đựng trong đó, cơ sở tư tưởng của nền văn minh Việt Nam (trong Đông-Nam á). Như vậy chúng ta thấy rõ hơn bản sắc văn hóa dân tộc qua phong tục truyền thống này.
(Sưu tầm)