Xuân Diệu-nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
Xuân Diệu-nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
I, Cuộc đời
_ 1916: sinh ngày 2 tháng 2 (29 tháng giêng Bính thìn) tại quê má (bà Nguyễn Thị Hiệp) ở Vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định.
Thuở nhỏ học chữ Hán và Quốc ngữ với cha là Ngô Xuân Thọ, đỗ tú tài kép Hán học, vốn quê xã Chảo Nha (nay là Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
_1927: Vào học trường Cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, được cấp học bổng và nội trú tại trường.
_1933: Bài thơ sáng tác đầu tay, sau này (1938) mới in vào Thơ thơ: Bài thơ tuổi nhỏ (1933).
_1934: Mùa hè, đỗ bằng “Đíplôm” (thành chung) tại trường Quy Nhơn.
_1935 -1936: Ra học tú tài phần thứ nhất tại trường trung hcoj Bảo hộ Hà Nội. Bài thơ đầu tiên được in là bài Với bàn tay ấy trên báo Phong hóa (1938): Yêu, “Vì sao”, Biệt ly êm ái, với bàn tay ấy…
_1936-1937: Vào học tú tài phần thứ hai tại trường Trung học Khải Định Huế.
Tại đây, gặp Huy Cận (1936) và hai người kết nghĩa với nhau cho đến cuối đời.
Thế Lữ viết bài giới thiệu Một nhà thi sĩ mới: Xuân Diệu in trên báo Ngày nay số Tết 1937.
_1938-1940: Ra Hà Nội sống chung với Huy Cận ở gác 40 Hàng Than, ghi tên học luật và dạy ở trường tư thục Thăng Long (do Hoàng Minh Giám làm giám đốc).
Tháng 12 năm 1938 xuất bản tập thơ đầu Thơ thơ với tựa của Thế Lữ và trình bày mỹ thuật của Lương Xuân Nhị.
_1939, cùng với Huy Cận tự tái bản Thơ thơ (nhà xuất bản” Huy Xuân”) và xuất bản tập truyện ngắn Phấn thông vàng (nhà xuất bản Ngày nay).
Đầu 1940, thi đậu vào ngành tham tá thương chính và được bổ nhiệm vào Sở Đoan Mỹ Tho.
_ 1940-1943: Tham tá Sở Đoan Mỹ Tho.
_ 1943: Thôi việc ở Mỹ Tho, ra Hà Hà Nội sống với Huy Cận (đã tôt nghiệp kỹ sư canh nông 1943).Tham gia Việt Minh bí mật cùng với Huy Cận.
_ 1945: + Xuất bản tâp thơ văn xuôi Trường ca và tập thơ thứ hai Gửi hương cho gió (nhà xuất bản Thời đại).
+ Tháng 2 năm 1945, làm cuộc diễn thuyết đầu tiên về đề tài Sinh viên với quốc văn do Tổng hội sinh viên Việt Nam tổ chức. Về sau được xuất bản với tên đề mở rộng: Thanh niên với quốc văn.
+ 1944-1945, cùng với thơ có một loạt bài bút ký, tiểu luận lên án thứ văn thơ ủy mị, trụy lạc, ca ngợi ”nàng tiên nâu” in trên tuần báo Thanh niên, cơ quan của phong trào thanh niên Dân chủ Sài Gòn, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ nhiệm.
+ Tháng Tám 1945, tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tại Hà Nội. Hăng hái tham gia các hoạt động lên án bọn Việt cách, Việt quốc chông phá chính quyền cách mạng, và làm nhiều bài thơ đả kích mạnh mẽ bọn này: Tổng bất … Đình công, Một cuộc” biểu tình”, Vịnh cái cờ…
+ Xuất bản tập tráng ca Ngọn quốc kỳ ca ngợi cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc.
_ 1946: + Xuất bản tập tráng ca Hội nghị non sông, ca ngợi Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
+ Được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa I (1946-1960).
+ Tháng 5-1946, được chọn làm thanh niên trong đoàn đại biểu của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ đoàn sang Pháp hội đàm. Trong chuyến đi này có ghé thăm một tiểu đoàn lính Việt Nam đóng ở Tây Đức. Sau đó, in thiên phóng sự dài Từ trường bay đến trường bay trên báo Cứu quốc và xuất bản tập ký bút Việt Nam nghìn dặm phản ánh phong trào đấu tranh yêu nước của Việt kiều, lính chiến và lính thợ, từ 1940-1946.
_1946: + Tháng 12, kháng chiến toàn quóc bùng nổ, lên chiên khu Việt Bắc, công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam (1946-1947), phụ trách mỗi tuần một Câu chuyện văn hóa trên Đài, về sau tập hợp in thành tập Việt Nam trở dạ (1948).
_ 1948: Được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Tham gia Ban biên tập tạp chí Văn nghệ cơ quan của Hội- từ những số đầu tiên. Giữ mục Tiếng thơ trên tạp chí, giới thiệu phong trào sáng tác thơ ca của bộ đội và quần chúng; về sau tập hợp thành tập Tiêng thơ (1951).
_ 1949: + Được kết nạp vào Đảng Công sản Việt Nam do Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi giới thiệu.
+ Tham gia các đợt phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất ở Nghệ An và Thanh Hóa. Sau đó xuất bản tập thơ về đề tài này (Mẹ con, 1954).
+ Bắt đầu những cuộc bình thơ trong công chúng, cho đến cuối đời đã thực hiện được khoảng 500 cuộc.
_ 1954: + Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, về tiếp quản Hà Nội. Từ 1954 đến cuối đời, sống và làm việc ở Hà Nội.
+ Tập thơ Ngôi sao được giải thưởng văn nghệ 1954-1955
+ Ủy viên chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 1,2,3 (1957-1985)
_ 1956: Đi thăm Liên Xô và Hunggari. Xuất bản tập ký sự thăm nước Hung (1956).
_ 1958: + Trong Đoàn đại biểu nhà văn Việt Nam dự Hội nghị trù bị các nhà văn Á Châu ở Niu Đêli, thăm Ấn Độ hai tháng, bắt đầu dịch và giợi thiệu thơ R.Tago.
+ Viết một loạt bài tiểu luận ứng chiến lên án nhóm phá hoại Nhân văn - Giai phẩm và in thành tập Những bước đường tư tưởng của tôi (1958).
+ Là diễn giả tại lễ kỉ niệm 138 năm ngày mất thi hào dân tộc Nguyễn Du và cũng là thời điểm mở đầu một loạt các công trình nghiên cứu về các nhà thơ lớn truyền thống của dân tộc .
_ 1961: Xuất bản tập tiểu luận kinh nghiệm sáng tác trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ.
Bên cạnh thơ về hai đề tài lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh chống thông nhất nước nhà, tiếp tục làm nhiều thơ về đề tài tình yêu ; xuất bản tập trung trong phẩm Cầm tay (tập Mũi Cà Mau, với Cầm tay, 1962).
_ 1975: Trở lại miềm Nam ngay sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng. Thăm lại quê má Bình Định, Sài Gòn, Mỹ tho, Cà Mau, Plâycu… sau hơn ba mươi năm xa cách .
_1980: Dự và phát biểu tại Hội nghị các nhà văn thế giới bảo vệ hòa bình lần thứ hai ở Xôphia. Bắt đầu dịch và giới thiệu Các nhà thơ Bun-ga-ri (S. Ptôphi, C. Bôtép, E. Bagriana, B. Đimitrôva…)
_ 1981: Được mời sang Pháp nói chuyện về thơ Việt Nam tại các trường đại học Pari VII, Nixơ, Xoócbon.
_ 1982: Dự lễ mừng thọ nhà thơ dân tộc Cuba Nicôlai Ghiden bẩy mươi tuổi tại La Havana, dịch và giới thiệu tập thơ Nicôlai Ghiden (1982).
_ 1983: Được Viện Hàn lâm nghệ thuật công hòa dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn.
Xuất bản Tuyển tập Xuân Diệu: tập I -thơ
_ 1985: +Tham gia đoàn đại biểu Việt Nam dụ tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Liên Xô
+ Thăm miền Nam lần cuối cùng.
+ Từ trần lúc 19 giờ 45 phút ngày 18 tháng 12 năm1985 (mồng 7 tháng 1 Ất sửu) sau một cơn đau tim đột ngột, tại Hà Nội. Được Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, an táng tại nghĩa trang Văn Điển, nay đã cải táng về nghĩ trang Mai dịch.
+ Bài tham luận Sự uyên bác với việc làm thơ (tác phẩm công phu cuối cùng) được công bố tại Hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ III (sáng sớm 19 tháng 12 năm 1985), sau đó in toàn văn lần đầu tiên trên Tạp trí Văn học.
II/Thơ văn và con người
Thế Lữ đã từng nhận xét về Xuân Diệu: "Một tâm hồn đằm thắm và rất dễ cảm xúc". Sinh ra và lớn lên ở quê mẹ, sống giữa thiên nhiên phóng khoáng với những ngọn gió nồm và những con sóng biển đã tác động đến hồn thơ nồng nàn, sôi nổi của ông. Phải sống trong hoàn cảnh éo le, ông là con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủi. Vì thế, thơ ông luôn thể hiện tâm hồn khao khát tri âm, khao khát giao cảm với đời một cách mãnh liệt và da diết. Đúng như ý kiến của một nhà phê bình đã đánh giá: "Xuân Diệu là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời".
Về quá trình đào tạo: Một mặt, ông tiếp thu, học hỏi văn hóa phương Đông từ người cha là một nhà nho, tìm về vốn tri thức cổ, văn hóa truyền thống một cách tích cực. Mặt khác, Xuân Diệu là một trí thức Tây học, đã hấp thụ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là Pháp và các nhà văn thuộc trường phái tượng trưng một cách có hệ thống. Vì thế có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ. Trong đó yếu tố Tây học, hiện tại ảnh hưởng sâu đậm hơn.
Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê bình văn học, dịch thuật. Đặc biệt, ông nổi tiếng là một nhà thơ xuất sắc với mười lăm tập thơ. Đối với Xuân Diệu, làm thơ, văn không chỉ để khẳng định tài năng mà còn là một cách giao cảm với đời, khẳng định sự hiện hữu của mình trong cuộc đời.
Xuân Diệu là một con người có tinh thần lao động nghệ thuật đầy đam mê và bền bỉ ngay từ thuở nhỏ "cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong - Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ". Xuân Diệu trước hết học được ở cha - ông đồ Nghệ đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện tài năng và lao động nghệ thuật. ở Xuân Diệu, học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo vừa là một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn.
Lao động nghệ thuật suốt hơn một nửa thế kỷ, Xuân Diệu đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học xuất sắc. Là một con người tài năng nhiều mặt, ở lĩnh vực nào Xuân Diệu cũng có những đóng góp lớn nhưng nói đến Xuân Diệu trước hết phải nói đến một nhà thơ, một cây đại thụ của thơ ca hiện đại Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác thơ của Xuân Diệu có thể chia làm hai giai đoạn: Trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu được xem là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào. Thơ mới với hai tập thơ xuất sắc Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Xuân Diệu đã đem đến Thơ mới nguồn cảm hứng mới lạ của một hồn thơ sôi nổi, thiết tha yêu đời, thể hiện niềm khát khao giao cảm tận độ với cuộc đời bằng một cái tôi cá thể ý thức thật rõ giá trị của bản thân trước thế giới.
Nhà thơ bộc lộ niềm khát khao giao cảm nồng cháy, cuồng say trước cuộc đời, bắt nguồn từ quan niệm sống tích cực của cái tôi cá nhân cá thể ý thức sự hiện hữu của bản thân trong cuộc đời và khát khao sống cháy sáng.
Xuân Diệu không muốn hòa lẫn cái tôi của mình vào biển đời mờ mờ nhân ảnh mà khẳng định mình là đỉnh Hi Mã Lạp sơn, "là một, là riêng, là thứ nhất":
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Trong khi các nhà thơ mới khác đối lập cái tôi của mình với cuộc đời như tìm đến chốn bồng lai tiên cảnh như Thế Lữ, tìm về chốn quê như Đoàn Văn Cừ thì Xuân Diệu hòa lẫn cái tôi của mình vào cuộc đời trần thế, yêu đời tận tưởng đắm say cuộc đời.
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Thơ Xuân Diệu luôn thể hiện lòng yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt, niềm khát khao chiếm lĩnh và hưởng thụ những giá trị tươi đẹp của cuộc sống. Cái tôi Xuân Diệu được giải phóng khỏi ước lệ phi ngã cổ điển, nhìn đời bằng cái nhìn xanh non, biếc trời, đầy trẻ trung. Thiên nhiên và con người mang sức trẻ tình tứ sâu sắc, một thế giới xuân đời ngồn ngột hương sắc, tinh vi huyền diệu:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
(Vội vàng)
Thơ ca trung đại, tình gắn với nghĩa. Một số nhà thơ như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương nói được tình yêu cả về tinh thần và thể xác nhưng chỉ đến Xuân Diệu, khát vọng về tình yêu mới được thể hiện thành thục và mãnh liệt nhất, đem đến đương thời những ý tưởng mới mẻ và táo bạo.
Trong thơ Xuân Diệu, cảm thức thời gian được bắt nguồn từ quan điểm nhân sinh mới mẻ. Xuân Diệu với tâm hồn nhạy bén ý thức được sự chảy trôi của thời gian một đi không trở lại nên luôn mang trong mình nỗi ám ảnh, lo sợ. Nhà thơ muốn chạy đua với thời gian để giành giật sự sống, tận hưởng từng phút giây của cuộc đời, thể hiện niềm ham sống lành mạnh.
Bên cạnh niềm yêu say cuộc đời, thơ Xuân Diệu cũng thể hiện nỗi buồn chán, hoài nghi, cô đơn. Do Xuân Diệu là một nhà thơ, một nghệ sĩ theo khuynh hướng lãng mạn, đòi hỏi cái hoàn mĩ, tự nuôi mình bằng những ảo mộng cuộc đời, luôn thèm muốn giao cảm vô biên tuyệt đỉnh với cuộc đời, nên khi gặp phải hoàn cảnh xã hội tầm thường giả dối, sống trong đất nước mất chủ quyền, bản thân là người dân mất nước, chịu vòng nô lệ khao khát dâng hiến nhưng gặp phải xã hội kim tiền, Xuân Diệu rơi vào chán nản, hoài nghi, cô đơn, "buồn tịch mịch ngay trong cả những điều ấm nóng tươi vui":
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu giữa sầu bóng tối.
Yêu đời, thiết tha với cuộc sống nhưng mang trong mình nỗi chán nản, hoài nghi, cô đơn. Hai trạng thái cảm xúc này tưởng như đối lập nhưng lại rất thống nhất của một hồn thơ khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời, của một cái tôi có thể ý thức đầy đủ về sự hiện hữu và giá trị của bản thân trước thế giới.
Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 cũng thể hiện sự cách tân về nghệ thuật đầy mới mẻ và táo bạo Xuân Diệu đem đến nguồn thi tứ mới mẻ: Thơ xưa khi viết về nỗi cô đơn thường tạo ra không gian trống trải, thiếu vắng con người, còn đối với Xuân Diệu, ngay cả khi con người và cảnh vật ở bên mình, nhà thơ vẫn cảm thấy cô đơn:
Dù tin tưởng chung một đời một một
Em là em, anh vẫn cứ là anh
(Xa cách)
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu không diễn tả bóng gió, ước lệ như thơ xưa mà hiện lên với ý nghĩa đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất, là sự hòa hợp về linh hồn và thể xác.
Hình ảnh thơ mới mẻ, táo bạo, mang đậm cảm giác phồn thực:
Trăng ác mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tràn đầy.
Thơ Xuân Diệu với những hình ảnh đầy rẫy tính cảm giác, được cảm nhận bằng tất cả các giác quan:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
hay:
Hương hiu hiu, nên gió cũng ngọt ngào
Từ ngữ sử dụng mới lạ, táo bạo, rất Tây:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
hay:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em
Cách ngắt nhịp mới, lạ (4 / 2 / 1):
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Câu thơ của Xuân Diệu mang đậm yếu tố khẩu ngữ, có tính chất đối thoại, mang màu sắc luân lí:
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
Có nhiều khó từ, câu hỏi, cảm thán. Giọng điệu sôi nổi, cuồng nhiệt, đắm say.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu trở thành nhà thơ cách mạng, hòa mình vào cuộc sống mới, nhiệt thành phục vụ cách mạng. Thơ nở rộ với nhiều tập thơ lớn: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982).
Nếu trước đây, Xuân Diệu mang trong mình nỗi cô đơn hoài nghi trước cuộc đời thì sau cách mạng, nhà thơ đã nhanh chóng hòa nhập, tìm được sự tri âm. Cảm hứng thơ vì thế tươi vui và ấm áp.
Trước lệ sa ta oán hận đất trời
Nay lệ hòa ta lại thấy đời vui
Tình yêu có sự chung thủy, sum vầy, yêu thương, ấm áp.
Đề tài phong phú hơn, mở rộng hơn. Ngòi bút hướng đến Đảng, nhân dân, cuộc sống lao động mới.
Cảm hứng mới, đề tài mới, nội dung mới đòi hỏi cách thể hiện mới. Ngòi bút của Xuân Diệu không thể đi theo lối cũ đường quen. Xuân Diệu học tập lời ăn tiếng nói của nhân dân, ngôn ngữ giản dị, gần với đời sống, tuy có lúc còn vụng về, dễ dãi.
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng.
Giọng điệu thơ phong phú, không chỉ đơn thuần là giọng trữ tình mà còn mang giọng trầm hùng cổ kính của sử ca như trong tróng ca Ngọn quốc kỳ hay mang hơi thở triết lý như trong Lệ:
Máu của linh hồn là nước mắt
Còn rơi biết đến thuở nào thôi
Giọng đối đáp giao duyên như trong bài Hỏi:
Ai làm cách trở đôi ta
Vì anh vụng ngượng hay là vì em?
Trăng còn đợi gió chưa lên
Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
Ta còn gặp ở thơ Xuân Diệu sau Cách mạng giọng thơ chính luận, tự sự trữ tình, trào phúng đả kích.
Bên cạnh sáng tác thơ, Xuân Diệu còn viết văn xuôi, nghiên cứu phê bình văn học và dịch thuật. Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) là hai tập văn xuôi đặc sắc của ông. Xuân Diệu còn để lại những tập tiểu luận, phê bình có giá trị: Tiếng thơ, Phê bình giới thiệu thơ, Dao có mài mới sắc...
Xuân Diệu là nhà thơ lớn trong văn học hiện đại, nhà thơ lớn của dân tộc. Bài học Xuân Diệu để lại cho đời là tinh thần lao động nghệ thuật cần cù, là niềm tin yêu tha thiết đối với con người, là ý thức chân thành đối với văn chương. Dù đã qua hơn nửa thế kỷ nhưng thơ Xuân Diệu vẫn đầy sức hấp dẫn và lôi cuốn các thế hệ độc giả.