Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Xưa nay, ai khóc Nguyễn Du thấm thía nhất? - Thái Doãn Hiểu
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bạch Việt" data-source="post: 94510" data-attributes="member: 34765"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-size: 15px">Xưa nay, ai khóc Nguyễn Du thấm thía nhất? - Thái Doãn Hiểu</span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="font-size: 15px"></span></strong></span><p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bất tri tam bách dư niên hậu</em></span> <span style="font-family: 'Arial'"><em>Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>(Không biết ba trăm năm lẻ nữa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> NGUYỄN DU</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đoạn trường tân thanh</em> của Nguyễn Du kết thúc có hậu : Kim - Kiều đoàn viên. Nhưng như thế hóa ra lại là bản cáo trạng cuối cùng lên án xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống của con người. Khi Kim - Kiều tái hợp, nàng mới 30 cái xuân xanh, liệu nàng sống có hạnh phúc không khi được làm vợ hờ chàng Kim ? Còn Thúy Vân nữa vứt cho ai ? Chàng Kim có yên thân không khi hoa thơm đánh cả cụm ? Biết bao nhiêu băn khoăn đặt ra. Và, thế là Phạm Thiên Thư đã cầm lấy bút viết nối <em>Đoạn trường vô thanh</em> (Nỗi đau không tiếng) [gọi tắt là <em>Hậu Kiều</em>], thủ vai một nhà văn, nhà tư tưởng thay Tố Như chăm sóc đoạn đời cay đắng còn lại của nàng Kiều. Có nhiều cách tưởng niệm nhà thơ thiên tài vĩ đại Nguyễn Du nhưng cách mà Phạm Thiên Thư chọn theo tôi là cách làm thấm thía và có hiệu quả nhất của hậu thế.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trung thành với phong cách ngôn ngữ <em>Truyện Kiều</em> của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết, lớp lang. Đọc <em>Đoạn trường vô thanh</em>, bạn đọc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt <em>Hậu Kiều</em> thì hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của <em>Truyện Kiều</em> Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của <em>Đoạn trường vô thanh</em> có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với <em>Đoạn trường tân thanh</em>. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Đã yên vị toạ thiền mà mắt còn lem lém liếc về cõi tục, đã đem thân nương cửa Phật những tưởng được cởi trói nào ngờ lại đem rợ chằng vào thân! Thật là đa đoan, đa mang, Phạm Đại đức rõ là một ông sư phá giới!</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">- Khoác cái áo "<em>thiền sư ỡm ờ</em>" đó liệu Phạm có vụng đường tu, hay trễ tràng kinh kệ?</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">- Thưa không!</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Là nhà sư, Phạm Thiên Thư đã dốc toàn tâm tu hành. Nhưng Phạm không phải là một tu sĩ khổ hạnh ép xác khắc kỷ phục lễ, Phạm tu theo lối riêng. Lúc Phạm trì tụng:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tay nào nghiêng nón thơ che</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tay nào lần chuỗi Bồ đề xanh xao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>...</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nến khuya lửa hắt hiu vàng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Ý nào hoá hiện ngàn hoa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chữ nào ẩn nguyệt trên tà áo ni</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Động hoa vàng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Lúc Phạm hồi tưởng:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mặt trời đỏ thẫm bên cồn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Dòng chim bay quẩy hoàng hôn qua đèo</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Em ngồi bên suối cheo leo</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Lơ thơ tóc biếc còn neo ráng vàng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (10)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Lúc Phạm trằn trọc:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thoảng tiếng mưa rơi đậu trước thềm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mùa thu gõ guốc gió qua êm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chừng như cánh mộng cô hàng xóm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nở với hoa quỳnh lúc nửa đêm.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Mộng hoa)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Lúc Phạm vui: "<em>Sông xanh xanh nhé một dòng - mùa xuân cắp rổ ra đồng với hoa</em>" (Động Hoa Vàng). Lúc Phạm buồn chán: "<em>Dài thân nằm ngẫm vô thường - Nghiêng vò đổ cái chán chường vào say</em>" (47). Lúc Phạm nhớ thương: "<em>Năm sau em bỏ đi rồi - Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn</em>" (Động Hoa Vàng). Lúc Phạm yêu: "<em>Trong hồn thơ, em là tượng biếc - Ngồi tung hoa xuống cõi mênh môn</em>g" (Tượng biếc). Phạm băn khoăn trước lẽ nhiệm màu Phật pháp:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bước vào hỏi Đấng chí tôn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bạch thầy: "Cái lẽ sinh tồn là đâu"</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hỏi chi Người cũng lắc đầu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Xuyên câu hỏi lại thành xâu bồ đề.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (27)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">..và Phạm đã phát hiện ra cái hư vô siêu hình:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Soi mình thấy cái chơi vơi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Lượn bay như một cánh giơi mù lòa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Vào rừng đập vỡ cái ta</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hiện nguyên hình một đóa hoa đại quỳ.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (84)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trời ! Phật tử mà lên chùa chắc chết mê chết mệt ông nhà thơ này ngâm thơ hơn là lắng nghe sư thầy Tuệ Không thuyết pháp? Đạo Phật đã thấm vào trong máu của Phạm, người thở ra là hơi thiền đạo. Thật đúng cốt cách của một thi sĩ hào hoa hơn là một đệ tử của Phật.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Vào trước và sau thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Phạm Thiên Thư xuất hiện trên bầu trời thi ca Phật giáo miền Nam như một ngôi sao sáng.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Lấy các giáo lý của đạo Phật làm nền tảng tư tưởng, thế giới thơ ca của Phạm khai triển xoay quanh cái gốc này. Phạm mang khát vọng dấn thân với ý tưởng táo bạo muốn Việt hoá, thi hoá, trẻ hoá đạo Phật. Phạm đã cả gan viết lại kinh Phật bằng ngôn ngữ của thi ca và người đã tỏ ra khá tinh tế, lịch lãm trung thành với nguyên bản ý kinh.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Bài kệ chính yếu của Kinh Kim cương, Phật dạy: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai" (dịch nghĩa: Nếu đem sắc tướng để mong nhìn thấy ta, hoặc đem âm thanh để nhận biết ta thì người ấy đã lạc đường, không thể nào gặp được Như Lai). Phạm Thiên Thư đã thi hoá với hình tượng như sau:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Dùng thân vàng thấy Phật</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Dùng khánh ngọc cầu ta</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Người đó lạc tà đạo</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đũa ngọc gắp sao tà</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Kính Ngọc)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Với cung cách đó, Phạm Thiên Thư đã cất công nỗ lực hết mình soạn lại <em>Kinh Kim Cương</em> thành <em>Kinh Ngọc; Kinh Hiền Ngu</em> thành <em>Kinh Hiền, Kinh Hiếu; Kinh Pháp Cú</em> thành <em>Kinh Thơ</em>. Với hàng chục ngàn câu thơ lục bát khá nhuần nhuyễn chở nặng những ngụ ngôn, truyền thuyết, huyền thoại, giáo huấn, với một bút pháp biến hoá, Phạm đã Việt hoá biến đức Thích Ca Mầu Ni thành đức Phật của Việt Nam, Ấn Phật thành Việt Phật. Những sai sót không thể không tránh khỏi khi Phạm Thiên Thư đã không nhìn nhận Kinh Phật như một văn bản để tụng niệm mà nhìn nó dưới góc độ một tác phẩm thi ca. Tôn giáo thường đem mình đồng hoá mọi người, còn Phạm làm thơ là tìm cách phân thân mình ra thành một người khác để ngắm nghía mình rõ hơn. Muốn chở được đạo - Phạm nghĩ - phải nhờ con thuyền nghệ thuật mới thấm sâu được vào lòng người</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Nếu một sư ông chỉ chắm chúi miệt mài với kinh kệ thì ta đâu có một thi nhân. Phạm Thiên Thư vốn thực con nhà nòi - nòi tình. Cái giống đa tình này là giòng giống chung của những ai nặng nghiệp bút nghiên.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Tình yêu trong thơ Phạm Thiên Thư là một thứ tình đầu đời của các trẻ mới lớn, đương choai. Nó như đoá sen trinh trắng nở giữa cuộc thế mong manh, chật hẹp, luôn tiếc nuối, ngầm đau, mất mát. Nhà thơ chỉ nhìn thấy "<em>dáng em nho nhỏ - trong cõi xa vời</em>". Giai nhân của Phạm mỏng manh như cái bóng, những em Ngọ, em Ngọc làm bằng hương hoa, không da thịt phàm trần. Người yêu của Phạm không có những em nào đẹp quyến rũ, mê tơi, bốc lửa. Người yêu của Phạm là những thục nữ yểu điệu, mềm mại như tơ, tha thướt như liễu, ảo như sương, khó cận kề được. Tấm thân các nàng sinh ra không phải là để hưởng lạc ái ân mà chỉ để tôn thờ. Phạm đã thành tâm tu hành dưới bóng mát của người đẹp bằng một thứ tình chay tịnh tinh khiết. Tiếng nói yêu đương của Phạm cất lên thủ thỉ từ trong các hoài niệm hồi chưa vào chùa: sáng rụt rè rước em này, chiều len lén đón đưa em nọ, những cuộc hò hẹn ấp úng trước cổng trường, cổng chùa, bên gác chuông, những ánh mắt thơ ngây hồn bướm mơ tiên đưa tình qua cửa Phật. Ta cứ luôn thấy trái tim thắm đỏ của nhà thơ đập phập phồng, rối rít một nỗi em em dưới lần áo nâu sồng. Với tấm chân tình đằm thắm, trong cõi phù sinh, thế cũng đủ cho lòng người diệu vợi chơi vơi. Phạm yêu là để thấm thía cái bọt bèo của kiếp người.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Việc một tu sĩ Phật giáo làm thơ tình nghe ra cũng ngồ ngộ thiệt nhưng đó là một việc hợp lẽ tự nhiên. Thực ra, chuyện này Phạm bị oan. Mà thôi... tôi cần chi phải nói ra. Cứ để Phạm mang cái nghi án trái ngang này cho thêm phần sương khói ảo huyền. Có điều cần phải hiểu về Phạm: ta không thể nào tìm thấy sắc dục, vật dục trong thơ Phạm Thiên Thư. Nó hoàn toàn thánh thiện. Phạm Thiên Thư không thể đắc đạo nhưng bạn đọc vui mừng có được một chàng Phạm Thái tài hoa mới.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Em nằm dưới mộ bi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Buồn không trăng đầu dẫy</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nhớ xưa em dậy thì</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bâng khuâng nhìn trăng lên</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Trăng mộ)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">*</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Pháp Loa nói: "Khẩu thuyết xuất gia, tâm hành thế nghiệp..." (Miệng nói xuất gia nhưng tâm theo chuyện thế tục...). Với Phạm Thiên Thư, chuyện thế tục là chuyện văn chương ngàn năm thiên cổ sự.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trong thâm tâm Phạm Thiên Thư rất kính trọng thiên tài Nguyễn Du với tập đại thành <em>Truyện Kiều</em>. Chính thi tài của Nguyễn đã cho phép người mượn một chuyện lá cải của Trung Hoa để giãi bày chữ tiết trong tâm sự u uẩn của mình mà làm nên danh tác, nhưng Phạm không phục và chấp nhận Nguyễn đã vay mượn quá nhiều từ đề tài, cốt truyện, văn liệu, địa điểm, thời gian, điển cố....(1). Tinh thần dân tộc cực đoan đó đã dẫn tới việc Phạm dám táo gan viết <em>Hậu Kiều</em> với tên mới <em>Đoạn trường vô thanh</em> (Niềm đau không tiếng) nối điêu vào kiệt tác của một thiên tài! Dưới ánh sáng của kinh Kim cương, Phạm viết <em>Hậu Kiều</em> là để thấm đậm tư tưởng của đạo Phật cùng ý thức Việt hoá, thoát ly hẳn những ảnh hưởng ngoại lai trong việc tiếp thu di sản văn hoá của cha ông. <em>Đoạn trường vô thanh</em> đề cao dân tộc, thiên nhiên và lao động, coi như cội nguồn của thân - tâm giúp con người vượt thoát, phục sinh khỏi mọi bế tắc tư tưởng để sống khỏe mạnh, an hòa và tiến hóa, giải thoát khỏi tai ách vận nghiệp quá khứ, <em>Đoạn trường vô thanh</em> gồm 27 chương, 3.296 câu lục bát, dài hơn Tân thanh 42 câu. Mỗi chương được trình bày như một bức tranh về đời sống nàng Kiều. Tác giả đã xoá bỏ mọi điển tích từ chương Hán, thay thế bằng hình ảnh, anh hùng điển cố, lịch sử thuần túy Việt Nam: Trần Hưng Đạo chỉ kiếm xuống sông Hoá thề diệt giặc thay cho Kinh Kha, Từ Thức cởi áo từ quan thay cho Lưu Thần Nguyễn Triệu, tâm trạng Mai An Tiêm bị đày thay cho Chiêu Quân cống Hồ và Tô Vũ bị cầm tù xa cố quốc, sông Thương thay cho sông Tiền Đường, những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Tản Viên, Thánh Gióng, Bạch Vân... cũng không bỏ sót. Phạm Thiên Thư đã thổi một luồng gió mát ca dao dân ca, tục ngữ dân tộc vào tác phẩm. Các phong tục tập quán được khai thác triệt để.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cho thơ hoà với mênh mang</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cho mênh mang đọng hạt đàn vô thanh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đoạn trường vô thanh</em> là truyện thơ hư cấu nghệ thuật nối tiếp Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du từ sau ngày Kim - Kiều tái hợp. Bản cáo trạng cuối cùng này của thi hào Nguyễn Du được nhà thơ Phạm Thiên Thư đẩy tới cao trào trong tiếng kêu thương lặng chìm, không tiếng. <em>Hậu Kiều</em> có thêm một số nhân vật mới: Tiểu Nguyện là con gái Thúy Vân và Kim Trọng; Trần Nguyện Mai là chiến hữu của Từ Hải tại Giao Châu; Hồ Ông là dòng dõi Hồ Quý Ly lưu lạc bên Tàu thời Minh, thầy học của Kim Trọng, Vương Quan và Thuý Kiều, người chủ trương học phái "tri hoà hành hoá" (biết nên hòa, làm nến hóa) đặc biệt từ dân tộc Việt; Ẩn Lan là con gái Hồ Ông, người yêu đầu đời của Vương Quan; thầy Văn Chương là nhà sư sáng lập phái "Thi tông" dùng thi ca khai mở Phật tánh, thầy dạy Đạo cho Thuý Kiều; Ngô Khôi là học trò của Hồ Ông sau này (thời Hồ Ông ở ẩn). Tác giả đã dời địa điểm của truyện về đất Phong Châu, nước Đại Ngu. Những địa danh: Đá trắng, Mai Sưu, Đa Cóc, Yên Mô, Đền Mẫu... đều thuộc vùng Chí Linh, Hải Dương - nơi Phạm Thiên Thư lớn lên thời thơ ấu và niên thiếu tại điền trang của gia đình (1943 - 1951).</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Với <em>Đoạn trường tân thanh</em>, Nguyễn Du đã thi hoá Thanh Tâm Tài Nhân, diễn bày số phận Thuý Kiều trong một xã hội thối nát, thì với <em>Đoạn trường vô thanh</em>, Phạm Thiên Thư diễn bày cái tâm thức trưởng thành của Thuý Kiều như đoá hoa ngát hương trong vũng lầy xã hội phong kiến. Hai quyển Kiều có chỗ nhất quán là cuộc đời, ý thức vượt lên định đoạt thân phận con người, đòi quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc. Nhân vật trung tâm, người anh hùng, "người vác thập tự trong cuộc đoạn trường" của <em>Hậu Kiều</em> vẫn chính là nàng Kiều tuyệt tài, tuyệt sắc, đa tình và đức hạnh chứ không phải ai khác. Nàng đã giở sang trang đời khác với cuộc sống mới sang trọng và bình yên. Chỉ vì lòng tự trọng, tự tôn người tình xưa, Kiều đã chủ động đổi tình cầm sắt ra cầm kỳ. Đường đường là một quý bà - bạn thân của quan huyện Kim danh giá, nhưng tuổi thanh xuân mới chẵn 30 của nàng đã chết trong cảnh sống độc thân vò võ. Thân tâm Kiều vẫn đầy giông bão nội tâm. Đã xa rồi cảnh tượng hãi hùng "Canh khuya, thân gái dặm trường", đời đã hửng sáng, nhưng Kiều vẫn bị ám ảnh vẩn vơ bởi tài mệnh tương đố, duyên nghiệp nhân quả, tình là dây oan, cùng những tín ngưỡng dị đoan đè nặng lên số kiếp. Viết Hậu Kiều, Phạm Thiên Thư vẫn phải thủ vai một nhà tư tưởng và người nghệ sĩ với trái tim nhân hậu thăm sóc nốt phần đời còn lại cho nàng. Đó là cách nhà thơ muốn giải vận nghiệp dân tộc. Qua những biến động ghê gớm của cá nhân lịch sử, chúng ta đi tìm cái chúng ta đã mất. Không như Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư không trà trộn các ngôn ngữ triết thuyết khác nhau Nho Phật Lão chen lấn vào. Kiều vẫn bị hành hạ tâm linh. Phạm buộc để cho Kiều tiếp tục nghĩ suy về lẽ hưng phế của cuộc thế, trời đất với ý hướng tích cực:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Xét trong trời đất vô cùng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bao nhiêu cung điện tan tành</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Xô đi dựng lại dưới vành trăng tươi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thăng hoa cuộc sống con người</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Chải tóc thu phong)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Kiều thật cả nghĩ. Nàng luôn băn khoăn lục vấn, triết luận kiếm tìm nguyên nhân nào đã đẩy con người vào vực thẳm. Tai họa nghiệt ngã đâu có trừ riêng ai:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hay rồi một trận gió mưa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Khói mờ ngoài sông)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trong cái hỗn độn đó, kiếp người thật mong manh, ngắn ngủi, vô nghĩa:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đời người như cánh hoa lay</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Chải tóc thu phong)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Thật là mung lung, rối trí :</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trách lòng tự đúc nên khuôn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trách người chia những vai tuồng thấp cao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Vui buồn trong giấc chiêm bao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Rồi đem vọng tưởng khép vào tâm can</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Tẩy nước cành dương)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Tinh thần bấn loạn, con người chuốc vào thân những "vọng tưởng" để tự hành tội mình. Chỉ từ khi thấm nhuần triết lý sống của thầy học Hồ Ông, Kiều mới cảm thấy tịnh tâm, thanh thản hơn, sao cho trong trùng vây của ý thức tư tưởng phải vượt lên để không sống uổng những ngày thừa còn lại:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thường khuyên: mình đã loạn mình</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cái tâm khiến lụy cái hình lao đao.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Truyền đời xây tiếp tâm lao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Càng giăng bẫy quỷ, càng nhào khe ma</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Khói mờ ngoài sông)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Suy nghĩ của Kiều trên đường quy cố hương thật đáng lưu ý. Những câu hỏi đau đáu nhói buốt xuyên qua tâm trí nàng về cõi thế mù loà này vẫn tiếp tục dày vò nàng:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cõi người chất ngất hờn oan</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cuộc cờ bày xoá mấy bàn đua tranh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Ném ra xe ngựa tung hoành</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thu về còn lại một vành trăng suông</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Mây thu cuộn vàng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Giải pháp chữ tâm mà Nguyễn Du đặt ra cuối <em>Truyện Kiều</em> còn được Phạm Thiên Thư tán thành và khai triển tiếp nối. Bước chuyển biến trong nhận thức nàng Kiều tuy có chậm chạp, như lời dạy bảo của nhà sư chùa Văn Chương "<em>Con người cứ mãi xa nguồn - đày mình giữa những chán chường quẩn quanh</em>", nhưng cuối cùng cũng tới đích. Thuý Kiều về quê, núi non vùng trung du Chí Linh đã giúp nàng ngộ được cái chân lý cao quý, cái hạnh phúc xa vời mang mang nội tại trong tâm từng giúp nàng tự chỉnh trong tha hoá đau khổ:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mặc ai tìm kiếm Tây Thiên</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Riêng ta biến cái não phiền thành hoa.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hoài công sớm tối ê a</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chi bằng hái cúc ươm trà ngẫm thu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Bao năm tơ tưởng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Thiên nhiên và lẽ biến dịch sẽ làm nhiệm vụ thanh hoá con người. Phải chăng cái nôi thiên nhiên, quan hệ nhân văn đã tạo nên tâm đức Kiều từ lúc chào đời, từ màu xanh thôn mạc đến những tín ngưỡng dân gian từng ám thị vào tâm thức?; vượt khỏi những hệ lụy, định kiến tôn giáo đưa Kiều gắn bó sâu xa với đất nước ông cha, mang lại cho nàng niềm vui, sức sống và sự ổn định tâm hồn?</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cho thơ hoà với trăng sao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cho trăng sao hoà chiêm bao cõi người</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Khí thiêng sông núi nên lời</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cỏ cây giam kín một đời tinh anh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Tìm động hoa vàng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Nét đặc sắc trong Hậu Kiều là những lần Kiều đánh đàn. Mỗi lần nàng so đây là mỗi khác. Tuỳ tâm trạng buồn vui mà âm thanh biến ảo dưới ngọn bút kỳ tài của thi nhân.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trong đoạn đoàn viên, sau khi dở ngón đàn tuyệt diệu đánh cho Kim Trọng nghe, nàng thề sẽ cuốn dây từ đấy, nhưng rồi nó như một nghiệp dĩ, một công cụ giải buồn khó từ bỏ được. Đây là lúc thanh vắng, Kiều độc cầm:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Giờ Kiều lại nối âm thanh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thử đem sương gió tựu thành cung dây</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng đàn rã liễu rời mây</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Ngón tay dã hạc vờn bay dặt dìu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hai hàng lau lách đìu hiu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đồi phong lá gọi bóng chiều xác xao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (So dây gợn sóng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Lúc đó, chàng Kim đến, nghe lén, đề nghị đổi âm sắc, đàn lại chuyển cung vui:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hồn xanh xanh ngắt da trời</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hoa thu não ruột rung mười ngón son</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nửa cung ngơ ngác trăng non</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nửa cung nắng quái sông còn vàng phai</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (So dây gợn sóng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Nghe tiếng đàn của kỹ nữ bây giờ ở huyện đường do Kim Trọng chiêu đãi, Hồ Tôn Hiến hồi tưởng ngón đàn của người "giết chồng, cứu nước" trong ngày tàn binh lửa hồi nào "Tay Kiều lướt mấy đường tơ - năm cung còn đến bây giờ vọng vang":</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bốn dây như điếng như tê</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nỉ non oán động, não nề sầu câm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bây giờ vẫn thoảng dư âm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng đàn than lặng khóc thầm bấy nay</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Những đêm tàn rượu)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều mà Hồ Tôn Hiến giải thoát được khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tưởng chừng chim hợp mây tan</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hồ nghe nhẹ bẫng ưu phiền</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh người</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mắt Từ như cánh hạc trời</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bay lên mất hút ở nơi vô cùng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Dậy sóng Tiền Đường)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Và đây là tiếng đàn tri kỷ Kiều vọng tưởng Từ Hải:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cây đàn trên ngựa phân vân</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng chi thác đổ mây vờn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chừng nghe kiếm gẫy xanh rờn lửa reo</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng chi suối lệ tuôn theo</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chừng nghe sương tụ, gió heo hút đời.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Vương mấy tơ đồng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Thăm mộ Từ Hải, trong ký ức Kiều, hình bóng đấng trượng phu hiện lên ngang tàng, lãng mạn "<em>Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu - Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng</em>". Tiếng đàn đồng vọng lập tức vang lên trong lòng cố nhân:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng ngân chìm đắm mơ màng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Một dây to nhỏ hồn man mác trời</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Buông chi tiếng nhặt tiếng rơi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Chải tóc thu phong)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Kiều hồi tưởng buổi tối đánh đàn cho Kim Trọng và sư thầy Văn Chương nghe. Nhà sư trợ điện giúp Kiều tỉnh thức khỏi nghiệp đàn, hoà tâm cảm vào thiên nhiên đại Đạo:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mây ùn mười ngón lâng lâng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Viền trăng hư ảo trên tầng khói xây</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đất dồn nhựa mạnh ngất ngây</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Ánh trăng đọng xuống mấy dây lặng chìm.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Tơ thiêng nhập hóa)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Tại sao con người lại ngu ngốc đem lòng giam vào hữu thanh? Trong phút chốc bừng tỉnh, Kiều đã hoàn toàn giác ngộ:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Diệu hành là tiếng không ta</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Không âm thanh ấy mới là âm thanh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Vương mấy tơ đồng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Tiếng đàn trong <em>Hậu Kiều</em> quả là cả một nghệ thuật thiền, một công án thiền. Lắng nghe những âm sắc Kiều gảy, mỗi người tự mở ra cho mình một chân trời riêng.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trong lần hành hương về Tiên Điền mới đây, Phạm Thiên Thư đã ngoại cảm bên mộ Người:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nguyễn Du đâu phải nhìn không ra</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đem chuyện Tàu thi hóa tiếng ta</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hẳn muốn chứng minh cho học giới</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng mình dư sức tỏa hương hoa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Năm 2000 đọc lại Nguyễn Du)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Phạm đã tỏ ra thông cảm và nhìn nhận đúng bản chất của văn hoá vay mượn. Nếu ham chuộng thái quá thì "<em>nô dịch đưa voi đạp mộ nhà</em>". Theo Phạm, Nguyễn đã không còn "<em>Rút hay người thêm để hay ta</em>" mà còn tiến xa hơn "<em>tỉnh thức dòng nô dịch - Kinh viện hơn Tàu mới dễ xoay</em>"; rõ ràng là "<em>Cụ không thuần túy làm văn nghệ - Hay đẹp dùng như dấy nghĩa binh</em>". Hẳn "nho ta" đã nhận thức ra nguyên lý "<em>Tự chủ đầu tiên phải giữ hồn - Có cồ tâm mới vững biên cương</em>".</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Bám chắc vào cơ sở tiếng Việt thuần tuý giàu và đẹp, không hề vay mượn, ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư được chắt lọc tinh túy nên đẹp óng ả, gợi tình.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Chất tạo hình trong thơ có họa của Phạm Thiên Thư khá phong phú, điêu luyện. Những vật vô tri đã bộc lộ được tính linh con người. Hình sắc, ánh sáng, bố cục, không gian, thời gian trong bút pháp uyển chuyển và linh hoạt của Phạm Thiên Thư đã vẽ ra được những bức tâm cảnh điêu nghệ. Đây là khoảnh khắc Kiều bâng khuâng hồi tưởng "<em>Tiểu khê cỏ vẫn xanh gầy - Mùa thu chết đuối bóng mây giữa dòng</em>" (Kiều ngồi ven suối). Một nét phác thảo dung nhan: "<em>Người buồn lãng đãng sương mù - Gió tai tái lạnh về ru nét mày</em>" (Mây thu cuộn vàng). Cảnh bồn chồn trên đường hồi hương: "<em>Cỏ cây thấp thoáng qua màn - Dập dồn vó ngựa gõ khan mặt đường</em>" (Mây thu cuộn vàng). Cảnh Kiều trở lại viếng sư thầy ân nhân Giác Duyên "<em>Non xưa am vắng u hoài - Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông</em>" (Tẩy nước cành dương). Tả nhớ mong đợi chờ "<em>Tóc nàng dài sợi hoàng hôn - Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều</em>" (Bao năm tơ tưởng). Tả tâm trạng hoang mang, rối loạn: "<em>Tỉnh ra thương phận lạc loài - Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm</em>" (Lắng tiếng chim vang). Tả bàn chân đi nặng ưu tư giữa chiến trường xưa: "<em>Rã rời từng bước rêu nhung - Hài gieo giữa cõi vô cùng hoang mang</em>" (Chải tóc thu phong), lúc lại rưng rưng "<em>Bước chân nẫu nhớ mùi quê - Đất truyền nhựa mạnh, mừng tê tái mừng</em>" (Bao năm tơ tưởng). Những chấm phá liên tưởng sắc nét: "<em>Chim nào hót giữa lùm mai - Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên</em>" (Chải tóc thu phong), "<em>Sườn non nửa mảnh trăng nhô - Cong thành một nét mơ hồ mi ai</em>" (Chải tóc thu phong), "<em>Cho sầu thêm võ hoa dong - Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng</em>" (Năm cung trường lệ)...</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Phạm đã miêu tả vẻ đẹp của ngoại cảnh để đi sâu vào thế giới tâm hồn nhân vật. Tác giả bài trí thiên nhiên rất có trọng tâm, phép đậm nhạt liều lượng dùng có chủ ý. Tính cách nhân vật được xây dựng trên nhiều nền vẻ của thiên nhiên. Cái này làm nổi cái kia, cái kia tôn cái nọ. Phạm đã sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn thể thơ lục bát như cây thiết bổng trong tay Tôn Hành Giả. Tài dùng chữ của Phạm có chỗ đạt đến trình độ "hoá công".</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cây cầu lửng giữa trăng sao</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Phải chăng cửa ngõ đi vào huyền căn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng tơ kết kén ôm tằm</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Biết đâu hoa bướm trăm năm một lần.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Phạm có những đoạn thơ quỷ khốc thần sầu:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Lên non trẻ hái hoa vàng</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Còn reo nhặt được kiếm han rỉ cùn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đêm về bần bật kiếm run</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mồ hồi thép toát hiện hồn ba quân</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Mây thu cuộn vàng)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">bên những câu thơ thanh tao, dung dị:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tàng hoa trắng cội phù vân</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng chim khuyên rụng trong ngần như sương</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bao năm vẫn một mùi hương</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trước sau thơm đến dị thường trong ta</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Phải chăng hoa của quê nhà</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Thơm trong hoài niệm mới là mãi tươi</em>. </span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Lắng tiếng chim vang)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Bút pháp tả cảnh, tả tình của Phạm Thiên Thư khá là cổ điển, rất Nguyễn Du. Ngôn ngữ thi ca của Phạm Đại đức đã làm cho chúng ta khó mà nhận ra được vết hàn nối giữa hai tác phẩm <em>Truyện Kiều</em> và <em>Hậu Kiều</em>:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Sông dài cởi yếm hoàng hôn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Gió về đưa ngọn sóng say</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bãi xa cỏ tím rầu rầu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Ai để hoa dung)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Bè ai thả vó ven đê</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Chải tóc thu phong)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mênh mang hoa trải gấm phơi</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Lòng như khối ngọc)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">bên những âm hưởng trữ tình trong trẻo, thắm khỏe, mộc mạc của ca dao nơi tâm trạng Vương bà nhớ quê xa:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Quê nhà dù cất mái tranh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Hiền hòa khóm trúc bờ tre</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Vẳng nghe tiếng cuốc sang hè gọi khan.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Khói mờ ngoài sông)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">…</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trung thành với phong cách ngôn ngữ <em>Truyện Kiều</em> của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết, lớp lang. Đọc <em>Đoạn trường vô thanh</em>, bạn độc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt <em>Hậu Kiều</em> thì hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của <em>Truyện Kiều</em> Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của <em>Đoạn trường vô thanh</em> có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với <em>Đoạn trường tân thanh</em>. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Những chương, đoạn: Về cuộc du sơn (Bức thứ 3: <em>Ruổi rong nhật nguyệt</em>, từ câu 45 đến 114); <em>So dây sóng gợn</em> (Bức thứ 5, từ câu 199-266); Thăm lại am Giác Duyên (Bức thứ 8: <em>Tẩy nước cành dương</em>, từ câu 645-752<em>); Năm cung trường lệ</em> (Bức thứ 9, từ câu 753-782); Vương Quan thương nhớ Ẩn Lan (Bức thứ 16: <em>Ai để hoa dung</em>, từ câu 1756-1816), Vương Bà nhớ quê (Bức thứ 18: <em>Khói mờ ngoài sông</em>, từ câu 1967-1980); Kiều thăm mộ Từ Hải (Bức thứ 20: <em>Chải tóc thu phong</em>, từ câu 2.299-2.334); Thúy Kiều trở lại cố hương (Bức thứ 22: <em>Mây thu cuộn vàng</em>, từ câu 2.719-2.770); Kiều thăm mả Đạm Tiên (Bức thứ 25: <em>Kiều ngồi bên suối</em>, từ câu 3.065-3.144)... có thể xem là những tuyệt bút.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Trong bốn người viết nối <em>Truyện Kiều,</em> nhà thơ Phạm Thiên Thư là người xuất chúng thành công hơn cả. Phạm Thiên Thư đã đem hết can đảm, tài năng, tấm lòng khóc thương Tố Như vĩ đại bằng cách tạo tác ra được một lâu đài thơ tráng lệ, tỏ rõ là một môn đệ tri âm tri kỷ của Người. Hẳn Nguyễn tiền bối cũng được ngậm cười nơi chín suối.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đoạn trường sổ gói tên hoa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Xưa là giọt lệ nay là hạt châu.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Hạt châu lấp lánh - đuốc tuệ tỏa sáng soi đường cho ta tìm về với những giá trị thiêng liêng giữa cội nguồn dân tộc.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đoạn trường vô thanh</em> chiếm giải Nhất thơ (bộ môn trường thiên) năm 1973 do cụ Á Nam Trần Tuấn Khải làm chánh chủ khảo. Tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần ở trong và ngoài nước (2)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Kìa đường dân tộc mong tìm mở</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đây khách tâm hồn khó nín thinh</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Vận mới khơi thêm dòng nhiệt huyết</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Điệu xưa tô lại nét thâm tình</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Đoạn trường - ai đã qua cầu ấy</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Lắng thử Vô thanh tiếp Hữu thanh</em>.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Cảm đề - Á Nam Trần Tuấn Khải)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Sau ngày miền Nam giải phóng 30-4-1975, Phạm Thiên Thư chuyển sang hoạt động y học. Là người sáng lập và là chủ trường phái chữa bệnh bộ môn <em>Điện công Phathata</em> hay thể dục thân tâm, Phạm không quên mình là nhà thơ, đã sáng tác một số thơ vui cho người bệnh thư giãn thần kinh, phục hồi sức khỏe. Đưa tiếu lâm vào lâm sàng cũng là cách phát huy tinh thần "nụ cười bằng mười thang thuốc". Trong dưỡng sinh, đa số học viên già, mang nhiều chứng bệnh mãn tính, nhất là chứng buồn. Thơ vui đã làm các cụ bớt căng thẳng, ăn ngủ dễ hơn. Phạm đã chọn thể thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ dung tục, ngộ nghĩnh, đề cập đến những vấn đề gần gũi đời thường:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Áo tắm dùng khi xuống pít-sin</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Cốt che đại khái chỗ ưa nhìn</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Chỉ riêng phải mặc thi hoa hậu</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trình rõ eo đùi, kiểm chứng</em> "dzin"</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Áo Tắm)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Hoặc cũng có bài nặng chất thơ:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mùa thu qua nhà thăm giậu cúc</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Em nghiêng hái hoa, xanh áo lục</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mùa đông qua nhà hỏi cội mai</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Sao đẹp như em chồng vẫn "đục"</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Cúc)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Có khi lại khai triển một nhân vật tiểu thuyết hay giai thoại:</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Kim mơ thấy chàng là chú rể</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Vào nhà Vương ông rất oai vệ</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Kiều nhi chúm chím cười như hoa</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Mà sao long lanh đôi ngấn lệ.</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"> (Chú rể)</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Ngoài bộ <em>Tiếu liệu pháp</em>, Phạm Thiên Thư còn viết <em>Huyền ngôn</em>. Những lời huyền diệu này giống như danh ngôn, chở nặng những thông điệp tư tưởng. <em>Huyền ngôn</em> của Phạm Thiên Thư đã suy ngẫm, thai nghén, đúc rút trên từng chặng đường đời của tác giả, được chia ra nhiều phẩm :</span></p> <p style="text-align: left"></p> <ol style="text-align: left"> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><br /> <em>Những loài hoa không tranh cãi nhau ngoài đồng về phẩm giá của mình. Cái đẹp chỉ đẹp trong muôn hương ngàn sắc, huống chi chúng ta cứ muốn giành lấy sự toàn vẹn cho riêng mình.</em></span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Bên dưới chùm cẩm tú cầu xanh biếc như vẩy ngọc có ẩn một chú sâu vàng.Ta có nên nhặt ra hay để chú sâu nghi kỵ tiệt đứt mọi công quả ?Ta không sợ nắng gió làm hoa không rực rỡ, chỉ e sự hủy hoại đã phục sẵn lòng hoa.</em> </span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Ai cũng giành trồng những loại hoa quý cho riêng mình, chẳng ai chịu tưới xanh một thảm cỏ cho châu chấu trú ngụ. Chỉ có trời là rộng lượng với muôn loài.</em> </span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Đóa bụt hồng ngoài bờ giậu đâu phải nở cho thi nhân. Cánh bướm trên cỏ xanh đâu phải bay vì hương sắc. Muôn loài đều vì chính mình. Bạn chớ bận tâm về những lời phẩm luận của thế tục.</em> </span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Bông hồng nhung nở cúi chào mặt trời buổi sáng, trên đài hoa đang ứa những hạt lệ khóc giã biệt chiều tà. Từng khắc một vừa sinh vừa hoại diệt. Ta chớ buông từng hơi thở vô công.</em><br /> (Phẩm hương hoa)</span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><br /> <em>Ngọc nhiều loại góp vào càng làm tôn vẻ đẹp lẫn nhau. Người tài vô đức ở đời ngồi lại tự bôi bẩn lẫn nhau.</em></span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Đào xuống nghìn thước không chắc kiếm được vàng ngọc. Chỉ cần bới mấy tấc đất trồng cây, tới mùa có thể đổi được hàng trăm thứ quý.</em> </span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Sắm ngọc ai cũng muốn chuốc cả đôi. Tài nghệ thì ai cũng muuốn riêng mình độc đáo. Họ chèn ép nhau để chẳng ai bằng được riêng mình. Nhờ vậy mà trăm hoa đua nở rộ. Ấn xuống chính là giúp người khác vọt lên cao.</em> </span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><em><br /> Của trời bao la chẳng ai thèm lấy. Châu ngọc vung vãi chẳng ai thèm vơ. Nhưng chỉ vài hạt thóc lép họ moi móc vào tận đáy túi của nhau.</em><br /> (Phẩm Ngà ngọc)</span></li> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-family: 'Arial'"><br /> <em>Kẻ đắc ý cả cười, mắt cũng rưng lệ. Người thất cơ thầm khóc, nước mắt đẫm chéo khăn. Được - mất, thành - bại, khóc- cười, hạt nước mắt đều tròn giống nhau.</em><br /> (Phẩm Khóc cười)</span></li> </ol> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em>Huyền Ngôn</em> của Phạm Thiên Thư đọc rất thú . Có thể nói đó là những áng thơ văn xuôi tuyệt mỹ. Tôi nhớ có lần Phạm Thiên Thư bàn về thơ, khá xác đáng trong trường hợp của người: "<em>Thơ hay phải dày kinh nghiệm, phải chiếm cảm quan, phải san trí tuệ, phải để trong tâm, phải trầm trong nhạc, phải nạp trong tình, tụ hình nơi khoảng trống, để sống với tất cả</em>".</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">*</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Tổ quốc của các tu sĩ là tu viện. Phạm tuy thân ở trong chùa những tâm lại ở ngoài chùa. Nhà sư bồ tát này lo cả việc đạo lẫn việc đời, chuyên chú chu toàn cả hai. Toàn bộ thi phẩm của Phạm Thiên Thư nhuốm sắc thái đặc biệt khác người vừa đạo vừa đời, sắc bất dị không, không tức thị sắc và rất Việt Nam.</span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">Từ việc thi hoá những bộ kinh cốt tùy của đạo Phật, Việt hoá thiền qua 10 bài Đạo ca (nhạc Phạm Duy) đến việc nối điêu vào <em>Truyện Kiều</em>, viết <em>Huyền ngôn, Sử thi</em>, <em>Từ</em></span></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><em> điển cười Tiếu liệu pháp</em>, khai sáng môn <em>Điện công Phathata.</em>.. tiếp tục biểu dương tinh thần y dược dân tộc, cái đầu của Phạm Thiên Thư thật đáng sợ. Ý thức tự tôn dân tộc cao cả và thái quá của Phạm là động lực thúc đẩy nhà thơ sáng tác. Tinh thần tiến công khoa học, vượt người xưa là một thái độ đáng nể trọng. Phạm Thiên Thư chỉ vụt qua bầu trời thơ ca miền Nam như một ánh sao băng. Mới 35 tuổi đời (1975), Phạm để lại mười vạn câu thơ! Chúng tôi đã tập trung đọc ròng rã một tháng nhưng vẫn không hết những cái Phạm đã viết. Người hẳn có tới "mười cánh tay" - một cỗ máy làm thơ khủng khiếp, ào ạt. <em>Kinh Hiền</em> với 12.000 câu viết trong một năm rưỡi; tập thơ <em>Quyên từ độ bỏ thôn Đoài</em> 112 bài thơ viết trong 23 ngày. Trong núi thơ đó, cái hay nhiều, cái dở cũng lắm. Chúng tôi thật sự phân vân. Phạm Thiên Thư sáng tác nhiều như vậy nhằm mục đích gì? Có lẽ Phạm học theo lối người Ấn Độ viết trường ca ? Dù lý do gì đi nữa, làm thế cái <em>lượng</em> tránh sao khỏi không làm nhảm cái <em>phẩm</em> của mình ra !?</span></p> <p style="text-align: left"></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">(<strong>Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)</strong></span></p> <p style="text-align: left"></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'"><strong>Chú thích:</strong> </span></p> <p style="text-align: left"></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">(1) Nguyễn Du đã dịch 30 câu thơ và 27 lần mượn ý, chữ trong thơ cổ Trung Quốc, 46 lần mượn chữ <em>Kinh Thi</em>, 50 lần mượn chữ, ý trong các kinh truyện khác, 69 lần mượn điển tích trong các sách <em>Thần tiên truyện, Tình sử</em> vv…, 21 lần mượn chữ và điển tích trong các sách Phật, Lão.</span></p> <p style="text-align: left"></p> <p style="text-align: left"><span style="font-family: 'Arial'">(2) <em>Đoạn trường vô thanh</em> (Hậu Kiều), Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội 2004.</span></p> <p style="text-align: left"></p> <p style="text-align: left"></p><p style="text-align: right"> <strong><em><span style="font-family: 'Arial'"> Nguồn: Tạp chí Văn hoá Nghệ An</span></em></strong></p></p> <p style="text-align: left"> </p> </p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bạch Việt, post: 94510, member: 34765"] [CENTER][FONT=Arial][B][SIZE=4]Xưa nay, ai khóc Nguyễn Du thấm thía nhất? - Thái Doãn Hiểu [/SIZE][/B][/FONT][LEFT][FONT=Arial][I]Bất tri tam bách dư niên hậu[/I][/FONT] [FONT=Arial][I]Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?[/I][/FONT] [FONT=Arial][I](Không biết ba trăm năm lẻ nữa[/I][/FONT] [FONT=Arial][I]Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)[/I][/FONT] [FONT=Arial] NGUYỄN DU[/FONT] [FONT=Arial][I]Đoạn trường tân thanh[/I] của Nguyễn Du kết thúc có hậu : Kim - Kiều đoàn viên. Nhưng như thế hóa ra lại là bản cáo trạng cuối cùng lên án xã hội bất nhân chà đạp lên quyền sống của con người. Khi Kim - Kiều tái hợp, nàng mới 30 cái xuân xanh, liệu nàng sống có hạnh phúc không khi được làm vợ hờ chàng Kim ? Còn Thúy Vân nữa vứt cho ai ? Chàng Kim có yên thân không khi hoa thơm đánh cả cụm ? Biết bao nhiêu băn khoăn đặt ra. Và, thế là Phạm Thiên Thư đã cầm lấy bút viết nối [I]Đoạn trường vô thanh[/I] (Nỗi đau không tiếng) [gọi tắt là [I]Hậu Kiều[/I]], thủ vai một nhà văn, nhà tư tưởng thay Tố Như chăm sóc đoạn đời cay đắng còn lại của nàng Kiều. Có nhiều cách tưởng niệm nhà thơ thiên tài vĩ đại Nguyễn Du nhưng cách mà Phạm Thiên Thư chọn theo tôi là cách làm thấm thía và có hiệu quả nhất của hậu thế.[/FONT] [FONT=Arial] Trung thành với phong cách ngôn ngữ [I]Truyện Kiều[/I] của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết, lớp lang. Đọc [I]Đoạn trường vô thanh[/I], bạn đọc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt [I]Hậu Kiều[/I] thì hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của [I]Truyện Kiều[/I] Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của [I]Đoạn trường vô thanh[/I] có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với [I]Đoạn trường tân thanh[/I]. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng. [/FONT] [FONT=Arial]Đã yên vị toạ thiền mà mắt còn lem lém liếc về cõi tục, đã đem thân nương cửa Phật những tưởng được cởi trói nào ngờ lại đem rợ chằng vào thân! Thật là đa đoan, đa mang, Phạm Đại đức rõ là một ông sư phá giới![/FONT] [FONT=Arial] - Khoác cái áo "[I]thiền sư ỡm ờ[/I]" đó liệu Phạm có vụng đường tu, hay trễ tràng kinh kệ? - Thưa không! Là nhà sư, Phạm Thiên Thư đã dốc toàn tâm tu hành. Nhưng Phạm không phải là một tu sĩ khổ hạnh ép xác khắc kỷ phục lễ, Phạm tu theo lối riêng. Lúc Phạm trì tụng: [I]Tay nào nghiêng nón thơ che Tay nào lần chuỗi Bồ đề xanh xao ... Nến khuya lửa hắt hiu vàng Trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa Ý nào hoá hiện ngàn hoa Chữ nào ẩn nguyệt trên tà áo ni[/I]. (Động hoa vàng)[/FONT] [FONT=Arial] Lúc Phạm hồi tưởng: [I]Mặt trời đỏ thẫm bên cồn Dòng chim bay quẩy hoàng hôn qua đèo Em ngồi bên suối cheo leo Lơ thơ tóc biếc còn neo ráng vàng[/I] (10)[/FONT] [FONT=Arial] Lúc Phạm trằn trọc: [I]Thoảng tiếng mưa rơi đậu trước thềm Mùa thu gõ guốc gió qua êm Chừng như cánh mộng cô hàng xóm Nở với hoa quỳnh lúc nửa đêm.[/I] (Mộng hoa) Lúc Phạm vui: "[I]Sông xanh xanh nhé một dòng - mùa xuân cắp rổ ra đồng với hoa[/I]" (Động Hoa Vàng). Lúc Phạm buồn chán: "[I]Dài thân nằm ngẫm vô thường - Nghiêng vò đổ cái chán chường vào say[/I]" (47). Lúc Phạm nhớ thương: "[I]Năm sau em bỏ đi rồi - Ta về ngồi lắng mưa rơi giậu buồn[/I]" (Động Hoa Vàng). Lúc Phạm yêu: "[I]Trong hồn thơ, em là tượng biếc - Ngồi tung hoa xuống cõi mênh môn[/I]g" (Tượng biếc). Phạm băn khoăn trước lẽ nhiệm màu Phật pháp: [I]Bước vào hỏi Đấng chí tôn Bạch thầy: "Cái lẽ sinh tồn là đâu" Hỏi chi Người cũng lắc đầu Xuyên câu hỏi lại thành xâu bồ đề.[/I] (27) ..và Phạm đã phát hiện ra cái hư vô siêu hình: [I]Soi mình thấy cái chơi vơi Lượn bay như một cánh giơi mù lòa Vào rừng đập vỡ cái ta Hiện nguyên hình một đóa hoa đại quỳ.[/I] (84) Trời ! Phật tử mà lên chùa chắc chết mê chết mệt ông nhà thơ này ngâm thơ hơn là lắng nghe sư thầy Tuệ Không thuyết pháp? Đạo Phật đã thấm vào trong máu của Phạm, người thở ra là hơi thiền đạo. Thật đúng cốt cách của một thi sĩ hào hoa hơn là một đệ tử của Phật. Vào trước và sau thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Phạm Thiên Thư xuất hiện trên bầu trời thi ca Phật giáo miền Nam như một ngôi sao sáng.[/FONT] [FONT=Arial] Lấy các giáo lý của đạo Phật làm nền tảng tư tưởng, thế giới thơ ca của Phạm khai triển xoay quanh cái gốc này. Phạm mang khát vọng dấn thân với ý tưởng táo bạo muốn Việt hoá, thi hoá, trẻ hoá đạo Phật. Phạm đã cả gan viết lại kinh Phật bằng ngôn ngữ của thi ca và người đã tỏ ra khá tinh tế, lịch lãm trung thành với nguyên bản ý kinh. Bài kệ chính yếu của Kinh Kim cương, Phật dạy: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai" (dịch nghĩa: Nếu đem sắc tướng để mong nhìn thấy ta, hoặc đem âm thanh để nhận biết ta thì người ấy đã lạc đường, không thể nào gặp được Như Lai). Phạm Thiên Thư đã thi hoá với hình tượng như sau: [I]Dùng thân vàng thấy Phật Dùng khánh ngọc cầu ta Người đó lạc tà đạo Đũa ngọc gắp sao tà[/I] (Kính Ngọc) Với cung cách đó, Phạm Thiên Thư đã cất công nỗ lực hết mình soạn lại [I]Kinh Kim Cương[/I] thành [I]Kinh Ngọc; Kinh Hiền Ngu[/I] thành [I]Kinh Hiền, Kinh Hiếu; Kinh Pháp Cú[/I] thành [I]Kinh Thơ[/I]. Với hàng chục ngàn câu thơ lục bát khá nhuần nhuyễn chở nặng những ngụ ngôn, truyền thuyết, huyền thoại, giáo huấn, với một bút pháp biến hoá, Phạm đã Việt hoá biến đức Thích Ca Mầu Ni thành đức Phật của Việt Nam, Ấn Phật thành Việt Phật. Những sai sót không thể không tránh khỏi khi Phạm Thiên Thư đã không nhìn nhận Kinh Phật như một văn bản để tụng niệm mà nhìn nó dưới góc độ một tác phẩm thi ca. Tôn giáo thường đem mình đồng hoá mọi người, còn Phạm làm thơ là tìm cách phân thân mình ra thành một người khác để ngắm nghía mình rõ hơn. Muốn chở được đạo - Phạm nghĩ - phải nhờ con thuyền nghệ thuật mới thấm sâu được vào lòng người[/FONT] [FONT=Arial]. Nếu một sư ông chỉ chắm chúi miệt mài với kinh kệ thì ta đâu có một thi nhân. Phạm Thiên Thư vốn thực con nhà nòi - nòi tình. Cái giống đa tình này là giòng giống chung của những ai nặng nghiệp bút nghiên. Tình yêu trong thơ Phạm Thiên Thư là một thứ tình đầu đời của các trẻ mới lớn, đương choai. Nó như đoá sen trinh trắng nở giữa cuộc thế mong manh, chật hẹp, luôn tiếc nuối, ngầm đau, mất mát. Nhà thơ chỉ nhìn thấy "[I]dáng em nho nhỏ - trong cõi xa vời[/I]". Giai nhân của Phạm mỏng manh như cái bóng, những em Ngọ, em Ngọc làm bằng hương hoa, không da thịt phàm trần. Người yêu của Phạm không có những em nào đẹp quyến rũ, mê tơi, bốc lửa. Người yêu của Phạm là những thục nữ yểu điệu, mềm mại như tơ, tha thướt như liễu, ảo như sương, khó cận kề được. Tấm thân các nàng sinh ra không phải là để hưởng lạc ái ân mà chỉ để tôn thờ. Phạm đã thành tâm tu hành dưới bóng mát của người đẹp bằng một thứ tình chay tịnh tinh khiết. Tiếng nói yêu đương của Phạm cất lên thủ thỉ từ trong các hoài niệm hồi chưa vào chùa: sáng rụt rè rước em này, chiều len lén đón đưa em nọ, những cuộc hò hẹn ấp úng trước cổng trường, cổng chùa, bên gác chuông, những ánh mắt thơ ngây hồn bướm mơ tiên đưa tình qua cửa Phật. Ta cứ luôn thấy trái tim thắm đỏ của nhà thơ đập phập phồng, rối rít một nỗi em em dưới lần áo nâu sồng. Với tấm chân tình đằm thắm, trong cõi phù sinh, thế cũng đủ cho lòng người diệu vợi chơi vơi. Phạm yêu là để thấm thía cái bọt bèo của kiếp người. Việc một tu sĩ Phật giáo làm thơ tình nghe ra cũng ngồ ngộ thiệt nhưng đó là một việc hợp lẽ tự nhiên. Thực ra, chuyện này Phạm bị oan. Mà thôi... tôi cần chi phải nói ra. Cứ để Phạm mang cái nghi án trái ngang này cho thêm phần sương khói ảo huyền. Có điều cần phải hiểu về Phạm: ta không thể nào tìm thấy sắc dục, vật dục trong thơ Phạm Thiên Thư. Nó hoàn toàn thánh thiện. Phạm Thiên Thư không thể đắc đạo nhưng bạn đọc vui mừng có được một chàng Phạm Thái tài hoa mới. [I]Em nằm dưới mộ bi Buồn không trăng đầu dẫy Nhớ xưa em dậy thì Bâng khuâng nhìn trăng lên[/I] (Trăng mộ) * Pháp Loa nói: "Khẩu thuyết xuất gia, tâm hành thế nghiệp..." (Miệng nói xuất gia nhưng tâm theo chuyện thế tục...). Với Phạm Thiên Thư, chuyện thế tục là chuyện văn chương ngàn năm thiên cổ sự. Trong thâm tâm Phạm Thiên Thư rất kính trọng thiên tài Nguyễn Du với tập đại thành [I]Truyện Kiều[/I]. Chính thi tài của Nguyễn đã cho phép người mượn một chuyện lá cải của Trung Hoa để giãi bày chữ tiết trong tâm sự u uẩn của mình mà làm nên danh tác, nhưng Phạm không phục và chấp nhận Nguyễn đã vay mượn quá nhiều từ đề tài, cốt truyện, văn liệu, địa điểm, thời gian, điển cố....(1). Tinh thần dân tộc cực đoan đó đã dẫn tới việc Phạm dám táo gan viết [I]Hậu Kiều[/I] với tên mới [I]Đoạn trường vô thanh[/I] (Niềm đau không tiếng) nối điêu vào kiệt tác của một thiên tài! Dưới ánh sáng của kinh Kim cương, Phạm viết [I]Hậu Kiều[/I] là để thấm đậm tư tưởng của đạo Phật cùng ý thức Việt hoá, thoát ly hẳn những ảnh hưởng ngoại lai trong việc tiếp thu di sản văn hoá của cha ông. [I]Đoạn trường vô thanh[/I] đề cao dân tộc, thiên nhiên và lao động, coi như cội nguồn của thân - tâm giúp con người vượt thoát, phục sinh khỏi mọi bế tắc tư tưởng để sống khỏe mạnh, an hòa và tiến hóa, giải thoát khỏi tai ách vận nghiệp quá khứ, [I]Đoạn trường vô thanh[/I] gồm 27 chương, 3.296 câu lục bát, dài hơn Tân thanh 42 câu. Mỗi chương được trình bày như một bức tranh về đời sống nàng Kiều. Tác giả đã xoá bỏ mọi điển tích từ chương Hán, thay thế bằng hình ảnh, anh hùng điển cố, lịch sử thuần túy Việt Nam: Trần Hưng Đạo chỉ kiếm xuống sông Hoá thề diệt giặc thay cho Kinh Kha, Từ Thức cởi áo từ quan thay cho Lưu Thần Nguyễn Triệu, tâm trạng Mai An Tiêm bị đày thay cho Chiêu Quân cống Hồ và Tô Vũ bị cầm tù xa cố quốc, sông Thương thay cho sông Tiền Đường, những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Tản Viên, Thánh Gióng, Bạch Vân... cũng không bỏ sót. Phạm Thiên Thư đã thổi một luồng gió mát ca dao dân ca, tục ngữ dân tộc vào tác phẩm. Các phong tục tập quán được khai thác triệt để. [I]Cho thơ hoà với mênh mang Cho mênh mang đọng hạt đàn vô thanh[/I] [I]Đoạn trường vô thanh[/I] là truyện thơ hư cấu nghệ thuật nối tiếp Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du từ sau ngày Kim - Kiều tái hợp. Bản cáo trạng cuối cùng này của thi hào Nguyễn Du được nhà thơ Phạm Thiên Thư đẩy tới cao trào trong tiếng kêu thương lặng chìm, không tiếng. [I]Hậu Kiều[/I] có thêm một số nhân vật mới: Tiểu Nguyện là con gái Thúy Vân và Kim Trọng; Trần Nguyện Mai là chiến hữu của Từ Hải tại Giao Châu; Hồ Ông là dòng dõi Hồ Quý Ly lưu lạc bên Tàu thời Minh, thầy học của Kim Trọng, Vương Quan và Thuý Kiều, người chủ trương học phái "tri hoà hành hoá" (biết nên hòa, làm nến hóa) đặc biệt từ dân tộc Việt; Ẩn Lan là con gái Hồ Ông, người yêu đầu đời của Vương Quan; thầy Văn Chương là nhà sư sáng lập phái "Thi tông" dùng thi ca khai mở Phật tánh, thầy dạy Đạo cho Thuý Kiều; Ngô Khôi là học trò của Hồ Ông sau này (thời Hồ Ông ở ẩn). Tác giả đã dời địa điểm của truyện về đất Phong Châu, nước Đại Ngu. Những địa danh: Đá trắng, Mai Sưu, Đa Cóc, Yên Mô, Đền Mẫu... đều thuộc vùng Chí Linh, Hải Dương - nơi Phạm Thiên Thư lớn lên thời thơ ấu và niên thiếu tại điền trang của gia đình (1943 - 1951). Với [I]Đoạn trường tân thanh[/I], Nguyễn Du đã thi hoá Thanh Tâm Tài Nhân, diễn bày số phận Thuý Kiều trong một xã hội thối nát, thì với [I]Đoạn trường vô thanh[/I], Phạm Thiên Thư diễn bày cái tâm thức trưởng thành của Thuý Kiều như đoá hoa ngát hương trong vũng lầy xã hội phong kiến. Hai quyển Kiều có chỗ nhất quán là cuộc đời, ý thức vượt lên định đoạt thân phận con người, đòi quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc. Nhân vật trung tâm, người anh hùng, "người vác thập tự trong cuộc đoạn trường" của [I]Hậu Kiều[/I] vẫn chính là nàng Kiều tuyệt tài, tuyệt sắc, đa tình và đức hạnh chứ không phải ai khác. Nàng đã giở sang trang đời khác với cuộc sống mới sang trọng và bình yên. Chỉ vì lòng tự trọng, tự tôn người tình xưa, Kiều đã chủ động đổi tình cầm sắt ra cầm kỳ. Đường đường là một quý bà - bạn thân của quan huyện Kim danh giá, nhưng tuổi thanh xuân mới chẵn 30 của nàng đã chết trong cảnh sống độc thân vò võ. Thân tâm Kiều vẫn đầy giông bão nội tâm. Đã xa rồi cảnh tượng hãi hùng "Canh khuya, thân gái dặm trường", đời đã hửng sáng, nhưng Kiều vẫn bị ám ảnh vẩn vơ bởi tài mệnh tương đố, duyên nghiệp nhân quả, tình là dây oan, cùng những tín ngưỡng dị đoan đè nặng lên số kiếp. Viết Hậu Kiều, Phạm Thiên Thư vẫn phải thủ vai một nhà tư tưởng và người nghệ sĩ với trái tim nhân hậu thăm sóc nốt phần đời còn lại cho nàng. Đó là cách nhà thơ muốn giải vận nghiệp dân tộc. Qua những biến động ghê gớm của cá nhân lịch sử, chúng ta đi tìm cái chúng ta đã mất. Không như Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư không trà trộn các ngôn ngữ triết thuyết khác nhau Nho Phật Lão chen lấn vào. Kiều vẫn bị hành hạ tâm linh. Phạm buộc để cho Kiều tiếp tục nghĩ suy về lẽ hưng phế của cuộc thế, trời đất với ý hướng tích cực: [I]Xét trong trời đất vô cùng Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh Bao nhiêu cung điện tan tành Xô đi dựng lại dưới vành trăng tươi Thăng hoa cuộc sống con người Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên[/I]. (Chải tóc thu phong) Kiều thật cả nghĩ. Nàng luôn băn khoăn lục vấn, triết luận kiếm tìm nguyên nhân nào đã đẩy con người vào vực thẳm. Tai họa nghiệt ngã đâu có trừ riêng ai:[/FONT] [FONT=Arial] [I]Hay rồi một trận gió mưa Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương[/I] (Khói mờ ngoài sông) Trong cái hỗn độn đó, kiếp người thật mong manh, ngắn ngủi, vô nghĩa: [I]Đời người như cánh hoa lay Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi[/I] (Chải tóc thu phong) Thật là mung lung, rối trí :[/FONT] [FONT=Arial][I]Trách lòng tự đúc nên khuôn Trách người chia những vai tuồng thấp cao Vui buồn trong giấc chiêm bao Rồi đem vọng tưởng khép vào tâm can[/I]. (Tẩy nước cành dương) Tinh thần bấn loạn, con người chuốc vào thân những "vọng tưởng" để tự hành tội mình. Chỉ từ khi thấm nhuần triết lý sống của thầy học Hồ Ông, Kiều mới cảm thấy tịnh tâm, thanh thản hơn, sao cho trong trùng vây của ý thức tư tưởng phải vượt lên để không sống uổng những ngày thừa còn lại: [I]Thường khuyên: mình đã loạn mình Cái tâm khiến lụy cái hình lao đao. Truyền đời xây tiếp tâm lao Càng giăng bẫy quỷ, càng nhào khe ma[/I] (Khói mờ ngoài sông) Suy nghĩ của Kiều trên đường quy cố hương thật đáng lưu ý. Những câu hỏi đau đáu nhói buốt xuyên qua tâm trí nàng về cõi thế mù loà này vẫn tiếp tục dày vò nàng: [I]Cõi người chất ngất hờn oan Cuộc cờ bày xoá mấy bàn đua tranh Ném ra xe ngựa tung hoành Thu về còn lại một vành trăng suông[/I] (Mây thu cuộn vàng) Giải pháp chữ tâm mà Nguyễn Du đặt ra cuối [I]Truyện Kiều[/I] còn được Phạm Thiên Thư tán thành và khai triển tiếp nối. Bước chuyển biến trong nhận thức nàng Kiều tuy có chậm chạp, như lời dạy bảo của nhà sư chùa Văn Chương "[I]Con người cứ mãi xa nguồn - đày mình giữa những chán chường quẩn quanh[/I]", nhưng cuối cùng cũng tới đích. Thuý Kiều về quê, núi non vùng trung du Chí Linh đã giúp nàng ngộ được cái chân lý cao quý, cái hạnh phúc xa vời mang mang nội tại trong tâm từng giúp nàng tự chỉnh trong tha hoá đau khổ: [I]Mặc ai tìm kiếm Tây Thiên Riêng ta biến cái não phiền thành hoa. Hoài công sớm tối ê a Chi bằng hái cúc ươm trà ngẫm thu[/I] (Bao năm tơ tưởng) Thiên nhiên và lẽ biến dịch sẽ làm nhiệm vụ thanh hoá con người. Phải chăng cái nôi thiên nhiên, quan hệ nhân văn đã tạo nên tâm đức Kiều từ lúc chào đời, từ màu xanh thôn mạc đến những tín ngưỡng dân gian từng ám thị vào tâm thức?; vượt khỏi những hệ lụy, định kiến tôn giáo đưa Kiều gắn bó sâu xa với đất nước ông cha, mang lại cho nàng niềm vui, sức sống và sự ổn định tâm hồn? [I] Cho thơ hoà với trăng sao Cho trăng sao hoà chiêm bao cõi người Khí thiêng sông núi nên lời Cỏ cây giam kín một đời tinh anh[/I] (Tìm động hoa vàng) Nét đặc sắc trong Hậu Kiều là những lần Kiều đánh đàn. Mỗi lần nàng so đây là mỗi khác. Tuỳ tâm trạng buồn vui mà âm thanh biến ảo dưới ngọn bút kỳ tài của thi nhân. Trong đoạn đoàn viên, sau khi dở ngón đàn tuyệt diệu đánh cho Kim Trọng nghe, nàng thề sẽ cuốn dây từ đấy, nhưng rồi nó như một nghiệp dĩ, một công cụ giải buồn khó từ bỏ được. Đây là lúc thanh vắng, Kiều độc cầm: [I]Giờ Kiều lại nối âm thanh Thử đem sương gió tựu thành cung dây Tiếng đàn rã liễu rời mây Ngón tay dã hạc vờn bay dặt dìu Hai hàng lau lách đìu hiu Đồi phong lá gọi bóng chiều xác xao[/I] (So dây gợn sóng) Lúc đó, chàng Kim đến, nghe lén, đề nghị đổi âm sắc, đàn lại chuyển cung vui: [I] Hồn xanh xanh ngắt da trời Hoa thu não ruột rung mười ngón son Nửa cung ngơ ngác trăng non Nửa cung nắng quái sông còn vàng phai[/I] (So dây gợn sóng)[/FONT] [FONT=Arial] Nghe tiếng đàn của kỹ nữ bây giờ ở huyện đường do Kim Trọng chiêu đãi, Hồ Tôn Hiến hồi tưởng ngón đàn của người "giết chồng, cứu nước" trong ngày tàn binh lửa hồi nào "Tay Kiều lướt mấy đường tơ - năm cung còn đến bây giờ vọng vang": [I]Bốn dây như điếng như tê Nỉ non oán động, não nề sầu câm Bây giờ vẫn thoảng dư âm Tiếng đàn than lặng khóc thầm bấy nay[/I] (Những đêm tàn rượu) Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều mà Hồ Tôn Hiến giải thoát được khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết: [I]Tưởng chừng chim hợp mây tan Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên Hồ nghe nhẹ bẫng ưu phiền Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh người Mắt Từ như cánh hạc trời Bay lên mất hút ở nơi vô cùng[/I] (Dậy sóng Tiền Đường) Và đây là tiếng đàn tri kỷ Kiều vọng tưởng Từ Hải: [I]Cây đàn trên ngựa phân vân Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn Tiếng chi thác đổ mây vờn Chừng nghe kiếm gẫy xanh rờn lửa reo Tiếng chi suối lệ tuôn theo Chừng nghe sương tụ, gió heo hút đời.[/I] (Vương mấy tơ đồng) Thăm mộ Từ Hải, trong ký ức Kiều, hình bóng đấng trượng phu hiện lên ngang tàng, lãng mạn "[I]Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu - Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng[/I]". Tiếng đàn đồng vọng lập tức vang lên trong lòng cố nhân: [I]Tiếng ngân chìm đắm mơ màng Một dây to nhỏ hồn man mác trời Buông chi tiếng nhặt tiếng rơi Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng[/I] (Chải tóc thu phong) Kiều hồi tưởng buổi tối đánh đàn cho Kim Trọng và sư thầy Văn Chương nghe. Nhà sư trợ điện giúp Kiều tỉnh thức khỏi nghiệp đàn, hoà tâm cảm vào thiên nhiên đại Đạo: [I]Mây ùn mười ngón lâng lâng Viền trăng hư ảo trên tầng khói xây Đất dồn nhựa mạnh ngất ngây Ánh trăng đọng xuống mấy dây lặng chìm.[/I] (Tơ thiêng nhập hóa) Tại sao con người lại ngu ngốc đem lòng giam vào hữu thanh? Trong phút chốc bừng tỉnh, Kiều đã hoàn toàn giác ngộ: [I]Diệu hành là tiếng không ta Không âm thanh ấy mới là âm thanh[/I] (Vương mấy tơ đồng) Tiếng đàn trong [I]Hậu Kiều[/I] quả là cả một nghệ thuật thiền, một công án thiền. Lắng nghe những âm sắc Kiều gảy, mỗi người tự mở ra cho mình một chân trời riêng. Trong lần hành hương về Tiên Điền mới đây, Phạm Thiên Thư đã ngoại cảm bên mộ Người: [I] Nguyễn Du đâu phải nhìn không ra Đem chuyện Tàu thi hóa tiếng ta Hẳn muốn chứng minh cho học giới Tiếng mình dư sức tỏa hương hoa[/I] (Năm 2000 đọc lại Nguyễn Du) Phạm đã tỏ ra thông cảm và nhìn nhận đúng bản chất của văn hoá vay mượn. Nếu ham chuộng thái quá thì "[I]nô dịch đưa voi đạp mộ nhà[/I]". Theo Phạm, Nguyễn đã không còn "[I]Rút hay người thêm để hay ta[/I]" mà còn tiến xa hơn "[I]tỉnh thức dòng nô dịch - Kinh viện hơn Tàu mới dễ xoay[/I]"; rõ ràng là "[I]Cụ không thuần túy làm văn nghệ - Hay đẹp dùng như dấy nghĩa binh[/I]". Hẳn "nho ta" đã nhận thức ra nguyên lý "[I]Tự chủ đầu tiên phải giữ hồn - Có cồ tâm mới vững biên cương[/I]". Bám chắc vào cơ sở tiếng Việt thuần tuý giàu và đẹp, không hề vay mượn, ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư được chắt lọc tinh túy nên đẹp óng ả, gợi tình.[/FONT] [FONT=Arial] Chất tạo hình trong thơ có họa của Phạm Thiên Thư khá phong phú, điêu luyện. Những vật vô tri đã bộc lộ được tính linh con người. Hình sắc, ánh sáng, bố cục, không gian, thời gian trong bút pháp uyển chuyển và linh hoạt của Phạm Thiên Thư đã vẽ ra được những bức tâm cảnh điêu nghệ. Đây là khoảnh khắc Kiều bâng khuâng hồi tưởng "[I]Tiểu khê cỏ vẫn xanh gầy - Mùa thu chết đuối bóng mây giữa dòng[/I]" (Kiều ngồi ven suối). Một nét phác thảo dung nhan: "[I]Người buồn lãng đãng sương mù - Gió tai tái lạnh về ru nét mày[/I]" (Mây thu cuộn vàng). Cảnh bồn chồn trên đường hồi hương: "[I]Cỏ cây thấp thoáng qua màn - Dập dồn vó ngựa gõ khan mặt đường[/I]" (Mây thu cuộn vàng). Cảnh Kiều trở lại viếng sư thầy ân nhân Giác Duyên "[I]Non xưa am vắng u hoài - Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông[/I]" (Tẩy nước cành dương). Tả nhớ mong đợi chờ "[I]Tóc nàng dài sợi hoàng hôn - Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều[/I]" (Bao năm tơ tưởng). Tả tâm trạng hoang mang, rối loạn: "[I]Tỉnh ra thương phận lạc loài - Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm[/I]" (Lắng tiếng chim vang). Tả bàn chân đi nặng ưu tư giữa chiến trường xưa: "[I]Rã rời từng bước rêu nhung - Hài gieo giữa cõi vô cùng hoang mang[/I]" (Chải tóc thu phong), lúc lại rưng rưng "[I]Bước chân nẫu nhớ mùi quê - Đất truyền nhựa mạnh, mừng tê tái mừng[/I]" (Bao năm tơ tưởng). Những chấm phá liên tưởng sắc nét: "[I]Chim nào hót giữa lùm mai - Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên[/I]" (Chải tóc thu phong), "[I]Sườn non nửa mảnh trăng nhô - Cong thành một nét mơ hồ mi ai[/I]" (Chải tóc thu phong), "[I]Cho sầu thêm võ hoa dong - Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng[/I]" (Năm cung trường lệ)... Phạm đã miêu tả vẻ đẹp của ngoại cảnh để đi sâu vào thế giới tâm hồn nhân vật. Tác giả bài trí thiên nhiên rất có trọng tâm, phép đậm nhạt liều lượng dùng có chủ ý. Tính cách nhân vật được xây dựng trên nhiều nền vẻ của thiên nhiên. Cái này làm nổi cái kia, cái kia tôn cái nọ. Phạm đã sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn thể thơ lục bát như cây thiết bổng trong tay Tôn Hành Giả. Tài dùng chữ của Phạm có chỗ đạt đến trình độ "hoá công". [I]Cây cầu lửng giữa trăng sao Phải chăng cửa ngõ đi vào huyền căn Tiếng tơ kết kén ôm tằm Biết đâu hoa bướm trăm năm một lần.[/I] Phạm có những đoạn thơ quỷ khốc thần sầu:[/FONT] [FONT=Arial] [I]Lên non trẻ hái hoa vàng Còn reo nhặt được kiếm han rỉ cùn Đêm về bần bật kiếm run Mồ hồi thép toát hiện hồn ba quân[/I]. (Mây thu cuộn vàng) bên những câu thơ thanh tao, dung dị: [I]Tàng hoa trắng cội phù vân Tiếng chim khuyên rụng trong ngần như sương Bao năm vẫn một mùi hương Trước sau thơm đến dị thường trong ta Phải chăng hoa của quê nhà Thơm trong hoài niệm mới là mãi tươi[/I]. [/FONT] [FONT=Arial] (Lắng tiếng chim vang) Bút pháp tả cảnh, tả tình của Phạm Thiên Thư khá là cổ điển, rất Nguyễn Du. Ngôn ngữ thi ca của Phạm Đại đức đã làm cho chúng ta khó mà nhận ra được vết hàn nối giữa hai tác phẩm [I]Truyện Kiều[/I] và [I]Hậu Kiều[/I]: [I]Sông dài cởi yếm hoàng hôn Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay Gió về đưa ngọn sóng say Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu Bãi xa cỏ tím rầu rầu Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa[/I] (Ai để hoa dung) [I]Bè ai thả vó ven đê Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh[/I]. (Chải tóc thu phong) [I]Mênh mang hoa trải gấm phơi Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn[/I] (Lòng như khối ngọc) bên những âm hưởng trữ tình trong trẻo, thắm khỏe, mộc mạc của ca dao nơi tâm trạng Vương bà nhớ quê xa: [I]Quê nhà dù cất mái tranh Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè Hiền hòa khóm trúc bờ tre Vẳng nghe tiếng cuốc sang hè gọi khan.[/I] (Khói mờ ngoài sông) …[/FONT] [FONT=Arial]Trung thành với phong cách ngôn ngữ [I]Truyện Kiều[/I] của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết, lớp lang. Đọc [I]Đoạn trường vô thanh[/I], bạn độc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt [I]Hậu Kiều[/I] thì hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của [I]Truyện Kiều[/I] Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của [I]Đoạn trường vô thanh[/I] có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với [I]Đoạn trường tân thanh[/I]. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng. Những chương, đoạn: Về cuộc du sơn (Bức thứ 3: [I]Ruổi rong nhật nguyệt[/I], từ câu 45 đến 114); [I]So dây sóng gợn[/I] (Bức thứ 5, từ câu 199-266); Thăm lại am Giác Duyên (Bức thứ 8: [I]Tẩy nước cành dương[/I], từ câu 645-752[I]); Năm cung trường lệ[/I] (Bức thứ 9, từ câu 753-782); Vương Quan thương nhớ Ẩn Lan (Bức thứ 16: [I]Ai để hoa dung[/I], từ câu 1756-1816), Vương Bà nhớ quê (Bức thứ 18: [I]Khói mờ ngoài sông[/I], từ câu 1967-1980); Kiều thăm mộ Từ Hải (Bức thứ 20: [I]Chải tóc thu phong[/I], từ câu 2.299-2.334); Thúy Kiều trở lại cố hương (Bức thứ 22: [I]Mây thu cuộn vàng[/I], từ câu 2.719-2.770); Kiều thăm mả Đạm Tiên (Bức thứ 25: [I]Kiều ngồi bên suối[/I], từ câu 3.065-3.144)... có thể xem là những tuyệt bút. Trong bốn người viết nối [I]Truyện Kiều,[/I] nhà thơ Phạm Thiên Thư là người xuất chúng thành công hơn cả. Phạm Thiên Thư đã đem hết can đảm, tài năng, tấm lòng khóc thương Tố Như vĩ đại bằng cách tạo tác ra được một lâu đài thơ tráng lệ, tỏ rõ là một môn đệ tri âm tri kỷ của Người. Hẳn Nguyễn tiền bối cũng được ngậm cười nơi chín suối. [I]Đoạn trường sổ gói tên hoa Xưa là giọt lệ nay là hạt châu.[/I] Hạt châu lấp lánh - đuốc tuệ tỏa sáng soi đường cho ta tìm về với những giá trị thiêng liêng giữa cội nguồn dân tộc. [I]Đoạn trường vô thanh[/I] chiếm giải Nhất thơ (bộ môn trường thiên) năm 1973 do cụ Á Nam Trần Tuấn Khải làm chánh chủ khảo. Tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần ở trong và ngoài nước (2)[/FONT] [FONT=Arial][I]Kìa đường dân tộc mong tìm mở Đây khách tâm hồn khó nín thinh Vận mới khơi thêm dòng nhiệt huyết Điệu xưa tô lại nét thâm tình Đoạn trường - ai đã qua cầu ấy Lắng thử Vô thanh tiếp Hữu thanh[/I]. (Cảm đề - Á Nam Trần Tuấn Khải) Sau ngày miền Nam giải phóng 30-4-1975, Phạm Thiên Thư chuyển sang hoạt động y học. Là người sáng lập và là chủ trường phái chữa bệnh bộ môn [I]Điện công Phathata[/I] hay thể dục thân tâm, Phạm không quên mình là nhà thơ, đã sáng tác một số thơ vui cho người bệnh thư giãn thần kinh, phục hồi sức khỏe. Đưa tiếu lâm vào lâm sàng cũng là cách phát huy tinh thần "nụ cười bằng mười thang thuốc". Trong dưỡng sinh, đa số học viên già, mang nhiều chứng bệnh mãn tính, nhất là chứng buồn. Thơ vui đã làm các cụ bớt căng thẳng, ăn ngủ dễ hơn. Phạm đã chọn thể thất ngôn tứ tuyệt với ngôn ngữ dung tục, ngộ nghĩnh, đề cập đến những vấn đề gần gũi đời thường: [I]Áo tắm dùng khi xuống pít-sin Cốt che đại khái chỗ ưa nhìn Chỉ riêng phải mặc thi hoa hậu Trình rõ eo đùi, kiểm chứng[/I] "dzin" (Áo Tắm) Hoặc cũng có bài nặng chất thơ:[/FONT] [FONT=Arial] [I]Mùa thu qua nhà thăm giậu cúc Em nghiêng hái hoa, xanh áo lục Mùa đông qua nhà hỏi cội mai Sao đẹp như em chồng vẫn "đục"[/I] (Cúc) Có khi lại khai triển một nhân vật tiểu thuyết hay giai thoại: [I]Kim mơ thấy chàng là chú rể Vào nhà Vương ông rất oai vệ Kiều nhi chúm chím cười như hoa Mà sao long lanh đôi ngấn lệ.[/I] (Chú rể) Ngoài bộ [I]Tiếu liệu pháp[/I], Phạm Thiên Thư còn viết [I]Huyền ngôn[/I]. Những lời huyền diệu này giống như danh ngôn, chở nặng những thông điệp tư tưởng. [I]Huyền ngôn[/I] của Phạm Thiên Thư đã suy ngẫm, thai nghén, đúc rút trên từng chặng đường đời của tác giả, được chia ra nhiều phẩm :[/FONT] [LIST=1] [*][FONT=Arial] [I]Những loài hoa không tranh cãi nhau ngoài đồng về phẩm giá của mình. Cái đẹp chỉ đẹp trong muôn hương ngàn sắc, huống chi chúng ta cứ muốn giành lấy sự toàn vẹn cho riêng mình.[/I][/FONT] [*][FONT=Arial][I] Bên dưới chùm cẩm tú cầu xanh biếc như vẩy ngọc có ẩn một chú sâu vàng.Ta có nên nhặt ra hay để chú sâu nghi kỵ tiệt đứt mọi công quả ?Ta không sợ nắng gió làm hoa không rực rỡ, chỉ e sự hủy hoại đã phục sẵn lòng hoa.[/I] [/FONT] [*][FONT=Arial][I] Ai cũng giành trồng những loại hoa quý cho riêng mình, chẳng ai chịu tưới xanh một thảm cỏ cho châu chấu trú ngụ. Chỉ có trời là rộng lượng với muôn loài.[/I] [/FONT] [*][FONT=Arial][I] Đóa bụt hồng ngoài bờ giậu đâu phải nở cho thi nhân. Cánh bướm trên cỏ xanh đâu phải bay vì hương sắc. Muôn loài đều vì chính mình. Bạn chớ bận tâm về những lời phẩm luận của thế tục.[/I] [/FONT] [*][FONT=Arial][I] Bông hồng nhung nở cúi chào mặt trời buổi sáng, trên đài hoa đang ứa những hạt lệ khóc giã biệt chiều tà. Từng khắc một vừa sinh vừa hoại diệt. Ta chớ buông từng hơi thở vô công.[/I] (Phẩm hương hoa)[/FONT] [*][FONT=Arial] [I]Ngọc nhiều loại góp vào càng làm tôn vẻ đẹp lẫn nhau. Người tài vô đức ở đời ngồi lại tự bôi bẩn lẫn nhau.[/I][/FONT] [*][FONT=Arial][I] Đào xuống nghìn thước không chắc kiếm được vàng ngọc. Chỉ cần bới mấy tấc đất trồng cây, tới mùa có thể đổi được hàng trăm thứ quý.[/I] [/FONT] [*][FONT=Arial][I] Sắm ngọc ai cũng muốn chuốc cả đôi. Tài nghệ thì ai cũng muuốn riêng mình độc đáo. Họ chèn ép nhau để chẳng ai bằng được riêng mình. Nhờ vậy mà trăm hoa đua nở rộ. Ấn xuống chính là giúp người khác vọt lên cao.[/I] [/FONT] [*][FONT=Arial][I] Của trời bao la chẳng ai thèm lấy. Châu ngọc vung vãi chẳng ai thèm vơ. Nhưng chỉ vài hạt thóc lép họ moi móc vào tận đáy túi của nhau.[/I] (Phẩm Ngà ngọc)[/FONT] [*][FONT=Arial] [I]Kẻ đắc ý cả cười, mắt cũng rưng lệ. Người thất cơ thầm khóc, nước mắt đẫm chéo khăn. Được - mất, thành - bại, khóc- cười, hạt nước mắt đều tròn giống nhau.[/I] (Phẩm Khóc cười)[/FONT] [/LIST] [FONT=Arial] [I]Huyền Ngôn[/I] của Phạm Thiên Thư đọc rất thú . Có thể nói đó là những áng thơ văn xuôi tuyệt mỹ. Tôi nhớ có lần Phạm Thiên Thư bàn về thơ, khá xác đáng trong trường hợp của người: "[I]Thơ hay phải dày kinh nghiệm, phải chiếm cảm quan, phải san trí tuệ, phải để trong tâm, phải trầm trong nhạc, phải nạp trong tình, tụ hình nơi khoảng trống, để sống với tất cả[/I]". *[/FONT] [FONT=Arial] Tổ quốc của các tu sĩ là tu viện. Phạm tuy thân ở trong chùa những tâm lại ở ngoài chùa. Nhà sư bồ tát này lo cả việc đạo lẫn việc đời, chuyên chú chu toàn cả hai. Toàn bộ thi phẩm của Phạm Thiên Thư nhuốm sắc thái đặc biệt khác người vừa đạo vừa đời, sắc bất dị không, không tức thị sắc và rất Việt Nam. Từ việc thi hoá những bộ kinh cốt tùy của đạo Phật, Việt hoá thiền qua 10 bài Đạo ca (nhạc Phạm Duy) đến việc nối điêu vào [I]Truyện Kiều[/I], viết [I]Huyền ngôn, Sử thi[/I], [I]Từ[/I][/FONT] [FONT=Arial][I] điển cười Tiếu liệu pháp[/I], khai sáng môn [I]Điện công Phathata.[/I].. tiếp tục biểu dương tinh thần y dược dân tộc, cái đầu của Phạm Thiên Thư thật đáng sợ. Ý thức tự tôn dân tộc cao cả và thái quá của Phạm là động lực thúc đẩy nhà thơ sáng tác. Tinh thần tiến công khoa học, vượt người xưa là một thái độ đáng nể trọng. Phạm Thiên Thư chỉ vụt qua bầu trời thơ ca miền Nam như một ánh sao băng. Mới 35 tuổi đời (1975), Phạm để lại mười vạn câu thơ! Chúng tôi đã tập trung đọc ròng rã một tháng nhưng vẫn không hết những cái Phạm đã viết. Người hẳn có tới "mười cánh tay" - một cỗ máy làm thơ khủng khiếp, ào ạt. [I]Kinh Hiền[/I] với 12.000 câu viết trong một năm rưỡi; tập thơ [I]Quyên từ độ bỏ thôn Đoài[/I] 112 bài thơ viết trong 23 ngày. Trong núi thơ đó, cái hay nhiều, cái dở cũng lắm. Chúng tôi thật sự phân vân. Phạm Thiên Thư sáng tác nhiều như vậy nhằm mục đích gì? Có lẽ Phạm học theo lối người Ấn Độ viết trường ca ? Dù lý do gì đi nữa, làm thế cái [I]lượng[/I] tránh sao khỏi không làm nhảm cái [I]phẩm[/I] của mình ra !?[/FONT] [FONT=Arial]([B]Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)[/B][/FONT] [FONT=Arial][B]Chú thích:[/B] [/FONT] [FONT=Arial](1) Nguyễn Du đã dịch 30 câu thơ và 27 lần mượn ý, chữ trong thơ cổ Trung Quốc, 46 lần mượn chữ [I]Kinh Thi[/I], 50 lần mượn chữ, ý trong các kinh truyện khác, 69 lần mượn điển tích trong các sách [I]Thần tiên truyện, Tình sử[/I] vv…, 21 lần mượn chữ và điển tích trong các sách Phật, Lão.[/FONT] [FONT=Arial](2) [I]Đoạn trường vô thanh[/I] (Hậu Kiều), Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội 2004.[/FONT] [RIGHT] [B][I][FONT=Arial] Nguồn: Tạp chí Văn hoá Nghệ An[/FONT][/I][/B][/RIGHT] [/LEFT] [/CENTER] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Xưa nay, ai khóc Nguyễn Du thấm thía nhất? - Thái Doãn Hiểu
Top