Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - ngụy ở miền Nam (1954-1965)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 33493" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">IV- Miền Bắc xây đựng bước đầu cơ sở vật chất là kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961-1965)</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng</span></strong></p><p></p><p>Bước vào năm 1960, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu ngày càng vững mạnh, trở thành nhân tố quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa thuộc châu Á, châu Phi và Mĩ La - tinh phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời nhiều quốc gia độc lập...</p><p></p><p>Ở trong nước, sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền Nam, Bắc đều có những bước tiến quan trọng. ở miền Bắc, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công – thương nghiệp tư bản tư doanh đã đạt được những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Ở miền Nam, nhân dân ta cũng giành nhiều thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống Mĩ - Diệm, đặc biệt là phong trào đồng khởi 1959 - 1960, làm thay đổi thế chiến lược phong trào cách mạng.</p><p></p><p>Sự chuyển biến tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng phải xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng cho phù hợp.</p><p></p><p>Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Mĩ của Đảng được triệu tập tại thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 50 vạn đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Lê Duẩn trình bày. Báo cáo chính trị vạch rõ: Từ ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới Miền Bắc bước vào thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" . Báo cáo chính trị cũng khẳng định: Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước cũng như đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội nêu lên đường lối chung của Đảng trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: "Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới. Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến".</p><p></p><p>Đối với cách mạng miền Nam, Đại hội chỉ rõ: "Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam còn có tác dụng ngăn chặn âm mưu của Mĩ - Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới".</p><p></p><p>Cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng do trước mắt đều thực hiện một mục tiêu chung là đấu tranh thống nhất nước nhà, cho nên có quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) . Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 45 uỷ viên chính thức và 28 uỷ viên dự khuyết, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất. Bộ Chính trị Trung ương Đảng gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đại hội lần thứ III của Đảng là mốc quan trọng, đánh dấu một bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bác và đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hăng hái phấn đấu, quyết tâm giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2- Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)</span></strong></p><p></p><p>Kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của kế hoạch được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Mĩ thông qua, bao gồm những nội dung cơ bản sau</p><p>đây:</p><p></p><p>Thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ và giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã.</p><p></p><p>- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.</p><p></p><p>- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân. Ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.</p><p></p><p>Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, về thực chất, là cuộc tấn công vào nghèo nàn và lạc hậu. Ngày 26-1-1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra nghị quyết về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.</p><p></p><p>Trên toàn miền Bắc, khắp các ngành, các cấp, các giới đều dấy lên phong trào thi đua rất sôi nổi. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua "Học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong" . Trong công nghiệp có phong trào thi đua "Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải" . Trong thủ công nghiệp có phong trào thi đua với "Thành Công" . Trong quân đội có phong trào thi đua "Ba nhất” 4. Trong giáo dục có phong trào thi đua "Hai tết". Ngoài ra, trong tất cả các ngành còn có phong trào thi đua phấn dấu đạt danh hiệu "Tổ, Đội Lao động xã hội chủ nghĩa", "Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”...</p><p></p><p>Nhờ có sự nỗ lực thi đua của toàn Đảng, toàn dân, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, dù kế hoạch 5 năm phải tạm dừng, nhưng miền Bắc vẫn đạt nhiều thành tựu to lớn . Với số vốn được Nhà nước đầu tư nhiều gấp ba lần so với thời kì khôi phục kinh tế (chiếm 61,2% tổng số chi ngân sách), cơ sở vật chất bước đầu được trang bị trong các ngành kinh tế. Nông nghiệp được coi là cơ sở để phát triển công nghiệp. Từ năm 1963 đến năm 1965, miền Bắc tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lí hợp tác xã, cải tiến kĩ thuật. Nhiều công trình thủy lợi được xây dựng, nhiều trạm bơm, hồ chứa nước được hoàn thành. Các nông trường quốc doanh, trại thí nghiệm cây trồng và chăn nuôi được đầu tư xây dựng và phát triển. Việc sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng lên (số máy kéo năm 1965 tăng gấp 3,3 lần so với năm 1960).</p><p></p><p>Những biện pháp trên đã góp phần làm tăng sản lượng và năng suất lúa. Đến cuối năm 1965, toàn miền Bắc có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt hoặc vượt năng suất 5 tấn thóc trên một héc ta. Sản lượng lương thực đạt bình quân mỗi năm trong thời kì này khoảng 6 triệu tấn; do đó, về cơ bản, miền Bắc đã tự giải quyết được vấn đề lương thực ở trong nước. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp cũng được củng cố và hoàn thiện một bước. Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 90,1% tổng số hộ nông dân tham gia hợp tác xã; 60,1% hợp tác xã đã chuyển lên bậc cao. Các hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhờ có hợp tác xã, nông thôn - một địa bàn chiến lược rộng lớn của căn cứ địa miền Bắc - mới được củng cố và phát triển, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị và tinh thần, động viên và tổ chức dược hàng triệu thanh niên ra tiền tuyến, bảo đảm hậu phương quân đội, hậu phương chiến tranh ngày càng vững mạnh.</p><p></p><p>Công nghiệp được Nhà nước ưu tiên đầu tư khoảng 48% số vốn xây dựng cơ bản, trong đó đầu tư vào công nghiệp nặng lên tới gần 80%. Nhiều cơ sở công nghiệp nặng hình thành, đáng chú ý là Khu Liên hiệp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Nhiệt điện Uống Bí, Thủy điện Thác Bà, Phân đạm Hà Bắc, Supe phối phát Lâm Thao... Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương. Công nghiệp quốc doanh chiếm 93,1 % tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc.</p><p></p><p>Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng với gần 2.600 hợp tác xã chuyên nghiệp tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, cung cấp được khoảng 80% hàng tiêu dùng cho nhân dân. Thương nghiệp quốc doanh được ưu tiên phát triển nên nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường trong nước, góp phần củng cố quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Quan hệ thương mại giữa miền Bắc nước ta với các nước trên thế giới cũng được mở rộng, từ 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) trong năm 1955, đến năm 1965, đã tăng lên 35 nước (trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa).</p><p></p><p>Để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường khả năng quốc phòng, ngành Giao thông vận tải cũng được chú trọng đầu tư phát triển. Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy cầu cống được xây dựng, cải tạo nâng cấp.</p><p></p><p>Đời sống vật chất của nhân dân miền Bắc được nâng lên rõ rệt. Tính chung trong 5 năm (1961 - 1965), thu nhập quốc dân tăng bình quân 3,4%; riêng thu nhập của nông dân tăng 25%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm phát triển. Việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa được coi trọng. Nền giáo dục quốc dân phát triển nhanh chóng và toàn diện, cả về ngành học và số lượng học sinh, về xây dựng đội ngũ giáo viên cũng như về việc xoá nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ học vấn cho các tầng lớp nhân dân.</p><p></p><p>Những năm 1961 - 1965 đánh dấu bước phát triển khá nhanh chóng của ngành Giáo dục phổ thông. Từ 7.066 trường học, với l899.000 học sinh trong năm học 1960 - 1961, đã tăng lên 10.294 trường học, với 2.676.000 học sinh trong năm 1964 - 1965. Giáo dục đại học cũng phát triển nhanh với ba loại hình đào tạo (chính quy, chuyên tu và tại chức). Trong năm học 1960 - 1961, miền bắc có 10 trường đại học, với 1.260 giáo viên và 16.690 sinh viên; đến năm học 1965 - 1966 đã có 21 trường, với 3.590 giáo viên và 34.208 sinh viên. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp được mở rộng. Đến năm 1965, miền Bắc có 154 trường, với 3.159 giáo viên và 60.018 học sinh. Mạng lưới y tế gồm hệ thống các bệnh viện, trạm xá... được xây dựng rộng khắp: 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã có trạm y tế. Số bác sĩ từ 409 người trong năm 1960, đã tăng lên 1.525 người trong năm 1965.</p><p></p><p>Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, đế quốc Mĩ và tay sai luôn luôn tìm cách phá hoại, vấn đề củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố và kiện toàn. Tháng 10-1962, Quốc hội (khoá III thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Ngày 26-4-1964, cử tri miền Bắc tham gia bầu cử Quốc hội (khoá III): Hơn 50% đại biểu là những người trực tiếp sản xuất, anh hùng lao động, anh hùng quân đội và chiến sĩ thi đua được bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng một bước thành quân đội chính quy và bước đầu được trang bị hiện đai, đủ sức bảo vệ miền Bắc và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Lực lượng quân thường trực từ 170.000 người trong những năm 1961-1962, đã tăng lên gần 300.000 người trong năm 1964 do yêu cầu của cách mạng ở cả hai miền; không kể 160.000 công nhân viên quốc phòng và</p><p>21.000 người trong lực lượng công an vũ trang. Những thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhất là trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xã hội miền Bắc. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3- 1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới" . Tiềm lực mọi mặt của xã hội miền Bắc được tăng cường; sự nhất trí về chính trị tinh thần ngày càng được phát huy cao độ trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây chính là những nhân tố hết sức quan trọng, giúp cho miền Bắc không những có đủ sức mạnh để đánh thắng chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ gây ra, mà còn làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với miền Nam cũng như đối với nghĩa vụ quốc tế.</p><p></p><p>Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -1965), chúng ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm do tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội gây nên. Đó là sự vận dụng thiếu chọn lọc mô hình, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em; là việc đề ra</p><p>phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; do đó, chúng ta đã đầu tư quá nhiều vốn, nhân công và kĩ thuật vào việc xây dựng công nghiệp nặng trong khi chưa có đủ điều kiện. Những sai lầm này tiếp tục tồn tại trong nhiều năm sau.</p><p></p><p>Kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 - 1965) đang thực hiện có kết quả thì đế quốc Mĩ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân với mức độ ngày càng ác liệt đối với miền Bắc. Nhân dân miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">V- Miền Nam chiến đấu chổng chiến lược "chiến tranh đặc biệt” (1961 – 9651)</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam</span></strong></p><p></p><p>Kenơđi lên cầm quyền từ ngày 20-1-1961 trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn. Đó là lúc hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc cũng như phong trào công nhân quốc tế có những bước phát triển có lợi cho lực lượng cách mạng. Chiến lược toàn cầu "Trả đũa ồ ạt" từ sau khi triển khai liên tiếp gặp thất bại: Năm 1954, Pháp - Mĩ thất bại ở Điện Biên</p><p>Phủ; năm 1958, chính phủ thân Mĩ ở bắc bị lật đổ; năm 1959, cách mạng Cu Ba thắng lợi; cuối năm 1959 đầu năm 1960, phong trào "đồng khởi" của nhân dân miền Nam bùng nổ và thắng lợi to lớn...</p><p></p><p>Tất cả tình hình trên buộc đế quốc Mĩ phải thay đổi chiến lược toàn cầu. Về chính trị, Keunơđi đề ra "Chiến lược vì hoà bình" nhằm chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với lực lượng xã hội chủ nghĩa và lực lượng độc lập dân tộc.</p><p></p><p>Về quân sự, Kennơđi chuyển sang chiến lược "Phản ứng linh hoạt", với ba loại hình chiến tranh tương ứng ba mức độ phản ứng: "Chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" và "chiến tranh tổng lực". Chiến tranh đặc biệt là loại hình chiến tranh đặc thù của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ. Mục đích của nó là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng. Hình thức của nó là</p><p>phối hợp đầy đủ các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lí.</p><p></p><p>Ngày 8-5-1961, Tổng thống Kennơđi phê chuẩn chính sách đối với Việt Nam do Hội đồng An ninh quốc gia Mĩ soạn thảo. Đến ngày 13-5-1961, bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm được kí kết, chính thức xác nhận những chủ trương, biện pháp đã được Keunơđi phê chuẩn, với nội dung cơ bản là: Tăng cường viện trợ kinh tế và lực lượng cố vấn quân sự cho miền Nam, phát triển ngụy quân, đẩy mạnh bình định chống du kích, ra sức phá hoại bằng biệt kích ở miền Bắc Việt Nam.</p><p></p><p>Tháng 6-1961, Stalây (Tiến sĩ thuộc Viện Nghiên cứu Stanfort) được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ thị sát tình hình, bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch của Mĩ. Tiếp đó, Taylo (Đại tướng, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mĩ ) cũng được phái sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình, đề xuất ý kiến bổ sung cho kế hoạch Stalây, hợp thành một kế hoạch hoàn chỉnh mang tên: Kế hoạch Stalây - Taylo. Kế hoạch Stalây - Taylo, được Tổng thống Keunơđi phê chuẩn ngày 14-11-1961, có nội dung chủ yếu tương tự với bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm, nhưng được cụ thể hoá bằng ba bước thực hiện:</p><p></p><p>- Bước 1, dự kiến trong vòng 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962) tập trung dồn dân vào 16.000 ấp chiến lược, cơ bản hoàn thành bình định miền Nam, đồng thời gây cơ sở gián điệp ở miền Bắc.</p><p></p><p>- Bước 2, trong năm 1963, tập trung khôi phục nền kinh tế miền Nam, tiếp tục hoàn tất chương trình bình định, tăng cường thêm lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành các hoạt động gây rối, phá hoại miền Bắc.</p><p></p><p>- Bước 3, tập trung vào việc phát triển kinh tế miền Nam và tiến công miền Bắc.</p><p></p><p>Với mục đích cốt lõi nhằm bình định miền Nam trong 18 tháng, Kế hoạch Stalây - Tay lo được thực hiện theo ba biện pháp cơ bản:</p><p></p><p>- Tăng cường lực lượng ngụy quân và phương tiện chiến tranh hiện đại, chủ yếu dùng chiến thuật "Trực thăng vận" và thiết xa vận" để nâng cao tính cơ động cho quân ngụy.</p><p></p><p>- Dồn dân lập ấp chiến lược. Củng cố ngụy quyền và đô thị.</p><p></p><p>- Ngoài ra, chúng còn ra sức ngăn chặn biên giới và kiểm soát ven biển nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam.</p><p></p><p>Tháng 4-1961, ngụy quyền Diệm tổ chức miền Nam thành 4 vùng chiến thuật do các viên tướng cầm đầu cả về quân sự và hành chính. Chúng tăng cường bắt lính, phát triển ngụy quân từ 15 vạn quân chính quy (năm 1960) lên 36,2 vạn (năm 1962) chưa kể 17,4 vạn trong lực lượng bảo an và 128 đại đội dân vệ ở khắp các ấp, xã. Bên cạnh đó, từ tháng 5-1961, Mĩ đưa vào</p><p>miền Nam hơn 400 tên lính thuộc lực lượng đặc biệt và 100 cố vấn quân sự, 1.600 Fhuyên gia giúp chính quyền Diệm mở rộng, cải tổ quân ngụy, đưa tổng số quân Mĩ ở miền Nam từ 1.077 tên (1960) lên 10.960 tên (1962).</p><p></p><p>Ngày 8-2-1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập tại Sài Gòn do Tướng Hackin chỉ huy, gọi tắt là MACV, thay cho phái đoàn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG) trước đó. Viện trợ Mĩ cũng tăng dần, từ 321,7 triệu đôla (có 80 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1961 - 1962, lên 675 triệu đôla (có 100 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1962 – 1963 ấp chiến lược được Mĩ - ngụy coi là quốc sách, là xương sống của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", là biện pháp cơ bản để thực hiện "bình định " miền Nam. Với quốc sách ấp chiến lược, Mĩ - ngụy nhằm tách nhân dân miền Nam ra khỏi lực lượng cách mạng, cô lập và tiến tới bao vây, tiêu diệt lực lượng cách mạng theo kiểu "tát nước bắt cá ".</p><p></p><p>Để thực hiện quốc sách ấp chiến lược, Mĩ -ngụy tiến hành những cuộc càn quét, dồn dân với sự chi viện, yểm trợ của hoả lực và hậu cần của Mĩ bằng các chiến thuật “trực thăng vận ", thiết xa vận ". Cùng với việc dồn dân, chúng thực hiện rào làng, xây bết, bắt lính, tổ chức bảo an, dân vệ, lùng sục, bắt bớ, đánh phá cơ sở cách mạng.</p><p></p><p>Đi đôi với biện pháp dồn dân lập ấp chiến lược, Mĩ - ngụy còn cho máy bay rải chất độc hoá học, ném bom phát quang các vùng căn cứ cách mạng, các đường hành lang dọc Trường Sơn và khu giới tuyến quân sự tạm thời. Mặt khác, chúng tung các toán biệt kích vào các tỉnh khu IV và Tây Bắc để tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc.</p><p></p><p>Tóm lại, "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng lực lượng ngụy quân do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và huấn luyện, do cố vấn quân sự Mĩ chỉ huy. Với chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mĩ không chỉ nhằm đàn áp, tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng, thực hiện "bình định miền Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến công xâm lược miền Bắc, mà còn nhằm âm mưu dùng miền Nam làm nơi thí điểm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ</span></strong></p><p></p><p>Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mĩ, ngay từ tháng 1-1961 và tiếp đó là tháng 2-1962, Bộ Chính trị đã có chỉ thị và Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền.</p><p></p><p>Theo quan điểm của Đảng, trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng, các cuộc khởi nghĩa từng phần vẫn tiếp diễn, đấu tranh chính trị vẫn được duy trì và đẩy mạnh; đồng thời phát triển đấu tranh quân sự lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trì.</p><p></p><p>Để đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ và tay sai, Đảng chủ trương tiếp tục giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công; kết hợp chặt chẽ hại lực lượng chính trị và vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị). Mũi nhọn đấu tranh tập trung vào nhiệm vụ</p><p>chống càn quét và phá kế hoạch lập ấp chiến lược, đẩy lùi và đánh bại chính sách bình định, giành dân của địch.</p><p></p><p>Tiếp sau sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tháng 1-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ uỷ Nam Bộ trước đây. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuyến đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được mở rộng, bảo đảm việc chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ . Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Đảng lãnh đạo, từ năm 1961, quân và dân miền Nam từng bước đập tan các kế hoạch chiến tranh của Mĩ - ngụy trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt".</p><p></p><p>Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị được đẩy mạnh trên cả ba vùng chiến lược . Tính riêng trong năm 1961, quân và dân miền Nam đánh 15.525 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch, thu 6.000 vũ khí các loại; đồng thời huy động 33,3 triệu lượt người xuống đường đấu tranh chính trị trực diện với địch, làm cho 14.500 binh sĩ ngụy đảo ngũ, rã ngũ. Vùng giải phóng được giữ vững với hơn 1 vạn thôn, xã và gần 6 triệu dân.</p><p></p><p>Sang năm 1962, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển với những thắng lợi mới, lớn hơn. Quân và dân ta đã đánh 19.108 trận, tiêu diệt và làm bị thương 55.119 tên địch (trong đó có 324 tên Mĩ). Trên mặt trận đấu tranh chính trị, hàng chục triệu lượt người tham gia chống, phá kế hoạch lập ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng chiến đấu. Tính đến cuối năm 1962, trên toàn miền Nam, có 2.665 ấp chiến lược bị phá; trong đó có 1 15 ấp được xây dựng thành làng chiến đấu, giải phóng hoàn toàn 4.441 thôn trong tổng số 17.162 thôn, cùng với 6,5 triệu trong tổng số 14 triệu dân. Đến cuối năm 1963, so với kế hoạch, Mĩ - ngụy chỉ lập được 7.500 ấp chiến lược nhưng đã bị phá 4.700 ấp, trong đó có 2.000 ấp đã trở thành làng chiến đấu.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh chính trị cũng bắt đầu được đẩy mạnh trong các đô thị. Trong hai năm 1961 - 1962, công nhân và nhân dân lao động trong các thành thị miền Nam đã tổ chức 8.916 cuộc đấu tranh, với 744.000 lượt người tham gia. Tầng lớp trí thức và học sinh, sinh viên nhiều lần xuống đường, đấu tranh đòi "thực hiện hoà bình, trung lập ở miền Nam. Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng. Đến cuối năm 1962, Mặt trận đã có 20 tổ chức đoàn thể quần chúng; trong đó có những tổ chức bao gồm hàng chục vạn hội viên; có những tổ chức còn đặt các cơ quan thường trực ở nước ngoài.</p><p></p><p>Trên cơ sở đó, ngày 2-1-1963, quân và dân miền Nam lập được chiến công vang dội ở ấp Bắc (Cai Lây, Mĩ Tho). Tại đây, lần đầu tiên, quân giải phóng với lực lượng ít hơn địch 10 lần, phối hợp cùng với nhân dân địa phương chiến đấu đánh tan cuộc càn quét của trên 2.000 quân ngụy được vũ trang đầy đủ, có máy bay lên thẳng và xe bọc thép lội nước M.113 yểm trợ, do 2 đại tá Mĩ và 1 tướng ngụy trực tiếp chỉ huy. Sau 5 đợt tiến công bị quân và dân ta đánh lùi, địch phải chấm dứt cuộc hành quân với những tổn thất nặng nề: 450 tên (trong đó có 9 cố vấn Mĩ) bị chết và bị thương; 16 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, bắn hỏng; 3 xe bọc thép M.113 bị phá hỏng, 1 tàu chiến bị đánh chìm.</p><p></p><p>Chiến thắng ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, mở đầu sự phá sản của chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận", đánh sụp lòng tin của quân ngụy vào trang bị kĩ thuật hiện đại của Mĩ. Chiến thắng ấp Bắc chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng quân ngụy trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt"; mở đầu cho cao trào diệt ngụy trên toàn miền Nam. "Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công", trong năm 1963, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 78.000 tên địch (trong đó có 600 tên Mĩ), phá 2.895 ấp chiến lược trong tổng số 6.164 ấp do địch lập ra, giải phóng 12.000 thôn ấp, với gần 9 triệu dân. Được cổ vũ bởi những thắng lợi quân sự và phong trào phá ấp chiến lược ở nông thôn, miền núi, từ năm 1963, phong trào đấu tranh chính trị trong các đô thị có những bước phát triển mới, nổi bật là những cuộc đấu tranh liên tục, không khoan nhượng của học sinh, sinh viên và đồng bào Phật giáo chống lại sự đàn áp, kì thị tôn giáo của tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm.</p><p></p><p>Ngày 8-5-1963, khoảng 2 vạn đồng bào Huế, trong đó có 1 vạn tăng ni, Phật tử rầm rộ xuống đường biểu tình, phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ trong dịp lễ Phật đản. Ngụy quyền Diệm cho tay chân đàn áp, làm chết 13 người và nhiều người bị thương.</p><p></p><p>Ngày 14-5-1963, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố kêu gọi nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo miền Nam. Làn sóng đấu tranh chống ngụy quyền Ngô Đình Diệm nhanh chóng lan rộng, nhất là ở Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng. Đỉnh cao của phong trào Phật giáo là sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (ll-6-1963) để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm. Ngày 16-6-1963, khoảng 70 vạn đồng bào và tín đồ Phật giáo ở Sài Gòn xuống đường biểu tình, làm rung chuyển chính quyền Diệm. Tiếp đến, ngày 25-8-1963, toàn thể học sinh, sinh viên Sài Gòn tổng bãi khoá, tổ chức 6 cuộc biểu tình lớn. sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của ngụy quyền. Mâu thuẫn nội bộ chính quyền Diệm tăng lên. Các tướng lĩnh cầm đầu ngụy quân bắt đầu vận động lôi kéo các phần tử bất mãn với ngụy quyền Diệm, tính kế đảo chính. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Mĩ cũng tuyên bố không tán thành chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đại sứ Mĩ Nâuting bị triệu hồi về nước và Ca bết Lốt được cử sang thay thế. Ngày 1-11-1963, được sự ủng hộ của Mĩ, một nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết chết Diệm - Nhu. Kế hoạch Stalây - Taylo hoàn toàn phá sản. Ngụy quyền miền Nam càng lún sâu hơn vào tình trạng khủng hoảng triền miên.</p><p></p><p>Một thời gian không lâu sau khi chế độ độc tài gia đình trị của Diệm - Nhu bị lật đổ, ngày 22-11-1963, Kennơđi bị ám sát. Phó tổng thống Mĩ Giôn xơn lên thay, tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Để cứu vãn nguy cơ thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", vào tháng 12-1963, một phái đoàn quân sự cấp cao gồm 15 tướng, do Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mắc Namara cầm đầu, được phái sang miền Nam nghiên cứu tình hình. Hai tháng sau, một kế hoạch mới do Mắc Namara và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân vạch ra, được Tổng thống Giôn xơn phê chuẩn, gọi là Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara. Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mĩ ; tăng số lượng quân ngụy và phương tiện chiến tranh, vũ khí trang bị cho quân ngụy; xúc tiến kế hoạch lập ấp chiến lược, cố gắng bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 - 1965); dùng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc.</p><p></p><p>Tháng 6-1964, Taylo được phái sang thay Ca bết Lết làm Đại sứ tại miền Nam Việt Nam, được Giônxớn cho phép toàn quyền hành động cả về quân sự và chính trị để trực tiếp thực hiện nội dung kế hoạch trên.</p><p></p><p>Đến cuối năm 1964, số lính và cố vấn Mĩ có mặt tại miền Nam Việt Nam đã lên tới 26.200 tên; số quân ngụy cũng tăng lên 653.000 tên (trong đó có 267.000 quân chủ lực) với những trang bị, phương tiện chiến tranh mới.</p><p></p><p>Như vậy, Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara là sự tiếp tục chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với quy mô lớn hơn, thể hiện sự ngoan cố, hiếu chiến của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.</p><p></p><p>Trong lúc Diệm - Nhu đổ và Mĩ thay đổi kế hoạch trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", tình hình quốc tế cũng có những diễn biến rất phức tạp. Mâu thuẫn hai nước Liên Xô - Trung Quốc không những không dịu đi, mà còn gay gắt hơn. Điều này gây ảnh hưởng không có lợi cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta.</p><p></p><p>Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (ll-1963) đã kịp thời xác định nhiều vấn đề rất quan trọng cả về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam, cũng như về đường lối đoàn kết quốc tế. Đối với cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng quyết định nhiều vấn đề chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng:</p><p></p><p>- Tiếp tục khẳng định phương châm kết hợp song song đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; cả hai hình thức đấu tranh đều có vai trò quyết định cơ bản; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang để chủ động và kịp thời đối phó với hành động tăng cường chiến tranh của địch.</p><p></p><p>- Tiếp tục khẳng định phương châm chiến lược ba vùng; kiên quyết không cho địch phân tuyến, phân vùng để giữ vững thế trận cài răng lược hiểm hóc, vững chắc của chiến tranh nhân dân.</p><p></p><p>Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai kế hoạch tác chiến của Trung ương Cục miền Nam, đồng thời hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (11-1964), quân và dân miền Nam có những nỗ lực vượt bậc, đẩy mạnh chiến tranh cách mạng, liên tiếp giành thắng lợi có tính chất quyết định.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục lan rộng, phá vỡ từng mảng lớn quốc sách ấp chiến lược của Mĩ - ngụy. Đến cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3.300 ấp; đến giữa năm 1965, chúng chỉ còn kiểm soát được 2.200 ấp. Vùng giải phóng được mở rộng, chiếm 4/5 đất đai với 10 triệu dân. Trong các vùng giải phóng, chính quyền cách mạng thực hiện các chính sách tự do dân chủ. Tính đến cuối năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia trên 2 triệu ha (chiếm 70% diện tích đất canh tác) cho nông dân không có ruộng, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tai các vùng giải phóng Trung và Tây Nam Bộ, có hơn 5.000 trường phổ thông với hơn 50 vạn học sinh theo học.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân càng làm cho nội bộ ngụy quyền luôn bị chia rẽ, lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chỉ trong hơn một năm (1964 - giữa năm 1965), ở miền Nam liên tiếp diễn ra hơn 10 cuộc đảo chính . </p><p></p><p>Trên mặt trận quân sự, quân giải phóng trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt. Với sự hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân đều khắp trên toàn miền Nam, trong năm 1964, quân giải phóng đã mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là trận đánh mở màn vào ấp Bình Giã (Bà Rịa). Đây là một ấp chiến lược và địch coi là hậu cứ an toàn của chúng. Đây cũng làmlần đầu tiên quân giải phóng tập trung một lực lượng lớn nhất (7.000 quân) để mở một chiến dịch dài ngày (12-1964-11965), trên một địa bàn rộng lớn thuộc 4 tỉnh. Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hoà - Bình Thuận. Quân ta đã diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực ngụy và 1 chi đoàn xe bọc thép, diệt 7 đại đội bảo an và làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực. Trận Bình Giã mở ra thời kì mới - thời kì kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh</p><p>chính quy, tiến công quân sự của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng.</p><p></p><p>Để cứu vãn tình thế ngày càng bất lợi trong cuộc chiến tranh, từ đầu năm 1965, đế quốc Mĩ bắt đầu đưa một số đơn vị quân đội viễn chinh và quân chư hầu Nam Triều Tiên vào miền Nam Việt Nam. Ngày 8-3-1965, sau khi đã đưa một đại đội máy bay F.l05 vào Biên Hoà và một tiểu đoàn tên lửa phòng không vào Đà Nẵng, Mĩ cho hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ ôkinaoa vào Đà Năng. Từ sau đó, quân viễn chinh (chủ yếu là lính thủy đánh bộ) tiếp tục được đưa vào miền Nam. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" được đẩy lên đến mức cao nhất; nhân tố của "chiến tranh cục bộ" bắt đầu xuất hiện. Như vậy, với chiến thắng Bình Giã của quân và dân miền Nam, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" về cơ bản đã bị phá sản. Tiếp theo trận Bình Giã, quân và dân miền Nam còn giành thắng lợi to lớn ở nhiều nơi, điển hình là trận Ba Gia (Quảng Ngài, 29-5-1965). Đây là một chiến dịch tiến công, cũng mang tính chất tổng hợp, có phối hợp với đấu tranh chính trị trên địa bàn rộng (nhiều huyện) và sâu (vào tận thị xã) ở miền Trung; một chiến dịch sử dụng lực lượng tuy nhỏ (một trung đoàn tăng cường) nhưng đạt hiệu suất chiến đấu cao (diệt 4 tiểu đoàn chủ lực) và có ý nghĩa chiến lược lớn, góp phần quyết định đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam.</p><p></p><p>Đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt", quân và dân ta đã làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ định dùng miền Nam làm nơi thí điểm một loại chiến tranh xâm lược thực dân mới để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ đi đến một bước phiêu lưu quân sự mới, vừa phát động "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, vừa tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam.</p><p></p><p>Từ đó, cả hai miền Nam - Bắc bước vào thời kì trực tiếp kháng chiến chống đế quốc Mĩ .</p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 33493, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]IV- Miền Bắc xây đựng bước đầu cơ sở vật chất là kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961-1965) 1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng[/COLOR][/B] Bước vào năm 1960, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu ngày càng vững mạnh, trở thành nhân tố quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa thuộc châu Á, châu Phi và Mĩ La - tinh phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời nhiều quốc gia độc lập... Ở trong nước, sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền Nam, Bắc đều có những bước tiến quan trọng. ở miền Bắc, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công – thương nghiệp tư bản tư doanh đã đạt được những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Ở miền Nam, nhân dân ta cũng giành nhiều thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống Mĩ - Diệm, đặc biệt là phong trào đồng khởi 1959 - 1960, làm thay đổi thế chiến lược phong trào cách mạng. Sự chuyển biến tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng phải xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng cho phù hợp. Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Mĩ của Đảng được triệu tập tại thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 50 vạn đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Lê Duẩn trình bày. Báo cáo chính trị vạch rõ: Từ ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới Miền Bắc bước vào thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" . Báo cáo chính trị cũng khẳng định: Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước cũng như đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội nêu lên đường lối chung của Đảng trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: "Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới. Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến". Đối với cách mạng miền Nam, Đại hội chỉ rõ: "Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam còn có tác dụng ngăn chặn âm mưu của Mĩ - Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới". Cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng do trước mắt đều thực hiện một mục tiêu chung là đấu tranh thống nhất nước nhà, cho nên có quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) . Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 45 uỷ viên chính thức và 28 uỷ viên dự khuyết, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất. Bộ Chính trị Trung ương Đảng gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đại hội lần thứ III của Đảng là mốc quan trọng, đánh dấu một bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bác và đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hăng hái phấn đấu, quyết tâm giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. [B][COLOR="Blue"]2- Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)[/COLOR][/B] Kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của kế hoạch được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Mĩ thông qua, bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ và giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã. - Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân. Ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, về thực chất, là cuộc tấn công vào nghèo nàn và lạc hậu. Ngày 26-1-1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra nghị quyết về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trên toàn miền Bắc, khắp các ngành, các cấp, các giới đều dấy lên phong trào thi đua rất sôi nổi. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua "Học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong" . Trong công nghiệp có phong trào thi đua "Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải" . Trong thủ công nghiệp có phong trào thi đua với "Thành Công" . Trong quân đội có phong trào thi đua "Ba nhất” 4. Trong giáo dục có phong trào thi đua "Hai tết". Ngoài ra, trong tất cả các ngành còn có phong trào thi đua phấn dấu đạt danh hiệu "Tổ, Đội Lao động xã hội chủ nghĩa", "Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”... Nhờ có sự nỗ lực thi đua của toàn Đảng, toàn dân, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, dù kế hoạch 5 năm phải tạm dừng, nhưng miền Bắc vẫn đạt nhiều thành tựu to lớn . Với số vốn được Nhà nước đầu tư nhiều gấp ba lần so với thời kì khôi phục kinh tế (chiếm 61,2% tổng số chi ngân sách), cơ sở vật chất bước đầu được trang bị trong các ngành kinh tế. Nông nghiệp được coi là cơ sở để phát triển công nghiệp. Từ năm 1963 đến năm 1965, miền Bắc tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lí hợp tác xã, cải tiến kĩ thuật. Nhiều công trình thủy lợi được xây dựng, nhiều trạm bơm, hồ chứa nước được hoàn thành. Các nông trường quốc doanh, trại thí nghiệm cây trồng và chăn nuôi được đầu tư xây dựng và phát triển. Việc sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng lên (số máy kéo năm 1965 tăng gấp 3,3 lần so với năm 1960). Những biện pháp trên đã góp phần làm tăng sản lượng và năng suất lúa. Đến cuối năm 1965, toàn miền Bắc có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt hoặc vượt năng suất 5 tấn thóc trên một héc ta. Sản lượng lương thực đạt bình quân mỗi năm trong thời kì này khoảng 6 triệu tấn; do đó, về cơ bản, miền Bắc đã tự giải quyết được vấn đề lương thực ở trong nước. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp cũng được củng cố và hoàn thiện một bước. Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 90,1% tổng số hộ nông dân tham gia hợp tác xã; 60,1% hợp tác xã đã chuyển lên bậc cao. Các hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhờ có hợp tác xã, nông thôn - một địa bàn chiến lược rộng lớn của căn cứ địa miền Bắc - mới được củng cố và phát triển, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị và tinh thần, động viên và tổ chức dược hàng triệu thanh niên ra tiền tuyến, bảo đảm hậu phương quân đội, hậu phương chiến tranh ngày càng vững mạnh. Công nghiệp được Nhà nước ưu tiên đầu tư khoảng 48% số vốn xây dựng cơ bản, trong đó đầu tư vào công nghiệp nặng lên tới gần 80%. Nhiều cơ sở công nghiệp nặng hình thành, đáng chú ý là Khu Liên hiệp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Nhiệt điện Uống Bí, Thủy điện Thác Bà, Phân đạm Hà Bắc, Supe phối phát Lâm Thao... Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương. Công nghiệp quốc doanh chiếm 93,1 % tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc. Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng với gần 2.600 hợp tác xã chuyên nghiệp tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, cung cấp được khoảng 80% hàng tiêu dùng cho nhân dân. Thương nghiệp quốc doanh được ưu tiên phát triển nên nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường trong nước, góp phần củng cố quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Quan hệ thương mại giữa miền Bắc nước ta với các nước trên thế giới cũng được mở rộng, từ 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) trong năm 1955, đến năm 1965, đã tăng lên 35 nước (trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa). Để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường khả năng quốc phòng, ngành Giao thông vận tải cũng được chú trọng đầu tư phát triển. Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy cầu cống được xây dựng, cải tạo nâng cấp. Đời sống vật chất của nhân dân miền Bắc được nâng lên rõ rệt. Tính chung trong 5 năm (1961 - 1965), thu nhập quốc dân tăng bình quân 3,4%; riêng thu nhập của nông dân tăng 25%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm phát triển. Việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa được coi trọng. Nền giáo dục quốc dân phát triển nhanh chóng và toàn diện, cả về ngành học và số lượng học sinh, về xây dựng đội ngũ giáo viên cũng như về việc xoá nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ học vấn cho các tầng lớp nhân dân. Những năm 1961 - 1965 đánh dấu bước phát triển khá nhanh chóng của ngành Giáo dục phổ thông. Từ 7.066 trường học, với l899.000 học sinh trong năm học 1960 - 1961, đã tăng lên 10.294 trường học, với 2.676.000 học sinh trong năm 1964 - 1965. Giáo dục đại học cũng phát triển nhanh với ba loại hình đào tạo (chính quy, chuyên tu và tại chức). Trong năm học 1960 - 1961, miền bắc có 10 trường đại học, với 1.260 giáo viên và 16.690 sinh viên; đến năm học 1965 - 1966 đã có 21 trường, với 3.590 giáo viên và 34.208 sinh viên. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp được mở rộng. Đến năm 1965, miền Bắc có 154 trường, với 3.159 giáo viên và 60.018 học sinh. Mạng lưới y tế gồm hệ thống các bệnh viện, trạm xá... được xây dựng rộng khắp: 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã có trạm y tế. Số bác sĩ từ 409 người trong năm 1960, đã tăng lên 1.525 người trong năm 1965. Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, đế quốc Mĩ và tay sai luôn luôn tìm cách phá hoại, vấn đề củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố và kiện toàn. Tháng 10-1962, Quốc hội (khoá III thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Ngày 26-4-1964, cử tri miền Bắc tham gia bầu cử Quốc hội (khoá III): Hơn 50% đại biểu là những người trực tiếp sản xuất, anh hùng lao động, anh hùng quân đội và chiến sĩ thi đua được bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng một bước thành quân đội chính quy và bước đầu được trang bị hiện đai, đủ sức bảo vệ miền Bắc và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Lực lượng quân thường trực từ 170.000 người trong những năm 1961-1962, đã tăng lên gần 300.000 người trong năm 1964 do yêu cầu của cách mạng ở cả hai miền; không kể 160.000 công nhân viên quốc phòng và 21.000 người trong lực lượng công an vũ trang. Những thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhất là trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xã hội miền Bắc. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3- 1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới" . Tiềm lực mọi mặt của xã hội miền Bắc được tăng cường; sự nhất trí về chính trị tinh thần ngày càng được phát huy cao độ trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây chính là những nhân tố hết sức quan trọng, giúp cho miền Bắc không những có đủ sức mạnh để đánh thắng chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ gây ra, mà còn làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với miền Nam cũng như đối với nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -1965), chúng ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm do tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội gây nên. Đó là sự vận dụng thiếu chọn lọc mô hình, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em; là việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; do đó, chúng ta đã đầu tư quá nhiều vốn, nhân công và kĩ thuật vào việc xây dựng công nghiệp nặng trong khi chưa có đủ điều kiện. Những sai lầm này tiếp tục tồn tại trong nhiều năm sau. Kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 - 1965) đang thực hiện có kết quả thì đế quốc Mĩ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân với mức độ ngày càng ác liệt đối với miền Bắc. Nhân dân miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình. [B][COLOR="Blue"]V- Miền Nam chiến đấu chổng chiến lược "chiến tranh đặc biệt” (1961 – 9651) 1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam[/COLOR][/B] Kenơđi lên cầm quyền từ ngày 20-1-1961 trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn. Đó là lúc hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc cũng như phong trào công nhân quốc tế có những bước phát triển có lợi cho lực lượng cách mạng. Chiến lược toàn cầu "Trả đũa ồ ạt" từ sau khi triển khai liên tiếp gặp thất bại: Năm 1954, Pháp - Mĩ thất bại ở Điện Biên Phủ; năm 1958, chính phủ thân Mĩ ở bắc bị lật đổ; năm 1959, cách mạng Cu Ba thắng lợi; cuối năm 1959 đầu năm 1960, phong trào "đồng khởi" của nhân dân miền Nam bùng nổ và thắng lợi to lớn... Tất cả tình hình trên buộc đế quốc Mĩ phải thay đổi chiến lược toàn cầu. Về chính trị, Keunơđi đề ra "Chiến lược vì hoà bình" nhằm chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với lực lượng xã hội chủ nghĩa và lực lượng độc lập dân tộc. Về quân sự, Kennơđi chuyển sang chiến lược "Phản ứng linh hoạt", với ba loại hình chiến tranh tương ứng ba mức độ phản ứng: "Chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" và "chiến tranh tổng lực". Chiến tranh đặc biệt là loại hình chiến tranh đặc thù của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ. Mục đích của nó là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng. Hình thức của nó là phối hợp đầy đủ các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lí. Ngày 8-5-1961, Tổng thống Kennơđi phê chuẩn chính sách đối với Việt Nam do Hội đồng An ninh quốc gia Mĩ soạn thảo. Đến ngày 13-5-1961, bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm được kí kết, chính thức xác nhận những chủ trương, biện pháp đã được Keunơđi phê chuẩn, với nội dung cơ bản là: Tăng cường viện trợ kinh tế và lực lượng cố vấn quân sự cho miền Nam, phát triển ngụy quân, đẩy mạnh bình định chống du kích, ra sức phá hoại bằng biệt kích ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 6-1961, Stalây (Tiến sĩ thuộc Viện Nghiên cứu Stanfort) được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ thị sát tình hình, bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch của Mĩ. Tiếp đó, Taylo (Đại tướng, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mĩ ) cũng được phái sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình, đề xuất ý kiến bổ sung cho kế hoạch Stalây, hợp thành một kế hoạch hoàn chỉnh mang tên: Kế hoạch Stalây - Taylo. Kế hoạch Stalây - Taylo, được Tổng thống Keunơđi phê chuẩn ngày 14-11-1961, có nội dung chủ yếu tương tự với bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm, nhưng được cụ thể hoá bằng ba bước thực hiện: - Bước 1, dự kiến trong vòng 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962) tập trung dồn dân vào 16.000 ấp chiến lược, cơ bản hoàn thành bình định miền Nam, đồng thời gây cơ sở gián điệp ở miền Bắc. - Bước 2, trong năm 1963, tập trung khôi phục nền kinh tế miền Nam, tiếp tục hoàn tất chương trình bình định, tăng cường thêm lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành các hoạt động gây rối, phá hoại miền Bắc. - Bước 3, tập trung vào việc phát triển kinh tế miền Nam và tiến công miền Bắc. Với mục đích cốt lõi nhằm bình định miền Nam trong 18 tháng, Kế hoạch Stalây - Tay lo được thực hiện theo ba biện pháp cơ bản: - Tăng cường lực lượng ngụy quân và phương tiện chiến tranh hiện đại, chủ yếu dùng chiến thuật "Trực thăng vận" và thiết xa vận" để nâng cao tính cơ động cho quân ngụy. - Dồn dân lập ấp chiến lược. Củng cố ngụy quyền và đô thị. - Ngoài ra, chúng còn ra sức ngăn chặn biên giới và kiểm soát ven biển nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam. Tháng 4-1961, ngụy quyền Diệm tổ chức miền Nam thành 4 vùng chiến thuật do các viên tướng cầm đầu cả về quân sự và hành chính. Chúng tăng cường bắt lính, phát triển ngụy quân từ 15 vạn quân chính quy (năm 1960) lên 36,2 vạn (năm 1962) chưa kể 17,4 vạn trong lực lượng bảo an và 128 đại đội dân vệ ở khắp các ấp, xã. Bên cạnh đó, từ tháng 5-1961, Mĩ đưa vào miền Nam hơn 400 tên lính thuộc lực lượng đặc biệt và 100 cố vấn quân sự, 1.600 Fhuyên gia giúp chính quyền Diệm mở rộng, cải tổ quân ngụy, đưa tổng số quân Mĩ ở miền Nam từ 1.077 tên (1960) lên 10.960 tên (1962). Ngày 8-2-1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập tại Sài Gòn do Tướng Hackin chỉ huy, gọi tắt là MACV, thay cho phái đoàn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG) trước đó. Viện trợ Mĩ cũng tăng dần, từ 321,7 triệu đôla (có 80 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1961 - 1962, lên 675 triệu đôla (có 100 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1962 – 1963 ấp chiến lược được Mĩ - ngụy coi là quốc sách, là xương sống của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", là biện pháp cơ bản để thực hiện "bình định " miền Nam. Với quốc sách ấp chiến lược, Mĩ - ngụy nhằm tách nhân dân miền Nam ra khỏi lực lượng cách mạng, cô lập và tiến tới bao vây, tiêu diệt lực lượng cách mạng theo kiểu "tát nước bắt cá ". Để thực hiện quốc sách ấp chiến lược, Mĩ -ngụy tiến hành những cuộc càn quét, dồn dân với sự chi viện, yểm trợ của hoả lực và hậu cần của Mĩ bằng các chiến thuật “trực thăng vận ", thiết xa vận ". Cùng với việc dồn dân, chúng thực hiện rào làng, xây bết, bắt lính, tổ chức bảo an, dân vệ, lùng sục, bắt bớ, đánh phá cơ sở cách mạng. Đi đôi với biện pháp dồn dân lập ấp chiến lược, Mĩ - ngụy còn cho máy bay rải chất độc hoá học, ném bom phát quang các vùng căn cứ cách mạng, các đường hành lang dọc Trường Sơn và khu giới tuyến quân sự tạm thời. Mặt khác, chúng tung các toán biệt kích vào các tỉnh khu IV và Tây Bắc để tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc. Tóm lại, "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng lực lượng ngụy quân do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và huấn luyện, do cố vấn quân sự Mĩ chỉ huy. Với chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mĩ không chỉ nhằm đàn áp, tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng, thực hiện "bình định miền Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến công xâm lược miền Bắc, mà còn nhằm âm mưu dùng miền Nam làm nơi thí điểm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. [B][COLOR="Blue"]2- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ[/COLOR][/B] Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mĩ, ngay từ tháng 1-1961 và tiếp đó là tháng 2-1962, Bộ Chính trị đã có chỉ thị và Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Theo quan điểm của Đảng, trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng, các cuộc khởi nghĩa từng phần vẫn tiếp diễn, đấu tranh chính trị vẫn được duy trì và đẩy mạnh; đồng thời phát triển đấu tranh quân sự lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trì. Để đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ và tay sai, Đảng chủ trương tiếp tục giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công; kết hợp chặt chẽ hại lực lượng chính trị và vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị). Mũi nhọn đấu tranh tập trung vào nhiệm vụ chống càn quét và phá kế hoạch lập ấp chiến lược, đẩy lùi và đánh bại chính sách bình định, giành dân của địch. Tiếp sau sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tháng 1-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ uỷ Nam Bộ trước đây. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuyến đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được mở rộng, bảo đảm việc chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ . Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Đảng lãnh đạo, từ năm 1961, quân và dân miền Nam từng bước đập tan các kế hoạch chiến tranh của Mĩ - ngụy trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị được đẩy mạnh trên cả ba vùng chiến lược . Tính riêng trong năm 1961, quân và dân miền Nam đánh 15.525 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch, thu 6.000 vũ khí các loại; đồng thời huy động 33,3 triệu lượt người xuống đường đấu tranh chính trị trực diện với địch, làm cho 14.500 binh sĩ ngụy đảo ngũ, rã ngũ. Vùng giải phóng được giữ vững với hơn 1 vạn thôn, xã và gần 6 triệu dân. Sang năm 1962, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển với những thắng lợi mới, lớn hơn. Quân và dân ta đã đánh 19.108 trận, tiêu diệt và làm bị thương 55.119 tên địch (trong đó có 324 tên Mĩ). Trên mặt trận đấu tranh chính trị, hàng chục triệu lượt người tham gia chống, phá kế hoạch lập ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng chiến đấu. Tính đến cuối năm 1962, trên toàn miền Nam, có 2.665 ấp chiến lược bị phá; trong đó có 1 15 ấp được xây dựng thành làng chiến đấu, giải phóng hoàn toàn 4.441 thôn trong tổng số 17.162 thôn, cùng với 6,5 triệu trong tổng số 14 triệu dân. Đến cuối năm 1963, so với kế hoạch, Mĩ - ngụy chỉ lập được 7.500 ấp chiến lược nhưng đã bị phá 4.700 ấp, trong đó có 2.000 ấp đã trở thành làng chiến đấu. Phong trào đấu tranh chính trị cũng bắt đầu được đẩy mạnh trong các đô thị. Trong hai năm 1961 - 1962, công nhân và nhân dân lao động trong các thành thị miền Nam đã tổ chức 8.916 cuộc đấu tranh, với 744.000 lượt người tham gia. Tầng lớp trí thức và học sinh, sinh viên nhiều lần xuống đường, đấu tranh đòi "thực hiện hoà bình, trung lập ở miền Nam. Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng. Đến cuối năm 1962, Mặt trận đã có 20 tổ chức đoàn thể quần chúng; trong đó có những tổ chức bao gồm hàng chục vạn hội viên; có những tổ chức còn đặt các cơ quan thường trực ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, ngày 2-1-1963, quân và dân miền Nam lập được chiến công vang dội ở ấp Bắc (Cai Lây, Mĩ Tho). Tại đây, lần đầu tiên, quân giải phóng với lực lượng ít hơn địch 10 lần, phối hợp cùng với nhân dân địa phương chiến đấu đánh tan cuộc càn quét của trên 2.000 quân ngụy được vũ trang đầy đủ, có máy bay lên thẳng và xe bọc thép lội nước M.113 yểm trợ, do 2 đại tá Mĩ và 1 tướng ngụy trực tiếp chỉ huy. Sau 5 đợt tiến công bị quân và dân ta đánh lùi, địch phải chấm dứt cuộc hành quân với những tổn thất nặng nề: 450 tên (trong đó có 9 cố vấn Mĩ) bị chết và bị thương; 16 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, bắn hỏng; 3 xe bọc thép M.113 bị phá hỏng, 1 tàu chiến bị đánh chìm. Chiến thắng ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, mở đầu sự phá sản của chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận", đánh sụp lòng tin của quân ngụy vào trang bị kĩ thuật hiện đại của Mĩ. Chiến thắng ấp Bắc chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng quân ngụy trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt"; mở đầu cho cao trào diệt ngụy trên toàn miền Nam. "Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công", trong năm 1963, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 78.000 tên địch (trong đó có 600 tên Mĩ), phá 2.895 ấp chiến lược trong tổng số 6.164 ấp do địch lập ra, giải phóng 12.000 thôn ấp, với gần 9 triệu dân. Được cổ vũ bởi những thắng lợi quân sự và phong trào phá ấp chiến lược ở nông thôn, miền núi, từ năm 1963, phong trào đấu tranh chính trị trong các đô thị có những bước phát triển mới, nổi bật là những cuộc đấu tranh liên tục, không khoan nhượng của học sinh, sinh viên và đồng bào Phật giáo chống lại sự đàn áp, kì thị tôn giáo của tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm. Ngày 8-5-1963, khoảng 2 vạn đồng bào Huế, trong đó có 1 vạn tăng ni, Phật tử rầm rộ xuống đường biểu tình, phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ trong dịp lễ Phật đản. Ngụy quyền Diệm cho tay chân đàn áp, làm chết 13 người và nhiều người bị thương. Ngày 14-5-1963, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố kêu gọi nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo miền Nam. Làn sóng đấu tranh chống ngụy quyền Ngô Đình Diệm nhanh chóng lan rộng, nhất là ở Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng. Đỉnh cao của phong trào Phật giáo là sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (ll-6-1963) để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm. Ngày 16-6-1963, khoảng 70 vạn đồng bào và tín đồ Phật giáo ở Sài Gòn xuống đường biểu tình, làm rung chuyển chính quyền Diệm. Tiếp đến, ngày 25-8-1963, toàn thể học sinh, sinh viên Sài Gòn tổng bãi khoá, tổ chức 6 cuộc biểu tình lớn. sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của ngụy quyền. Mâu thuẫn nội bộ chính quyền Diệm tăng lên. Các tướng lĩnh cầm đầu ngụy quân bắt đầu vận động lôi kéo các phần tử bất mãn với ngụy quyền Diệm, tính kế đảo chính. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Mĩ cũng tuyên bố không tán thành chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đại sứ Mĩ Nâuting bị triệu hồi về nước và Ca bết Lốt được cử sang thay thế. Ngày 1-11-1963, được sự ủng hộ của Mĩ, một nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết chết Diệm - Nhu. Kế hoạch Stalây - Taylo hoàn toàn phá sản. Ngụy quyền miền Nam càng lún sâu hơn vào tình trạng khủng hoảng triền miên. Một thời gian không lâu sau khi chế độ độc tài gia đình trị của Diệm - Nhu bị lật đổ, ngày 22-11-1963, Kennơđi bị ám sát. Phó tổng thống Mĩ Giôn xơn lên thay, tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Để cứu vãn nguy cơ thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", vào tháng 12-1963, một phái đoàn quân sự cấp cao gồm 15 tướng, do Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mắc Namara cầm đầu, được phái sang miền Nam nghiên cứu tình hình. Hai tháng sau, một kế hoạch mới do Mắc Namara và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân vạch ra, được Tổng thống Giôn xơn phê chuẩn, gọi là Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara. Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mĩ ; tăng số lượng quân ngụy và phương tiện chiến tranh, vũ khí trang bị cho quân ngụy; xúc tiến kế hoạch lập ấp chiến lược, cố gắng bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 - 1965); dùng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tháng 6-1964, Taylo được phái sang thay Ca bết Lết làm Đại sứ tại miền Nam Việt Nam, được Giônxớn cho phép toàn quyền hành động cả về quân sự và chính trị để trực tiếp thực hiện nội dung kế hoạch trên. Đến cuối năm 1964, số lính và cố vấn Mĩ có mặt tại miền Nam Việt Nam đã lên tới 26.200 tên; số quân ngụy cũng tăng lên 653.000 tên (trong đó có 267.000 quân chủ lực) với những trang bị, phương tiện chiến tranh mới. Như vậy, Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara là sự tiếp tục chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với quy mô lớn hơn, thể hiện sự ngoan cố, hiếu chiến của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong lúc Diệm - Nhu đổ và Mĩ thay đổi kế hoạch trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", tình hình quốc tế cũng có những diễn biến rất phức tạp. Mâu thuẫn hai nước Liên Xô - Trung Quốc không những không dịu đi, mà còn gay gắt hơn. Điều này gây ảnh hưởng không có lợi cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (ll-1963) đã kịp thời xác định nhiều vấn đề rất quan trọng cả về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam, cũng như về đường lối đoàn kết quốc tế. Đối với cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng quyết định nhiều vấn đề chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng: - Tiếp tục khẳng định phương châm kết hợp song song đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; cả hai hình thức đấu tranh đều có vai trò quyết định cơ bản; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang để chủ động và kịp thời đối phó với hành động tăng cường chiến tranh của địch. - Tiếp tục khẳng định phương châm chiến lược ba vùng; kiên quyết không cho địch phân tuyến, phân vùng để giữ vững thế trận cài răng lược hiểm hóc, vững chắc của chiến tranh nhân dân. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai kế hoạch tác chiến của Trung ương Cục miền Nam, đồng thời hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (11-1964), quân và dân miền Nam có những nỗ lực vượt bậc, đẩy mạnh chiến tranh cách mạng, liên tiếp giành thắng lợi có tính chất quyết định. Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục lan rộng, phá vỡ từng mảng lớn quốc sách ấp chiến lược của Mĩ - ngụy. Đến cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3.300 ấp; đến giữa năm 1965, chúng chỉ còn kiểm soát được 2.200 ấp. Vùng giải phóng được mở rộng, chiếm 4/5 đất đai với 10 triệu dân. Trong các vùng giải phóng, chính quyền cách mạng thực hiện các chính sách tự do dân chủ. Tính đến cuối năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia trên 2 triệu ha (chiếm 70% diện tích đất canh tác) cho nông dân không có ruộng, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tai các vùng giải phóng Trung và Tây Nam Bộ, có hơn 5.000 trường phổ thông với hơn 50 vạn học sinh theo học. Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân càng làm cho nội bộ ngụy quyền luôn bị chia rẽ, lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chỉ trong hơn một năm (1964 - giữa năm 1965), ở miền Nam liên tiếp diễn ra hơn 10 cuộc đảo chính . Trên mặt trận quân sự, quân giải phóng trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt. Với sự hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân đều khắp trên toàn miền Nam, trong năm 1964, quân giải phóng đã mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là trận đánh mở màn vào ấp Bình Giã (Bà Rịa). Đây là một ấp chiến lược và địch coi là hậu cứ an toàn của chúng. Đây cũng làmlần đầu tiên quân giải phóng tập trung một lực lượng lớn nhất (7.000 quân) để mở một chiến dịch dài ngày (12-1964-11965), trên một địa bàn rộng lớn thuộc 4 tỉnh. Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hoà - Bình Thuận. Quân ta đã diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực ngụy và 1 chi đoàn xe bọc thép, diệt 7 đại đội bảo an và làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực. Trận Bình Giã mở ra thời kì mới - thời kì kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, tiến công quân sự của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng. Để cứu vãn tình thế ngày càng bất lợi trong cuộc chiến tranh, từ đầu năm 1965, đế quốc Mĩ bắt đầu đưa một số đơn vị quân đội viễn chinh và quân chư hầu Nam Triều Tiên vào miền Nam Việt Nam. Ngày 8-3-1965, sau khi đã đưa một đại đội máy bay F.l05 vào Biên Hoà và một tiểu đoàn tên lửa phòng không vào Đà Nẵng, Mĩ cho hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ ôkinaoa vào Đà Năng. Từ sau đó, quân viễn chinh (chủ yếu là lính thủy đánh bộ) tiếp tục được đưa vào miền Nam. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" được đẩy lên đến mức cao nhất; nhân tố của "chiến tranh cục bộ" bắt đầu xuất hiện. Như vậy, với chiến thắng Bình Giã của quân và dân miền Nam, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" về cơ bản đã bị phá sản. Tiếp theo trận Bình Giã, quân và dân miền Nam còn giành thắng lợi to lớn ở nhiều nơi, điển hình là trận Ba Gia (Quảng Ngài, 29-5-1965). Đây là một chiến dịch tiến công, cũng mang tính chất tổng hợp, có phối hợp với đấu tranh chính trị trên địa bàn rộng (nhiều huyện) và sâu (vào tận thị xã) ở miền Trung; một chiến dịch sử dụng lực lượng tuy nhỏ (một trung đoàn tăng cường) nhưng đạt hiệu suất chiến đấu cao (diệt 4 tiểu đoàn chủ lực) và có ý nghĩa chiến lược lớn, góp phần quyết định đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam. Đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt", quân và dân ta đã làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ định dùng miền Nam làm nơi thí điểm một loại chiến tranh xâm lược thực dân mới để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ đi đến một bước phiêu lưu quân sự mới, vừa phát động "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, vừa tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam. Từ đó, cả hai miền Nam - Bắc bước vào thời kì trực tiếp kháng chiến chống đế quốc Mĩ . [B][I][RIGHT]Nguồn: Sách Lịch sử Việt Nam[/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - ngụy ở miền Nam (1954-1965)
Top