Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - ngụy ở miền Nam (1954-1965)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 33492" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">III- Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ gìn và xây dựng lực lượng, tiến tới "Đồng khởi” (1954-1960)</span></strong></p><p></p><p>Sẵn có dã tâm từ lâu, lợi dụng cơ hội Pháp bại trận, đế quốc Mĩ từng bước gạt Pháp để độc chiếm miền Nam Việt Nam. Ngay từ trước khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày 7-7- 1954, Mĩ buộc Pháp truất bỏ Bửu Lộc ra khỏi chức Thủ tướng chính phủ bù nhìn để cho Ngô Đình Diệm lên thay. Tháng 9- 1954, Mĩ quyết định viện trợ thẳng cho Diệm không qua tay Pháp. Tháng 11-1954, Chính phủ Mĩ cử Tướng Côlin - Quyền Tổng tham mưu trưởng lục quân Mĩ và là đại diện Mĩ ở Uỷ ban quân sự khối Bắc Đại Tây Dương sang làm đại sứ tại miền Nam Việt Nam. Côlin mang theo một kế hoạch gồm 6 điểm:</p><p></p><p>1- Ủng hộ chính quyền Diệm và viện trợ thẳng cho Diệm không qua tay Pháp.</p><p>2- Xây dựng cho Diệm một quân đội do Mĩ huấn luyện và trang bị.</p><p>3- Lập Quốc hội ở miền Nam để hợp pháp hoá ngụy quyền Diệm.</p><p>4- Thi hành cải cách điền địa và thực hiện định cư cho số người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam.</p><p>5- Thay đổi các thứ thuế, ưu tiên cho hàng hoá và tư bản Mĩ tràn vào thị trường miền Nam.</p><p>6- Đào tạo cán bộ hành chính cho chính quyền Diệm.</p><p></p><p>Trước sức ép của Mĩ , ngày 13-12-1954, Pháp buộc phải kí với Mĩ bản hiệp ước giao trách nhiệm huấn luyện và trang bị quân ngụy miền Nam cho Mĩ . Ngày 19-12-1954, Pháp kí hiệp định trao quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1955, Chính phủ Pháp tuyên bố chấm dứt chế độ cao uỷ ở miền Nam Việt Nam. Ngày 14-4-1956, Pháp gửi cho hai đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô và Anh) thông báo quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28- 4-1956, nước Pháp không còn trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ. Ngày 30-4-1956, đơn vị cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam. Đến đây, Pháp hoàn toàn rũ bỏ trách nhiệm một bên thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Cũng từ đây, Diệm tiến hành ráo riết cuộc thanh lọc, nắm quân đội, xây dựng miền Nam thành một "quốc gia vững mạnh" của "thế giới tự do", thành một tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á.</p><p></p><p>Để tạo chỗ dựa, Diệm cho thành lập các tổ chức chính trị phản động, đáng chú ý là “Đảng Cần lao nhân vị" (do Ngô Đình Nhu cầm đầu), "Phong trào cách mạng quốc gia", "Thanh niên cộng hoà", "Phụ nữ liên đới". Những tổ chức này thu nhận các phần tử phản động trong các giai cấp địa chủ, tư sản, Thiên Chúa giáo và những phần tử có hận thù với cách mạng.</p><p></p><p>Tuy được Mĩ viện trợ, giúp đỡ, nhưng từ sau Hiệp định Giơnevơ, chính quyền Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía: Các phần tử thân Pháp, nhất là các sĩ quan cấp tướng trong hàng ngũ quân đội Liên hiệp Pháp. Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên ở Nam Bộ, có lực lượng vũ trang riêng, đang kiểm soát nhiều vùng, kể cả Sài Gòn - Chợ Lớn.</p><p></p><p>- Lực lượng cách mạng của nhân dân tồn tại khắp các thôn, xã trên toàn miền Nam. Đây là lực lượng đối kháng lớn nhất, đe doạ sự tồn tại của chính quyền Mĩ - Diệm.</p><p></p><p>Để đối phó với tình hình trên, Diệm đưa ra chiêu bài "Đả thực " - thực chất là gạt Pháp để cho Mĩ độc chiếm miền Nam, "Bài phong " - thực chất là gạt Bảo Đại ra khỏi ngôi Quốc trưởng để cho Diệm thu tóm mọi quyền hành trong tay, "Chống cộng " - thực chất là chống nhân dân, chống tất cả những ai tán thành thống nhất đất nước. Diệm tiếp tục gạt các phần tử thân Pháp ra khỏi bộ máy chính quyền và các cấp chỉ huy quân đội. Thực tế từ sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam Việt Nam đã diễn ra cuộc tranh giành quyền lợi giữa chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ với chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của thực dân Pháp.</p><p></p><p>Đầu tháng 4-1955, Mĩ - Diệm tập trung lực lượng mở các cuộc hành quân tiêu diệt lực lượng vũ trang Bình Xuyên. Tiếp đó, bằng thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc kết hợp với tiến công quân sự, ngụy quyền Diệm đã tiêu diệt và làm tan rã lực lượng vũ trang Hoà Hảo, Cao Đài.</p><p></p><p>Sau khi dẹp tan lực lượng vũ trang của ba giáo phái, Diệm lo cải tổ chính phủ. Ngày 23-10-1955, chúng tổ chức "Trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và Diệm tự xưng Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Ngày 4-3-1956, dưới sự chỉ đạo của Mĩ , Diệm tổ chức bầu “quốc hội" riêng rẽ và ngày 26-10-1956, ban bố "Hiến pháp Việt Nam cộng hoà ". Đây là việc làm hoàn toàn bất hợp pháp và trái với Hiệp định Giơnevơ, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng biệt. Cùng với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mĩ - Diệm ra sức củng cố chính quyền ở cấp cơ sở, bằng cách bổ nhiệm bọn tay chân làm xã trưởng, ấp trưởng và lập các tổ chức quần chúng trá hình, như "Liên gia tương trợ", "Nhân dân tự vệ đoàn", "Ngũ gia liên bảo" để kìm kẹp, khống chế nhân dân.</p><p></p><p>Như vậy, từ sau năm 1954, bằng những thủ đoạn tinh vi, trắng trợn và rất xảo quyệt, đế quốc Mĩ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng Pháp cùng bọn tay sai của Pháp, độc chiếm miền Nam. Một chính quyền tay sai mới, cực kì phản động, hiếu chiến và rất trung thành với đế quốc Mĩ , do Ngô Đình Diệm cầm đầu, được thiết lập. Chúng đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ và tư sản mại bản -một thế lực phản động đã bị cách mạng đánh đổ, được Mĩ nâng dậy, nên có tư tưởng phục thù rất sâu sắc. Miền Nam Việt Nam từ chỗ là thuộc địa kiểu cũ của thực dân Pháp, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mĩ .</p><p></p><p>Chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ và chủ nghĩa kiểu cũ của thực dân Pháp không khác nhau về bản chất, chỉ khác nhau về hình thức cai trị và thủ đoạn bóc lột. Với chủ nghĩa thực dân kiểu mới, đế quốc Mĩ không đặt bộ máy cai trị trực tiếp nhưthực dân Pháp trước đây, mà dùng chính quyền tay sai, với một hệ thống cố vấn dày đặc. Về thủ đoạn bóc lột, chúng thông qua "viện trợ” quân sự và "thương mại hoá", dùng sức mạnh quân sự và kinh tế để nắm chặt miền Nam. Bao trùm lên bộ máy chính quyền tay sai là toà Đại sứ Mĩ gồm hàng ngàn nhân viên các loại, tổ chức thành nhiều cơ quan cai trị. Trên thực tế, toà Đại sứ Mĩ không khác gì Phủ Toàn quyền Đông Dương trước đây. "Việt Nam cộng hoà " của tập đoàn Diệm, trên thực tế, chỉ là một thuộc địa của đế quốc Mĩ , tức là thị trường tiêu thụ hàng hoá thừa ế, là nơi đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản và bóc lột nhân công rẻ mạt.</p><p></p><p>Tuy nhiên, trong những năm 1954 - 1959, để nhanh chóng thiết lập một phòng tuyến ngăn chặn phong trào cách mạng, hoạt động của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta chủ yếu nghiêng về các hoạt động nhằm xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự. Để tạo ra cơ sở pháp lí mới (giả tạo) cho những hoạt động vũ trang ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mĩ đã kí với Diệm các hiệp ước quân sự. Trong số đó, có ba hiệp ước đáng chú ý:</p><p></p><p>- Hiệp ước mạo danh "Hợp tác kinh tê" được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 21-2-1955 và 7-3- 1955.</p><p></p><p>- Hiệp ước thạo danh "Hợp tác kinh tế" được kí kết dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 22, 23-4-1955 và 24, 25-6-1955.</p><p></p><p>- Hiệp ước mạo danh 'Thu hồi vũ khí trang bị của viện trợ quân sự Mĩ ", được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 1-3 và 15-5-1955.</p><p></p><p>Dựa vào các hiệp ước trên, đế quốc Mĩ không ngừng đưa nhân viên, cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam. Phái đoàn viện trợ quân sự (MAAG: Military Aid Advisory group) thành lập từ trong thời kì Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, lẽ ra phải giải tán sau ngày kí Hiệp định Giơnevơ, nhưng trái lại, nó càng tăng lên cả số lượng và vai trò.</p><p></p><p>Từ chỗ có 200 nhân viên sau ngày đình chiến, đến giữa năm 1961, đã lên tới 3.500 tên, gồm đủ các ngành hải, lục, không quân. Từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng viện trợ, nó đã trở thành một bộ máy trực tiếp điều khiển trang bị vũ khí, huấn luyện, chỉ đạo kĩ thuật và chỉ đạo tác chiến.</p><p></p><p>Bên cạnh phái đoàn MAAG, còn có phái đoàn Tổ chức, huấn luyện, kiểm tra (TRIM: Training Réorganisation Inspection Mission), phái đoàn Huấn luyện tác chiến (CATO: Combat Army Training Organ).</p><p></p><p>Các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam ngày càng tăng. Nếu tính giá trị, từ năm 1955 đến năm 1960, tổng số vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam là 1 5 tỉ đô la.</p><p></p><p>Hàng loạt căn cứ không quân được xây dựng khắp miền Nam. Các quân cảng Nhà Bè, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang... được mở rộng và trang bị hiện đại. Nối liền các căn cứ không quân và lục quân là hệ thống đường giao thông chiến lược hiện đại.</p><p></p><p>Đến tháng 6-1955, Mĩ đã xây dựng cho ngụy quyền Diệm một đội quân dưới quyền điều khiển trực tiếp của Mĩ gồm 10 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp và 54.000 quân địa phương. Mĩ - Diệm sử dụng đội quân này trước mắt nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, tiến tới thực hiện giấc mộng "lấp sông Bến Hải", vượt vĩ tuyến 17", "Bắc tiến". Về kinh tế, một mặt chính quyền Diệm thi hành một loạt chính sách và biện pháp nhằm kìm hãm và bóp nghẹt sự phát triển của các ngành kinh tế dân tộc; mặt khác chúng ưu tiên cho Mĩ và phe Mĩ đưa hàng thừa ế vào miền Nam, làm cho kinh tế dân tộc bị lũng đoạn và phụ thuộc vào Mĩ . Trong nông nghiệp, chúng ráo riết thực hiện chương trình "cải cách điền địa". Chúng đưa ra đạo dụ số 2 (8-l-1955) và đạo dụ số 7 (5-2-1955) nhằm tước đoạt thành quả về ruộng đất mà cách mạng đã đem lại cho nông dân, khôi phục quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến. Đồng thời,,chúng cũng đưa ra đạo dụ số 57 (22-l0-1955) quy định phần ruộng đất đem phân phối cho nông dân là những ruộng bỏ hoang và đất "truất hữu” của những địa chủ có trên 100 mẫu (riêng đối với những địa chủ có trên 100 mẫu mà chuyển sang trồng cây công nghiệp hoặc chăn nuôi, thì không bị "truất hữu”). Sau khi thiết lập dược quyền kiểm soát trên toàn bộ miền Nam, từ tháng 4-1955 đến tháng 5-1956, Mĩ - Diệm phát động “chiến dịch tố cộng " giai đoạn I, gọi là giai đoạn mở rộng diện để gây xáo trộn và phát hiện cộng sản. Để phụ trách, theo dõi và rút kinh nghiệm tố cộng, diệt cộng, chính quyền Diệm cho thành lập Phủ đặc uỷ công dân vụ (3-1955) và Hội đồng chỉ đạo tố cộng. Trên cơ sở tăng cường bộ máy đàn áp, Mĩ - ngụy liên tiếp tổ chức các chiến dịch khủng bố, tàn sát lực lượng yêu nước.</p><p></p><p>Tháng 2-1955, Diệm mở chiến dịch Phan Chu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh Trung Bộ, trọng điểm là tỉnh Quảng Nam. Tháng 4-1955, chúng mở chiến dịch giải phóng, đánh phá Quảng Ngài và Bắc Bình Định. Tháng 5-1955, chúng mở chiến dịch Trịnh Minh Thế, đánh phá toàn diện các tỉnh Liên khu V, v.v... Trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, Mĩ - ngụy đã huy động gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và một bộ phận quân đội. Chúng nêu khẩu hiệu hành động: “Tiêu diệt cán bộ nằm vùng ", "Tiêu diệt cộng sản tận gốc ", "Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, nhằm kích thích quân đội, cảnh sát và những tên tay sai ác ôn điên cuồng đánh phá cơ sở cách mạng, giết hại những người yêu nước những người tán thành đấu tranh thống nhất đất nước. Khoảng 4000 tên ác ôn thuộc Phủ đặc uỷ công dân vụ và 600 tên cán bộ tâm lí chiến cùng các lực lượng cảnh sát miền Trung Trung Bộ đã gây ra các vụ thảm sát dã man ở nhiều nơi.</p><p></p><p>Tháng 9-1954, Mĩ - Diệm chôn sống 21 đồng bào ta ở Chợ Được (Quảng Nam). Tháng 1-1955, chúng dìm 42 người yêu nước xuống đập Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Tháng 7-1955, chúng gây ra vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị), giết hại một cách dã man một lúc 92 dân thường (trong đó có 31 trẻ em). Cùng thời gian này, Mĩ - Diệm đem quân đánh phá ác liệt huyện Đại Lộc (Quảng Nam), bắt giam, tra tấn và giết chết 500 đồng bào ta .</p><p></p><p>Bằng những chiến dịch khủng bố, tàn sát, trên thực tế Mĩ - Diệm đã gây ra cuộc chiến tranh một phía. Đây là một kiểu chiến tranh chỉ do một bên Mĩ -Diệm tiến hành và được xem như một chiến lược của Mĩ ở miền Nam việt Nam từ sau Hiệp định Giơnevơ đến cuối năm 1959.</p><p></p><p>Trên toàn miền Nam lúc này, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trải qua những năm tháng vô cùng khó khăn, ác liệt. Trước sức đánh phá của địch qua nhiều đợt tố cộng, diệt cộng, cách mạng miền Nam đã chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có.Trong bốn năm (1955 - 1958), cả miền Nam tổn thất 9110 cán bộ, đảng viên. ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị địch giết; gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt và bị tù đày; gần 20 vạn người bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Tỉnh Bến Tre chỉ còn 162 đảng viên; Tiền Giang còn 92; Gia Định, Biên Hoà, mỗi nơi chỉ còn một chi bộ Đảng. Ở khu V (gồm cả Trị - Thiên và cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% Tỉnh uỷ viên, 60% Huyện uỷ viên, 70% Chi uỷ viên bị bắt, bị giết; có tỉnh chỉ còn 2 - 3 chi bộ; 12 huyện vùng đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị - Thiên, số đảng viên từ 23.400 chỉ còn 160 người .</p><p></p><p>Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, Mĩ - Diệm hi vọng có thể khuất phục được nhân dân miền Nam. Nhưng chúng đã nhầm. Nhân dân miền Nam cùng với toàn thể dân tộc đã từng vùng dậy đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp để giành quyền làm chủ. Ngay sau đó, đồng bào miền Nam lại đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám. Một dân tộc như vậy không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ cho chủ nghĩa thực dân một lần nữa.</p><p></p><p>Tình hình quốc tế và trong nước cũng có nhiều chuyển biến thuận lợi cho ta. Các lực lượng cách mạng trên thế giới đang ở thế tấn công vào chủ nghĩa đế quốc. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và đang bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do phải đối mặt với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong thế giới tư bản, lại có những thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt, trong tình trạng đất nước bị chia cắt và sự bất hoà giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài và vô cùng gay go, phức tạp.</p><p></p><p>Sau Hiệp định Giơnevơ, phần lớn lực lượng quân đội, cán bộ, đảng viên miền Nam ra tập kết tại miền Bắc. Do đó, so sánh lực lượng hai bên ở miền Nam không có lợi cho ta.</p><p></p><p>Trong hoàn cảnh ấy, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (9- 1954) đã nêu rõ: Cuộc đấu tranh của nhân dãn miền Nam phải từ hình thức đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt của nhân dân miền Nam là đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hoà bình đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất tranh thủ độc lập, chống khủng bố, bảo vệ những thành quả mà quần chúng đã giành được trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Cán bộ, đảng viên ở miền Nam nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật. Những cán bộ bị lộ được điều sang các địa phương khác, hoặc tạm ngừng hoạt động để che giấu lực lượng. Việc vận động ngụy quân, ngụy quyền và đưa người của ta vào hoạt động trong các tổ chức của địch được chú ý. Các tổ chức quần chúng công khai được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị. Theo phương hướng chỉ đạo của Trung ương, từ tháng 8, tháng 9- 1954, ta đã tổ chức quần chúng mít tinh, biểu tình, hội thảo mừng hoà bình, đòi địch không được trả thù những người kháng chiến cũ. Tại các thành phố lớn (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng), hàng vạn người lao động, trí thức, học sinh, sinh viên tập hợp trên các đường phố, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ, chào đón hoà bình.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh chính trị nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh chính từ lúc này là phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn ( 1- 8-1954) của đông đảo trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động. Lãnh đạo phong trào là những trí thức yêu nước có uy tín (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Phạm Huy Thông...).</p><p></p><p>Sau khi ra tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích đấu tranh cho hoà bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được bảo đảm, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước, thanh thế của phong trào ngày càng rộng lớn. Ở khắp các xưởng lớn, các trường học, khu phố... Uỷ ban bảo vệ hoà bình được thành lập và hoạt động công khai.</p><p></p><p>Nhằm dập tắt phong trào, đầu tháng 11-1954, Mĩ - Diệm ra sức khủng bố. Chúng cho tay chân lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhiều người tham gia phong trào bị bắt và bị tra tấn rất dã man. Từ giữa năm 1955, tuy về danh nghĩa, phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn không tồn tại, nhưng trên thực tế, các Uỷ ban ở cơ sở vẫn tiếp tục hoạt động dưới hình thức là những Uỷ ban cứu tế nạn nhân bị hoả hoạn và sau đó chuyển thành Uỷ ban đề phòng nạn cháy1.Từ năm 1955, ở miền Nam lại bùng lên phong trào đòi lập lại quan hệ bình thường hai miền Nam-Bac. Điều này nói lên nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là hoà bình và thống nhất đất nước. Nó giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia cắt lâu dài nước ta của tập đoàn Mĩ - Diệm. Song song với phong trào bảo vệ hoà bình và đòi hiệp thương</p><p>tổng tuyển cử, phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống cũng ngày càng lan rộng. Tham gia phong trào này không chỉ có quần chúng lao động, mà còn có đông đảo các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, các nhà công thương, tu hành và một số tư sản, địa chủ, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền và binh lính. Trong các phong trào đó giai cấp công nhân là lực lượng đi tiên phong. Tính đến cuối năm 1959, đã có gần 1.500 cuộc đấu tranh của công nhân; trong đó có 27 cuộc đấu tranh lớn, tiêu biểu là hai cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ của công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn trong ngày 1-5-1956 gồm 200.000 người và ngày 1-5-1958 gồm 500.000 người tham gia . Giai cấp nông dân miền Nam cũng tổ chức đấu tranh để bảo vệ những quyền lợi đã giành được trong kháng chiến, đấu tranh chống chương trình cải cách điền địa, đòi quyền lưu canh, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn làng . . . Riêng ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ đã nổ ra 3.000 vụ đấu tranh về ruộng đất .</p><p></p><p>Phong trào diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, như biểu tình, đưa đơn kiến nghị; có nơi đồng bào vũ trang chống lại bọn tay chân của Diệm.</p><p></p><p>Gay go, quyết liệt và đẫm máu nhất là phong trào đấu tranh chống chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ". Trong chiến dịch "tố cộng ", diệt cộng ", Mĩ - Diệm huy động lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét, đánh phá dữ dội ở cả nông thôn, thành thị và các khu căn cứ. Các gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết là đối tượng chủ yếu của "tố cộng". Chúng dùng mọi thủ đoạn tra tấn cực hình kết hợp với thủ đoạn thâm hiểm để buộc mọi người dân phải nói xấu cách mạng, nói xấu cộng sản, thừa nhận bọn phản quốc tay sai của Mĩ và từ bỏ cách mạng.</p><p></p><p>Nhân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí kiên cường, không chịu khuất phục, tỏ rõ lòng trung thành với cách mạng. Bằng lí lẽ đanh thép và khôn khéo quần chúng đã vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, bảo vệ và làm sáng tỏ chủ nghĩa cách mạng. Trong những năm tháng ác liệt nhất, hàng ngàn tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, cổ vũ họ đấu tranh và làm cho Đảng ngày càng bám rễ vững chắc trong nhân dân. Đồng bào miền Nam vẫn che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, làm giao thông liên lạc, chuyển công văn... âm mưu cơ bản của Mĩ - Diệm trong chiến dịch "tô cộng ", diệt cộng " bị thất bại. Tên chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng Trung ương (Trần Chánh Thành) đã thú nhận: “đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được " .</p><p></p><p>Trong hai năm đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhân dân miền Nam luôn nêu cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, dân chủ. Với nhiều hình thức phong phú, đấu tranh bằng lí lẽ, bằng pháp lí của Hiệp định Giơnevơ, bằng lực lượng quần chúng đông đảo đồng bào ta đã nêu cao tinh thần yêu nước và ý chí đoàn kết thống nhất của mình, liên tục phản công và tiến công địch. Ngược lại, tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm ngày càng lộ rõ bộ mặt độc tài phát xít, phản dân tộc, làm tay sai cho đế quốc Mĩ , cố tình phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Thực tiễn hai năm đấu tranh cho thấy, đối với kẻ thù của dân tộc và giai cấp, không thể dùng đấu tranh chính trị đơn thuần như trước, mà phải dùng bạo lực cách mạng. Yêu cầu của cách mạng cũng như nguyện vọng của đồng bào miền Nam lúc này đòi hỏi phải chuyển sang hình thức đấu tranh cao hơn.</p><p></p><p>Tháng 6-1956, Bộ Chính trị ra nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam", nêu rõ: "Vấn đề hết sức quan trọng là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng" . Nghị quyết nhấn mạnh: Tuy "hình thức đấu tranh của ta hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang" , nhưng "như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định" . Vì vậy Bộ Chính trị quyết định phải "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang" .</p><p></p><p>Tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ Chính trị, đang công tác tại miền Nam - dựa vào sự phân tích khoa học tình hình chính trị, xã hội miền Nam, đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đây là một văn kiện quan trọng, chỉ rõ con đường cách mạng là con đường duy nhất đúng của nhân dân ta ở miền Nam tiến tới lật đổ chính quyền Mĩ - Diệm, thành lập chính quyền cách mạng. Bản Đề cương nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mĩ , giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập và dân chủ nhân dân". Những nghị quyết trên đây đã kịp thời soi sáng cho đảng viên, cán bộ và nhân dân miền Nam vượt qua chặng đường đấu tranh cực kì ác liệt, góp phần đưa phong trào cách mạng tiến lên một bước phát triển mới. Riêng năm 1957, có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị; năm 1958 có 3,7 triệu lượt và bước sang năm 1959 có gần 5 triệu lượt người tham gia. Những cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, chống trả thù những người kháng chiến cũ, chống "tố cộng ", "diệt cộng "; chống cướp đất, đuổi nhà... diễn ra dai dẳng, quyết liệt ở khắp nơi. Từ trong phong trào, trên thực tế, một mặt trận thống nhất chống Mĩ - Diệm đã hình thành.</p><p></p><p>Cùng với sự phát triển phong trào đấu tranh chính trị trong các tầng lớp nhân dân, phong trào đấu tranh vũ trang tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng bắt đầu phát triển. Các đơn vị vũ trang tập trung được xây dựng ở nhiều nơi. Căn cứ địa được hình thành phần lớn từ các vùng căn cứ thời kì kháng chiến chống Pháp: Chiến khu Đ 1, Đồng Tháp, Ư Minh, Tây Nguyên...</p><p></p><p>Những hoạt động vũ trang của quân và dân miền Nam có tác dụng rất lớn, gây cho địch nhiều khó khăn, trở ngại trong việc củng cố chính quyền ở thôn, xã; hạn chế những hành động cướp bóc, vơ vét của địch và bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Một số tên tay sai ác ôn phải chùn lại, địa chủ ngán sợ, không dám trắng trợn cướp đất tăng tô. Trên thực tế, việc trừ gian, diệt ác trở thành một hình thức đấu tranh quan trọng và cần thiết để giữ vững phong trào, bảo vệ cơ sở cách mạng. Đặc biệt, từ năm 1958, hoạt động vũ trang tự vệ trở thành phổ biến, có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân.</p><p></p><p>Trước sự phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân, Mĩ -Diệm điên cuồng khủng bố. Tháng 5-1957, Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để cho bọn tay chân tự do chém giết. Không khí khủng bố, chết chóc bao trùm khắp nơi. Cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực bị săn lùng ráo riết. Mĩ - Diệm vẫn tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ", dồn dân lập "khu dinh điền ", "khu trù mật”. Các cuộc đánh phá, khủng bố của chính quyền Diệm đối với nhân dân ta đã đến đỉnh cao về mức độ khốc liệt và tính chất man rợ. Ngày 1-12-1958, chúng đầu độc 6.000 người yêu nước ở nhà giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một). Tháng 3-1959, Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Tháng 5- 1959, chúng lại ban hành luật phát xít "/0159"; thiết lập ba toà án quân sự đặc biệt để công khai chém giết đồng bào ta. Miền Nam Việt Nam trở thành một địa ngục trần gian mà ở đó, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người bị chà đạp một cách trắng trợn. Tình thế cách mạng ngày càng đi đến chín muồi bởi kẻ thù không thể thống trị như cũ được nữa. Nhân dân miền Nam bị đẩy vào cảnh khốn cùng. Muốn tồn tại, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là phải vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống. Trong bối cảnh lịch sử ấy, từ ngày 13-1-1959, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá ni được khai mạc. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đê quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân" .</p><p></p><p>Như vậy, với Nghị quyết 15, Trung ương Đảng đã quyết định phát động quần chúng nhân dân, trước hết ở nông thôn, dùng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi nghĩa vũ trang đập tan ách kìm kẹp của Mĩ -Diệm để giành quyền làm chủ. Nghị quyết 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó đáp ứng yêu cầu bức thiết nhất của cách mạng miền Nam lúc đó, làm xoay chuyển tình thế và đưa phong trào cách mạng miền Nam thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Đồng thời, nó cũng đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là vùng dậy đập tan xiềng xích nô lệ để giành quyền làm chủ. Do đó, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng nhanh chóng đi vào quần chúng và trở thành hành động quật khởi của quần chúng.</p><p></p><p>Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều khó khăn và phức tạp: Đảng Cộng sản Liên Xô không tán thành Nghị quyết 15, mà chủ trương củng cố miền Bắc, thông qua đó để đi tới thống nhất, không tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Đảng Cộng sản Trung Quốc tán thành phương hướng chung của Nghị quyết 15, tán thành hoạt động vũ trang nhưng chỉ ở quy mô nhỏ cấp đại đội. Trong hoàn cảnh ấy, việc đề ra Nghị quyết 15 chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lí luận cũng như về thực tiễn. Nó thể hiện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng.</p><p></p><p>Ngay sau khi đề ra Nghị quyết 15, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5-1959, Trung ương Đảng đã lập Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559) để tăng cường sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Tháng 7-1959, Trung ương quyết định tổ chức đường vận tải trên biển.</p><p></p><p>Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời giữa lúc nhân dân miền Nam "không thể sống như cũ được nữa". Do đó, nó đã làm bùng lên phong trào đồng khởi trên nhiều vùng rộng lớn. Ở Liên khu V, từ tháng 2 đến tháng 4-1959, nhân dân huyện Vĩnh Thành (Bình Định) nổi dậy, dời làng vào rừng sâu, xây dựng làng chiến đấu. Cùng thời gian này, nhân dân huyện Bắc Ái (Ninh Thuận), huyện Đắc Lay (Kon Tum) và nhiều làng ở Đắc Lắc cũng nổi dậy phá tề, diệt ác, xây dựng làng chiến đấu chống Mĩ - Diệm. Những cuộc nổi dậy trên đây đã phá tung một mắt xích quan trọng trong hệ thống cai trị của địch ở miền Tây Trung Bộ. Trong tất cả các cuộc nổi dậy của đồng bào miền núi</p><p></p><p>Liên khu V, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (Quảng Ngãi vào ngày 28-8-1959. Tại đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, khoảng 16.000 đồng bào nổi dậy đấu tranh chính trị, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quét sạch ngụy quyền ở thôn, xã, thành lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản.</p><p></p><p>Từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng sang các huyện thuộc miền Tây Quảng Ngài (Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ). Cuộc khởi nghĩa ở Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngài diễn ra nhanh, trên địa bàn rộng (gần 5.000 km2); bao gồm 4 huyện, với 4 dân tộc (Coi, Hre, Ca Dong, Kinh) đã giành được thắng lợi to lớn. Sau khởi nghĩa, nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường để chống lại những cuộc càn quét, chà đi xát lại của địch. Nhờ đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, phong trào ở đây vẫn đứng vững. Thắng lợi này có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng miền Trung, đồng thời cung cấp được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc vận dụng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng không chỉ ở Quảng Ngài, mà cả trong toàn khu, toàn miền. Trong khi nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đang thu được thắng lợi, thì tại đồng bằng Nam Bộ, trên nhiều vùng rộng lớn, quần chúng cũng nổi dậy vũ trang diệt ác, phá thế kìm kẹp, làm tan rã từng mảng hệ thống ngụy quyền cơ sở. Trong phong trào nổi dậy ấy, cuộc đồng khởi ở Bến Tre là tiêu biểu nhất. Phong trào “đồng khởi” ở Bến Tre nổ ra nhiều đợt. Riêng năm 1960, có hai đợt đồng khởi: </p><p></p><p>- Đợt một (17 – 25-l): Huyện Mỏ Cày được chọn làm nơi chỉ đạo, mở đầu cho phong trào nổi dậy của tỉnh. Từ ba xã trọng điểm: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, cuộc nổi dậy lan sang các xã trong huyện. Khắp Mỏ Cày, ngày cũng như đêm, đều vang lên tiếng trống, mõ và tiếng nổ liên hồi xen lẫn với tiếng hò reo của quần chúng cách mạng. Với khí thế cách mạng sục sôi ấy, nhân dân, nhất là thanh niên nam, nữ, hăng hái tổ chức đội ngũ, trương cờ, vác các loại súng (súng thật súng giả), kẻo đi như nước vỡ bờ, uy hiếp tinh thần quân địch. Phong trào “đồng khởi” từ Mỏ Cày lan sang các huyện Thành Phú, Minh Tân... Chỉ trong một tuần lễ, nhân dân 47 xã đồng loạt nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng 150 ấp, bức địch rút 47 đồn bốt. Các thôn, xã sau khi giải phóng đều mở đại hội nhân dân, lập toà án cách mạng để trừng trị những tên tay sai ác ôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày.</p><p></p><p>Từ trong thắng lợi của phong trào “đồng khởi”, một đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập. Trong tình hình đó, kẻ địch không những phải đối phó với những cuộc nổi dậy của quần chúng, mà còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, với một lực lượng vũ trang chiến đấu giỏi làm nòng cốt.</p><p></p><p>Hoảng sợ trước làn sóng cách mạng ở Bến Tre, ngày 22-3- 1960, Mĩ – Diệm huy động hơn 10.000 quân chủ lực, có tàu chiến, xe tăng yểm trợ, mở cuộc càn lớn vào ba xã trọng điểm của huyện Mỏ Cày. Chúng chia nhiều mũi bao vây, chia cắt từng khu vực, lục soát từng bụi cây, tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ quan đầu não của tỉnh, quyết dập tắt phong trào đồng khởi ở ba xã điểm. Nhân dân ba xã đứng trước một thử thách lớn. Ban lãnh đạo tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc chống càn, quyết định phát động một đợt đấu tranh chính trị với quy mô lớn, tấn công vào quận lị Mỏ Cày, đòi địch phải rút quân. Hàng ngàn quần chúng, phần lớn là phụ nữ, mang theo quần áo, chăn màn, nồi xoong, bồng bế cả con, cháu, đội khăn tang, kéo về Mỏ Cày đấu tranh chống địch càn quét.</p><p></p><p>Trước sức mạnh và lời lẽ có lí có tình của đội quân chính trị hùng hậu, kẻ thù buộc phải ra lệnh rút quân khỏi ba xã (20-4- 1960). Cuộc phản công quy mô lớn của địch vào ba xã điểm “đồng khởi” đã thất bại trước tinh thần đấu tranh kiên quyết và khéo léo với sự kết hợp ba mũi chính trị, quân sự và binh vận của nhân dân Mỏ Cày, đặc biệt là phụ nữ. Địch hoảng sợ và gọi những người phụ nữ Bến Tre tay không đánh giặc là “đội quân tóc dài”.</p><p></p><p>Qua “đồng khởi” đợt một, Bến Tre đã thể nghiệm thành công phương pháp kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, nêu lên những bài học kinh nghiệm quý báu về phương pháp cách mạng cho toàn miền Nam.</p><p></p><p>Rút kinh nghiệm “đồng khởi” đợt một, Đảng bộ Bến Tre quyết định tổ chức “đồng khởi” đợt hai, với quy mô lớn hơn, vào ngày 24-9- 1960. Huyện Giồng Trộm được chọn làm trọng điểm. Chỉ trong vòng nửa ngày, nhân dân Ba Châu (Châu Phú, Châu Thời, Châu Hoà), bằng sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận, đã lấy gọn được ba đồn địch, thu 60 súng mà không tốn một viên đạn, một giọt máu. Từ thắng lợi đó, phong trào “đồng khởi” toả ra các huyện lị.</p><p></p><p>Cho đến 22-10-1960, “đồng khởi” đợt hai ở Bến Tre thu được thắng lợi to lớn: 60 đồn địch bị san phẳng, 400 địch bị giết, 48 xã được hoàn toàn giải phóng. Từ Bến Tre, làn sóng “đồng khởi” nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung Bộ.</p><p></p><p>Nhận thấy miền Đông Nam Bộ là nơi căn cứ cách mạng được xây dựng, củng cố vững chắc, lại sớm tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung, Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương tổ chức một đòn tiến công quân sự, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy. Thực hiện chủ trương trên, Ban quân sự liên tỉnh miền Đông quyết định tổ chức tấn công Tua Hai, một căn cứ của một trung đoàn chính quy ngụy, cách thị xã Tây Ninh 7 km. Trận đánh bắt đầu diễn ra từ đêm 25 rạng 26-1-1960 và kết thúc nhanh chóng. Ta diệt sao tên địch, bắt giáo dục và thả tại chỗ 500 tên khác, thu 1.500 súng các loại. Trận Tua Hai là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Chiến thắng Tua Hai đánh dấu một bước phát triển mới về trình độ tổ chức, chỉ huy hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang cách mạng. Chiến thắng này mang ý nghĩa chính trị to lớn không chỉ hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của nhân dân Tây Ninh, mà còn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng ở các tỉnh Nam Bộ vùng dậy giành quyền làm chủ. Cùng với chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh nổi dậy giải phóng 2/3 số xã trong tỉnh, nối liền với Chiến khu Dương Minh Châu thành một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn, án ngữ phía Tây Bắc Sài Gòn – Gia Định. Với phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam, hệ thống kìm kẹp của Mĩ – Diệm ở thôn, xã bị tan vỡ từng mảng. Chính quyền cách mạng được thành lập dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản. Vùng giải phóng hình thành, ngày càng mở rộng, nối liền giữa các huyện, các tỉnh, tạo thành một thế liên hoàn. Trong vùng giải phóng, hầu hết ruộng đất được trảmlại cho nông dân. Tính đến cuối năm 1960, khoảng 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan vỡ Cục tình báo trung ương Mĩ phải thú nhận: “Một thời kì hết sức nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hoà đã ở ngay trước mắt... Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn nằm ở phía nam và tây nam Sài Gòn, cũng như một số vùng ở phía bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của cộng sản...” .Từ trong và sau thắng lợi của phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960, khí thế cách mạng của quần chúng lên cao; lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Các đoàn thể cách mạng của nông dân, thanh niên, phụ nữ... phát triển mạnh mẽ. ở các huyện, tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Các thôn, xã đều có dân quân, du kích. Hình thái lực lượng vũ trang ba thứ quân xuất hiện.</p><p></p><p> “Đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam là một đòn giáng mạnh và bất ngờ vào tập đoàn thống trị Mĩ – ngụy, làm cho chúng hết sức hoang mang, lo sợ. Hiện tượng rã ngũ, đào ngũ trong quân ngụy xuất hiện và phát triển. Mâu thuẫn giữa Mĩ và Diệm cũng như trong nội bộ chính quyền Diệm càng trở nên gay gắt, dẫn đến cuộc đảo chính mưu lật đổ Diệm – Nhu vào ngày 11-11-1960. Cuộc đảo chính thất bại, nhưng đẩy ngụy quyền miền Nam vào thời kì khủng hoảng triền miên. Chiến lược chiến tranh một phía, một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ, bị thất bại hoàn toàn. Đồng khởi 1959 – 1960 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong cao trào nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân miền Nam, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, tôn giáo, các giới toàn miền Nam đã họp Đại hội để thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai.cấp, các đảng phái, dân tộc, không phân biệt xu hướng chính trị, nhằm đánh đổ ách thống trị của bè lũ Mĩ – Diệm.</p><p></p><p>Xuất phát từ thực tiễn cách mạng miền Nam, Mặt trận công bố Chương trình hành động gồm 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ và tay sai. Sự ra đời của Mặt trận cùng với bản Chương trình hành động 10 điểm đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Do đó chỉ trong thời gian ngắn sau khi thành lập, Mặt trận đã tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, trở thành một lực lượng chính trị ngày càng hùng hậu. Đây là một trong những nhân tố cơ bản góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng trong những năm tiếp theo.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 33492, member: 28779"] [B][COLOR=Blue]III- Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ gìn và xây dựng lực lượng, tiến tới "Đồng khởi” (1954-1960)[/COLOR][/B] Sẵn có dã tâm từ lâu, lợi dụng cơ hội Pháp bại trận, đế quốc Mĩ từng bước gạt Pháp để độc chiếm miền Nam Việt Nam. Ngay từ trước khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày 7-7- 1954, Mĩ buộc Pháp truất bỏ Bửu Lộc ra khỏi chức Thủ tướng chính phủ bù nhìn để cho Ngô Đình Diệm lên thay. Tháng 9- 1954, Mĩ quyết định viện trợ thẳng cho Diệm không qua tay Pháp. Tháng 11-1954, Chính phủ Mĩ cử Tướng Côlin - Quyền Tổng tham mưu trưởng lục quân Mĩ và là đại diện Mĩ ở Uỷ ban quân sự khối Bắc Đại Tây Dương sang làm đại sứ tại miền Nam Việt Nam. Côlin mang theo một kế hoạch gồm 6 điểm: 1- Ủng hộ chính quyền Diệm và viện trợ thẳng cho Diệm không qua tay Pháp. 2- Xây dựng cho Diệm một quân đội do Mĩ huấn luyện và trang bị. 3- Lập Quốc hội ở miền Nam để hợp pháp hoá ngụy quyền Diệm. 4- Thi hành cải cách điền địa và thực hiện định cư cho số người Công giáo miền Bắc di cư vào Nam. 5- Thay đổi các thứ thuế, ưu tiên cho hàng hoá và tư bản Mĩ tràn vào thị trường miền Nam. 6- Đào tạo cán bộ hành chính cho chính quyền Diệm. Trước sức ép của Mĩ , ngày 13-12-1954, Pháp buộc phải kí với Mĩ bản hiệp ước giao trách nhiệm huấn luyện và trang bị quân ngụy miền Nam cho Mĩ . Ngày 19-12-1954, Pháp kí hiệp định trao quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1955, Chính phủ Pháp tuyên bố chấm dứt chế độ cao uỷ ở miền Nam Việt Nam. Ngày 14-4-1956, Pháp gửi cho hai đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô và Anh) thông báo quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28- 4-1956, nước Pháp không còn trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ. Ngày 30-4-1956, đơn vị cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam. Đến đây, Pháp hoàn toàn rũ bỏ trách nhiệm một bên thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Cũng từ đây, Diệm tiến hành ráo riết cuộc thanh lọc, nắm quân đội, xây dựng miền Nam thành một "quốc gia vững mạnh" của "thế giới tự do", thành một tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Để tạo chỗ dựa, Diệm cho thành lập các tổ chức chính trị phản động, đáng chú ý là “Đảng Cần lao nhân vị" (do Ngô Đình Nhu cầm đầu), "Phong trào cách mạng quốc gia", "Thanh niên cộng hoà", "Phụ nữ liên đới". Những tổ chức này thu nhận các phần tử phản động trong các giai cấp địa chủ, tư sản, Thiên Chúa giáo và những phần tử có hận thù với cách mạng. Tuy được Mĩ viện trợ, giúp đỡ, nhưng từ sau Hiệp định Giơnevơ, chính quyền Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía: Các phần tử thân Pháp, nhất là các sĩ quan cấp tướng trong hàng ngũ quân đội Liên hiệp Pháp. Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên ở Nam Bộ, có lực lượng vũ trang riêng, đang kiểm soát nhiều vùng, kể cả Sài Gòn - Chợ Lớn. - Lực lượng cách mạng của nhân dân tồn tại khắp các thôn, xã trên toàn miền Nam. Đây là lực lượng đối kháng lớn nhất, đe doạ sự tồn tại của chính quyền Mĩ - Diệm. Để đối phó với tình hình trên, Diệm đưa ra chiêu bài "Đả thực " - thực chất là gạt Pháp để cho Mĩ độc chiếm miền Nam, "Bài phong " - thực chất là gạt Bảo Đại ra khỏi ngôi Quốc trưởng để cho Diệm thu tóm mọi quyền hành trong tay, "Chống cộng " - thực chất là chống nhân dân, chống tất cả những ai tán thành thống nhất đất nước. Diệm tiếp tục gạt các phần tử thân Pháp ra khỏi bộ máy chính quyền và các cấp chỉ huy quân đội. Thực tế từ sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam Việt Nam đã diễn ra cuộc tranh giành quyền lợi giữa chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ với chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của thực dân Pháp. Đầu tháng 4-1955, Mĩ - Diệm tập trung lực lượng mở các cuộc hành quân tiêu diệt lực lượng vũ trang Bình Xuyên. Tiếp đó, bằng thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc kết hợp với tiến công quân sự, ngụy quyền Diệm đã tiêu diệt và làm tan rã lực lượng vũ trang Hoà Hảo, Cao Đài. Sau khi dẹp tan lực lượng vũ trang của ba giáo phái, Diệm lo cải tổ chính phủ. Ngày 23-10-1955, chúng tổ chức "Trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và Diệm tự xưng Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Ngày 4-3-1956, dưới sự chỉ đạo của Mĩ , Diệm tổ chức bầu “quốc hội" riêng rẽ và ngày 26-10-1956, ban bố "Hiến pháp Việt Nam cộng hoà ". Đây là việc làm hoàn toàn bất hợp pháp và trái với Hiệp định Giơnevơ, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng biệt. Cùng với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mĩ - Diệm ra sức củng cố chính quyền ở cấp cơ sở, bằng cách bổ nhiệm bọn tay chân làm xã trưởng, ấp trưởng và lập các tổ chức quần chúng trá hình, như "Liên gia tương trợ", "Nhân dân tự vệ đoàn", "Ngũ gia liên bảo" để kìm kẹp, khống chế nhân dân. Như vậy, từ sau năm 1954, bằng những thủ đoạn tinh vi, trắng trợn và rất xảo quyệt, đế quốc Mĩ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng Pháp cùng bọn tay sai của Pháp, độc chiếm miền Nam. Một chính quyền tay sai mới, cực kì phản động, hiếu chiến và rất trung thành với đế quốc Mĩ , do Ngô Đình Diệm cầm đầu, được thiết lập. Chúng đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ và tư sản mại bản -một thế lực phản động đã bị cách mạng đánh đổ, được Mĩ nâng dậy, nên có tư tưởng phục thù rất sâu sắc. Miền Nam Việt Nam từ chỗ là thuộc địa kiểu cũ của thực dân Pháp, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mĩ . Chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ và chủ nghĩa kiểu cũ của thực dân Pháp không khác nhau về bản chất, chỉ khác nhau về hình thức cai trị và thủ đoạn bóc lột. Với chủ nghĩa thực dân kiểu mới, đế quốc Mĩ không đặt bộ máy cai trị trực tiếp nhưthực dân Pháp trước đây, mà dùng chính quyền tay sai, với một hệ thống cố vấn dày đặc. Về thủ đoạn bóc lột, chúng thông qua "viện trợ” quân sự và "thương mại hoá", dùng sức mạnh quân sự và kinh tế để nắm chặt miền Nam. Bao trùm lên bộ máy chính quyền tay sai là toà Đại sứ Mĩ gồm hàng ngàn nhân viên các loại, tổ chức thành nhiều cơ quan cai trị. Trên thực tế, toà Đại sứ Mĩ không khác gì Phủ Toàn quyền Đông Dương trước đây. "Việt Nam cộng hoà " của tập đoàn Diệm, trên thực tế, chỉ là một thuộc địa của đế quốc Mĩ , tức là thị trường tiêu thụ hàng hoá thừa ế, là nơi đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản và bóc lột nhân công rẻ mạt. Tuy nhiên, trong những năm 1954 - 1959, để nhanh chóng thiết lập một phòng tuyến ngăn chặn phong trào cách mạng, hoạt động của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta chủ yếu nghiêng về các hoạt động nhằm xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự. Để tạo ra cơ sở pháp lí mới (giả tạo) cho những hoạt động vũ trang ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mĩ đã kí với Diệm các hiệp ước quân sự. Trong số đó, có ba hiệp ước đáng chú ý: - Hiệp ước mạo danh "Hợp tác kinh tê" được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 21-2-1955 và 7-3- 1955. - Hiệp ước thạo danh "Hợp tác kinh tế" được kí kết dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 22, 23-4-1955 và 24, 25-6-1955. - Hiệp ước mạo danh 'Thu hồi vũ khí trang bị của viện trợ quân sự Mĩ ", được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 1-3 và 15-5-1955. Dựa vào các hiệp ước trên, đế quốc Mĩ không ngừng đưa nhân viên, cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam. Phái đoàn viện trợ quân sự (MAAG: Military Aid Advisory group) thành lập từ trong thời kì Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, lẽ ra phải giải tán sau ngày kí Hiệp định Giơnevơ, nhưng trái lại, nó càng tăng lên cả số lượng và vai trò. Từ chỗ có 200 nhân viên sau ngày đình chiến, đến giữa năm 1961, đã lên tới 3.500 tên, gồm đủ các ngành hải, lục, không quân. Từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng viện trợ, nó đã trở thành một bộ máy trực tiếp điều khiển trang bị vũ khí, huấn luyện, chỉ đạo kĩ thuật và chỉ đạo tác chiến. Bên cạnh phái đoàn MAAG, còn có phái đoàn Tổ chức, huấn luyện, kiểm tra (TRIM: Training Réorganisation Inspection Mission), phái đoàn Huấn luyện tác chiến (CATO: Combat Army Training Organ). Các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam ngày càng tăng. Nếu tính giá trị, từ năm 1955 đến năm 1960, tổng số vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam là 1 5 tỉ đô la. Hàng loạt căn cứ không quân được xây dựng khắp miền Nam. Các quân cảng Nhà Bè, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang... được mở rộng và trang bị hiện đại. Nối liền các căn cứ không quân và lục quân là hệ thống đường giao thông chiến lược hiện đại. Đến tháng 6-1955, Mĩ đã xây dựng cho ngụy quyền Diệm một đội quân dưới quyền điều khiển trực tiếp của Mĩ gồm 10 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp và 54.000 quân địa phương. Mĩ - Diệm sử dụng đội quân này trước mắt nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, tiến tới thực hiện giấc mộng "lấp sông Bến Hải", vượt vĩ tuyến 17", "Bắc tiến". Về kinh tế, một mặt chính quyền Diệm thi hành một loạt chính sách và biện pháp nhằm kìm hãm và bóp nghẹt sự phát triển của các ngành kinh tế dân tộc; mặt khác chúng ưu tiên cho Mĩ và phe Mĩ đưa hàng thừa ế vào miền Nam, làm cho kinh tế dân tộc bị lũng đoạn và phụ thuộc vào Mĩ . Trong nông nghiệp, chúng ráo riết thực hiện chương trình "cải cách điền địa". Chúng đưa ra đạo dụ số 2 (8-l-1955) và đạo dụ số 7 (5-2-1955) nhằm tước đoạt thành quả về ruộng đất mà cách mạng đã đem lại cho nông dân, khôi phục quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến. Đồng thời,,chúng cũng đưa ra đạo dụ số 57 (22-l0-1955) quy định phần ruộng đất đem phân phối cho nông dân là những ruộng bỏ hoang và đất "truất hữu” của những địa chủ có trên 100 mẫu (riêng đối với những địa chủ có trên 100 mẫu mà chuyển sang trồng cây công nghiệp hoặc chăn nuôi, thì không bị "truất hữu”). Sau khi thiết lập dược quyền kiểm soát trên toàn bộ miền Nam, từ tháng 4-1955 đến tháng 5-1956, Mĩ - Diệm phát động “chiến dịch tố cộng " giai đoạn I, gọi là giai đoạn mở rộng diện để gây xáo trộn và phát hiện cộng sản. Để phụ trách, theo dõi và rút kinh nghiệm tố cộng, diệt cộng, chính quyền Diệm cho thành lập Phủ đặc uỷ công dân vụ (3-1955) và Hội đồng chỉ đạo tố cộng. Trên cơ sở tăng cường bộ máy đàn áp, Mĩ - ngụy liên tiếp tổ chức các chiến dịch khủng bố, tàn sát lực lượng yêu nước. Tháng 2-1955, Diệm mở chiến dịch Phan Chu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh Trung Bộ, trọng điểm là tỉnh Quảng Nam. Tháng 4-1955, chúng mở chiến dịch giải phóng, đánh phá Quảng Ngài và Bắc Bình Định. Tháng 5-1955, chúng mở chiến dịch Trịnh Minh Thế, đánh phá toàn diện các tỉnh Liên khu V, v.v... Trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, Mĩ - ngụy đã huy động gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và một bộ phận quân đội. Chúng nêu khẩu hiệu hành động: “Tiêu diệt cán bộ nằm vùng ", "Tiêu diệt cộng sản tận gốc ", "Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, nhằm kích thích quân đội, cảnh sát và những tên tay sai ác ôn điên cuồng đánh phá cơ sở cách mạng, giết hại những người yêu nước những người tán thành đấu tranh thống nhất đất nước. Khoảng 4000 tên ác ôn thuộc Phủ đặc uỷ công dân vụ và 600 tên cán bộ tâm lí chiến cùng các lực lượng cảnh sát miền Trung Trung Bộ đã gây ra các vụ thảm sát dã man ở nhiều nơi. Tháng 9-1954, Mĩ - Diệm chôn sống 21 đồng bào ta ở Chợ Được (Quảng Nam). Tháng 1-1955, chúng dìm 42 người yêu nước xuống đập Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Tháng 7-1955, chúng gây ra vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị), giết hại một cách dã man một lúc 92 dân thường (trong đó có 31 trẻ em). Cùng thời gian này, Mĩ - Diệm đem quân đánh phá ác liệt huyện Đại Lộc (Quảng Nam), bắt giam, tra tấn và giết chết 500 đồng bào ta . Bằng những chiến dịch khủng bố, tàn sát, trên thực tế Mĩ - Diệm đã gây ra cuộc chiến tranh một phía. Đây là một kiểu chiến tranh chỉ do một bên Mĩ -Diệm tiến hành và được xem như một chiến lược của Mĩ ở miền Nam việt Nam từ sau Hiệp định Giơnevơ đến cuối năm 1959. Trên toàn miền Nam lúc này, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trải qua những năm tháng vô cùng khó khăn, ác liệt. Trước sức đánh phá của địch qua nhiều đợt tố cộng, diệt cộng, cách mạng miền Nam đã chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có.Trong bốn năm (1955 - 1958), cả miền Nam tổn thất 9110 cán bộ, đảng viên. ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị địch giết; gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt và bị tù đày; gần 20 vạn người bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Tỉnh Bến Tre chỉ còn 162 đảng viên; Tiền Giang còn 92; Gia Định, Biên Hoà, mỗi nơi chỉ còn một chi bộ Đảng. Ở khu V (gồm cả Trị - Thiên và cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% Tỉnh uỷ viên, 60% Huyện uỷ viên, 70% Chi uỷ viên bị bắt, bị giết; có tỉnh chỉ còn 2 - 3 chi bộ; 12 huyện vùng đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị - Thiên, số đảng viên từ 23.400 chỉ còn 160 người . Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, Mĩ - Diệm hi vọng có thể khuất phục được nhân dân miền Nam. Nhưng chúng đã nhầm. Nhân dân miền Nam cùng với toàn thể dân tộc đã từng vùng dậy đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp để giành quyền làm chủ. Ngay sau đó, đồng bào miền Nam lại đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám. Một dân tộc như vậy không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ cho chủ nghĩa thực dân một lần nữa. Tình hình quốc tế và trong nước cũng có nhiều chuyển biến thuận lợi cho ta. Các lực lượng cách mạng trên thế giới đang ở thế tấn công vào chủ nghĩa đế quốc. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và đang bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do phải đối mặt với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong thế giới tư bản, lại có những thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt, trong tình trạng đất nước bị chia cắt và sự bất hoà giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài và vô cùng gay go, phức tạp. Sau Hiệp định Giơnevơ, phần lớn lực lượng quân đội, cán bộ, đảng viên miền Nam ra tập kết tại miền Bắc. Do đó, so sánh lực lượng hai bên ở miền Nam không có lợi cho ta. Trong hoàn cảnh ấy, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (9- 1954) đã nêu rõ: Cuộc đấu tranh của nhân dãn miền Nam phải từ hình thức đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt của nhân dân miền Nam là đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hoà bình đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất tranh thủ độc lập, chống khủng bố, bảo vệ những thành quả mà quần chúng đã giành được trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Cán bộ, đảng viên ở miền Nam nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật. Những cán bộ bị lộ được điều sang các địa phương khác, hoặc tạm ngừng hoạt động để che giấu lực lượng. Việc vận động ngụy quân, ngụy quyền và đưa người của ta vào hoạt động trong các tổ chức của địch được chú ý. Các tổ chức quần chúng công khai được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị. Theo phương hướng chỉ đạo của Trung ương, từ tháng 8, tháng 9- 1954, ta đã tổ chức quần chúng mít tinh, biểu tình, hội thảo mừng hoà bình, đòi địch không được trả thù những người kháng chiến cũ. Tại các thành phố lớn (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng), hàng vạn người lao động, trí thức, học sinh, sinh viên tập hợp trên các đường phố, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ, chào đón hoà bình. Phong trào đấu tranh chính trị nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh chính từ lúc này là phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn ( 1- 8-1954) của đông đảo trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động. Lãnh đạo phong trào là những trí thức yêu nước có uy tín (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Phạm Huy Thông...). Sau khi ra tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích đấu tranh cho hoà bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được bảo đảm, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước, thanh thế của phong trào ngày càng rộng lớn. Ở khắp các xưởng lớn, các trường học, khu phố... Uỷ ban bảo vệ hoà bình được thành lập và hoạt động công khai. Nhằm dập tắt phong trào, đầu tháng 11-1954, Mĩ - Diệm ra sức khủng bố. Chúng cho tay chân lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhiều người tham gia phong trào bị bắt và bị tra tấn rất dã man. Từ giữa năm 1955, tuy về danh nghĩa, phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn không tồn tại, nhưng trên thực tế, các Uỷ ban ở cơ sở vẫn tiếp tục hoạt động dưới hình thức là những Uỷ ban cứu tế nạn nhân bị hoả hoạn và sau đó chuyển thành Uỷ ban đề phòng nạn cháy1.Từ năm 1955, ở miền Nam lại bùng lên phong trào đòi lập lại quan hệ bình thường hai miền Nam-Bac. Điều này nói lên nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là hoà bình và thống nhất đất nước. Nó giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia cắt lâu dài nước ta của tập đoàn Mĩ - Diệm. Song song với phong trào bảo vệ hoà bình và đòi hiệp thương tổng tuyển cử, phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống cũng ngày càng lan rộng. Tham gia phong trào này không chỉ có quần chúng lao động, mà còn có đông đảo các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, các nhà công thương, tu hành và một số tư sản, địa chủ, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền và binh lính. Trong các phong trào đó giai cấp công nhân là lực lượng đi tiên phong. Tính đến cuối năm 1959, đã có gần 1.500 cuộc đấu tranh của công nhân; trong đó có 27 cuộc đấu tranh lớn, tiêu biểu là hai cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ của công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn trong ngày 1-5-1956 gồm 200.000 người và ngày 1-5-1958 gồm 500.000 người tham gia . Giai cấp nông dân miền Nam cũng tổ chức đấu tranh để bảo vệ những quyền lợi đã giành được trong kháng chiến, đấu tranh chống chương trình cải cách điền địa, đòi quyền lưu canh, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn làng . . . Riêng ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ đã nổ ra 3.000 vụ đấu tranh về ruộng đất . Phong trào diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, như biểu tình, đưa đơn kiến nghị; có nơi đồng bào vũ trang chống lại bọn tay chân của Diệm. Gay go, quyết liệt và đẫm máu nhất là phong trào đấu tranh chống chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ". Trong chiến dịch "tố cộng ", diệt cộng ", Mĩ - Diệm huy động lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét, đánh phá dữ dội ở cả nông thôn, thành thị và các khu căn cứ. Các gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết là đối tượng chủ yếu của "tố cộng". Chúng dùng mọi thủ đoạn tra tấn cực hình kết hợp với thủ đoạn thâm hiểm để buộc mọi người dân phải nói xấu cách mạng, nói xấu cộng sản, thừa nhận bọn phản quốc tay sai của Mĩ và từ bỏ cách mạng. Nhân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí kiên cường, không chịu khuất phục, tỏ rõ lòng trung thành với cách mạng. Bằng lí lẽ đanh thép và khôn khéo quần chúng đã vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, bảo vệ và làm sáng tỏ chủ nghĩa cách mạng. Trong những năm tháng ác liệt nhất, hàng ngàn tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, cổ vũ họ đấu tranh và làm cho Đảng ngày càng bám rễ vững chắc trong nhân dân. Đồng bào miền Nam vẫn che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, làm giao thông liên lạc, chuyển công văn... âm mưu cơ bản của Mĩ - Diệm trong chiến dịch "tô cộng ", diệt cộng " bị thất bại. Tên chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng Trung ương (Trần Chánh Thành) đã thú nhận: “đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được " . Trong hai năm đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhân dân miền Nam luôn nêu cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, dân chủ. Với nhiều hình thức phong phú, đấu tranh bằng lí lẽ, bằng pháp lí của Hiệp định Giơnevơ, bằng lực lượng quần chúng đông đảo đồng bào ta đã nêu cao tinh thần yêu nước và ý chí đoàn kết thống nhất của mình, liên tục phản công và tiến công địch. Ngược lại, tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm ngày càng lộ rõ bộ mặt độc tài phát xít, phản dân tộc, làm tay sai cho đế quốc Mĩ , cố tình phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Thực tiễn hai năm đấu tranh cho thấy, đối với kẻ thù của dân tộc và giai cấp, không thể dùng đấu tranh chính trị đơn thuần như trước, mà phải dùng bạo lực cách mạng. Yêu cầu của cách mạng cũng như nguyện vọng của đồng bào miền Nam lúc này đòi hỏi phải chuyển sang hình thức đấu tranh cao hơn. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị ra nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam", nêu rõ: "Vấn đề hết sức quan trọng là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng" . Nghị quyết nhấn mạnh: Tuy "hình thức đấu tranh của ta hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang" , nhưng "như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định" . Vì vậy Bộ Chính trị quyết định phải "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang" . Tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ Chính trị, đang công tác tại miền Nam - dựa vào sự phân tích khoa học tình hình chính trị, xã hội miền Nam, đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đây là một văn kiện quan trọng, chỉ rõ con đường cách mạng là con đường duy nhất đúng của nhân dân ta ở miền Nam tiến tới lật đổ chính quyền Mĩ - Diệm, thành lập chính quyền cách mạng. Bản Đề cương nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mĩ , giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập và dân chủ nhân dân". Những nghị quyết trên đây đã kịp thời soi sáng cho đảng viên, cán bộ và nhân dân miền Nam vượt qua chặng đường đấu tranh cực kì ác liệt, góp phần đưa phong trào cách mạng tiến lên một bước phát triển mới. Riêng năm 1957, có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị; năm 1958 có 3,7 triệu lượt và bước sang năm 1959 có gần 5 triệu lượt người tham gia. Những cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, chống trả thù những người kháng chiến cũ, chống "tố cộng ", "diệt cộng "; chống cướp đất, đuổi nhà... diễn ra dai dẳng, quyết liệt ở khắp nơi. Từ trong phong trào, trên thực tế, một mặt trận thống nhất chống Mĩ - Diệm đã hình thành. Cùng với sự phát triển phong trào đấu tranh chính trị trong các tầng lớp nhân dân, phong trào đấu tranh vũ trang tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng bắt đầu phát triển. Các đơn vị vũ trang tập trung được xây dựng ở nhiều nơi. Căn cứ địa được hình thành phần lớn từ các vùng căn cứ thời kì kháng chiến chống Pháp: Chiến khu Đ 1, Đồng Tháp, Ư Minh, Tây Nguyên... Những hoạt động vũ trang của quân và dân miền Nam có tác dụng rất lớn, gây cho địch nhiều khó khăn, trở ngại trong việc củng cố chính quyền ở thôn, xã; hạn chế những hành động cướp bóc, vơ vét của địch và bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Một số tên tay sai ác ôn phải chùn lại, địa chủ ngán sợ, không dám trắng trợn cướp đất tăng tô. Trên thực tế, việc trừ gian, diệt ác trở thành một hình thức đấu tranh quan trọng và cần thiết để giữ vững phong trào, bảo vệ cơ sở cách mạng. Đặc biệt, từ năm 1958, hoạt động vũ trang tự vệ trở thành phổ biến, có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân. Trước sự phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân, Mĩ -Diệm điên cuồng khủng bố. Tháng 5-1957, Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để cho bọn tay chân tự do chém giết. Không khí khủng bố, chết chóc bao trùm khắp nơi. Cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực bị săn lùng ráo riết. Mĩ - Diệm vẫn tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ", dồn dân lập "khu dinh điền ", "khu trù mật”. Các cuộc đánh phá, khủng bố của chính quyền Diệm đối với nhân dân ta đã đến đỉnh cao về mức độ khốc liệt và tính chất man rợ. Ngày 1-12-1958, chúng đầu độc 6.000 người yêu nước ở nhà giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một). Tháng 3-1959, Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Tháng 5- 1959, chúng lại ban hành luật phát xít "/0159"; thiết lập ba toà án quân sự đặc biệt để công khai chém giết đồng bào ta. Miền Nam Việt Nam trở thành một địa ngục trần gian mà ở đó, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người bị chà đạp một cách trắng trợn. Tình thế cách mạng ngày càng đi đến chín muồi bởi kẻ thù không thể thống trị như cũ được nữa. Nhân dân miền Nam bị đẩy vào cảnh khốn cùng. Muốn tồn tại, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là phải vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống. Trong bối cảnh lịch sử ấy, từ ngày 13-1-1959, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá ni được khai mạc. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đê quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân" . Như vậy, với Nghị quyết 15, Trung ương Đảng đã quyết định phát động quần chúng nhân dân, trước hết ở nông thôn, dùng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi nghĩa vũ trang đập tan ách kìm kẹp của Mĩ -Diệm để giành quyền làm chủ. Nghị quyết 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó đáp ứng yêu cầu bức thiết nhất của cách mạng miền Nam lúc đó, làm xoay chuyển tình thế và đưa phong trào cách mạng miền Nam thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Đồng thời, nó cũng đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là vùng dậy đập tan xiềng xích nô lệ để giành quyền làm chủ. Do đó, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng nhanh chóng đi vào quần chúng và trở thành hành động quật khởi của quần chúng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều khó khăn và phức tạp: Đảng Cộng sản Liên Xô không tán thành Nghị quyết 15, mà chủ trương củng cố miền Bắc, thông qua đó để đi tới thống nhất, không tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Đảng Cộng sản Trung Quốc tán thành phương hướng chung của Nghị quyết 15, tán thành hoạt động vũ trang nhưng chỉ ở quy mô nhỏ cấp đại đội. Trong hoàn cảnh ấy, việc đề ra Nghị quyết 15 chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lí luận cũng như về thực tiễn. Nó thể hiện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng. Ngay sau khi đề ra Nghị quyết 15, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5-1959, Trung ương Đảng đã lập Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559) để tăng cường sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Tháng 7-1959, Trung ương quyết định tổ chức đường vận tải trên biển. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời giữa lúc nhân dân miền Nam "không thể sống như cũ được nữa". Do đó, nó đã làm bùng lên phong trào đồng khởi trên nhiều vùng rộng lớn. Ở Liên khu V, từ tháng 2 đến tháng 4-1959, nhân dân huyện Vĩnh Thành (Bình Định) nổi dậy, dời làng vào rừng sâu, xây dựng làng chiến đấu. Cùng thời gian này, nhân dân huyện Bắc Ái (Ninh Thuận), huyện Đắc Lay (Kon Tum) và nhiều làng ở Đắc Lắc cũng nổi dậy phá tề, diệt ác, xây dựng làng chiến đấu chống Mĩ - Diệm. Những cuộc nổi dậy trên đây đã phá tung một mắt xích quan trọng trong hệ thống cai trị của địch ở miền Tây Trung Bộ. Trong tất cả các cuộc nổi dậy của đồng bào miền núi Liên khu V, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (Quảng Ngãi vào ngày 28-8-1959. Tại đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, khoảng 16.000 đồng bào nổi dậy đấu tranh chính trị, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quét sạch ngụy quyền ở thôn, xã, thành lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản. Từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng sang các huyện thuộc miền Tây Quảng Ngài (Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ). Cuộc khởi nghĩa ở Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngài diễn ra nhanh, trên địa bàn rộng (gần 5.000 km2); bao gồm 4 huyện, với 4 dân tộc (Coi, Hre, Ca Dong, Kinh) đã giành được thắng lợi to lớn. Sau khởi nghĩa, nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường để chống lại những cuộc càn quét, chà đi xát lại của địch. Nhờ đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, phong trào ở đây vẫn đứng vững. Thắng lợi này có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng miền Trung, đồng thời cung cấp được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc vận dụng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng không chỉ ở Quảng Ngài, mà cả trong toàn khu, toàn miền. Trong khi nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đang thu được thắng lợi, thì tại đồng bằng Nam Bộ, trên nhiều vùng rộng lớn, quần chúng cũng nổi dậy vũ trang diệt ác, phá thế kìm kẹp, làm tan rã từng mảng hệ thống ngụy quyền cơ sở. Trong phong trào nổi dậy ấy, cuộc đồng khởi ở Bến Tre là tiêu biểu nhất. Phong trào “đồng khởi” ở Bến Tre nổ ra nhiều đợt. Riêng năm 1960, có hai đợt đồng khởi: - Đợt một (17 – 25-l): Huyện Mỏ Cày được chọn làm nơi chỉ đạo, mở đầu cho phong trào nổi dậy của tỉnh. Từ ba xã trọng điểm: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, cuộc nổi dậy lan sang các xã trong huyện. Khắp Mỏ Cày, ngày cũng như đêm, đều vang lên tiếng trống, mõ và tiếng nổ liên hồi xen lẫn với tiếng hò reo của quần chúng cách mạng. Với khí thế cách mạng sục sôi ấy, nhân dân, nhất là thanh niên nam, nữ, hăng hái tổ chức đội ngũ, trương cờ, vác các loại súng (súng thật súng giả), kẻo đi như nước vỡ bờ, uy hiếp tinh thần quân địch. Phong trào “đồng khởi” từ Mỏ Cày lan sang các huyện Thành Phú, Minh Tân... Chỉ trong một tuần lễ, nhân dân 47 xã đồng loạt nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng 150 ấp, bức địch rút 47 đồn bốt. Các thôn, xã sau khi giải phóng đều mở đại hội nhân dân, lập toà án cách mạng để trừng trị những tên tay sai ác ôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày. Từ trong thắng lợi của phong trào “đồng khởi”, một đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập. Trong tình hình đó, kẻ địch không những phải đối phó với những cuộc nổi dậy của quần chúng, mà còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, với một lực lượng vũ trang chiến đấu giỏi làm nòng cốt. Hoảng sợ trước làn sóng cách mạng ở Bến Tre, ngày 22-3- 1960, Mĩ – Diệm huy động hơn 10.000 quân chủ lực, có tàu chiến, xe tăng yểm trợ, mở cuộc càn lớn vào ba xã trọng điểm của huyện Mỏ Cày. Chúng chia nhiều mũi bao vây, chia cắt từng khu vực, lục soát từng bụi cây, tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ quan đầu não của tỉnh, quyết dập tắt phong trào đồng khởi ở ba xã điểm. Nhân dân ba xã đứng trước một thử thách lớn. Ban lãnh đạo tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc chống càn, quyết định phát động một đợt đấu tranh chính trị với quy mô lớn, tấn công vào quận lị Mỏ Cày, đòi địch phải rút quân. Hàng ngàn quần chúng, phần lớn là phụ nữ, mang theo quần áo, chăn màn, nồi xoong, bồng bế cả con, cháu, đội khăn tang, kéo về Mỏ Cày đấu tranh chống địch càn quét. Trước sức mạnh và lời lẽ có lí có tình của đội quân chính trị hùng hậu, kẻ thù buộc phải ra lệnh rút quân khỏi ba xã (20-4- 1960). Cuộc phản công quy mô lớn của địch vào ba xã điểm “đồng khởi” đã thất bại trước tinh thần đấu tranh kiên quyết và khéo léo với sự kết hợp ba mũi chính trị, quân sự và binh vận của nhân dân Mỏ Cày, đặc biệt là phụ nữ. Địch hoảng sợ và gọi những người phụ nữ Bến Tre tay không đánh giặc là “đội quân tóc dài”. Qua “đồng khởi” đợt một, Bến Tre đã thể nghiệm thành công phương pháp kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, nêu lên những bài học kinh nghiệm quý báu về phương pháp cách mạng cho toàn miền Nam. Rút kinh nghiệm “đồng khởi” đợt một, Đảng bộ Bến Tre quyết định tổ chức “đồng khởi” đợt hai, với quy mô lớn hơn, vào ngày 24-9- 1960. Huyện Giồng Trộm được chọn làm trọng điểm. Chỉ trong vòng nửa ngày, nhân dân Ba Châu (Châu Phú, Châu Thời, Châu Hoà), bằng sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận, đã lấy gọn được ba đồn địch, thu 60 súng mà không tốn một viên đạn, một giọt máu. Từ thắng lợi đó, phong trào “đồng khởi” toả ra các huyện lị. Cho đến 22-10-1960, “đồng khởi” đợt hai ở Bến Tre thu được thắng lợi to lớn: 60 đồn địch bị san phẳng, 400 địch bị giết, 48 xã được hoàn toàn giải phóng. Từ Bến Tre, làn sóng “đồng khởi” nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung Bộ. Nhận thấy miền Đông Nam Bộ là nơi căn cứ cách mạng được xây dựng, củng cố vững chắc, lại sớm tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung, Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương tổ chức một đòn tiến công quân sự, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy. Thực hiện chủ trương trên, Ban quân sự liên tỉnh miền Đông quyết định tổ chức tấn công Tua Hai, một căn cứ của một trung đoàn chính quy ngụy, cách thị xã Tây Ninh 7 km. Trận đánh bắt đầu diễn ra từ đêm 25 rạng 26-1-1960 và kết thúc nhanh chóng. Ta diệt sao tên địch, bắt giáo dục và thả tại chỗ 500 tên khác, thu 1.500 súng các loại. Trận Tua Hai là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Chiến thắng Tua Hai đánh dấu một bước phát triển mới về trình độ tổ chức, chỉ huy hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang cách mạng. Chiến thắng này mang ý nghĩa chính trị to lớn không chỉ hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của nhân dân Tây Ninh, mà còn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng ở các tỉnh Nam Bộ vùng dậy giành quyền làm chủ. Cùng với chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh nổi dậy giải phóng 2/3 số xã trong tỉnh, nối liền với Chiến khu Dương Minh Châu thành một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn, án ngữ phía Tây Bắc Sài Gòn – Gia Định. Với phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam, hệ thống kìm kẹp của Mĩ – Diệm ở thôn, xã bị tan vỡ từng mảng. Chính quyền cách mạng được thành lập dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản. Vùng giải phóng hình thành, ngày càng mở rộng, nối liền giữa các huyện, các tỉnh, tạo thành một thế liên hoàn. Trong vùng giải phóng, hầu hết ruộng đất được trảmlại cho nông dân. Tính đến cuối năm 1960, khoảng 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan vỡ Cục tình báo trung ương Mĩ phải thú nhận: “Một thời kì hết sức nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hoà đã ở ngay trước mắt... Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn nằm ở phía nam và tây nam Sài Gòn, cũng như một số vùng ở phía bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của cộng sản...” .Từ trong và sau thắng lợi của phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960, khí thế cách mạng của quần chúng lên cao; lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Các đoàn thể cách mạng của nông dân, thanh niên, phụ nữ... phát triển mạnh mẽ. ở các huyện, tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Các thôn, xã đều có dân quân, du kích. Hình thái lực lượng vũ trang ba thứ quân xuất hiện. “Đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam là một đòn giáng mạnh và bất ngờ vào tập đoàn thống trị Mĩ – ngụy, làm cho chúng hết sức hoang mang, lo sợ. Hiện tượng rã ngũ, đào ngũ trong quân ngụy xuất hiện và phát triển. Mâu thuẫn giữa Mĩ và Diệm cũng như trong nội bộ chính quyền Diệm càng trở nên gay gắt, dẫn đến cuộc đảo chính mưu lật đổ Diệm – Nhu vào ngày 11-11-1960. Cuộc đảo chính thất bại, nhưng đẩy ngụy quyền miền Nam vào thời kì khủng hoảng triền miên. Chiến lược chiến tranh một phía, một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ, bị thất bại hoàn toàn. Đồng khởi 1959 – 1960 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong cao trào nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân miền Nam, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, tôn giáo, các giới toàn miền Nam đã họp Đại hội để thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai.cấp, các đảng phái, dân tộc, không phân biệt xu hướng chính trị, nhằm đánh đổ ách thống trị của bè lũ Mĩ – Diệm. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng miền Nam, Mặt trận công bố Chương trình hành động gồm 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ và tay sai. Sự ra đời của Mặt trận cùng với bản Chương trình hành động 10 điểm đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Do đó chỉ trong thời gian ngắn sau khi thành lập, Mặt trận đã tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, trở thành một lực lượng chính trị ngày càng hùng hậu. Đây là một trong những nhân tố cơ bản góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng trong những năm tiếp theo. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - ngụy ở miền Nam (1954-1965)
Top