Những Điều Không Bao Giờ Thay Đổi:
Những Ảnh Chụp Khám Nghiệm Tử Thi
Thật lý thú – và phấn khởi nữa – khi sự quan tâm của công chúng đối với cái chết của John Kennedy không hề có vẻ tàn lụi đi; thực vậy, nó chưa hề có vẻ trở nên cũ đi. Nhiều năm qua, chúng ta đã nghe tranh cãi suy diễn quanh những ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK chẳng hạn. Chúng ta đã nghe rằng chúng đã bị thiêu huỷ, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị thay đổi, chúng ta nghe nói rằng chúng đã bị biến cải, chúng ta nghe nói chúng đã bị nguỵ tạo hoàn toàn. Và bây giờ, nhờ nghiên cứu chuyên môn của Douglas Horne, chúng ta có thêm bằng chứng để hậu thuẫn cho điều này: các ảnh chụp bộ não JFK thực ra là ảnh chụp bộ não người khác. (Thế thì chính xác đó có thể là bộ não của ai? Một gã ăn mày nào đó? Bộ não đánh cắp được từ một xác dùng để thực tập y khoa? Chính phủ sẽ đi đâu khi cần một bộ não thế chỗ cho bộ não của tổng thống?)
Sự thực, cuộc tranh cãi quanh các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK là điều gì đó không đơn giản biến mất đi được (và chúng ta cho rằng nó có một lý do). Bản tổng kết nêu trên của Tiểu ban tái thẩm đã mạnh dạn nói đến mục đích nằm sau trò trí trá mà dân Mỹ đã phải chấp nhận hơn 35 năm qua. Phần tồi tệ duy nhất là ở chỗ người công dân bình thường muốn đọc được điều này và các báo cáo khác của Tiểu ban tái thẩm phải vượt qua cả một mê cung thủ tục hành chính thì mới tiếp cận được.
Chúng tôi đã nói về điều này nhiều lần và đã phê phán Tiểu ban tái thẩm đến hết sức, nhưng chúng tôi phải khen ngợi mục tiêu ban đầu của họ (xác định những hồ sơ liên quan đến JFK và xem xét để công bố cho dân chúng). Nhưng cho đến mùa thu 1998, có hay không có sự giúp đỡ của Tiểu ban tái thẩm, chúng ta vẫn thấy các bài báo về vụ JFK trên toàn quốc không tìm ra lối thoát.
Nếu không ai quan tâm về vụ ám sát JFK nữa, thì hãy xem bài báo sau của hãng tin AP vào cuối 1998 với tựa là “Những bức ảnh mới làm sống dậy cuộc tranh luận về vụ khám nghiệm tử thi JFK”:
“Lời chứng mới công bố hôm thứ sáu về vụ khám nghiệm tử thi Tổng thống John F.Kennedy nói rằng có một bộ ảnh chụp thứ nhì về những vết đạn của Kennedy nhưng chúng chưa từng được công bố cho dân chúng biết”(203) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)].
Lại như thế nữa. Ít nhà điều tra án sát nhân nào có thể phủ nhận rằng công cụ tốt nhất để nhận ra cơ chế một vụ sát nhân chính là khám nghiệm tử thi. Trong trường hợp bị chết vì súng bắn, các ảnh chụp khám nghiệm tử thi trở nên một bộ phận cực kỳ quan trọng của việc điều tra.
Và chúng ta có cái gì?
Ngay từ đầu, chúng ta có hết nhân chứng này đến nhân chứng khác, hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, cứ nhất định rằng có một trò gian trá nào đó quanh các bức ảnh khám nghiệm tử thi JFK.
Tuy vậy, sau ba thập niên, những điểm phản đối ấy bắt đầu nghe như một đĩa nhạc rè; chúng tiếp thêm nhiên liệu cho những tác giả ủng hộ Uỷ ban Warren như Gerald Posner vốn có thái độ thản nhiên đối với một hoạt động có tính toán trước mà bất kỳ quan toà nào cũng coi như việc che giấu bằng chứng. Posner xác định rằng tất cả những ảnh chụp X – quang và ảnh khám nghiệm tử thi JFK đều không được công bố vì gia đình Kennedy “từ chối” không cho công bố(204) [(Posner, Case Closed)].
Nhưng trừ phi những ảnh đó được chụp bởi một thợ ảnh tự do gia đình Kennedy thuê mướn (mà chuyện này không có), nếu không thì gia đình Kennedy KHÔNG THỂ từ chối công bố chúng vì chúng KHÔNG thuộc quyền sở hữu của gia đình Kennedy.
Chúng thuộc quyền sở hữu của mọi người dân đóng thuế cho nước Mỹ, và không gia đình nào, dù hoàng gia quý tộc hay thứ dân, được quyền từ chối không bố chúng.
Nhưng 35 năm sau, cuối 1998, chúng ta biết rằng có “một bộ ảnh chụp thứ nhì” chụp lúc khám nghiệm tử thi, và những ảnh chụp ấy “chưa từng được công bố cho dân chúng biết”. Phải, bây giờ chúng ta biết rằng lại thêm những bằng chứng nữa về vụ ám sát JFK đã bị giấu nhẹm.
Saundra K. Spencer, một kỹ thuật viên làm việc tại Trung tâm nhiếp ảnh hải quân (NPC) vào thời điểm JFK chết, làm chứng rằng các ảnh chụp khám nghiệm tử thi JFK được lưu trong Văn khố là khác với những ảnh chụp mà cô đã góp phần phóng rửa(205) [(Associated Press, “Photos Renew Dispute About JFK Autopsy”, 1998)]. Điều này chứng minh rõ ràng rằng những bức ảnh bổ sung ấy đã bị cố ý giấu nhẹm không cho công chúng biết. Khi một người nào đó có thế lực – bất kỳ ai đó có thế lực – tìm cách ngăn cản không cho công chúng có được đánh giá toàn diện về một biến cố mà họ có quyền được biết, thì việc đó gọi là “che giấu trái phép”. Nhưng Posner thậm chí còn giở trò biện minh cho gia đình Kennedy để bỏ qua phát hiện mới này. Vì những bức ảnh mà bà Spencer góp phần phóng rửa cho thấy “không có máu hoặc các lỗ mở”, nên Posner đã viết trong bài báo trên Newsweek tháng 10.1998: “Điều này hàm ý rằng gia đình Kennedy chỉ muốn có những bức ảnh không gây chấn động để có thể công bố cho dân chúng”(206) [(Posner, “Cracks in the Wall of Silence”, Newsweek, 4.10.1998)].
Một lần nữa, xin lỗi ông Posner, nhưng những điều gia đình Kennedy “chỉ muốn” đều không thành vấn đề. Những quan sát của bà Spencer thực sự rất đáng báo động. Bà đã thấy những ảnh chụp “không có các lỗ mở”. Làm sao lại “không có các lỗ mở” trên một cái sọ đã bị trúng đạn súng trường trừ khi cái sọ đó đã bị thay đổi bằng phẩu thuật? Từ lâu người ta đã nghi rằng những vết đạn trên đầu JFK đã bị cố ý sửa đổi để hậu thuẫn cho điều khẳng định trong báo cáo Warren rằng chỉ có một người – Oswald – bắn vào JFK. Bây giờ chúng ta lại có thêm lời chứng chuyên môn để củng cố thêm mối nghi ngờ ấy, nhưng Posner đã gạt bỏ điều này đi như một trò tưởng tượng của “kẻ mê chuyện âm mưu”.
Posner cũng đối xử tương tự với thông tin còn quan trọng hơn mà ông ta nhắc tới trong bài báo nói trên: đó là chuyện Đô đốc Burkley biến đi với bộ não JFK trong một cái xô. Posner viết: “Sự thực, có lẽ cảm xúc của gia đình {Kennedy}, chứ không phải sai trái về phía viên chức, mới là các giải thích đáng tin hơn cho các câu hỏi quanh biến cố Dallas”.
Nếu một quân nhân lấy đi bộ não của Tổng thống mà không được coi như một sai trái của viên chức, thì chúng ta phải nghiêm túc chất vấn những khái niệm của ông Posner về qui trình pháp định. Thực tế, Posner trong cuốn sách của mình và trong bài báo trên Newsweek, liên tục gọi những người nghiên cứu vụ JFK là “những người nhiệt tình” và “những người am hiểu” – chủ yếu là để cười cợt nỗ lực tìm biết điều gì đã thực sự xảy ra cho tổng thống Kennedy. Ông ta tiếp tục biện minh rằng ít nhiều thì các ý nguyện của gia đình Kennedy vẫn quan trọng hơn quyền được biết sự thật của công chúng.
Hãy nhìn thẳng vào điều đó, có lẽ ở đất nước này, số người tin rằng trái đất phẳng còn nhiều hơn số người tin rằng JFK bị một mình Lee Harvey Oswald bắn chết. Cuốn sách của Posner đầy những châm chích đối với những nhà nghiên cứu có các phát hiện không giống với của ông ta; thực vậy, Posner đã dành cả một chương trong tác phẩm vòng vo của mình cho việc bôi bác các nhà nghiên cứu với những người ông ta phản đối(207) [(Posner, Case Closed, tr 402-420; Posner còn có nhiều phê phán gay gắt với các tác giả khác trong những trang từ 460 đến 470; trong khi nhiều công kích khác rải khắp tác phẩm nhiều không đếm xuể và cũng chẳng đáng để đếm)]. Về cuốn Reasonable Doubt của Henry Hurt, Posner nói, “Hurt đã bày ra những chi tiết ly kỳ của một âm mưu dính dáng đến Oswald, CIA, những kiều dân Cuba chống Castro, chủ yếu dựa trên những lời không được kiểm chứng của Robert Easterling, một kẻ đã bị đưa vào bệnh viện tâm thần”(208) [(Posner, Case Closed)].
Sự thực, tác phẩm được viết rất tốt của Hurt hoàn toàn không có chuyện “chủ yếu” dựa trên “những lời không được kiểm chứng” của Robert Easterling. Thay vì thế, nó dựa trên công phu nghiên cứu xuất sắc vốn chứng tỏ được những liên quan rất thú vị và trình bày một giả thuyết có sức thuyết phục và gợi nhiều suy nghĩ. Hurt nói rất thẳng thắn về sự không đáng tin cậy của Easterling: “Robert Wilfred Easterling là… một kẻ được chẩn đoán là bị bệnh thần kinh và chứng tâm thần phân liệt”(209) [(Hurt)]. Với những ai đã đọc sách của Hurt thì rõ ràng sự kỳ quái trong lời khai của Easterling được đưa vào vì những phần trong lời khai ấy chứng minh những sự kiện có liên quan – chứ không phải “những lời không được kiểm chứng” mà Posner đã nói một cách sai lầm với độc giả của mình. Hung hăng hơn, Posner còn công kích tác giả Mark Lane, kết tội Lane là “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình…”
Posner còn viết nhiều đoạn thẳng thắn nói rằng các nỗ lực của Lane bị thúc đẩy bởi việc kiếm tiền và rước danh mình lên(210) [(Posner, Case Closed)].
Đây là một trò công kích phi chuyên môn và đáng xấu hổ đối với các tác giả khác trong lĩnh vực này. Ở đất nước này có một thứ gọi là tự do diễn đạt. Các tác giả của sách này chẳng hạn, không đồng ý với một số ý kiến của các ông Lane và Hurt, và ý kiến của những tác giả khác, và chúng tôi cũng phản đối ý kiến của đạo diễn đoạt Oscar Oliver Stone. Đó chỉ là quyền bất đồng ý kiến của chúng tôi. Nhưng chúng tôi tôn trọng tất cả những tác giả đó, tài năng của họ và ý kiến của họ. Chúng tôi không bôi bác họ; chúng tôi chỉ bất đồng ý kiến với họ.
Nhưng ông Posner đã bôi bác nhiều nhà nghiên cứu như vậy. Được rồi, sau đây là một số phương thuốc cho chính Posner. “Posner liệt kê bất cứ gì có thể biến một lựa chọn ngốc nghếch thành đáng tin cậy hơn và bỏ qua hoặc bóp méo những bằng chứng bất lợi”.
Câu này là của Giáo sư James H. Fetzer, người biên tập cuốn Assassination Science (“Khoa học ám sát”) năm 1998(211) [(Fetzer, James H., Assassination Science (Catfeet Press – Chicago, 1998)]. Đây là cuốn sách bao hàm những dữ kiện khoa học cụ thể được viết bởi nhiều chuyên gia với năng lực không thể phủ nhận, tập trung vào các bằng chứng cụ thể về đạn đạo, nhiếp ảnh, và khoa học nói chung mà Posner đã khôn khéo bỏ qua hoặc bẻ cong để giữ vững giả thuyết của mình hơn.
Sự thực, cuốn sách của Posner thì đầy những lỗ hổng, những dữ kiện và lời chứng bị bỏ qua, và những diễn giải vô lý, đến nỗi bố già trong nghiên cứu về JFK, Barold Weisberg (cựu điều tra viên của thượng viện và tác giả cuốn sách đầu tiên chỉ ra được những sai sót trong báo cáo của Uỷ ban Warren) thấy rằng đáng để viết hẳn một cuốn sách khác – Case Open (“Vụ án còn mở ngỏ”) – để phản bác các dữ liệu đáng nghi trong cuốn Case Closed của Posner. Cuốn sách tuyệt vời của Weisberg nêu rõ những bằng chứng đã bị bóp méo, ém nhẹm và bỏ sót, những nguồn tư liệu bị bỏ sót, và những tuyên bố gây lầm lạc cho độc giả. Nếu các bạn đã đọc Case Closed của Posner thì xin hãy đọc Case Open của Weisberg. Các bạn sẽ ngạc nhiên khi biết ra những thói quen nghề báo của Posner(212) [(Wiesberg, Harold, Case Open (Carol & Graf, 1994))].
Nên ý kiến của chúng tôi là, nếu có bất kỳ ai “chỉ sử dụng bằng chứng hậu thuẫn cho luận điểm của mình” thì đó chính là Posner. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng nhất về những nhận xét của Saundra Spencer về những ảnh chụp bổ sung việc khám nghiệm tử thi JFK, mà không hề khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của chúng trong một âm mưu che giấu sự thật. Posner vẽ ra bức tranh dễ dàng về chuyện Đô đốc Burkley chuyển bộ não của JFK, mà không khách quan thừa nhận ý nghĩa tiềm tàng của nó trong một âm mưu che giấu sự thật
Sự thực, trong cuốn sách 600 trang của mình, Posner hầu như không có một nhận xét đáng kể về hồ sơ 632-796. Điều này có thể so sánh với việc thuyền trưởng tàu Titanic nhún vai khi biết về tảng băng đang trôi lại gần tàu.