Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Voltaire (1694-1778) - Một ông vua không ngôi
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 35761" data-attributes="member: 28779"><p>Voltaire chỉ ở biệt thự Lạc thú có ba bốn năm để dưỡng sức, rồi năm 1758, di cư lại Ferney, một nơi ở biên giới Thuỵ Sĩ và Pháp. Ông lựa chỗ đó để nếu chính phủ Thuỵ Sĩ muốn bắt ông thì ông lẻn qua bên Pháp, mà chính phủ Pháp muốn bắt ông thì ông lẻ qua Thuỵ Sĩ. Như vậy là ông đã dự bị, đã vạch một chương trình hoạt động rồi. Ông gọi một cô cháu [9] lại phụng dưỡng ông.</p><p></p><p>Ông vừa trồng cây – bốn ngàn cây – vừa viết sách, tiếp khách, nhất là tung những bức thư ra khắp bốn phương trời. Chẳng bao lâu Ferney thành một cái “xưởng” đúc tư tưởng, thành kinh đô tinh thần của châu Âu. Tất cả các nhà bác học, các văn nhân, các vua chúa lại thăm ông hoặc thư từ với ông. Những số tiền đầu cơ được, ông đem phung phí trong việc tiếp tân. Một người bạn lại chơi, ngỏ ý muốn ở lại sáu tuần; vị Mạnh Thường Quân phương Tây hỏi người đó: “Bác có biết bác với Don Quichotte khác nhau ra sao không? Khác nhau chỗ này: Don Quichotte gặp khách sạn nào cũng cho là lâu đài, còn bác thì cho lâu đài này là khách sạn”. Cả hai cùng cười.</p><p></p><p>Nhưng khách chưa nhiều bằng thư. Đủ các hạng người khắp nơi viết thư hỏi ông về mọi vấn đề. Một người Đức xin ông cho biết “một cách kín đáo rằng có Thượng đế hay không”. Có những người đàn bà bị hiếp đáp năn nỉ ông bênh vực, can thiệp giùm với nhà cầm quyền. Vua Thuỵ Điển Gustave III, vua Đan Mạch Christian VII, Nga hoàng Catherine II đều lấy làm vinh hạnh được trao đổi ý kiến với ông. Chính vua nước Phổ cũng làm lành và tiếp tục thư từ, tự thú là “mê cái thiên tài rực rỡ” của vua Ferney.</p><p></p><p>Mà quả thực thiên tài ông rực rỡ. Môn gì ông cũng biết, loại nào ông cũng viết. Thơ của ông rất tầm thường thật, nhưng ta nên nhớ cả thế kỷ XVIII, ở Pháp chỉ có mỗi một người đáng mang danh thi sĩ là André Chenier, còn thơ của các nhà khác thì không hơn gì thơ của Voltaire. Kịch của ông cũng được được, những bộ sử của ông mới mẻ, những khảo cứu về khoa học, triết học tuy không sâu sắc nhưng sáng sủa, hấp dẫn, có giọng nồng nhiệt, còn truyện thì tới nay đọc vẫn còn thú vị. Thiên tài của ông hiện rõ nhất trong hàng ngàn bức thư của ông. Cổ kim Đông Tây chưa người nào viết thư nhiều như vậy mà hay như vậy. Đủ giọng: bỡn cợt, hóm hỉnh, châm biếm, mỉa mai, cảm động, nhẹ nhàng, sâu sắc mà luôn luôn tự nhiên, luôn luôn tự đáy lòng phát ra, tuôn ra, lưu loát, mạnh mẽ. Năm 1742, ông yêu cầu cô Dumesnil trổ tài để lột hết tinh thần trong vở kịch Mérope của ông, cô đáp: “Khó quá, phải như có quỷ nhập xác mới diễn được như ý ông”. Ông đáp: “Đúng vậy, muốn thành công trong bất kỳ nghệ thuật nào phải có quỷ nhập vào xác mình mới được”. Hết thảy những nhà phê bình ông, kể cả kẻ thù ông cũng phải nhận rằng ông có điều kiện ấy. Sainte Beuve, một phê bình gia ở thế kỷ XIX, bảo: “Quỷ nhập xác ông ấy”. Một nhà phê bình khác cũng nói: “Diêm vương đã trao hết quyền hành trong tay Voltaire”.</p><p></p><p>Đọc những bức thư của ông, ta thấy những lời đó không ngoa. Đọc giả chắc còn nhớ giọng ông mỉa mai chua chát viên phụ chính, đoạn sau sẽ đọc thêm lời chỉ trích cay độc J.J. Rouseau; ở đây tôi xin giới thiệu một bức thư ông đùa cợt một y sĩ:</p><p></p><p> Thư gởi ông Bagieu, Y sĩ thủ thuật</p><p></p><p>Thưa ông, bức thư, những lời cảm động, những lời khuyên của ông làm tôi xúc động rất mạnh và tôi xin thâm tạ ông. Tôi muốn đi ngay tức thì để nhờ tay ông săn sóc (…). Tôi đã mang qua Berlin khoảng hai chục cái răng, nay còn độ sáu cái; tôi mang theo hai con mắt, nay đã gần như mất một con; tôi không mang theo bệnh đan độc, tôi đã lời được bệnh đó và tôi phải ân cần với nó dữ. Tôi không có vẻ là một thanh niên sắp cưới vợ, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã gần sáu chục tuổi, mà Pascal và Alexandre chỉ sống vào khoảng nửa cái tuổi đó…</p><p></p><p>Cái mà người ta gọi là linh hồn của tôi, Hoá công đã phó cho nó một cái túi mỏng manh nhất và tàn tệ nhất. Tuy vậy, tôi đã chôn gần hết các y sĩ của tôi, tới cả ông Mettrie [10] nữa. Chỉ còn chưa chôn được Codénius, ngự y của Phổ vương; nhưng cái ông đó có vẻ sống dai hơn tôi. Ít nhất tôi cũng chết do tay ông ấy. Thỉnh thoảng ông ấy biên cho tôi những cái toa dài thậm thượt bằng tiếng Đức, tôi liệng cả vào lửa, mà cũng chẳng thấy khó chịu gì hơn. Ông ấy là một người rất tốt, cũng biết nhiều như những người khác; và khi ông ta thấy răng tôi rụng và tôi bị chứng hoại huyết thì ông ta bảo rằng tôi mắc hoại huyết bệnh.</p><p></p><p>Ở đây [11], có nhiều triết gia nghĩ rằng người ta có thể thọ như Bành Tổ nếu như chịu bịt kín các lỗ chân lông mà sống như con tằm trong cái kén (…). Tôi không biết phương pháp đó có kết quả hay không; tôi chỉ biết rằng mùa đông này tôi không thể đi xa được. Tôi đã dùng lò sưởi để tạo cho tôi một mùa xuân, và khi mùa xuân thiên nhiên trở về, tôi mong, nếu tôi còn sống, được mang lại ông bộ xương của tôi. Ông sẽ mổ xẻ nó nếu ông muốn; trong đó ông sẽ thấy trái tim còn đập vì cảm tạ và quyến luyến ông.</p><p></p><p>Berlin, ngày 19 tháng 12 năm 1952</p><p></p><p>Khi người ta có cái giọng mỉa mai chua chát, cay đắng thì khó mà sung sướng được lắm. Ngay từ hồi trẻ, Voltaire đã chống lại cái mốt lạc quan cho rằng thế giới này là thế giới tốt đẹp nhất mà Hoá công có thể tạo ra được, huống hồ là lúc này về già, đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, trông thấy bao nhiêu nhân tình thế thái thì đức tin và lòng hy vọng của ông làm sao mà chẳng nhụt nhiều.</p><p></p><p>Năm 1755, tháng 11, ông hay tin một cơn động đất ghê gớm ở Lisbonne chôn sống ba chục ngàn người một lúc, đúng vào Vạn thánh tiết, trong khi thiện nam tín nữ lễ bái chật các nhà thờ. Rồi ít tháng sau, chiến tranh lại nổ, kéo dài tới bảy năm. Vì tranh giành nhau thuộc địa, Pháp Anh kéo phe gây chiến với nhau. Phe Pháp có Áo, Nga thua phe Anh và Phổ. Ông cho rằng thiên hạ điên khùng mới chém giết nhau vì “vài mẫu đất đầy tuyết ở Gia Nã Đại”.</p><p></p><p>Giận nhất là thiên hạ nghe theo Rousseau, cho rằng tai nạn ở Lisbonne là do loài người tự gây ra; vì không sống giữa thiên nhiên, đi chui rút trong các thành thị nghẹt thở, mới đến nỗi chết cả đống như vậy; rồi lại giễu ông là bi quan một cách vô lý. Ông phát điên lên, vung ra “thứ vũ khí ghê gớm nhất mà loài người chưa bao giờ dùng tới, tức giọng mỉa mai của Voltaire”. Trong ba ngày ông viết xong truyện Candide (Ngây thơ) (1759), tác phẩm có giá trị nhất của ông. Anatole France bảo: “Dưới ngón tay của Voltaire, ngọn bút chạy và cười”. Nhưng trong nụ cười của Voltaire người ta thấy một giọng buồn chán, chua xót. Truyện không dùng phép tả cảnh, chỉ xem tự sự và đàm thoại. Động tác biến chuyển rất nhanh.</p><p></p><p>Candide – nhân vật chính trong truyện – là môn đệ của Pangloss, một triết gia trong phái lạc quan chủ trương rằng cái gì cũng tuyệt hảo trong cái thế giới tuyệt hảo, tức thế giới chúng ta. Candide tin thuyết đó lắm, nhưng lại mê nàng Cunégonde nên bị chủ đuổi và quảng đời gian truân của chàng bắt đầu từ đó. Thôi thì đủ cả, không thiếu một tai nạn nào. Bị cưỡng bức nhập ngũ, suýt bị bắn vì đào ngũ. Chiến tranh tàn phá hết. Mất tin tức người yêu, gặp thầy là Pangloss. Hai thầy trò bỏ xứ Westphalie để qua Lisbonne. Giữa đường bị dông tố, đấm tàu. Thoát chết, tới Lisbonne nhằm lúc châu thành đó bị nạn động đất. Rồi bị giam cầm, tra khảo. Tình cờ gặp được người yêu lúc đó đương ở với một người Do Thái. Giết người Do Thái rồi hai vợ chồng dắt nhau qua châu Mỹ, tới Buenos Ayres, phiêu bạt từ Buenos Ayres [12] tới Paraguay, sau đó thoát chết ở Eldorado, một xứ bạc vàng châu báu rất nhiều mà dân thì hiền lương, vui vẻ, không bài kích ngoại đạo. Chàng rời Eldorado với một đoàn cừu chở rất nhiều bảo vật nhưng dọc đường bị lường gạt, cướp bóc hết. Vượt biển qua Pháp, lại bị đủ các hạng người lường gạt nữa. Qua Anh, qua Ý, lại thăm một nhà quý phái chán đời, dự tiệc với sáu ông vua mất ngôi. Sau cùng Candide tới Constantinople, gặp lại được Pangloss và nàng Cunégonde lúc này đã già nua, xấu xí, bệnh tật. Cả ba nghèo xác, sống chung với nhau, an phận làm vườn.</p><p></p><p>Voltaire tả đủ nỗi khổ của nhân loại: bệnh tật, chiến tranh, tàn sát, nô lệ, lường gạt, cướp bóc, và đủ các tật xấu con người: ngu độn, gian trá, tàn nhẫn, truỵ lạc, bạc ác… Pangloss trong truyện ám chỉ Leibniz, cho ở đời cái gì cũng tuyệt hảo, rồi hô hào hưởng hết lạc thú ở đời, vì trong vũ trụ, bất kỳ cái gì Hoá công tạo ra là cũng để cho đời người được đủ bề tiện lợi và sung sướng: gà heo lê táo để ta ăn, hoa đẹp để ta ngắm, thuỷ triều để tàu vô bến được, chân để cho ta đi giày, và mũi chẳng những để cho ta ngửi mà còn cho ta đeo kính nữa.</p><p></p><p>Rousseau nối gót Leibniz, cũng chủ trương rằng đời sống thiên nhiên là hoàn toàn hơn cả, mà nhân loại phải trở lại đời sống sơ khai hồi ăn lông ở lổ vì cái gì tạo hoá sanh ra cũng tốt mà cái gì loài người tạo ra cũng xấu. Voltaire nhắm Leibniz mà đồng thời cũng chỉ trích cả Rousseau.</p><p></p><p>Thú vị nhất là đoạn kết, sau khi bộ ba Pangloss, Candide, Cunégonde kiếm được miếng vườn an phận sống đời tàn ở Constantinople, Pangloss còn thuyết Candide:</p><p></p><p>“Tất cả những biến cố đó đều có liên quan với nhau trong cái thế giới tuyệt hảo vì nếu anh không bị chủ đuổi ra khỏi một lâu đài đẹp; nếu không bị tra xét, nếu không phải đi bộ khắp châu Mỹ…; nếu không mất hết những con cừu ở xứ thần tiên Eldorado, thì làm sao bây giờ anh được ăn những trái thanh yên dầm đường và những hột đậu phụng này phải không?”. </p><p></p><p>Candide đáp: “Rất đúng, nhưng chúng ta phải làm vườn đi thôi”.</p><p></p><p>Năm tiếng “Phải làm vườn đi thôi” mỉa mai mà thâm thuý làm sao! Nó thành một châm ngôn, cũng như hai câu dưới đây ở những đoạn khác trong truyện:</p><p></p><p>“Sự làm việc tránh cho ta được ba đại hoạ: buồn chán, tàn ác và nghèo khốn”.</p><p></p><p>“Làm việc mà đừng lý luận: đó là cách độc nhất để làm cho đời sống khả kham”.</p><p></p><p>Nhưng cái chán đời của Voltaire không có tính cách tiêu cực. Trong truyện Candite, bên cạnh những quân truỵ lạc, tàn nhẫn, ti tiện, vẫn có người lương thiện, quảng đại, trung thành. Chính Pangloss cũng là một người rất dễ thương. Cunégonde cũng có nhiều đức, còn Candide thì chỉ có mỗi tật là ngây thơ. Lời khuyên của ông: “Phải làm vườn đi thôi”, có ý nghĩa lạc quan. Ông không tin rằng thế giới này hoàn toàn, nhưng nếu mọi người chịu làm mãnh vườn của mình, nghĩa là làm bổn phận của mình thì xã hội sẽ tàm tạm được. Và ông cũng siêng làm vườn của ông, khu vườn cây ở Ferney – ông trồng bốn ngàn cây như tôi đã nói – và khu vườn tinh thần: soạn sách, viết báo, viết thư để đả đảo sự ngu muội, sự bất công.</p><p></p><p>Ông hợp tác với Diderot để soạn bộ Bách khoa tự điển. Diderot là một triết gia duy vật, có lẽ chịu ảnh hưởng của một tư tưởng gia đương thời: La Mettri. La Mettri bị đày vì xuất bản một cuốn nhan đề Người máy trong đó ông tuyên bố rằng toàn thể vũ trụ, cả đến con người nữa, cũng chỉ là một bộ máy, không có gì là linh hồn cả, và sở dĩ loài người thông minh hơn vạn vật là vì có nhiều nhu cầu hơn chúng. Tư tưởng đó quả thật là táo bạo, quá khích, tới nay nhân loại chưa dám nhận là đúng. Một số đông triết gia khác hưởng ứng, muốn cải tạo môn luân lý, xây dựng nó lại trên một nền tảng mới là xã hội học. Trong số các triết gia đó, người nổi tiếng nhất là Diderot.</p><p></p><p>Mới đầu Diderot chỉ có ý dịch bộ Bách khoa tự điển Anh của Chamber, nhưng sau ông muốn làm một công trình rộng rãi hơn, đặc sắc hơn. Ông muốn soạn một bộ có thể chứa hết thảy những hiểu biết của nhân loại, giảng giải theo lý trí, nên phải kiếm thêm nhiều người cộng tác, trước sau tới 130 nhà đủ các giới: triết gia, khoa học gia, sử gia, văn nhân… như D’Alembert, Buffon, Rousseau, Condillac, D’Holbach, Voltaire… Cuốn đầu ra năm 1751 và cuốn cuối, cuốn 17, ra năm 1772, mặc dầu gặp nhiều trở ngại vì bị nhà cầm quyền cấm đoán. </p><p></p><p>Diderot và D’Alembert nhờ Voltaire viết vài mục. Ông viết xong, được cả bọn hoan nghênh, tôn ông như anh cả. Sau vì nhiều trở ngại, ông tách riêng ra, soạn một mình bộ Tự điển triết lý, đem hết bầu nhiệt huyết để khảo biện mọi vấn đề. Bộ đó thành một tác phẩm cổ điển: bài nào cũng sáng sủa, gọn gàng và hóm hỉnh.</p><p></p><p>Tư tưởng của ông trong bộ đó không có gì là độc đáo mà cũng không quá khích như Diderot. Có lẽ vì vậy ông tách ra khỏi nhóm Bách Khoa. Ông là một người hoạt động, không có thì giờ phối hợp thành một hệ thống. Mà có lẽ ông cũng không thích như vậy. Về già chắc ông thấy sở đoản đó, tự xét mình một cách quá nhũn: “Văn tôi hơi sáng sủa, tôi như những dòng suối nhỏ, trong vì không sâu”.</p><p></p><p>Về huyền học, ông yên lòng ngừng lại ở câu: “Chúng ta biết gì đâu?” của Montaigne, nghĩa là chỉ nghi ngờ hoàn toàn chứ không chịu tìm tòi thêm. Ông nhận là có Trời, có linh hồn, nhưng lòng tin của ông hình như không mạnh mà lại có tính cách thực tế.</p><p></p><p>Ông tự hỏi: “Theo tôi, mục tiêu quan trọng, lợi ích lớn, không phải biện luận về huyền học mà là cân nhắc có nên – vì cái lợi ích chung cho những con người tội nghiệp, khốn khổ, biết suy nghĩ là chúng ta – nhận rằng có một đứng Thượng đế ban hành thưởng phạt để vừa kìm hãn vừa an ủi chúng ta, hay là nên phủ nhận ý đó rồi buông xuôi trong tai ách vô hy vọng và phóng túng trong tội lỗi mà không hối hận”.</p><p></p><p>Rồi ông tự trả lời: “Nếu không có Trời thì chúng ta phải tạo ra một ông Trời”. Vậy về điểm đó, ông phản nhóm Diderot, nhưng chỉ phản một cách yếu ớt rồi bỏ qua. Ông bảo quốc gia phải có một tôn giáo và chính trị độc lập. Ông thiết tha cầu cho dân được tự do, miễn là đừng hại đến trật tự của nhà nước. Tóm lại, ta có thể nói tư tưởng của ông rất ôn hoà. Nhưng hành động của ông rất mạnh. Ông đòi hỏi rất nhiều cải cách cho đời sống của dân chúng được dễ thở hơn, chế độ được công bằng hơn và đó là một công lớn của ông đối với dân tộc Pháp.</p><p></p><p></p><p></p><p>Năm 1598, vua Henri IV ký một đạo sắc cho phép Cơ Đốc tân giáo [13] được truyền trong nước, trừ ở kinh đô Paris, và các tín đồ tân giáo được làm mọi nghề, trừ những chức quan trọng trong triều. Nhưng đến năm 1685, vua Louis XIV vụng về ban một đạo sắc để thủ tiêu sắc đó, làm cho nhiều tín đồ phải bỏ tài sản, quê hương, xin ngụ cư ở các nước láng giềng. Vua Louis XV vẫn giữ chính sách tai hại ấy. Tỉnh Toulouse chẳng hạn, tín đố tân giáo không được làm y sĩ, bán sách, in sách, bán thực phẩm…; thậm chí không được đi ở cho một người cựu giáo nữa; năm 1748, một người đàn bà bị phạt vạ ba ngàn quan (một số tiền rất lớn thời đó) vì đã kêu một bà mụ tân giáo đỡ đẻ.</p><p></p><p>Nhưng chuyện đó còn là chuyện nhỏ. Năm 1761, một người theo tân giáo tên là Jean Calas có hai đứa con, một trai một gái. Con gái theo cựu giáo, con trai theo tân giáo. Có lẽ vì làm ăn thất bại, người con trai tự ải. Theo luật thời đó, thây của kẻ tự tử phải lột hết quần áo, đặt trên tấm phên, đầu dốc ngược, kéo đi khắp châu thành, rồi treo cổ ở pháp trường. Người cha muốn tránh cái nhục đó, năn nỉ bà con họ hàng chứng thực rằng con mình bị bệnh mà chết. Thiên hạ xì xào đồn rằng trong nhà có án mạng, và cha đã giết con vì con muốn theo cựu giáo. Calas bị bắt, tra tấn rồi chết. Gia đình phải bỏ xứ, lại Ferney xin Voltaire che chở. Voltaire vừa uất hận, vừa thương tâm, bằng lòng giúp đỡ.</p><p></p><p>Năm sau, Elisabeth Sirven, con gái một người theo tân giáo, hoá điên, nhảy xuống giếng chết. Người ta phao tin rằng những người đồng đạo của cô đã giết cô, vì cô muốn theo cựu giáo.</p><p></p><p>Năm 1765, một cậu thanh niên mười chín tuổi cũng bị vu oan rồi bị tra tấn, bị chặt đầu, còn thây thì ném vào một đống lửa, giữa đám đông. Trong túi chàng đó có một cuốn Tự điển triết lý của Voltaire.</p><p></p><p>Lần này thì Voltaire không còn mỉa mai, giễu cợt nữa. Ông viết cho D’Alembert: “Không còn là lúc giỡn nữa; những lời nói đùa không hợp với những cuộc tàn sát”. Bất bình vì những cảnh bất công đó, ông thành một nhà hoạt động, tận lực tấn công, phất ngọn cờ Tẩy uế. Ông hô hào bạn bè, môn đồ xa gần tiếp tay ông. Triều đình hơi núng vì ta nên nhớ rằng tiếng tăm Voltaire đã vang khắp châu Âu, phải nhờ bà Pompadour nói giùm cho ông dịu xuống. Ông không dịu, lại còn tấn công mạnh hơn, cuối bức thư nào ông cũng ký bằng khẩu hiệu Tẩy uế. Ông cho xuất bản cuốn Bàn về đức bao dung, trong đó có đoạn “Quyền của nhân loại trong bất kỳ trường hợp nào chỉ có thể xây dựng trên quyền tự nhiên”, mà quy tắc quan trọng, quy tắc phổ biến của cái quyền đó là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo quy tắc ấy thì không có lý gì một người có thể bảo một người khác: “Mày phải tin điều tao tin, dù mày không tin được thì cũng phải tin, nếu không thì mày phải chết"[14].</p><p></p><p>Rồi từ “xưởng” Ferney, từ kinh đô Ferney, ông tung ra không biết bao nhiêu bài thuộc đủ loại: phê bình, cảo luận, thơ, truyện ngắn, ngụ ngôn, văn đàm thoại, văn phúng thích… ký tên Voltaire và hàng chục biệt hiệu khác. Bài nào cũng sáng sủa, linh động, nồng nhiệt. Đây là một đoạn trong một bức thư của ông:</p><p></p><p>“Tôi biết rằng cuồng tín chống với triết lý hăng hái tới bực nào. Triết lý có hai đứa con mà cuồng tín muốn giết như Calas, hai đứa con đó là Sự thực và lòng Bao dung; còn triết lý chỉ muốn hạ những đứa con của cuồng tín là Sự nói dối và Sự ngược đãi”.</p><p></p><p>Chưa bao giờ mà sức một người làm nổi một công việc tuyên truyền mạnh mẽ như vậy. Cả châu Âu kính phục tinh thần của ông già 72 tuổi, bệnh tật, gầy đét đó.</p><p></p><p>Ông chỉ công kích tinh thần bài xích ngoại đạo chứ không công kích tôn giáo, ông vẫn nhận có Trời, lại thường cầu nguyện:</p><p></p><p>“Tôi cầu Thượng đế cho loài người nhớ rằng họ là anh em ruột thịt, cho họ ghê tởm sự áp chế linh hồn…! Nếu chiến tranh không thể tránh được thì chúng ta rán đừng oán ghét nhau, đừng phân xẻ nhau trong cảnh thanh bình”.</p><p></p><p>“Người theo đạo hữu thần là một người tin chắc rằng có một Đấng tối cao vừa nhân từ vừa vạn năng sinh ra muôn loài… thấy tội thì phạt mà không tàn nhẫn, thấy đức thì thưởng một cách quảng đại. Tôn giáo của người đó là tôn giáo cổ nhất và rộng nhất; vì sự sùng bái một vị Thần xuất hiện trước tất cả các tín ngưỡng của nhân loại… Huynh đệ người đó ở khắp tứ hải, từ Bắc kinh tới Cayenne, hễ ai hiền triết thì đều là anh em người đó cả. Người đó tin rằng tôn giáo không phải là cái phần huyền học khó hiểu, cũng không phải ở những lễ nghi vô ích, mà ở lòng sùng bái và ở tinh thần công bằng. Làm thiện, đó là tế tự, thuận Thiên, đó là giáo lý. Tín đồ Hồi giáo rầy người đó: “Nếu anh không hành hương ở La Mecque thì coi chừng đấy”. Một thầy tu bảo người đó: “Nếu anh không đi lễ nhà thờ Đức Bà ở Lorette thì tai hoạ sẽ giáng xuống anh đấy”. Người đó không cần biết Lorette và La Mecque; nhưng giúp đỡ kẻ nghèo khổ và bênh vực kẻ bị áp bức”.</p><p></p><p>Chúng ta đọc cuốn Bàn về đức bao dung không thấy gì mới mẻ vì dân tộc ta từ xưa tới nay vốn không có tinh thần bài xích ngoại đạo; nhưng nếu chúng ta nhớ lại rằng mười mấy năm trước đây, thánh Gandhi đã tuyệt thực vì những vụ đổ máu giữa Ấn và Hồi, rồi lại bị một kẻ cuồng tín ám sát [15], và nếu chúng ta nghĩ rằng ở khắp thế giới ngày nay, vẫn có những kẻ chủ trương phải diệt kẻ khác để sống, không chịu cho ai có những quan điểm khác với quan niệm của mình thì chúng ta sẽ thấy tác phẩm đó của Voltaire vẫn còn hợp thời, và tuy phần đông chúng ta bây giờ đã biết khoan dung về tôn giáo, mà về nhiều khu vực khác, vẫn còn tinh thần hẹp hòi, cố chấp.</p><p></p><p></p><p></p><p>Trong thế kỷ XVIII, văn minh phương Đông, nhất là văn minh Trung Hoa truyền bá khá mạnh vào châu Âu nhờ tác phẩm của các giáo sĩ dòng Tên, như cuốn Chân tướng Trung Hoa của P. du Halde, cuốn Bút ký về dân tộc Trung Hoa của các nhà truyền giáo Âu ở Bắc Kinh. Những tác phẩm đó được dịch ra tiếng Anh, tiếng Đức và các “triết gia”, tức nhóm Diderot, Montesqieu, Voltaire…, say mê rồi thán phục văn minh phương Đông. Montesqieu ca tụng Trung Hoa trong cuốn Vạn pháp tinh lý, Diderot viết một mục về triết lý Trung Hoa trong bộ Bách khoa tự điển, còn Voltaire thì thường nhắc tới các hiền triết Trung Hoa trong cuốn Tự điển triết lý, lại soạn một kịch nhan đề Đứa trẻ mồ côi Trung Hoa. Kịch được diễn nhiều lần vì đập vào tính hiếu kỳ của quần chúng.</p><p></p><p>Vậy Voltaire có lẽ đã chịu ảnh hưởng của các triết gia Trung Hoa nhất là của Khổng Tử. Khi ông chế giễu các nhà lập pháp châu Âu “Bất lực, không trị nổi vợ con và đầy tớ, các ông ấy khoái chí đặt luật pháp để trị thiên hạ” thì tôi ngờ rằng ông đã đọc qua thuyết tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của Khổng học. Rồi câu này của ông nữa: “Khi quần chúng xen vào việc lý luận thì hỏng hết” cũng phảng phất cái ý của Khổng Tử trong câu: “Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị”.</p><p></p><p>Nhưng đó chỉ là giả thuyết tôi đưa ra thôi; có thể rằng hai triết gia đó “không hẹn mà gặp nhau”. Có điều chắc chắn là tư tưởng chính trị của Voltaire có vẻ ôn hoà, bảo thủ, nhân đạo, nhiều chỗ hợp với đạo Khổng, mà trái hẳn với thuyết của Rousseau. </p><p></p><p>Chưa muốn cho dân làm chủ vì dân còn ngu muội, nhiều tật, ông chủ trương chế độ sáng suốt, bắt các vị quân chủ phải có đức như Marc Aurèle, phải thực tâm giáo hoá dân, nhưng kém Mạnh Tử ở chỗ không chỉ cho ta trong trường hợp bị một bạo chúa cai trị thì phải làm sao.</p><p></p><p>Ông ghét chiến tranh như Mạnh Tử, bảo: “Cái tội nặng nhất là nội chiến, nhưng không có kẻ gây chiến nào lại không tô điểm cái tội của mình, lấy lẽ rằng phải bảo vệ sự công bằng”.</p><p></p><p>Ông cho quan niệm quốc gia là hơi hẹp: “Nghĩ mà buồn, nhiều khi muốn làm một nhà ái quốc thì lại phải làm kẻ thù của những dân tộc khác…, cầu cho nước mình hùng cường và cầu cho nước láng giềng suy bại”. Vì có tinh thần đó cho nên khi Pháp giao chiến với các nước Anh và Phổ ông vẫn can đảm ca tụng văn chương Anh và Phổ. Ông nói: “Các dân tộc còn chém giết nhau thì không có lý gì để yêu một dân tộc này hơn một dân tộc khác”.</p><p></p><p>Cũng vì tinh thần ghét đổ máu đó mà ông không ưa cách mạng, chỉ muốn cải thiện lần lần xã hội. Về điểm đó ông phản đối Rousseau, người hô hào dân chúng phải đoàn kết nhau lại trong tinh thần tương thân tương ái mà huỷ bỏ hết những luật lệ cũ bất công để xây dựng lại một xã hội bình đẳng. Cũng như Mạnh Tử, Voltaire bảo bất bình đẳng là bản chất của xã hội, hễ còn cạnh tranh để sinh tồn thì loài người không thể bình đẳng được. Có bình đẳng chỉ là bình đẳng ở phương diện tự do, phương diện pháp luật: “Tất cả các người dân không có uy quyền ngang nhau, nhưng hết thảy đều được tự do như nhau; và điều đó dân tộc Anh nhờ kiên nhẫn mà thực hiện được. Tự do tức là chỉ tuỳ thuộc pháp luật”.</p><p></p><p>Khi Rousseau gởi tặng ông một cuốn Luận về nguồn gốc sự bất bình đẳng, trong đó Rousseau mạt sát văn minh, mạt sát văn học, khoa học và đề nghị trở về đời sống thiên nhiên như các dân tộc dã man, ông trả lời, giọng cực kỳ mỉa mai:</p><p></p><p>“Thưa ông, tôi đã nhận được cuốn sách ông mới viết để mạt sát nhân loại; tôi xin cảm ơn ông…</p><p></p><p>Chưa bao giờ người ta dùng nhiều trí xảo đến như vậy để muốn cảm hoá chúng ta thành loài thú.</p><p></p><p>Đọc tác phẩm của ông, người ta sinh ra cái ý muốn bò bốn cẳng. Nhưng vì trên sáu chục năm nay, tôi đã bỏ mất thói quen bò rồi, cho nên tôi đau khổ nói rằng không thể tập lại thói lại thói đó được nữa (…)</p><p></p><p>(Thư ngày 20-8-1755)</p><p></p><p>Khi Rousseau cho xuất bản cuốn Dân ước luận cũng để diễn tả cái thuyết trở về đời sống cổ sơ đó, ông chán nản bảo một người bạn: </p><p></p><p>“Ông coi đấy, loài khỉ giống loài người ra sao, thì Jean Jacques giống triết gia làm vậy”.</p><p></p><p>Mỉa mai không phải là phê bình mà triết lý của Voltaire cũng kém triết lý của Rousseau. Nhưng ta phải nhận Voltaire có những hành động rất đẹp. Khi hay tin nhà cầm quyền Thuỵ Sĩ ra lệnh đốt tác phẩm đó thì giữ đúng nguyên tắc tự do ngôn luận, Voltaire viết thư cho Rousseau:</p><p></p><p>“Tôi không cùng ý kiến với ông, nhưng suốt đời tôi, tôi sẽ bênh vực quyền của ông được bày tỏ ý kiến đó”.</p><p></p><p>Sau khi Rousseau phải trốn tránh cho khỏi bị bắt bớ, Voltaire mời lại ở chung với mình. Thái độ đó thật là quảng đại, đáng cho ta cảm phục.</p><p></p><p></p><p></p><p>Đọc tiểu sử danh nhân phương Đông, đôi khi ta bực mình vì không thấy chép một tật xấu nào của các vị đó. Không nói Khổng Tử, Mạnh Tử, ngay đến Án Tử, Khổng Minh, Đỗ Phủ, Vương Vương Minh… cũng đều là những bậc đại đức ngay từ nhỏ. Và tuy Quản Trọng hồi trẻ đi buôn chung với Bảo Thúc, có hành vi mờ ám, chia lời thì giữ phần nhiều cho mình, nhưng tật đó vẫn được Bảo Thúc biện hộ cho là do lòng hiếu, vì còn mẹ già, phải tiêu nhiều chứ không phải vì gian tham, và sử gia cũng chép lại như vậy. Thành thử những vị nào được coi là vĩ nhân cũng đều hoàn toàn hết.</p><p></p><p>Người phương Tây có quan niệm khác, chép thì chép đủ, dở cũng như hay, cho nên ta thấy danh nhân của họ rất gần chúng ta. Alexandre đại đế kiêu căng và tàn nhẫn, Tolstoi nhu nhược và truỵ lạc, Dostoïevsky ham mê cờ bạc, Voltaire còn nhiều tật hơn nữa: phù phiếm, ham danh, cay độc, dụ dỗ vợ người ta, ham tiền đến nỗi làm thượng khách một đại vương mà lén lúc đầu cơ… Nhưng có tật lớn thì ông cũng có những đức rất lớn. Ông già làm vườn ở Ferney đó rất thương người mà trại của ông thành một hội phước thiện. Ở xa cũng như ở gần, ai hỏi công việc gì, muốn nhờ cậy ông điều gì, ông cũng sẵn lòng giúp đỡ. Che chở, an ủi kẻ cô đơn, kiếm việc cho làm, chỉ bảo, khuyên lơn. Có kẻ ăn cắp của ông rồi ân hận lại quỳ gối xin lỗi ông, ông cúi xuống, đỡ dậy, bảo: “Ấy chết, sao lại quỳ như vậy? Chỉ trước mặt Thượng đế cháu mới nên quỳ thôi. Thôi, chuyện đó bỏ qua, đừng nghĩ tới nữa”. Thấy một người cháu gái của Corneille nghèo khổ, ông thương tâm, đem về nuôi, cho đi học rồi lại chia cho một số tiền hồi môn nữa. Ông bảo: “Sự nghiệp của tôi là vài ba việc thiện mà tôi làm được đó. Khi ai chỉ trích tôi thì tôi chống cự lại, hung dữ như quỷ, tôi không chịu thua ai hết; nhưng thực ra tôi là một con quỷ hiền và rốt cuộc, tôi cười hìu hì”.</p><p></p><p>Vì có lòng quảng đại và nhân từ đó, về già Voltaire được quốc dân kính mến và danh ông mỗi ngày một rực rỡ.</p><p></p><p></p><p></p><p>Năm 1770, bạn bè quyên tiền để đúc tượng bán thân cho ông. Hàng ngàn người, từ vua chúa tới thường dân tranh nhau cái vinh dự được quyên. Ông ngần ngại không muốn, nhưng không ai nghe và vầng trán cao, nụ cười mỉa mai của ông đã được lưu lại hậu thế.</p><p></p><p>Ít tháng trước khi mất, Voltaire muốn thăm Paris mà ông đã xa cách ba chục năm. Các y sĩ khuyên không nên đi, ông cương quyết: “Nếu tôi muốn làm một việc điên khùng thì không ai ngăn cản được tôi”. Ông nhớ Paris quá, muốn chết tại kinh đô văn hoá đó. Ông đi từng chặng một, tới Paris thì xương cốt muốn rã rời. Ông lại nhà một bạn cố tri, bảo: “Tôi ngừng chết để lại thăm bác đây”. Hôm sau ba trăm người lại kính cẩn chào ông đến nỗi vua Louis XVI [16] phải ghen. Trong số tân khách đó có một danh nhân ở Hoa Kỳ mới qua với một đứa cháu. Danh nhân đó là Franklin, kém ông 12 tuổi và cũng suốt đời chiến đấu cho tự do.</p><p></p><p>Tuy bệnh tật, đi không vững ông cũng rán lại Hàn lâm viện. Quần chúng hoan hô nhiệt liệt, có kẻ lên xe, cắt một miếng áo của ông để làm kỷ niệm. Tới viện ông đề nghị sửa lại bộ tự điển và hăng hái như hồi còn trẻ, tự lãnh việc coi lại phần chữ A.</p><p></p><p>Ở hý viện, người ta diễn kịch Irène của ông. Ông tới coi, khán giả kinh ngạc không hiểu sao một ông lão 83 tuổi mà còn soạn được kịch, reo hò vang rạp khi thấy ông, làm một người ngoại quốc tưởng rằng họ điên, phải bỏ ra về. Được hưởng hết những vinh dự mà nhân loại chưa bao giờ ban cho một người đồng thời như vậy, ông bình tĩnh tắt nghỉ ngày 30-5-1778.</p><p></p><p>Nhưng ở Paris người ta không cho mai táng danh nhân đó theo lễ và bạn bè ông phải đặt thây ông ngồi trong một chiếc xe như còn sống, chở tới Scellière, nơi đó một mục sư khoáng đạt hiểu rằng thiên tài không bắt buộc phải theo luật lệ, bằng lòng cho chôn ở đất thánh. Năm 1791, thi hài ông được đem về điện Panthéon ở Paris. Một trăm ngàn người đi theo quan tài và sáu trăm ngàn người đứng đón ở vệ đường. Nhiều ông vua có ngôi cũng không được cái vinh dự đó.</p><p></p><p></p><p>Ngày nay xét lại công lao của Voltaire, ta thấy về lãnh vực triết lý, ông không cống hiến được một hệ thống nào mới mẻ cho nhân loại. Tất cả sự nghiệp của ông chỉ ở ngọn bút bén và mạnh như búa rìu. Ai cũng phải nhận ông già Ferney này có tài bút chiến nhất cổ kim và đã biết dùng nó, kiên nhẫn, nhiệt tâm dùng nó, bất chấp mọi nguy hiểm, để phô diễn, bênh vực những tư tưởng tân tiến và cao cả, để “vạch đường cho nhân loại tiến tới tự do”.</p><p></p><p>Từ khi ông mất tới nay, đã non hai thế kỷ, sao không thấy xuất hiện một thiên tài như ông nữa? Tại nhân loại đã được tự do cả rồi ư?</p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">Tác giả Nguyễn Hiến Lê</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 35761, member: 28779"] Voltaire chỉ ở biệt thự Lạc thú có ba bốn năm để dưỡng sức, rồi năm 1758, di cư lại Ferney, một nơi ở biên giới Thuỵ Sĩ và Pháp. Ông lựa chỗ đó để nếu chính phủ Thuỵ Sĩ muốn bắt ông thì ông lẻn qua bên Pháp, mà chính phủ Pháp muốn bắt ông thì ông lẻ qua Thuỵ Sĩ. Như vậy là ông đã dự bị, đã vạch một chương trình hoạt động rồi. Ông gọi một cô cháu [9] lại phụng dưỡng ông. Ông vừa trồng cây – bốn ngàn cây – vừa viết sách, tiếp khách, nhất là tung những bức thư ra khắp bốn phương trời. Chẳng bao lâu Ferney thành một cái “xưởng” đúc tư tưởng, thành kinh đô tinh thần của châu Âu. Tất cả các nhà bác học, các văn nhân, các vua chúa lại thăm ông hoặc thư từ với ông. Những số tiền đầu cơ được, ông đem phung phí trong việc tiếp tân. Một người bạn lại chơi, ngỏ ý muốn ở lại sáu tuần; vị Mạnh Thường Quân phương Tây hỏi người đó: “Bác có biết bác với Don Quichotte khác nhau ra sao không? Khác nhau chỗ này: Don Quichotte gặp khách sạn nào cũng cho là lâu đài, còn bác thì cho lâu đài này là khách sạn”. Cả hai cùng cười. Nhưng khách chưa nhiều bằng thư. Đủ các hạng người khắp nơi viết thư hỏi ông về mọi vấn đề. Một người Đức xin ông cho biết “một cách kín đáo rằng có Thượng đế hay không”. Có những người đàn bà bị hiếp đáp năn nỉ ông bênh vực, can thiệp giùm với nhà cầm quyền. Vua Thuỵ Điển Gustave III, vua Đan Mạch Christian VII, Nga hoàng Catherine II đều lấy làm vinh hạnh được trao đổi ý kiến với ông. Chính vua nước Phổ cũng làm lành và tiếp tục thư từ, tự thú là “mê cái thiên tài rực rỡ” của vua Ferney. Mà quả thực thiên tài ông rực rỡ. Môn gì ông cũng biết, loại nào ông cũng viết. Thơ của ông rất tầm thường thật, nhưng ta nên nhớ cả thế kỷ XVIII, ở Pháp chỉ có mỗi một người đáng mang danh thi sĩ là André Chenier, còn thơ của các nhà khác thì không hơn gì thơ của Voltaire. Kịch của ông cũng được được, những bộ sử của ông mới mẻ, những khảo cứu về khoa học, triết học tuy không sâu sắc nhưng sáng sủa, hấp dẫn, có giọng nồng nhiệt, còn truyện thì tới nay đọc vẫn còn thú vị. Thiên tài của ông hiện rõ nhất trong hàng ngàn bức thư của ông. Cổ kim Đông Tây chưa người nào viết thư nhiều như vậy mà hay như vậy. Đủ giọng: bỡn cợt, hóm hỉnh, châm biếm, mỉa mai, cảm động, nhẹ nhàng, sâu sắc mà luôn luôn tự nhiên, luôn luôn tự đáy lòng phát ra, tuôn ra, lưu loát, mạnh mẽ. Năm 1742, ông yêu cầu cô Dumesnil trổ tài để lột hết tinh thần trong vở kịch Mérope của ông, cô đáp: “Khó quá, phải như có quỷ nhập xác mới diễn được như ý ông”. Ông đáp: “Đúng vậy, muốn thành công trong bất kỳ nghệ thuật nào phải có quỷ nhập vào xác mình mới được”. Hết thảy những nhà phê bình ông, kể cả kẻ thù ông cũng phải nhận rằng ông có điều kiện ấy. Sainte Beuve, một phê bình gia ở thế kỷ XIX, bảo: “Quỷ nhập xác ông ấy”. Một nhà phê bình khác cũng nói: “Diêm vương đã trao hết quyền hành trong tay Voltaire”. Đọc những bức thư của ông, ta thấy những lời đó không ngoa. Đọc giả chắc còn nhớ giọng ông mỉa mai chua chát viên phụ chính, đoạn sau sẽ đọc thêm lời chỉ trích cay độc J.J. Rouseau; ở đây tôi xin giới thiệu một bức thư ông đùa cợt một y sĩ: Thư gởi ông Bagieu, Y sĩ thủ thuật Thưa ông, bức thư, những lời cảm động, những lời khuyên của ông làm tôi xúc động rất mạnh và tôi xin thâm tạ ông. Tôi muốn đi ngay tức thì để nhờ tay ông săn sóc (…). Tôi đã mang qua Berlin khoảng hai chục cái răng, nay còn độ sáu cái; tôi mang theo hai con mắt, nay đã gần như mất một con; tôi không mang theo bệnh đan độc, tôi đã lời được bệnh đó và tôi phải ân cần với nó dữ. Tôi không có vẻ là một thanh niên sắp cưới vợ, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã gần sáu chục tuổi, mà Pascal và Alexandre chỉ sống vào khoảng nửa cái tuổi đó… Cái mà người ta gọi là linh hồn của tôi, Hoá công đã phó cho nó một cái túi mỏng manh nhất và tàn tệ nhất. Tuy vậy, tôi đã chôn gần hết các y sĩ của tôi, tới cả ông Mettrie [10] nữa. Chỉ còn chưa chôn được Codénius, ngự y của Phổ vương; nhưng cái ông đó có vẻ sống dai hơn tôi. Ít nhất tôi cũng chết do tay ông ấy. Thỉnh thoảng ông ấy biên cho tôi những cái toa dài thậm thượt bằng tiếng Đức, tôi liệng cả vào lửa, mà cũng chẳng thấy khó chịu gì hơn. Ông ấy là một người rất tốt, cũng biết nhiều như những người khác; và khi ông ta thấy răng tôi rụng và tôi bị chứng hoại huyết thì ông ta bảo rằng tôi mắc hoại huyết bệnh. Ở đây [11], có nhiều triết gia nghĩ rằng người ta có thể thọ như Bành Tổ nếu như chịu bịt kín các lỗ chân lông mà sống như con tằm trong cái kén (…). Tôi không biết phương pháp đó có kết quả hay không; tôi chỉ biết rằng mùa đông này tôi không thể đi xa được. Tôi đã dùng lò sưởi để tạo cho tôi một mùa xuân, và khi mùa xuân thiên nhiên trở về, tôi mong, nếu tôi còn sống, được mang lại ông bộ xương của tôi. Ông sẽ mổ xẻ nó nếu ông muốn; trong đó ông sẽ thấy trái tim còn đập vì cảm tạ và quyến luyến ông. Berlin, ngày 19 tháng 12 năm 1952 Khi người ta có cái giọng mỉa mai chua chát, cay đắng thì khó mà sung sướng được lắm. Ngay từ hồi trẻ, Voltaire đã chống lại cái mốt lạc quan cho rằng thế giới này là thế giới tốt đẹp nhất mà Hoá công có thể tạo ra được, huống hồ là lúc này về già, đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, trông thấy bao nhiêu nhân tình thế thái thì đức tin và lòng hy vọng của ông làm sao mà chẳng nhụt nhiều. Năm 1755, tháng 11, ông hay tin một cơn động đất ghê gớm ở Lisbonne chôn sống ba chục ngàn người một lúc, đúng vào Vạn thánh tiết, trong khi thiện nam tín nữ lễ bái chật các nhà thờ. Rồi ít tháng sau, chiến tranh lại nổ, kéo dài tới bảy năm. Vì tranh giành nhau thuộc địa, Pháp Anh kéo phe gây chiến với nhau. Phe Pháp có Áo, Nga thua phe Anh và Phổ. Ông cho rằng thiên hạ điên khùng mới chém giết nhau vì “vài mẫu đất đầy tuyết ở Gia Nã Đại”. Giận nhất là thiên hạ nghe theo Rousseau, cho rằng tai nạn ở Lisbonne là do loài người tự gây ra; vì không sống giữa thiên nhiên, đi chui rút trong các thành thị nghẹt thở, mới đến nỗi chết cả đống như vậy; rồi lại giễu ông là bi quan một cách vô lý. Ông phát điên lên, vung ra “thứ vũ khí ghê gớm nhất mà loài người chưa bao giờ dùng tới, tức giọng mỉa mai của Voltaire”. Trong ba ngày ông viết xong truyện Candide (Ngây thơ) (1759), tác phẩm có giá trị nhất của ông. Anatole France bảo: “Dưới ngón tay của Voltaire, ngọn bút chạy và cười”. Nhưng trong nụ cười của Voltaire người ta thấy một giọng buồn chán, chua xót. Truyện không dùng phép tả cảnh, chỉ xem tự sự và đàm thoại. Động tác biến chuyển rất nhanh. Candide – nhân vật chính trong truyện – là môn đệ của Pangloss, một triết gia trong phái lạc quan chủ trương rằng cái gì cũng tuyệt hảo trong cái thế giới tuyệt hảo, tức thế giới chúng ta. Candide tin thuyết đó lắm, nhưng lại mê nàng Cunégonde nên bị chủ đuổi và quảng đời gian truân của chàng bắt đầu từ đó. Thôi thì đủ cả, không thiếu một tai nạn nào. Bị cưỡng bức nhập ngũ, suýt bị bắn vì đào ngũ. Chiến tranh tàn phá hết. Mất tin tức người yêu, gặp thầy là Pangloss. Hai thầy trò bỏ xứ Westphalie để qua Lisbonne. Giữa đường bị dông tố, đấm tàu. Thoát chết, tới Lisbonne nhằm lúc châu thành đó bị nạn động đất. Rồi bị giam cầm, tra khảo. Tình cờ gặp được người yêu lúc đó đương ở với một người Do Thái. Giết người Do Thái rồi hai vợ chồng dắt nhau qua châu Mỹ, tới Buenos Ayres, phiêu bạt từ Buenos Ayres [12] tới Paraguay, sau đó thoát chết ở Eldorado, một xứ bạc vàng châu báu rất nhiều mà dân thì hiền lương, vui vẻ, không bài kích ngoại đạo. Chàng rời Eldorado với một đoàn cừu chở rất nhiều bảo vật nhưng dọc đường bị lường gạt, cướp bóc hết. Vượt biển qua Pháp, lại bị đủ các hạng người lường gạt nữa. Qua Anh, qua Ý, lại thăm một nhà quý phái chán đời, dự tiệc với sáu ông vua mất ngôi. Sau cùng Candide tới Constantinople, gặp lại được Pangloss và nàng Cunégonde lúc này đã già nua, xấu xí, bệnh tật. Cả ba nghèo xác, sống chung với nhau, an phận làm vườn. Voltaire tả đủ nỗi khổ của nhân loại: bệnh tật, chiến tranh, tàn sát, nô lệ, lường gạt, cướp bóc, và đủ các tật xấu con người: ngu độn, gian trá, tàn nhẫn, truỵ lạc, bạc ác… Pangloss trong truyện ám chỉ Leibniz, cho ở đời cái gì cũng tuyệt hảo, rồi hô hào hưởng hết lạc thú ở đời, vì trong vũ trụ, bất kỳ cái gì Hoá công tạo ra là cũng để cho đời người được đủ bề tiện lợi và sung sướng: gà heo lê táo để ta ăn, hoa đẹp để ta ngắm, thuỷ triều để tàu vô bến được, chân để cho ta đi giày, và mũi chẳng những để cho ta ngửi mà còn cho ta đeo kính nữa. Rousseau nối gót Leibniz, cũng chủ trương rằng đời sống thiên nhiên là hoàn toàn hơn cả, mà nhân loại phải trở lại đời sống sơ khai hồi ăn lông ở lổ vì cái gì tạo hoá sanh ra cũng tốt mà cái gì loài người tạo ra cũng xấu. Voltaire nhắm Leibniz mà đồng thời cũng chỉ trích cả Rousseau. Thú vị nhất là đoạn kết, sau khi bộ ba Pangloss, Candide, Cunégonde kiếm được miếng vườn an phận sống đời tàn ở Constantinople, Pangloss còn thuyết Candide: “Tất cả những biến cố đó đều có liên quan với nhau trong cái thế giới tuyệt hảo vì nếu anh không bị chủ đuổi ra khỏi một lâu đài đẹp; nếu không bị tra xét, nếu không phải đi bộ khắp châu Mỹ…; nếu không mất hết những con cừu ở xứ thần tiên Eldorado, thì làm sao bây giờ anh được ăn những trái thanh yên dầm đường và những hột đậu phụng này phải không?”. Candide đáp: “Rất đúng, nhưng chúng ta phải làm vườn đi thôi”. Năm tiếng “Phải làm vườn đi thôi” mỉa mai mà thâm thuý làm sao! Nó thành một châm ngôn, cũng như hai câu dưới đây ở những đoạn khác trong truyện: “Sự làm việc tránh cho ta được ba đại hoạ: buồn chán, tàn ác và nghèo khốn”. “Làm việc mà đừng lý luận: đó là cách độc nhất để làm cho đời sống khả kham”. Nhưng cái chán đời của Voltaire không có tính cách tiêu cực. Trong truyện Candite, bên cạnh những quân truỵ lạc, tàn nhẫn, ti tiện, vẫn có người lương thiện, quảng đại, trung thành. Chính Pangloss cũng là một người rất dễ thương. Cunégonde cũng có nhiều đức, còn Candide thì chỉ có mỗi tật là ngây thơ. Lời khuyên của ông: “Phải làm vườn đi thôi”, có ý nghĩa lạc quan. Ông không tin rằng thế giới này hoàn toàn, nhưng nếu mọi người chịu làm mãnh vườn của mình, nghĩa là làm bổn phận của mình thì xã hội sẽ tàm tạm được. Và ông cũng siêng làm vườn của ông, khu vườn cây ở Ferney – ông trồng bốn ngàn cây như tôi đã nói – và khu vườn tinh thần: soạn sách, viết báo, viết thư để đả đảo sự ngu muội, sự bất công. Ông hợp tác với Diderot để soạn bộ Bách khoa tự điển. Diderot là một triết gia duy vật, có lẽ chịu ảnh hưởng của một tư tưởng gia đương thời: La Mettri. La Mettri bị đày vì xuất bản một cuốn nhan đề Người máy trong đó ông tuyên bố rằng toàn thể vũ trụ, cả đến con người nữa, cũng chỉ là một bộ máy, không có gì là linh hồn cả, và sở dĩ loài người thông minh hơn vạn vật là vì có nhiều nhu cầu hơn chúng. Tư tưởng đó quả thật là táo bạo, quá khích, tới nay nhân loại chưa dám nhận là đúng. Một số đông triết gia khác hưởng ứng, muốn cải tạo môn luân lý, xây dựng nó lại trên một nền tảng mới là xã hội học. Trong số các triết gia đó, người nổi tiếng nhất là Diderot. Mới đầu Diderot chỉ có ý dịch bộ Bách khoa tự điển Anh của Chamber, nhưng sau ông muốn làm một công trình rộng rãi hơn, đặc sắc hơn. Ông muốn soạn một bộ có thể chứa hết thảy những hiểu biết của nhân loại, giảng giải theo lý trí, nên phải kiếm thêm nhiều người cộng tác, trước sau tới 130 nhà đủ các giới: triết gia, khoa học gia, sử gia, văn nhân… như D’Alembert, Buffon, Rousseau, Condillac, D’Holbach, Voltaire… Cuốn đầu ra năm 1751 và cuốn cuối, cuốn 17, ra năm 1772, mặc dầu gặp nhiều trở ngại vì bị nhà cầm quyền cấm đoán. Diderot và D’Alembert nhờ Voltaire viết vài mục. Ông viết xong, được cả bọn hoan nghênh, tôn ông như anh cả. Sau vì nhiều trở ngại, ông tách riêng ra, soạn một mình bộ Tự điển triết lý, đem hết bầu nhiệt huyết để khảo biện mọi vấn đề. Bộ đó thành một tác phẩm cổ điển: bài nào cũng sáng sủa, gọn gàng và hóm hỉnh. Tư tưởng của ông trong bộ đó không có gì là độc đáo mà cũng không quá khích như Diderot. Có lẽ vì vậy ông tách ra khỏi nhóm Bách Khoa. Ông là một người hoạt động, không có thì giờ phối hợp thành một hệ thống. Mà có lẽ ông cũng không thích như vậy. Về già chắc ông thấy sở đoản đó, tự xét mình một cách quá nhũn: “Văn tôi hơi sáng sủa, tôi như những dòng suối nhỏ, trong vì không sâu”. Về huyền học, ông yên lòng ngừng lại ở câu: “Chúng ta biết gì đâu?” của Montaigne, nghĩa là chỉ nghi ngờ hoàn toàn chứ không chịu tìm tòi thêm. Ông nhận là có Trời, có linh hồn, nhưng lòng tin của ông hình như không mạnh mà lại có tính cách thực tế. Ông tự hỏi: “Theo tôi, mục tiêu quan trọng, lợi ích lớn, không phải biện luận về huyền học mà là cân nhắc có nên – vì cái lợi ích chung cho những con người tội nghiệp, khốn khổ, biết suy nghĩ là chúng ta – nhận rằng có một đứng Thượng đế ban hành thưởng phạt để vừa kìm hãn vừa an ủi chúng ta, hay là nên phủ nhận ý đó rồi buông xuôi trong tai ách vô hy vọng và phóng túng trong tội lỗi mà không hối hận”. Rồi ông tự trả lời: “Nếu không có Trời thì chúng ta phải tạo ra một ông Trời”. Vậy về điểm đó, ông phản nhóm Diderot, nhưng chỉ phản một cách yếu ớt rồi bỏ qua. Ông bảo quốc gia phải có một tôn giáo và chính trị độc lập. Ông thiết tha cầu cho dân được tự do, miễn là đừng hại đến trật tự của nhà nước. Tóm lại, ta có thể nói tư tưởng của ông rất ôn hoà. Nhưng hành động của ông rất mạnh. Ông đòi hỏi rất nhiều cải cách cho đời sống của dân chúng được dễ thở hơn, chế độ được công bằng hơn và đó là một công lớn của ông đối với dân tộc Pháp. Năm 1598, vua Henri IV ký một đạo sắc cho phép Cơ Đốc tân giáo [13] được truyền trong nước, trừ ở kinh đô Paris, và các tín đồ tân giáo được làm mọi nghề, trừ những chức quan trọng trong triều. Nhưng đến năm 1685, vua Louis XIV vụng về ban một đạo sắc để thủ tiêu sắc đó, làm cho nhiều tín đồ phải bỏ tài sản, quê hương, xin ngụ cư ở các nước láng giềng. Vua Louis XV vẫn giữ chính sách tai hại ấy. Tỉnh Toulouse chẳng hạn, tín đố tân giáo không được làm y sĩ, bán sách, in sách, bán thực phẩm…; thậm chí không được đi ở cho một người cựu giáo nữa; năm 1748, một người đàn bà bị phạt vạ ba ngàn quan (một số tiền rất lớn thời đó) vì đã kêu một bà mụ tân giáo đỡ đẻ. Nhưng chuyện đó còn là chuyện nhỏ. Năm 1761, một người theo tân giáo tên là Jean Calas có hai đứa con, một trai một gái. Con gái theo cựu giáo, con trai theo tân giáo. Có lẽ vì làm ăn thất bại, người con trai tự ải. Theo luật thời đó, thây của kẻ tự tử phải lột hết quần áo, đặt trên tấm phên, đầu dốc ngược, kéo đi khắp châu thành, rồi treo cổ ở pháp trường. Người cha muốn tránh cái nhục đó, năn nỉ bà con họ hàng chứng thực rằng con mình bị bệnh mà chết. Thiên hạ xì xào đồn rằng trong nhà có án mạng, và cha đã giết con vì con muốn theo cựu giáo. Calas bị bắt, tra tấn rồi chết. Gia đình phải bỏ xứ, lại Ferney xin Voltaire che chở. Voltaire vừa uất hận, vừa thương tâm, bằng lòng giúp đỡ. Năm sau, Elisabeth Sirven, con gái một người theo tân giáo, hoá điên, nhảy xuống giếng chết. Người ta phao tin rằng những người đồng đạo của cô đã giết cô, vì cô muốn theo cựu giáo. Năm 1765, một cậu thanh niên mười chín tuổi cũng bị vu oan rồi bị tra tấn, bị chặt đầu, còn thây thì ném vào một đống lửa, giữa đám đông. Trong túi chàng đó có một cuốn Tự điển triết lý của Voltaire. Lần này thì Voltaire không còn mỉa mai, giễu cợt nữa. Ông viết cho D’Alembert: “Không còn là lúc giỡn nữa; những lời nói đùa không hợp với những cuộc tàn sát”. Bất bình vì những cảnh bất công đó, ông thành một nhà hoạt động, tận lực tấn công, phất ngọn cờ Tẩy uế. Ông hô hào bạn bè, môn đồ xa gần tiếp tay ông. Triều đình hơi núng vì ta nên nhớ rằng tiếng tăm Voltaire đã vang khắp châu Âu, phải nhờ bà Pompadour nói giùm cho ông dịu xuống. Ông không dịu, lại còn tấn công mạnh hơn, cuối bức thư nào ông cũng ký bằng khẩu hiệu Tẩy uế. Ông cho xuất bản cuốn Bàn về đức bao dung, trong đó có đoạn “Quyền của nhân loại trong bất kỳ trường hợp nào chỉ có thể xây dựng trên quyền tự nhiên”, mà quy tắc quan trọng, quy tắc phổ biến của cái quyền đó là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo quy tắc ấy thì không có lý gì một người có thể bảo một người khác: “Mày phải tin điều tao tin, dù mày không tin được thì cũng phải tin, nếu không thì mày phải chết"[14]. Rồi từ “xưởng” Ferney, từ kinh đô Ferney, ông tung ra không biết bao nhiêu bài thuộc đủ loại: phê bình, cảo luận, thơ, truyện ngắn, ngụ ngôn, văn đàm thoại, văn phúng thích… ký tên Voltaire và hàng chục biệt hiệu khác. Bài nào cũng sáng sủa, linh động, nồng nhiệt. Đây là một đoạn trong một bức thư của ông: “Tôi biết rằng cuồng tín chống với triết lý hăng hái tới bực nào. Triết lý có hai đứa con mà cuồng tín muốn giết như Calas, hai đứa con đó là Sự thực và lòng Bao dung; còn triết lý chỉ muốn hạ những đứa con của cuồng tín là Sự nói dối và Sự ngược đãi”. Chưa bao giờ mà sức một người làm nổi một công việc tuyên truyền mạnh mẽ như vậy. Cả châu Âu kính phục tinh thần của ông già 72 tuổi, bệnh tật, gầy đét đó. Ông chỉ công kích tinh thần bài xích ngoại đạo chứ không công kích tôn giáo, ông vẫn nhận có Trời, lại thường cầu nguyện: “Tôi cầu Thượng đế cho loài người nhớ rằng họ là anh em ruột thịt, cho họ ghê tởm sự áp chế linh hồn…! Nếu chiến tranh không thể tránh được thì chúng ta rán đừng oán ghét nhau, đừng phân xẻ nhau trong cảnh thanh bình”. “Người theo đạo hữu thần là một người tin chắc rằng có một Đấng tối cao vừa nhân từ vừa vạn năng sinh ra muôn loài… thấy tội thì phạt mà không tàn nhẫn, thấy đức thì thưởng một cách quảng đại. Tôn giáo của người đó là tôn giáo cổ nhất và rộng nhất; vì sự sùng bái một vị Thần xuất hiện trước tất cả các tín ngưỡng của nhân loại… Huynh đệ người đó ở khắp tứ hải, từ Bắc kinh tới Cayenne, hễ ai hiền triết thì đều là anh em người đó cả. Người đó tin rằng tôn giáo không phải là cái phần huyền học khó hiểu, cũng không phải ở những lễ nghi vô ích, mà ở lòng sùng bái và ở tinh thần công bằng. Làm thiện, đó là tế tự, thuận Thiên, đó là giáo lý. Tín đồ Hồi giáo rầy người đó: “Nếu anh không hành hương ở La Mecque thì coi chừng đấy”. Một thầy tu bảo người đó: “Nếu anh không đi lễ nhà thờ Đức Bà ở Lorette thì tai hoạ sẽ giáng xuống anh đấy”. Người đó không cần biết Lorette và La Mecque; nhưng giúp đỡ kẻ nghèo khổ và bênh vực kẻ bị áp bức”. Chúng ta đọc cuốn Bàn về đức bao dung không thấy gì mới mẻ vì dân tộc ta từ xưa tới nay vốn không có tinh thần bài xích ngoại đạo; nhưng nếu chúng ta nhớ lại rằng mười mấy năm trước đây, thánh Gandhi đã tuyệt thực vì những vụ đổ máu giữa Ấn và Hồi, rồi lại bị một kẻ cuồng tín ám sát [15], và nếu chúng ta nghĩ rằng ở khắp thế giới ngày nay, vẫn có những kẻ chủ trương phải diệt kẻ khác để sống, không chịu cho ai có những quan điểm khác với quan niệm của mình thì chúng ta sẽ thấy tác phẩm đó của Voltaire vẫn còn hợp thời, và tuy phần đông chúng ta bây giờ đã biết khoan dung về tôn giáo, mà về nhiều khu vực khác, vẫn còn tinh thần hẹp hòi, cố chấp. Trong thế kỷ XVIII, văn minh phương Đông, nhất là văn minh Trung Hoa truyền bá khá mạnh vào châu Âu nhờ tác phẩm của các giáo sĩ dòng Tên, như cuốn Chân tướng Trung Hoa của P. du Halde, cuốn Bút ký về dân tộc Trung Hoa của các nhà truyền giáo Âu ở Bắc Kinh. Những tác phẩm đó được dịch ra tiếng Anh, tiếng Đức và các “triết gia”, tức nhóm Diderot, Montesqieu, Voltaire…, say mê rồi thán phục văn minh phương Đông. Montesqieu ca tụng Trung Hoa trong cuốn Vạn pháp tinh lý, Diderot viết một mục về triết lý Trung Hoa trong bộ Bách khoa tự điển, còn Voltaire thì thường nhắc tới các hiền triết Trung Hoa trong cuốn Tự điển triết lý, lại soạn một kịch nhan đề Đứa trẻ mồ côi Trung Hoa. Kịch được diễn nhiều lần vì đập vào tính hiếu kỳ của quần chúng. Vậy Voltaire có lẽ đã chịu ảnh hưởng của các triết gia Trung Hoa nhất là của Khổng Tử. Khi ông chế giễu các nhà lập pháp châu Âu “Bất lực, không trị nổi vợ con và đầy tớ, các ông ấy khoái chí đặt luật pháp để trị thiên hạ” thì tôi ngờ rằng ông đã đọc qua thuyết tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của Khổng học. Rồi câu này của ông nữa: “Khi quần chúng xen vào việc lý luận thì hỏng hết” cũng phảng phất cái ý của Khổng Tử trong câu: “Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị”. Nhưng đó chỉ là giả thuyết tôi đưa ra thôi; có thể rằng hai triết gia đó “không hẹn mà gặp nhau”. Có điều chắc chắn là tư tưởng chính trị của Voltaire có vẻ ôn hoà, bảo thủ, nhân đạo, nhiều chỗ hợp với đạo Khổng, mà trái hẳn với thuyết của Rousseau. Chưa muốn cho dân làm chủ vì dân còn ngu muội, nhiều tật, ông chủ trương chế độ sáng suốt, bắt các vị quân chủ phải có đức như Marc Aurèle, phải thực tâm giáo hoá dân, nhưng kém Mạnh Tử ở chỗ không chỉ cho ta trong trường hợp bị một bạo chúa cai trị thì phải làm sao. Ông ghét chiến tranh như Mạnh Tử, bảo: “Cái tội nặng nhất là nội chiến, nhưng không có kẻ gây chiến nào lại không tô điểm cái tội của mình, lấy lẽ rằng phải bảo vệ sự công bằng”. Ông cho quan niệm quốc gia là hơi hẹp: “Nghĩ mà buồn, nhiều khi muốn làm một nhà ái quốc thì lại phải làm kẻ thù của những dân tộc khác…, cầu cho nước mình hùng cường và cầu cho nước láng giềng suy bại”. Vì có tinh thần đó cho nên khi Pháp giao chiến với các nước Anh và Phổ ông vẫn can đảm ca tụng văn chương Anh và Phổ. Ông nói: “Các dân tộc còn chém giết nhau thì không có lý gì để yêu một dân tộc này hơn một dân tộc khác”. Cũng vì tinh thần ghét đổ máu đó mà ông không ưa cách mạng, chỉ muốn cải thiện lần lần xã hội. Về điểm đó ông phản đối Rousseau, người hô hào dân chúng phải đoàn kết nhau lại trong tinh thần tương thân tương ái mà huỷ bỏ hết những luật lệ cũ bất công để xây dựng lại một xã hội bình đẳng. Cũng như Mạnh Tử, Voltaire bảo bất bình đẳng là bản chất của xã hội, hễ còn cạnh tranh để sinh tồn thì loài người không thể bình đẳng được. Có bình đẳng chỉ là bình đẳng ở phương diện tự do, phương diện pháp luật: “Tất cả các người dân không có uy quyền ngang nhau, nhưng hết thảy đều được tự do như nhau; và điều đó dân tộc Anh nhờ kiên nhẫn mà thực hiện được. Tự do tức là chỉ tuỳ thuộc pháp luật”. Khi Rousseau gởi tặng ông một cuốn Luận về nguồn gốc sự bất bình đẳng, trong đó Rousseau mạt sát văn minh, mạt sát văn học, khoa học và đề nghị trở về đời sống thiên nhiên như các dân tộc dã man, ông trả lời, giọng cực kỳ mỉa mai: “Thưa ông, tôi đã nhận được cuốn sách ông mới viết để mạt sát nhân loại; tôi xin cảm ơn ông… Chưa bao giờ người ta dùng nhiều trí xảo đến như vậy để muốn cảm hoá chúng ta thành loài thú. Đọc tác phẩm của ông, người ta sinh ra cái ý muốn bò bốn cẳng. Nhưng vì trên sáu chục năm nay, tôi đã bỏ mất thói quen bò rồi, cho nên tôi đau khổ nói rằng không thể tập lại thói lại thói đó được nữa (…) (Thư ngày 20-8-1755) Khi Rousseau cho xuất bản cuốn Dân ước luận cũng để diễn tả cái thuyết trở về đời sống cổ sơ đó, ông chán nản bảo một người bạn: “Ông coi đấy, loài khỉ giống loài người ra sao, thì Jean Jacques giống triết gia làm vậy”. Mỉa mai không phải là phê bình mà triết lý của Voltaire cũng kém triết lý của Rousseau. Nhưng ta phải nhận Voltaire có những hành động rất đẹp. Khi hay tin nhà cầm quyền Thuỵ Sĩ ra lệnh đốt tác phẩm đó thì giữ đúng nguyên tắc tự do ngôn luận, Voltaire viết thư cho Rousseau: “Tôi không cùng ý kiến với ông, nhưng suốt đời tôi, tôi sẽ bênh vực quyền của ông được bày tỏ ý kiến đó”. Sau khi Rousseau phải trốn tránh cho khỏi bị bắt bớ, Voltaire mời lại ở chung với mình. Thái độ đó thật là quảng đại, đáng cho ta cảm phục. Đọc tiểu sử danh nhân phương Đông, đôi khi ta bực mình vì không thấy chép một tật xấu nào của các vị đó. Không nói Khổng Tử, Mạnh Tử, ngay đến Án Tử, Khổng Minh, Đỗ Phủ, Vương Vương Minh… cũng đều là những bậc đại đức ngay từ nhỏ. Và tuy Quản Trọng hồi trẻ đi buôn chung với Bảo Thúc, có hành vi mờ ám, chia lời thì giữ phần nhiều cho mình, nhưng tật đó vẫn được Bảo Thúc biện hộ cho là do lòng hiếu, vì còn mẹ già, phải tiêu nhiều chứ không phải vì gian tham, và sử gia cũng chép lại như vậy. Thành thử những vị nào được coi là vĩ nhân cũng đều hoàn toàn hết. Người phương Tây có quan niệm khác, chép thì chép đủ, dở cũng như hay, cho nên ta thấy danh nhân của họ rất gần chúng ta. Alexandre đại đế kiêu căng và tàn nhẫn, Tolstoi nhu nhược và truỵ lạc, Dostoïevsky ham mê cờ bạc, Voltaire còn nhiều tật hơn nữa: phù phiếm, ham danh, cay độc, dụ dỗ vợ người ta, ham tiền đến nỗi làm thượng khách một đại vương mà lén lúc đầu cơ… Nhưng có tật lớn thì ông cũng có những đức rất lớn. Ông già làm vườn ở Ferney đó rất thương người mà trại của ông thành một hội phước thiện. Ở xa cũng như ở gần, ai hỏi công việc gì, muốn nhờ cậy ông điều gì, ông cũng sẵn lòng giúp đỡ. Che chở, an ủi kẻ cô đơn, kiếm việc cho làm, chỉ bảo, khuyên lơn. Có kẻ ăn cắp của ông rồi ân hận lại quỳ gối xin lỗi ông, ông cúi xuống, đỡ dậy, bảo: “Ấy chết, sao lại quỳ như vậy? Chỉ trước mặt Thượng đế cháu mới nên quỳ thôi. Thôi, chuyện đó bỏ qua, đừng nghĩ tới nữa”. Thấy một người cháu gái của Corneille nghèo khổ, ông thương tâm, đem về nuôi, cho đi học rồi lại chia cho một số tiền hồi môn nữa. Ông bảo: “Sự nghiệp của tôi là vài ba việc thiện mà tôi làm được đó. Khi ai chỉ trích tôi thì tôi chống cự lại, hung dữ như quỷ, tôi không chịu thua ai hết; nhưng thực ra tôi là một con quỷ hiền và rốt cuộc, tôi cười hìu hì”. Vì có lòng quảng đại và nhân từ đó, về già Voltaire được quốc dân kính mến và danh ông mỗi ngày một rực rỡ. Năm 1770, bạn bè quyên tiền để đúc tượng bán thân cho ông. Hàng ngàn người, từ vua chúa tới thường dân tranh nhau cái vinh dự được quyên. Ông ngần ngại không muốn, nhưng không ai nghe và vầng trán cao, nụ cười mỉa mai của ông đã được lưu lại hậu thế. Ít tháng trước khi mất, Voltaire muốn thăm Paris mà ông đã xa cách ba chục năm. Các y sĩ khuyên không nên đi, ông cương quyết: “Nếu tôi muốn làm một việc điên khùng thì không ai ngăn cản được tôi”. Ông nhớ Paris quá, muốn chết tại kinh đô văn hoá đó. Ông đi từng chặng một, tới Paris thì xương cốt muốn rã rời. Ông lại nhà một bạn cố tri, bảo: “Tôi ngừng chết để lại thăm bác đây”. Hôm sau ba trăm người lại kính cẩn chào ông đến nỗi vua Louis XVI [16] phải ghen. Trong số tân khách đó có một danh nhân ở Hoa Kỳ mới qua với một đứa cháu. Danh nhân đó là Franklin, kém ông 12 tuổi và cũng suốt đời chiến đấu cho tự do. Tuy bệnh tật, đi không vững ông cũng rán lại Hàn lâm viện. Quần chúng hoan hô nhiệt liệt, có kẻ lên xe, cắt một miếng áo của ông để làm kỷ niệm. Tới viện ông đề nghị sửa lại bộ tự điển và hăng hái như hồi còn trẻ, tự lãnh việc coi lại phần chữ A. Ở hý viện, người ta diễn kịch Irène của ông. Ông tới coi, khán giả kinh ngạc không hiểu sao một ông lão 83 tuổi mà còn soạn được kịch, reo hò vang rạp khi thấy ông, làm một người ngoại quốc tưởng rằng họ điên, phải bỏ ra về. Được hưởng hết những vinh dự mà nhân loại chưa bao giờ ban cho một người đồng thời như vậy, ông bình tĩnh tắt nghỉ ngày 30-5-1778. Nhưng ở Paris người ta không cho mai táng danh nhân đó theo lễ và bạn bè ông phải đặt thây ông ngồi trong một chiếc xe như còn sống, chở tới Scellière, nơi đó một mục sư khoáng đạt hiểu rằng thiên tài không bắt buộc phải theo luật lệ, bằng lòng cho chôn ở đất thánh. Năm 1791, thi hài ông được đem về điện Panthéon ở Paris. Một trăm ngàn người đi theo quan tài và sáu trăm ngàn người đứng đón ở vệ đường. Nhiều ông vua có ngôi cũng không được cái vinh dự đó. Ngày nay xét lại công lao của Voltaire, ta thấy về lãnh vực triết lý, ông không cống hiến được một hệ thống nào mới mẻ cho nhân loại. Tất cả sự nghiệp của ông chỉ ở ngọn bút bén và mạnh như búa rìu. Ai cũng phải nhận ông già Ferney này có tài bút chiến nhất cổ kim và đã biết dùng nó, kiên nhẫn, nhiệt tâm dùng nó, bất chấp mọi nguy hiểm, để phô diễn, bênh vực những tư tưởng tân tiến và cao cả, để “vạch đường cho nhân loại tiến tới tự do”. Từ khi ông mất tới nay, đã non hai thế kỷ, sao không thấy xuất hiện một thiên tài như ông nữa? Tại nhân loại đã được tự do cả rồi ư? [B][I][RIGHT]Tác giả Nguyễn Hiến Lê[/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Voltaire (1694-1778) - Một ông vua không ngôi
Top